Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học Lịch sử ở t...

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (595.16 KB, 20 trang )

BÁO CÁO SÁNG KIẾN
I. Điều kiện, hoàn cảnh tạo ra sáng kiến
Vấn đề phát huy tính tích cực học tập của học sinh là một trong những vấn đề
được giáo viên quan tâm hàng đầu. Cũng chính vì vậy, ngay từ những năm 60, lĩnh
vực giáo dục và đào tạo đã xuất hiện khẩu hiệu “Biến quá trình đào tạo thành quá
trình tự đào tạo”. Trong cuộc cải cách giáo dục năm 1980, phát huy tính tích cực
đã là một trong các phương hướng cải cách, nhằm đào tạo những người lao động
sáng tạo, làm chủ đất nước. Đặc biệt trong bối cảnh đất nước ta đang từng bước hội
nhập với nền kinh tế tri thức, đòi hỏi mỗi cá nhân khơng chỉ có khả năng thích ứng
nhanh chóng mà phải có một nền tảng tri thức vững chắc.
Hiện nay, phương pháp dạy học Lịch sử đã được chú trọng đổi mới, cải tiến
nhiều góp phần vào nâng cao chất lượng dạy học bộ mơn. Tuy nhiên, nhìn chung
phương pháp dạy học Lịch sử vẫn chưa theo kịp các cải tiến về nội dung, chưa đáp
ứng được yêu cầu đào tạo. Có thể nói, phương pháp dạy học Lịch sử cịn có phần
bảo thủ, thực dụng. Sự lạc hậu về phương pháp dạy học là một trong những trở
ngại của việc nâng cao chất lượng giáo dục bộ môn. Nguyên nhân cơ bản của tình
trạng này là do giáo viên chưa nhận thức đúng đắn, sâu sắc vai trò, vị trí của
phương pháp dạy học, chưa tiếp cận những cơ sở khoa học, lí luận về phương pháp
dạy học, chưa chú trọng phát huy tính tích cực của học sinh.
Vì vậy, cho đến nay sự chuyển biến về phương pháp dạy học ở trường THCS
chưa được là bao; phổ biến vẫn là cách dạy thông báo kiến thức định sẵn, cách học
thụ động, sách vở. Tuy rằng trong nhà trường đã xuất hiện ngày càng nhiều tiết học
tốt của các giáo viên giỏi, theo hướng tổ chức cho học sinh hoạt động, tự chiếm
lĩnh tri thức mới. Nhưng tình trạng chung hàng ngày vẫn là “Thầy đọc, trò chép”
hoặc giảng giải xen kẽ vấn đáp, tái hiện giải thích minh hoạ bằng tranh ảnh.

SangKienKinhNghiem.net


Hơn nữa, trong việc dạy học, giữa Mục tiêu – Nội dung – Phương pháp –
Kiểmtra đánh giá có mối quan hệ trực tiếp hữu cơ với nhau. Không thể điều chỉnh


mục tiêu đào tạo, cải tiến chương trình, nội dung sách giáo khoa mà không đổi mới
phương pháp dạy học và phương thức kiểm tra đánh giá trong dạy học. Cơng việc
này địi hỏi sự nỗ lực của mỗi giáo viên, có thể nói là phải tiến hành một cuộc
cách mạng trong đổi mới phương pháp dạy học.
Thực tế hiện nay trong q trình dạy học mơn Lịch sử ở trường THCS đã có
khơng ít giáo viên có tâm huyết với bộ mơn, dạy học bằng cả tấm lịng yêu nghề,
mang lại hiệu quả thiết thực cho nền giáo dục. Tuy nhiên, trong tư tưởng của nhiều
người chỉ coi môn Lịch sử trong trường THCS là môn phụ không quan trọng như
mơn Tốn, Văn, Ngoại ngữ…Mơn Lịch sử chỉ cần học thuộc lịng là đủ, khơng cần
phải sử dụng tư duy lơ gíc. Mặt khác nhiều học sinh ngại học mơn Lịch sử bởi nó
dài và nhiều sự kiện khó nhớ, học rồi lại qn ngay. Chính vì vậy mà các em
khơng thích học mơn Lịch sử. Thực tế cho thấy, trong mấy năm trở lại đây, chất
lượng môn Lịch sử trong các kì thi lớn như Đại học, Cao đẳng là rất đáng lo ngại.
Hằng ngày, các phương tiện truyền thông không ngừng lên tiếng về thực trạng dạy
và học môn Lịch sử ở trường phổ thông như một “vấn nạn” của xã hội.
Trước thực trạng đó, địi hỏi người giáo viên dạy môn Lịch sử cần phải nhận
thức sâu sắc hơn tầm quan trọng của bộ môn mình phụ trách, phải phát huy được
tính tích cực của học sinh, tránh lối học thụ động “Thầy đọc – trị chép”. Giáo viên
cũng nên tránh tình trạng chỉ truyền đạt nguyên si kiến thức trong sách giáo khoa,
như thế sẽ tạo cảm giác nhàm chán cho học sinh. Tuy nhiên, giáo viên cũng không
nên xa rời nội dung sách giáo khoa, quá mở rộng kiến thức bên ngoài sẽ làm cho
bài giảng bị lỗng, học sinh khó tiếp thu, như vậy sẽ không mang lại hiệu quả cho
giờ học.

SangKienKinhNghiem.net


Với lí do khách quan và chủ quan nêu trên, tơi chọn chủ để “Một số biện pháp
phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử ở trường THCS” làm đề
tài sáng kiến kinh nghiệm.

II. Mô tả giải pháp
1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
Trường THCS An Phú Đông là một trong những ngơi trường có lịch sử hình
thành và phát triển lâu năm, có bề dày thành tích trong cơng tác dạy – học. Học
sinh của trường về cơ bản là ngoan, ý thức học tập tốt, đội ngũ giáo viên tận tình,
tâm huyết. Hàng năm nhà trường đều có học sinh giỏi và giáo viên giỏi cấp huyện,
chi bộ nhà trường nhiều năm đạt danh hiệu chi bộ trong sạch vững mạnh.
Đối với bộ mơn, tâm lí e ngại bộ mơn của các em học sinh cịn nhiều, do khối
lượng kiến thức cịn lớn, nhiều sự kiện. Ngồi ra, tâm lí chưa thực sự coi trọng
mơn lịch sử của bộ phận phụ huynh học sinh, cho rằng đây chỉ là môn phụ gây ảnh
hưởng không nhỏ tới kết quả học tập và chất lượng bộ môn
Lịch sử là hiện thực quá khứ đã diễn ra một cách khách quan, hợp quy luật,
không lệ thuộc vào sự hiểu biết, ý thức mong muốn của cá nhân. Do những đặc
điểm hiện thực Lịch sử (diễn ra theo trình tự thời gian và không lặp lại nguyên si
như cũ), và cả nhận thức Lịch sử (không trực tiếp quan sát, không diễn ra trong
phịng thí nghiệm) nên giáo viên cần biết hướng cho học sinh những khả năng khơi
phục hình ảnh q khứ đúng như nó tồn tại khách quan và trên cơ sở ấy hiểu Lịch
sử. Đúng như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mở đầu quyển “Lịch sử nước ta” năm
1941 bằng hai câu thơ sau:
“ Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”
Học tập Lịch sử đâu chỉ có biết nhiều sự kiện, chỉ ghi nhớ, học thuộc lịng mà
khơng phải hiểu, khơng địi hỏi sự thông minh, sáng tạo. Nhận thức đúng chức

SangKienKinhNghiem.net


năng, nhiệm vụ bộ môn Lịch sử mới thấy rõ sự cần thiết phải phát huy tính tích cực
trong học tập, đổi mới, cải tiến phương pháp dạy học Lịch sử.
Vì vậy, người giáo viên phải có tâm huyết với nghề, có năng lực sáng tạo, có

chun mơn tốt và phải giáo dục cho học sinh một số năng lực cần thiết dưới đây:
Về kỹ năng: Giúp học sinh nhận thức một cách tích cực, chủ động, sáng tạo
kiến thức, vận dụng những điều đã học để tiếp thu kiến thức mới và áp dụng vào
cuộc sống.
Về thái độ: Làm cho học sinh ý thức được trách nhiệm của mình để trở thành
cơng dân có ích, có khả năng giao tiếp và hoạt động xã hội.
Học sinh biết quý trọng những gì mình đang có, biết ơn những người đã xây
dựng nên đất nước ngày nay, từ đó góp phần xây dựng xã hội văn minh, tiến bộ.
2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
Để có thể phát huy tính tích cực học tập của học sinh trong dạy và học lịch
sử ở trường THCS, tôi mạnh dạn đề đạt một số biện pháp cụ thể như sau:
2.1. Xây dựng mục tiêu bài học
Mục tiêu của bài học là cái đích đặt ra cho học sinh cần đạt được sau khi học
bài đó.
Mục tiêu chỉ đạo tồn bộ nội dung, phương pháp dạy học, hình thức đánh giá
của bài đó.
Mục tiêu của mỗi bài gồm ba thành tố chính : Kiến thức, thái độ, kỹ năng.
Ngồi ra với mỗi bài học cần định hướng phát triển các năng lực cần có cho học
sinh cho phù hợp
Xây dựng được mục tiêu, người giáo viên mới xác định được những nội dung
chính của bài học, từ đó chọn lựa phương pháp phù hợp cho từng mục của bài.
Giúp bài giảng đạt hiệu quả và tăng hứng thú học tập cho học sinh.
2.2. Sử dụng các phương tiện dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của
học sinh

SangKienKinhNghiem.net


2.2.1. Sử dụng kênh hình trong dạy học
Trong mơn Lịch sử kênh hình khơng chỉ mang ý nghĩa minh hoạ mà cịn góp

phần thể hiện nội dung. Việc sử dụng kênh hình giúp giáo viên dễ áp dụng các
phương pháp tổ chức, học sinh hào hứng học tập. Qua hình ảnh giáo viên khai thác
nội dung bằng các câu hỏi, học sinh làm việc nhiều hơn, tư duy cao và phát huy
được tính tích cực trong học tập. Để phát huy hết hiệu quả khi sử dụng hệ thống
kênh hình, điều quan trọng là giáo viên phải xác định cho mình nên sử dụng, khai
thác thế nào. Theo tơi, khi sử dụng hệ thống kênh hình, giáo viên cần chú ý những
điểm sau:
- Cần phải căn cứ vào nội dung, yêu cầu giáo dưỡng, giáo dục của bài học để
lựa chọn phương pháp sử dụng thích hợp, đảm bảo phát huy được sự chú ý và tính
tích cực của học sinh vào khai thác kênh hình.
- Khi soạn giáo án, giáo viên phải xác định được thời điểm, thời gian hợp lí
để sử dụng kênh hình vào bài dạy, và phải xây dựng được hệ thống câu hỏi khai
thác một cách hợp lí và hệ thống câu hỏi này phải có tác dụng phát huy tính tích
cực của học sinh trong học tập.
- Trước khi hướng dẫn học sinh sử dụng, khai thác, giáo viên phải hiểu một
cách đầy đủ và chính xác nhất nội dung kiến thức phản ánh trong kênh hình đó là
gì, tức là phải hiểu hết bản chất của kênh hình.
- Phải đảm bảo sự kết hợp giữa lời nói với việc trình bày nội dung kênh hình
theo hướng rèn luyện khả năng thực hành của học sinh, đồng thời kết hợp với các
tài liệu khác khi sử dụng.
- Tơi xin đưa ra ví dụ về khai thác và sử dụng H.85 “Trương Định nhận
phong soái”, trong Bài 24- SGK Lịch sử 8, tiết 2.

SangKienKinhNghiem.net


- Để khai thác và sử dụng hiệu quả bức tranh này theo hướng phát huy tính
tích cực của học sinh, cần thực hiện như sau:
+ Giáo viên hiểu rõ nội dung kiến thức phản ánh trong bức tranh đó là: bức
tranh miêu tả quang cảnh Trương Định nhận phong sối, nó vừa thể hiện sự trang

nghiêm, vừa thể hiện sự tơn kính và đồng lịng hưởng ứng cuộc khởi nghĩa do
Trương Định lãnh đạo.
+ Xác định thời điểm sử dụng tranh.
Sau khi giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu về khởi nghĩa của Trương
Định thì hướng dẫn học sinh khia thác tranh nhằm củng cố và khắc sâu kiến thức.
+ Xây dựng hệ thống câu hỏi khai thác tranh.
GV treo tranh (phóng to) lên bảng.
? Quan sát tranh và hãy miêu tả toàn cảnh bức tranh này?
- Học sinh trả lời, giáo viên nhận xét và bổ sung.
Bức tranh này thể hiện sự tơn kính của nhân dân và sự đồng lòng hưởng ứng
của nhân dân đối với cuộc khởi nghĩa do ơng phát động, hãy tìm những chi tiết thể
hiện điều đó?
Học sinh thảo luận và trả lời.

SangKienKinhNghiem.net


Giáo viên nhận xét câu trả lời và miêu tả tồn bộ bức tranh, trong đó nhấn
mạnh sự đồng lịng hưởng ứng của nhân dân đối với cuộc khởi nghĩa do Trương
Định phát động.
2.2.2. Sử dụng bảng phụ
Giáo viên sử dụng bảng phụ để ghi hệ thống các câu hỏi, bài tập điền
khuyết…từ đó hướng dẫn học sinh làm việc cá nhân, học sinh thảo luận nhóm rất
có hiệu quả, giáo viên khơng phải nói nhiều mà học sinh được làm việc tích cực,
gây cho học sinh hứng thú, say mê mơn học.
Ví dụ:Khi dạy Bài 4: Các nước Châu Á - Lịch sử 9. GV có thể sử dụng bảng
phụ để làm bài tập củng cố như sau:
Khoanh tròn vào từ đầu tiên trước câu trả lời đúng:
Câu 1: Nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa được thành lập vào ngày tháng
năm nào?

a. 22/7/1948

b. 1/10/1949

c. 7/10/1949

d. 1/1/1959

Câu 2: Nước nào đã giúp Trung Quốc thực hiện thành công kế hoạch 5 năm
lần thứ nhất?
a. Việt Nam
c. CHDCND Triều Tiên

b. Liên Xô
d. Cu ba.

Câu 3: Ai là nhà du hành vũ trụ đầu tiên của Trung Quốc bay vào không gian?
a. Lương Triều Vĩ.

b. Dương Lợi Vĩ

c. Hồ Cẩm Đào

d. Trần Quán Hy.

2.2.3. Sử dụng phiếu học tập và thảo luận nhóm
Khi sử dụng phiếu học tập kết hợp với thảo luận nhóm, giáo viên cũng dễ
dàng tổ chức giao việc cho học sinh làm việc cá nhân hay làm việc theo nhóm đạt
hiệu quả cao.


SangKienKinhNghiem.net


Ví dụ:Khi dạy Bài 2: Sự suy vong của chế độ phong kiến và sự hình thành chủ
nghĩa tư bản ở Châu Âu – SGK Lịch sử 7 – Mục 1: Những cuộc phát kiến lớn về
địa lí.
- GV có thể cho lớp thảo luận nhóm với câu hỏi chuẩn bị trước bằng phiếu
học tập. GV chia lớp ra thành 4 nhóm, cử nhóm trưởng, thư kí, đọc câu hỏi to trước
lớp sau đó phát phiếu học tập cho các nhóm. Mỗi nhóm có thời gian thảo luận là 3
phút. Sau đó đại diện từng nhóm lên trình bày câu trả lời. Các nhóm khác chú ý
nhận xét và bổ xung.
Nhóm 1: Em hãy nêu nguyên nhân dẫn tới các cuộc phát kiến lớn về địa lí?
(Do sản xuất phát triển, các thương nhân, thợ thủ công cần thị trường và
nguyên liệu. Do kĩ thuật phát triển, đóng được tàu lớn, có la bàn).
Nhóm 2: Trình bày các cuộc phát kiến lớn về địa lí?
(Năm 1487, Đi-a-xơ vịng qua cực Nam Châu Phi; 1498, Va- xcơ đơ - Ga-ma
tìm ra ấn Độ; 1492, Cơ-lơm-bơ đã tìm ra Châu Mĩ; 1519 – 1522, Ma-gien-lăng lần
đầu tiên đi vịng quanh trái đất)
Nhóm 3: Trình bày hệ quả của các cuộc phát kiến lớn về địa lí ? (Tìm ra
những con đường mới, những vúng đất mới; đem lại những món lợi khổng lồ cho
thương nhân châu Âu; đặt cơ sở cho việc mở rộng thị trường của các nước châu
Âu)
Nhóm 4: Nêu ý nghĩa của các cuộc phát kiến địa lí ?
(Là cuộc cách mạng về giao thông và tri thức; thúc đẩy thương nghiệp phát
triển..)
Cuối cùng giáo viên nhận xét và kết luận.
2.3. Vận dụng một số phương pháp dạy học theo định hướng đổi mới
2.3.1. Phương pháp tường thuật
Tường thuật là một cách trình bày miệng quan trọng, nhằm tái hiện ở học sinh
biến cố Lịch sử quan trọng với đầy đủ tính cụ thể và gợi cảm của nó. Tuy nhiên,


SangKienKinhNghiem.net


trong thực tế khơng ít giáo viên chưa nhận thức được đầy đủ nội dung và vị trí của
nó trong việc dạy và học Lịch sử ở trường THCS. Bài tường thuật được xây dựng
trên cơ sở nội dung sách giáo khoa nhưng tạo cho học sinh những hình ảnh cụ thể,
sinh động, chính xác về bức tranh quá khứ đã học. Vì vậy, các em hứng thú hơn và
học tập tích cực hơn.
Sức hấp dẫn của tường thuật trong dạy học là cung cấp những sự kiện, dẫn dắt
học sinh đến những hiểu biết mới sâu sắc, có ấn tượng mạnh mẽ. Hứng thú học tập
sẽ giảm đi nếu bài tường thuật chỉ là sự thông báo vắn tắt khô khan một số sự kiện.
Cho nên việc xây dựng bài tường thuật đòi hỏi giáo viên phải biết chọn đúng sự
kiện để trình bày thơng tin những kiến thức mới, bổ ích phù hợp với trình độ học
sinh. Giáo viên trình bày mạch lạc, rõ ràng kết hợp với các phương tiện dạy học
(đồ dùng trực quan, tài liệu mới…).
Ví dụ:khi dạy bài 5 : Cơng xã Pa-ri 1871 – Lịch sử lớp 8 - Mục 2: Cuộc khởi
nghĩa ngày 18 – 3 – 1871. Sự thành lập Công xã. GV có thể tường thuật cuộc khởi
nghĩa ngày 18.3.1871 kèm theo đồ dùng trực quan:

Một chướng ngại vật trên phố ngày 18/3/1871
“Sáng sớm tinh mơ ngày 18 tháng 3 năm 1871, Chi-e cho quân lẻn đến đánh
úp dồi Mông - mác (Bắc Pa-ri), để chiếm trọng pháo của Quốc dân quân. Nhân lúc

SangKienKinhNghiem.net


tảng sáng, quân Chi-e đã vượt qua được những phố vắng tiến tới Mơng mác. Chỉ
có một đơn vị nhỏ quân vệ quốc canh giữ trọng pháo nên không chống lại nổi quân
chính phủ. Trọng pháo lọt vào tay quân chính phủ. Nhưng họ khơng thể mang ngay

đi được, vì mãi đến 8 giờ sáng, ngựa kéo pháo mới tới.
Trong khi đó, lệnh báo động đã nổi lên. Thế là công nhân, thợ thủ công và
quân Vệ quốc tập hợp lại, theo sau là một toán phụ nữ. Họ kéo cả lên gị Mơng mác. Khi đồn người tới gần, binh lính của Chi-e đã chĩa nịng súng vào nhân dân.
- Bắn! Tên tướng chỉ huy ra lệnh cho quân đội nổ súng.
Nhưng ngay lập tức một hạ sĩ quan bước ra khỏi hàng ngũ và hơ lớn “Quay
nịng súng xuống đất !”
Một giây nặng nề trơi qua. Những nịng súng của các binh sĩ sẽ hướng về đâu?
Theo lệnh tên tướng, bắn vào đám đông máu sẽ đổ, hay làm trái lệnh chỉ huy? Một
lần nữa viên tướng gào lên “ Bắn!”. Trong giây phút căng thẳng đó, cái thiện đã
thắng cái ác trong mỗi người lính. Binh lính khơng chịu bắn vào nhân dân, quay lại
trói viên chỉ huy và đồn kết với Quốc dân qn. Đồi Mơng - mác và trọng pháo
vẫn nguyên vẹn trong tay Quốc dân quân.
Theo đà thắng lợi đó, tới trưa, Quốc dân qn cùng quần chúng từ các xóm
thợ ngoại ơ tiến vào trung tâm Pa-ri. Chi-e thấy nguy, hấp tấp kéo đánh nhưng
quân đội đã mất tinh thần, rút lui về Véc - xai. Đến chiều, các cơ quan chính phủ
đều lọt vào tay quân cách mạng. Cờ đỏ phấp phới bay trên nóc sở Bộ chiến tranh
và Tồ thị chính Pa-ri. Cuộc cách mạng vô sản thắng lợi đầu tiên trên thế gới. Uỷ
ban trung ương Vệ quốc quân trở thành Chính phủ lâm thời”.
2.3.2. Phương pháp dạy học đặt và giải quyết vấn đề
Dạy học đặt và giải quyết vấn đề là một hệ thống dạy học dựa trên những quy
luật của sự lĩnh hội tri thức và cách thức hoạt động một cách sáng tạo bao gồm sự
kết hợp những phương pháp dạy học và việc học có những nét cơ sở của sự tìm tịi
khoa học. Nhờ vậy, nó đảm bảo cho học sinh lĩnh hội vững chắc những cơ sở khoa

SangKienKinhNghiem.net


học – phát triển tính tích cực, tính tự lực trong năng lực sáng tạo, hình thành cơ sở
thế giới quan cho học sinh.
Bản chất của dạy học đặt và giải quyết vấn đề là tạo nên một chuỗi những tình

huống vấn đề và điều kiện hoạt động của học sinh nhằm tự lực giải quyết những
vấn đề học tập. Việc trình bày theo phương pháp dạy học đặt và giải quyết vấn đề
đòi hỏi giáo viên phải nắm vững sự kiện, biết tạo ra tình huống có vấn đề, nhằm
phát huy năng lực nhận thức của học sinh. Vì vậy cách trình bày đặt và giải quyết
vấn đề có nhiều ưu điểm hơn việc thông báo tài liệu, đọc lại sách giáo khoa. Trình
bày đặt và giải quyết vấn đề vừa cung cấp cho học sinh những sự kiện cần thiết để
hiểu biết lịch sử, vừa tạo ra sự suy nghĩ cho các em.
Ví dụ:Khi dạy bài 14: Ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông –
Nguyên (thế kỉ XIII) – SGK Lịch sử 7 - Phần III: Cuộc kháng chiến lần thứ ba
chống quân xâm lược Nguyên (1287 – 1288).
Để tạo được tình huống có vấn đề, giáo viên giới thiệu dẫn dắt vào bài mới:
“Sau hai lần xâm lược Đại Việt thất bại, nhà Nguyên không chịu từ bỏ âm
mưu xâm lược nước ta. Năm 1287, Nhà Nguyên kéo quân sang nước ta một lần
nữa. Vậy, kế hoạch xâm lược Đại Việt lần thứ ba của chúng như thế nào? Quân
dân nhà Trần đã tổ chức kháng chiến ra sao? Đó là nội dung bài học hơm nay.”
Đây là ví dụ về tình huống có vấn đề. Tình huống là mâu thuẫn giữa cái đã
biết và cái chưa biết mà giáo viên tạo ra, nhằm thu hút sự chú ý, hứng thú học tập
của học sinh, học sinh cần giải quyết một điều mới, điều chưa biết, trên cơ sở kiến
thức của bài học trước. Sự hướng dẫn, gợi mở của người thầy để học sinh tự tìm ra
bản chất của sự kiện mới.
2.3.3. Phương pháp dạy học trực quan
Phương pháp dạy học trực quan là phương pháp sử dụng những phương tiện
trực quan, phương tiện kĩ thuật dạy học trong, trước và sau khi nắm tài liệu mới,
khi ơn tập, củng cố, hệ thống hố và kiểm tra tri thức, kỹ năng, kỹ xảo.

SangKienKinhNghiem.net


Trong dạy học lịch sử, phương pháp trực quan góp phần quan trọng tạo biểu
tượng cho học sinh, cụ thể hố các sự kiện và khắc phục tình trạng hiện đại hoá

lịch sử của học sinh.
Các phương tiện trực quan rất đa dạng và phong phú. Vì vậy, khi sử dụng đồ
dùng trực quan trong dạy học lịch sử đòi hỏi giáo viên phải căn cứ vào nội dung,
yêu cầu giáo dục, giáo dưỡng của bài học để lựa chọn đồ dùng thích hợp, có
phương pháp thích hợp trong việc sử dụng mỗi loại đồ dùng. Từ đó, phát huy tính
tích cực của học sinh khi sử dụng đồ dùng trực quan, đảm bảo kết hợp lời nói với
việc trình bày đồ dùng, rèn luyện khả năng thực hành của học sinh khi xây dựng và
sử dụng đồ dùng (vẽ bản đồ, tường thuật lược đồ, miêu tả hiện vật…).
Ví dụ:Khi dạy bài 24: Phong trào Tây Sơn – SGK Lịch sử 7 - Phần II. Tây
Sơn lật đổ chính quyền họ Nguyễn và đánh tan quân xâm lược Xiêm.
Để tiết học này đạt được hiệu quả cao, giáo viên phải sử dụng lược đồ và đạt
được mức độ sau: Học sinh biết xác định địa danh trên lược đồ, bước đầu biết phân
tích kiến thức lịch sử qua lược đồ. Tiếp tục rèn kỹ năng sử dụng lược đồ. Trong tiết
học này, giáo viên cần sử dụng hai lược đồ Hình 57 và Hình 58 SGK Lịch sử lớp 7
(Phóng to treo trên bảng).
Mục 1: Lật đổ chính quyền họ Nguyễn.

SangKienKinhNghiem.net


Giáo viên sử dụng lược đồ: Tây Sơn khởi nghĩa chống các thế lực phong kiến và
chống quân xâm lược nước ngoài

SangKienKinhNghiem.net


Giáo viên giao nhiệm vụ cho học sinh: Đọc SGK đoạn 1. Chỉ trên lược đồ để
thông báo về cuộc khởi nghĩa lan ra khắp nơi một cách nhanh chóng, lật đổ được
chính quyền họ Nguyễn:
+ Tháng 9/ 1773: Hạ thành Quy Nhơn – Giáo viên có thể bổ xung bằng câu

chuyện Nguyễn Nhạc lập mưu khi hạ thành Quy Nhơn.
+ Năm 1775: Tạm hoà với Trịnh – Giáo viên đưa ra câu hỏi: Tại sao Nguyễn
Nhạc phải hồ hỗn với quân Trịnh? (Vì: Tây Sơn đang ở vào thế bất lợi: phía Bắc
có qn Trịnh, phía Nam có qn Nguyễn).
+ Năm 1777, bắt và giết chúa Nguyễn. Chính quyền họ Nguyễn bị lật đổ ở
Đàng Trong.
GV đặt câu hỏi: Vì sao cuộc khởi nghĩa lan nhanh và giành thắng lợi? (Sức
mạnh của nhân dân; Tài trí của anh em Tây Sơn…)
Mục 2. Chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút. Giáo viên phải sử dụng Lược đồ:
Chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút để tường thuật diễn biến trận chiến này. Cụ
thể:
Giáo viên treo lược đồ: Chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút.

SangKienKinhNghiem.net


Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát, tìm hiểu hệ thống các kí hiệu của lược đồ,
dựa vào lược đồ để miêu tả, lược thuật diễn biến trận đánh. Giáo viên kết hợp gợi
mở một số câu hỏi để học sinh thảo luận.
? Tại sao quân Xiêm sang xâm lược nước ta? (Do Nguyễn Ánh cầu cứu quân
Xiêm)
? Ý đồ tiến quân của giặc? (Quân Xiêm kéo vào Gia Định bằng hai đường
thuỷ, bộ: 2 vạn quân thuỷ lên Kiên Giang, 3 vạn quân bộ tiến vào Cần Thơ).
? Tại sao Nguyễn Huệ lại chọn đoạn sông này làm trận địa quyết chiến với
quân Xiêm? (Đây là một vùng sông nước hiểm yếu…Hai bên bờ sông cây cối rậm
rạp, giữa dịng có cù lao Thới Sơn, địa hình rất thuận lợi cho việc đặt phục binh.)
Giáo viên dùng lược đồ để tường thuật chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút:
Mờ sáng 19 – 1 – 1785, Nguyễn Huệ dùng mưu nhử địch vào trận địa mai phục.
Quân Xiêm có ưu thế về quân số nên tướng địch rất chủ quan, chúng huy động tất
cả quân thuỷ, bộ từ phía Trà Lọt tiến xuống Mĩ Tho, đuổi theo quân Tây Sơn. Khi

quân địch lọt hoàn toàn vào trận địa mai phục, thuỷ quân của ta giấu ở hai bên bờ

SangKienKinhNghiem.net


sông và cù lao Thới Sơn bất ngờ xông ra lao vào đội hình địch. Bị tấn cơng bất ngờ
và mãnh liệt, tất cả các chiến thuyền của quân Xiêm bị đánh tan tác, gần 4 vạn
quân bị giết tại trận, chỉ cịn vài nghìn sống sót vượt qua Chân Lạp về nước. Từ đó,
quân Xiêm “sợ quân Tây Sơn như sợ cọp”, Nguyễn Ánh thoát chết, lại chốn sang
Xiêm lưu vong”
Sau khi tường thuật xong, giáo viên gọi một hoặc hai em lên bảng tường thuật
laị trận đánh bằng lược đồ.
Kết thúc, giáo viên cho học sinh trao đổi về ý nghĩa của chiến thắng. (Là một
trong những trận thuỷ chiến lớn nhất, lừng lẫy nhất trong lịch sử chống ngoại xâm
của dân tộc; đập tan âm mưu xâm lược của quân Xiêm; trừng trị hành động bán
nước của Nguyễn Ánh; tài chỉ huy của Nguyễn Huệ; đưa phong trào Tây Sơn phát
triển lên một bước)
Như vậy, qua sử dụng hai lược đồ H57 và H58 SGK Lịch sử 7 THCS, học
sinh đã xác định được địa danh, sự kiện Tây Sơn lật đổ chính quyền họ Nguyễn và
đánh tan quân xâm lược Xiêm. Hơn nữa còn giúp học sinh suy nghĩ và giải thích
các hiện tượng lịch sử về mối liên hệ nhân quả, về tính quy luật và sự phát triển
của quá trình lịch sử. Giúp các em củng cố và ghi nhớ các kiến thức đã học.
Việc sử dụng kênh hình dạy học như trên khơng chỉ có tác dụng giúp học sinh
tạo biểu tượng chân thực về quá khứ, mà còn khắc sâu kiến thức, qua đó hình
thành khái niệm và rút ra bài học, quy luật của lịch sử. Đặc biệt nhờ có yếu tố
“trực quan sinh động” học sinh sẽ dễ dàng đạt tới “tư duy trừu tượng” tạo thêm
niềm hứng thú, say mê trong học tập bộ mơn, qua đó từng bước nâng cao hiệu quả
bài học.
2.3.4. Phương pháp vấn đáp
Phương pháp vấn đáp là phương pháp giáo viên khéo léo đặt hệ thống câu hỏi

để học sinh trả lời nhằm gợi mở cho họ sáng tỏ những vấn đề mới, tự khai phá
những tri thức mới bằng sự tái hiện những điều đã học hoặc những kinh nghiệm đã
tích luỹ được trong cuộc sống. Từ đó, giúp học sinh củng cố, mở rộng đào sâu,
tổng kết, hệ thống hoá tri thức đã tiếp thu được, nhằm mục đích kiểm tra, đánh giá
và giúp học sinh tự kiểm tra, đánh giá và lĩnh hội tri thức.

SangKienKinhNghiem.net


Trong sử dụng phương pháp vấn đáp, đòi hỏi giáo viên phải có nghệ thuật đặt
câu hỏi. Câu hỏi phải có nội dung chính xác, rõ ràng, dễ hiểu, khơng thể có hai câu
trả lời đúng, hình thức gọn gàng. Học sinh phải mạnh dạn trả lời, nếu sai học sinh
khác bổ sung, qua đó kích thích hoạt động chung của lớp. Giáo viên không chỉ chú
ý đến kết quả trả lời của học sinh mà cả cách diễn đạt câu trả lời một cách chính
xác, rõ ràng, hợp lơgíc, là điều kiện quan trọng để phát triển tư duy lơgíc của học
sinh.
Ví dụ:Khi dạy bài 1: Sự hình thành và phát triển của xã hội phong kiến ở
Châu Âu – SGK Lịch sử 7. Mục 3: Sự xuất hiện các thành thị trung đại.
GV có thể đưa ra một số câu hỏi ở các mức độ khác nhau, học sinh suy nghĩ
trả lời.
? Thành thị trung đại xuất hiện như thế nào? (Cuối thế kỉ XI, sản xuất phát
triển, hàng hoá dư thừa được đưa đi bán – thị trấn ra đời – thành thị trung đại xuất
hiện.)
? Cư dân trong thành thị gồm những ai? Họ làm những nghề gì? (Thợ thủ
cơng và thương nhân…)
? Thành thị ra đời có ý nghĩa như thế nào? (Thúc đẩy sản xuất phát triển, tác
động đến sự phát triển của xã hội phong kiến.)
2.4. Sử dụng tư liệu lịch sử và các câu chuyện lịch sử
2.4.1. Sử dụng tư liệu lịch sử và câu chuyện lịch sử để tạo biểu tượng về nhân
vật lịch sử

Đi cùng với các sự kiện lịch sử thường gắn với 1 nhân vật lịch sử cụ thể, đặc
biệt là những nhân vật có vai trị quan trọng với lịch sử dân tộc. Vì vậy trong dạy
học giáo viên không thể lướt qua mà phải khắc hoạ, tạo biểu tượng về các nhân vật
đó, sử dụng phương pháp kể chuyện có tác dụng tạo biểu tượng về nhân vật lịch sử
một cách sinh động, đậm nét từ đó giáo dục học sinh kính trọng, noi gương các anh
hùng dân tộc.
Ví dụ ở bài 27 “Ngơ Quyền và chiến thắng Bạch Đằng năm 938” – SGK
Lịch sử 6, giáo viên tạo biểu tượng về Ngô Quyền

SangKienKinhNghiem.net


“Ngô Quyền (898 - 944) là người làng Đường Lâm, Ba Vì, Hà Tây (cũ) nay
là Sơn Tây – Hà Nội. Ơng là người có sức khỏe, chí lớn, mưu cao. Theo Đại Việt
sử kí tồn thư ghi chép, khi Ngơ Quyền ra đời, trong nhà bỗng có ánh sáng lạ tràn
ngập. Ngơ Quyền có dung mạo khác thường, lưng có ba nốt ruồi. Các thầy tướng
cho là lạ, có thể làm chủ cả một phương, nhân đó cha ơng đặt tên húy là Quyền.
Khi lớn lên, Ngơ Quyền có tướng mạo khôi ngô, mắt sáng như chớp, dáng đi thong
thả như hổ, trí dũng hơn người. Trong cuộc kháng chiến của Dương Đình Nghệ
chống qn Nam Hán, Ngơ Quyền đã chiến đấu rất anh dũng. Là một tướng giỏi
lại có nhiều cơng lao, Ngơ Quyền được Dương Đình Nghệ tin yêu và gả con gái
cho. Sau khi đánh đuổi được quân Nam Hán, Ngô Quyền được cha vợ phong làm
Thứ sử và giao cho cai quản khu vực Ái Châu (Thanh Hóa ngày nay)”.
2.4.2. Sử dụng tư liệu lịch sử và câu chuyện lịch sử để giải thích từ đó rút ra bản
chất một sự kiện, một hiện tượng lịch sử
Việc dạy học lịch sử không chỉ dừng lại ở học thuộc lòng mà quan trọng
giáo viên phải giúp học sinh nắm vững và hiểu rõ về bản chất của các sự kiện, hiện
tượng lịch sử. Muốn học sinh dễ nhớ và nhớ lâu thì phương pháp sử dụng câu
chuyện lịch sử là một cách làm hiệu quả.
Ví dụ, ở bài 27 “Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng năm 938” – SGK

lịch sử 6, để giúp học sinh hiểu được vì sao Ngơ Quyền chọn mai phục qn địch ở
sông Bạch Đằng? Ngô Quyền xây dựng trận địa mai phục ở đây như thế nào? Giáo
viên sử dụng câu chuyện về sông Bạch Đằng và sự chuẩn bị của Ngô Quyền như
sau: “Sông Bạch Đằng tên nôm là Sơng Rừng vì hai bên bờ sơng nhất là phía tả
ngạn tồn là rừng rậm. Hạ lưu sơng thấp, độ dốc không cao nên ảnh hưởng của
thủy triều lên xuống rất mạnh, chênh nhau đến 3m. Khi nước triều lên, lịng sơng
rộng mênh mơng đến hàng nghìn mét, sâu tới chục mét. Biết rõ quân địch sẽ kéo
vào nước ta qua đường sông Bạch Đằng, Ngô Quyền đã huy động cho quân, dân
lên rừng chặt gỗ, đẽo nhọn đầu và bịt sắt, đem đóng xuống lịng sơng Bạch Đằng
những nơi hiểm yếu, số cọc đóng uống lịng sơng đến hàng nghì chiếc. Lúc nước
triều lên bãi cọc chìm trong một biển nước mênh mơng. Phía trên bãi cọc Ngơ
Quyền cịn bố trí một lực lượng thủy binh ẩn nấp hai bên bờ sông. Nhiều thuyền

SangKienKinhNghiem.net


được dấu kín trong các bụi lau sậy. Hàng nghìn quân bộ, cung nỏ sẵn sàng, ngày
đêm mai phục bên cạnh các vách núi.”
2.4.3. Sử dụng câu chuyện lịch sử để nêu câu hỏi nhận thức
Mục đích của việc sử dụng truyện kể lịch sử trong dạy lịch sử chính là thơng
qua đó nâng cao nhận thức học sinh, tạo hứng thú cho các em. Vì vậy, sau mỗi
truyện kể giáo viên nên đưa ra các câu hỏi nhận thức để làm rõ vấn đề và khắc sâu
nội dung bài học.
Ví dụ: Khi giảng bài 3 “Xã hội nguyên thủy”- - SGK Lịch sử 6, mục 1 “Con người
đã xuất hiện như thế nào?”giáo viên sử dụng những mẩu chuyện, những cách giải
thích khác nhau về nguồn gốc con người của các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Ví
dụ: câu chuyện thượng đế tạo ra con người của phương Tây, chuyện Nữ Oa tạo ra
con người của người Trung Quốc, hay sự tích Lạc Long Quân – Âu Cơ của người
Việt Nam … Qua đó giúp học sinh hiểu được đây chỉ là những cách giải thích về
nguồn gốc của lồi người khi khoa học cịn chưa phát triển, con người chưa có đủ

cơ sở khoa học để lý giải về nguồn gốc của mình nên gửi gắm điều đó vào thần
thánh và các thế lực siêu nhiên. Ngày nay, với sự phát triển của khoa học nói
chung và khoa học lịch sử nói riêng, chúng ta đã có những minh chứng xác thực
nhất về nguồn gốc của con người và quá trình chuyển biến từ vượn thành người
diễn ra như thế nào. Sau đó giáo viên đưa ra các câu hỏi gợi mở để gây hứng thú
tìm tịi cho học sinh: Vậy cơ sở nào khẳng định con người có nguồn gốc từ một
lồi vượn cổ? Q trình chuyển biến từ vượn thành người diễn ra như thế nào?
Ngày nay q trình đó có diễn ra hay khơng? Tại sao?... Sau đó giáo viên hướng
dẫn học sinh khai thác các đơn vị kiến thức cơ bản của bài để lần lượt lật mở các
vấn đề vừa nêu ra.
Trên đây là một số phương pháp lồng ghép sử dụng tư liệu và kể chuyện lịch
sử trong dạy học lịch sử nhằm tạo hứng thú cho học sinh, nâng cao tính tích cực
học tập và hiệu quả bài học, truyền đạt kiến thức mới. Trong quá trình vận dụng
giáo viên nên có sự sáng tạo, linh hoạt trên cơ sở khoa học và điều kiện cụ thể của
từng lớp học, tiết học....
2.5. Dạy học bám sát theo chuẩn kiến thức – kĩ năng

SangKienKinhNghiem.net


Thực tế hiện nay, giáo viên không quan tâm đến chương trình chỉ chú ý đến
SGK- là tài liệu để học sinh học tập, không coi SGK là pháp lệnh, cố dạy hết SGK
gây quá tải. Yêu cầu đặt ra là phải bám sát chuẩn kiến thức – kĩ năng, thông qua
SGK để xác định, lựa chọn nội dung cơ bản, kiến thức trọng tâm, giúp học sinh
nắm “ít” mà “tinh”.
Ví dụ:Khi dạy Tiết 36. Bài 24. Cuộc kháng chiến từ năm 1858 đến năm 1873
– SGK Lịch sử 8 - Phần I. Cuộc kháng chiến từ năm 1858 đến năm 1873. Mục 1.
Chiến sự ở Đà Nẵng những năm 1858 – 1859. GV cần cung cấp được những kiến
thức sau đay theo đúng chuẩn kiến thức – kĩ năng.
- Nguyên nhân Pháp xâm lược:

+ Từ giữa thế kỉ XIX, các nước phương Tây đẩy mạnh xâm lược các nước
phương Đông để mở rộng thị trường, vơ vét tài nguyên.
+ Việt Nam có vị trí đại lí thuận lợi, giàu tài nguyên thiên nhiên.
+ Chế độ phong kiến Việt Nam khủng hoảng, suy yếu.
- Pháp đánh Đà Nẵng:
+ Lấy cớ bênh vực đạo Giatô, liên quân Pháp – Tây Ban Nha kéo đến Việt
Nam.
+ Ngày 1 – 9 – 1858, quân Pháp nổ súng đánh Đà Nẵng.
+ Quân ta dưới sự chỉ huy của Nguyễn Tri Phương, lập phòng tuyến, anh dũng
chống trả.
+ Sau 5 tháng xâm lược, Pháp chỉ chiếm được bán đảo Sơn Trà. Kế hoạch
đánh nhanh thắng nhanh của Pháp bước đầu thất bại.
Tóm lại, việc đưa ra những phương pháp phát huy tính tích cực của học sinh
trong dạy học lịch sử giúp cho học sinh lĩnh hội sâu sắc và nhớ lâu kiến thức, là
phương tiện tốt để hình thành kiến thức, gợi dậy những xúc cảm lịch sử, kích thích
hứng thú học tập của học sinh, tạo cơ sở để giáo dục tư tưởng, đạo đức, tình cảm
cho các em. Như vậy, hoạt động tích cực, độc lập của học sinh trong dạy học lịch
sử có ý nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả bài học lịch sử ở trường
THCS.
2.6. Kết hợp các biện pháp trong quá trình giảng dạy

SangKienKinhNghiem.net



×