Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Tài liệu Báo cáo " Vấn đề thực hiện các cam kết quốc tế trong phạm vi lãnh thổ quốc gia " doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.98 KB, 6 trang )



nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học - 35



ThS. Nguyễn Kim Ngân *
rong điều kiện hiện nay, khi giao lu quốc
tế ngày càng mở rộng, sự tùy thuộc vào
nhau giữa các quốc gia ngày càng nhiều thì
việc tìm ra cơ chế phù hợp để thực hiện các
cam kết quốc tế trong phạm vi lnh thổ quốc
gia ngày càng có ý nghĩa quan trọng.
Nghĩa vụ tự nguyện thực hiện các cam kết
quốc tế đ đợc ghi nhận trong rất nhiều văn
bản pháp lí quốc tế nh Hiến chơng Liên hợp
quốc, Công ớc Viên về Luật điều ớc quốc tế
năm 1969, Công ớc Montevideo về các quyền
và nghĩa vụ cơ bản của quốc gia năm 1933
Đồng thời, nghĩa vụ này cũng đợc quy định
trong các văn bản quy phạm pháp luật trong
nớc do quốc gia ban hành.
Điều 23 Pháp lệnh về kí kết và thực hiện
điều ớc quốc tế năm 1998 của Việt Nam quy
định: "Nớc Cộng hòa x hội chủ nghĩa Việt
Nam nghiêm chỉnh tuân thủ điều ớc quốc tế
mà mình đ kí kết đồng thời đòi hỏi các bên kí
kết khác cũng nghiêm chỉnh tuân thủ điều ớc
quốc tế đ đợc kí kết với nớc Cộng hòa x
hội chủ nghĩa Việt Nam".


Mặc dù nguyên tắc tự nguyện thực hiện
các cam kết quốc tế đ đợc ghi nhận là một
trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật
quốc tế song pháp luật quốc tế chỉ dừng lại ở
việc xác định nghĩa vụ cho quốc gia là phải
đảm bảo thực thi các cam kết quốc tế trong
phạm vi lnh thổ quốc gia mình, còn việc
thực hiện các cam kết đó theo cách thức và
trình tự nh thế nào lại hoàn toàn do quốc gia
quyết định.
Hiện nay, các quốc gia có quan điểm rất
khác nhau về việc thực hiện cam kết quốc tế
trong phạm vi lnh thổ quốc gia. Ngay trong
giới nghiên cứu khoa học pháp lí Việt Nam
cũng tồn tại nhiều ý kiến trái ngợc nhau.
Xung quanh vấn đề này có một số quan điểm
chủ yếu sau:
1. Quan điểm chuyển hóa (Doctrine of
transformation)
Xuất phát từ lập luận pháp luật quốc tế và
pháp luật quốc gia là hai hệ thống pháp luật
độc lập, song song cùng tồn tại, quan điểm này
cho rằng điều ớc quốc tế và tập quán quốc tế -
hai hình thức pháp lí chủ yếu chứa đựng các
nguyên tắc, quy phạm pháp luật quốc tế không
thể đợc áp dụng nh văn bản quy phạm pháp
luật quốc gia. Điều ớc quốc tế và tập quán
quốc tế không có hiệu lực thi hành trực tiếp
trong phạm vi lnh thổ quốc gia. Muốn đợc
áp dụng trong phạm vi lnh thổ quốc gia, điều

ớc quốc tế và tập quán quốc tế phải đợc
chuyển hóa thành các quy phạm pháp luật
quốc gia. Thông qua hành vi chuyển hóa, điều
ớc quốc tế và tập quán quốc tế xuất hiện với
những căn cứ áp dụng mới. Theo căn cứ đó,
các cá nhân và pháp nhân trong nớc áp dụng
nó với t cách là pháp luật quốc gia chứ không
phải với t cách là pháp luật quốc tế.
T

* Giảng viên Khoa luật quốc tế
Trờng đại học luật Hà Nội


nghiên cứu - trao đổi
36 - Tạp chí luật học

Việc chuyển hóa điều ớc, tập quán quốc
tế vào pháp luật quốc gia có thể đợc thực hiện
theo hai cách:
+ Chuyển hóa riêng: Theo cách này, quốc
gia sẽ ban hành văn bản quy phạm pháp luật
mới hoặc sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm
pháp luật hiện hành nhằm cụ thể hóa điều ớc
quốc tế, tập quán quốc tế. Trong trờng hợp
này, điều ớc quốc tế, tập quán quốc tế đợc
chuyển hóa thành các quy định tơng ứng của
pháp luật trong nớc.
Ví dụ: Pháp lệnh về quyền u đi và miễn
trừ dành cho cơ quan đại diện ngoại giao, cơ

quan lnh sự, cơ quan đại diện của tổ chức
quốc tế tại Việt Nam năm 1993 là văn bản đ
chuyển hóa vào pháp luật Việt Nam các quy
định của Công ớc Viên về quan hệ ngoại giao
năm 1961, Công ớc Viên về quan hệ lnh sự
năm 1963 và Công ớc Viên về các quyền u
đi miễn trừ dành cho Liên hợp quốc năm
1946 mà Việt Nam đ tham gia.
Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng chuyển
hóa thông qua cách thức này không phải là sự
sao chép lại pháp luật quốc tế vào pháp luật
quốc gia. Thực chất đây là quá trình đa quy
định của pháp luật quốc tế vào pháp luật quốc
gia trên cơ sở chủ quyền và những điều kiện cụ
thể của quốc gia nhằm thực hiện tốt các cam
kết quốc tế. Việc chuyển hóa bằng cách này
không phải lúc nào cũng nhanh chóng, kịp thời
bởi lẽ nó phải trải qua quy trình lập pháp, lập
quy của mỗi quốc gia và cũng không thể
chuyển hóa một cách đầy đủ đợc. Nhng
không phải vì không đợc chuyển hóa đầy đủ
mà pháp luật quốc tế không đợc thực hiện.
Thông thờng, quốc gia giải quyết vấn đề này
ngay trong các văn bản quy phạm pháp luật
trong nớc bằng cách ghi nhận hiệu lực u tiên
thi hành của quy phạm pháp luật quốc tế so với
quy phạm pháp luật quốc gia
+ Chuyển hoá chung: Theo cách này, toàn
bộ điều ớc quốc tế mà quốc gia kí kết hoặc
tham gia và tập quán quốc tế mà quốc gia thừa

nhận đợc chuyển hóa chung chỉ bằng một văn
bản mà không cần phải ban hành các văn bản
quy phạm pháp luật riêng. Quy định nhằm
chuyển hóa điều ớc quốc tế và tập quán quốc
tế có thể đợc ghi nhận ngay trong Hiến pháp
hoặc bất kì văn bản quy phạm pháp luật nào
của quốc gia.
Điều 25 Luật cơ bản Cộng hòa Liên bang
Đức quy định: "Các quy định của pháp luật
quốc tế sẽ là một phần của pháp luật liên bang.
Chúng có vị trí cao hơn luật và sẽ tạo nên các
quyền và nghĩa vụ cho những ngời sống trên
lnh thổ liên bang".
Điều 55 Hiến pháp Cộng hoà Pháp năm
1958 quy định: Công ớc và Hiệp định đ
đợc phê chuẩn hoặc phê duyệt theo đúng quy
định có hiệu lực cao hơn luật kể từ ngày công
bố, với điều kiện Công ớc hoặc Hiệp định đó
cũng đợc bên kia thực hiện.
Với những quy định nêu trên, các quốc gia
đ chuyển hóa vào pháp luật nớc mình các
điều ớc quốc tế mà các quốc gia này đ kí kết
hoặc tham gia và tập quán quốc tế mà các quốc
gia này thừa nhận.
2. Quan điểm hợp nhất (Doctrine of
incorporation)
Trái với quan điểm chuyển hóa, xuất phát
từ quan niệm pháp luật quốc tế và pháp luật
quốc gia là hai bộ phận của hệ thống pháp luật
chung, quan điểm hợp nhất cho rằng không

cần thiết phải ban hành văn bản pháp luật quốc
gia nh là chiếc cầu nối giữa điều ớc quốc tế,
tập quán quốc tế và việc áp dụng nó ở trong
nớc. Theo quan điểm này, điều ớc quốc tế và
tập quán quốc tế đợc coi là bộ phận của pháp


nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học - 37


luật quốc gia và có hiệu lực thi hành trực tiếp
trong phạm vi lnh thổ quốc gia.
Thực tiễn hiện nay cho thấy, có nhiều
điều ớc quốc tế, tập quán quốc tế đợc áp
dụng trực tiếp trong phạm vi lnh thổ quốc
gia mà không cần phải ban hành văn bản quy
phạm pháp luật trong nớc để chuyển hóa
chúng. Chẳng hạn nh việc áp dụng các tập
quán thơng mại quốc tế, áp dụng các điều
ớc quốc tế đợc kí kết trong khuôn khổ
Liên minh châu Âu
Nh vậy, các quốc gia có những quan điểm
khác nhau trong việc thực hiện cam kết quốc tế
trong phạm vi lnh thổ quốc gia. Vấn đề này
ảnh hởng ít nhiều đến việc các quốc gia tổ
chức thực hiện cam kết quốc tế.
Xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng chủ
quyền quốc gia, pháp luật quốc tế không hề ấn
định cách thức thực hiện cam kết quốc tế trong

phạm vi lnh thổ quốc gia. Việc thực hiện cam
kết quốc tế bằng cách nào thuộc thẩm quyền
riêng của mỗi quốc gia. Mỗi quốc gia, căn cứ
vào lợi ích và điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của
mình mà có quy định cần thiết về điều ớc
quốc tế, tập quán quốc tế trong mối quan hệ
với pháp luật quốc gia. Một số quốc gia quy
định hiệu lực thi hành trực tiếp của điều ớc
quốc tế, tập quán quốc tế trong phạm vi lnh
thổ quốc gia; có quốc gia lại đòi hỏi phải
chuyển hóa điều ớc quốc tế, tập quán quốc tế
bằng đạo luật do cơ quan lập pháp ban hành
hoặc quyết định của tòa án; một số quốc gia
khác lại kết hợp cả hai cách thức.
Bên cạnh những tranh luận về cách thức
thực hiện các cam kết quốc tế trong phạm vi
lnh thổ quốc gia nêu trên, có vấn đề cũng gây
nhiều tranh ci đó là điều ớc quốc tế, tập quán
quốc tế có vị trí nh thế nào so với văn bản quy
phạm pháp luật quốc gia.
Trong quá trình thực hiện cam kết quốc tế
trong phạm vi lnh thổ quốc gia xảy ra không
ít trờng hợp có sự xung đột giữa điều ớc
quốc tế, tập quán quốc tế và văn bản quy phạm
pháp luật quốc gia. Khi đó điều có ý nghĩa
quyết định để giải quyết xung đột là phải xác
định đợc vị trí của điều ớc quốc tế, tập quán
quốc tế so với văn bản quy phạm pháp luật
quốc gia. Pháp luật quốc tế không quy định về
vị trí của điều ớc quốc tế, tập quán quốc tế so

với văn bản quy phạm pháp luật quốc gia. Vì
vậy, việc giải quyết vấn đề này trên thực tế rất
phức tạp. Thông thờng, trong trờng hợp điều
ớc quốc tế, tập quán quốc tế đợc chuyển hóa
riêng, tức là đợc chuyển hóa thông qua hành
vi ban hành văn bản mới hoặc sửa đổi, bổ sung
các văn bản hiện hành thì vị trí của điều ớc
quốc tế, tập quán quốc tế đợc xác định bởi
chính văn bản mới đợc ban hành hoặc văn
bản mới đợc sửa đổi, bổ sung. Trong trờng
hợp điều ớc quốc tế, tập quán quốc tế đợc
chuyển hóa chung hoặc đợc áp dụng một
cách trực tiếp trong phạm vi lnh thổ quốc gia
thì vấn đề khó giải quyết hơn nhiều. Một số
quốc gia nh Pháp, Đức đ chính thức quy
định quy phạm pháp luật quốc tế nói chung và
điều ớc quốc tế nói riêng có vị trí sau Hiến
pháp và trên các đạo luật. Bởi vậy, pháp luật
của các nớc này không cho phép kí kết hoặc
tham gia điều ớc quốc tế cũng nh không
thừa nhận tập quán quốc tế có nội dung trái với
hiến pháp của họ. Trong trờng hợp quốc gia
muốn kí kết hoặc tham gia điều ớc quốc tế có
những quy định trái với hiến pháp thì họ phải
sửa đổi hiến pháp trớc khi quyết định việc kí
kết hoặc tham gia điều ớc đó. Các cuộc trng
cầu dân ý về việc sửa đổi hiến pháp để tham gia
Hiệp ớc Mátxtrich thành lập Liên minh châu
Âu diễn ra ở các nớc Tây - Bắc Âu trong vài



nghiên cứu - trao đổi
38 - Tạp chí luật học

năm qua đ chứng minh điều đó.
Một số quốc gia khác lại quy định điều ớc
quốc tế có vị trí cao hơn văn bản quy phạm
pháp luật trong nớc, kể cả hiến pháp. Chẳng
hạn nh ở Italia, trớc đây, Tòa án hiến pháp
Italia giữ quan điểm về giá trị u thế của Hiến
pháp Italia so với điều ớc quốc tế. Nhng gần
đây, Tòa án hiến pháp Italia lại cho rằng điều
ớc quốc tế, đặc biệt là các điều ớc đợc kí
kết trong khuôn khổ Liên minh châu Âu, có
giá trị cao hơn pháp luật của Italia, kể cả hiến
pháp. Tuy nhiên, chỉ có Tòa án hiến pháp Italia
mới có thẩm quyền quyết định về vấn đề này.
Mặc dù có quy định khác nhau về vị trí của
điều ớc, tập quán quốc tế so với văn bản quy
phạm pháp luật quốc gia song nhìn chung các
quốc gia đều thừa nhận hiệu lực u tiên thi
hành của điều ớc quốc tế so với đạo luật trong
nớc. Điều này hoàn toàn phù hợp với một
trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật
quốc tế nói chung, của Luật điều ớc quốc tế
nói riêng, đó là nguyên tắc tự nguyện thực hiện
các cam kết quốc tế.
Đối với Việt Nam, là đất nớc có hệ thống
pháp luật đang phát triển ở trình độ thấp và
đang trong quá trình chuyển đổi nhng đ

phải thích nghi với những "luật chơi chung"
của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu
vực. Vấn đề đặt ra là phải tìm ra cơ chế phù
hợp để thực hiện các cam kết quốc tế trong
phạm vi lnh thổ Việt Nam nhằm phục vụ mục
tiêu phát triển đất nớc trên cơ sở nội lực là
chính đồng thời tranh thủ có hiệu quả các
nguồn lực từ bên ngoài.
Hiện nay, pháp luật Việt Nam mới chỉ quy
định về một số vấn đề liên quan đến trình tự kí
kết điều ớc quốc tế, hiệu lực u tiên thi hành
của điều ớc quốc tế so với văn bản quy phạm
pháp luật trong nớc và việc áp dụng tập quán
quốc tế chứ cha có quy định cụ thể về cơ chế
thực hiện các cam kết quốc tế phát sinh từ
pháp luật quốc tế nói chung, từ điều ớc quốc
tế mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia nói
riêng. Điều này gây khó khăn không nhỏ cho
việc thực hiện các cam kết quốc tế trong phạm
vi lnh thổ Việt Nam.
Thực tiễn những năm qua cho thấy, điều
ớc quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia
và tập quán quốc tế mà Việt Nam thừa nhận
đợc thực hiện theo quy trình rất khác nhau.
Một số điều ớc quốc tế song phơng trong
lĩnh vực thơng mại, đầu t, thuế ngay sau
khi đợc Chủ tịch nớc phê chuẩn hoặc Chính
phủ phê duyệt hoặc ngay sau khi đợc hai bên
kí chính thức là đ có hiệu lực thi hành trực
tiếp trên lnh thổ Việt Nam mà không cần phải

ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong
nớc để chuyển hoá chúng. Song, bên cạnh đó
lại có những điều ớc quốc tế, tập quán quốc tế
khác chỉ có hiệu lực thi hành sau khi đ đợc
chuyển hóa vào pháp luật Việt Nam thông qua
việc ban hành, sửa đổi hoặc bổ sung văn bản
quy phạm pháp luật trong nớc. Chẳng hạn
nh các điều ớc, tập quán quốc tế trong lĩnh
vực môi trờng, ngoại giao lnh sự
Qua phân tích các quy định pháp luật
cũng nh thực tiễn của Việt Nam trong việc
thực hiện các cam kết quốc tế cho thấy còn
nhiều điều bất cập mà chúng ta cần phải
nghiên cứu xem xét để tìm ra biện pháp giải
quyết phù hợp.
* Thứ nhất, về cơ chế thực hiện điều ớc
quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia và
tập quán quốc tế mà Việt Nam thừa nhận.
Vấn đề thực hiện điều ớc quốc tế và tập
quán quốc tế quả là vấn đề phức tạp cả về lí
luận lẫn thực tiễn. Có quan điểm cho rằng nên
quy định điều ớc quốc tế và tập quán quốc tế


nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học - 39


chỉ có hiệu lực thi hành trên lnh thổ Việt Nam
sau khi đ đợc chuyển hóa vào pháp luật Việt

Nam thông qua việc ban hành, sửa đổi hoặc bổ
sung các văn bản quy phạm pháp luật trong
nớc. Quan điểm này không phù hợp với thực
tiễn Việt Nam hiện nay. Cùng với quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực, số lợng điều
ớc quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia
cũng nh tập quán quốc tế mà Việt Nam thừa
nhận ngày càng gia tăng. Nếu nh tất cả điều
ớc quốc tế, tập quán quốc tế đều phải đợc
chuyển hóa thông qua việc ban hành, sửa đổi
hoặc bổ sung văn bản quy phạm pháp luật
trong nớc thì đó sẽ là một gánh nặng rất lớn
đặt lên vai các cơ quan lập pháp của Việt Nam.
Các cơ quan này sẽ không có đủ thời gian cũng
nh không có khả năng để chuyển hóa tất cả
điều ớc quốc tế và tập quán quốc tế đó.
Kinh nghiệm của một số quốc gia cũng
nh thực tiễn của Việt Nam trong thời gian qua
cho thấy, không nên coi việc ban hành, sửa đổi
hoặc bổ sung văn bản quy phạm pháp luật
trong nớc để chuyển hóa nội dung điều ớc
quốc tế, tập quán quốc tế vào pháp luật Việt
Nam là cách duy nhất để thực hiện điều ớc,
tập quán đó. Chúng ta có thể học tập kinh
nghiệm của Pháp, Đức hoặc Nga là bằng
điều khoản cụ thể ghi nhận trong hiến pháp
hoặc trong văn bản quy phạm pháp luật, các
quốc gia này đ tiến hành chuyển hóa chung
các điều ớc quốc tế và tập quán quốc tế
của họ mà không cần phải ban hành các văn

bản chuyển hóa riêng đối với mỗi điều ớc,
tập quán.
Tuy nhiên, vấn đề quan trọng nhất hiện
nay của Việt Nam không phải là tìm ra phơng
pháp chuyển hóa tối u để đa điều ớc quốc
tế, tập quán quốc tế vào pháp luật Việt Nam,
bởi lẽ "chuyển hóa" thực chất chỉ là một trong
những cách thức mà thông qua đó điều ớc
quốc tế, tập quán quốc tế đợc thực hiện trong
phạm vi lnh thổ quốc gia. Điều cốt lõi ở đây
là phải thiết lập cơ chế thực hiện điều ớc, tập
quán một cách linh hoạt và mềm dẻo để sao
cho việc triển khai thực hiện điều ớc, tập quán
diễn ra nhanh chóng, kịp thời và mang lại hiệu
quả cao. Trên tinh thần đó, nên chăng chúng ta
tiến hành phân loại điều ớc, tập quán dựa trên
nội dung và tầm quan trọng của chúng để tìm
ra cơ chế thực hiện phù hợp. Chẳng hạn nh
đối với những điều ớc, tập quán trong lĩnh vực
thơng mại, đầu t, thuế mà nội dung của
chúng quy định khá rõ ràng quyền và nghĩa vụ
của các bên thì sẽ có hiệu lực thi hành trực tiếp
trên lnh thổ Việt Nam sau khi đ đợc các
bên kí chính thức, phê chuẩn, phê duyệt hoặc
công bố. Còn đối với những điều ớc, tập quán
có tầm quan trọng đặc biệt hoặc có những quy
định không rõ ràng thì để tạo điều kiện thuận
lợi cho việc thực hiện điều ớc, tập quán,
chúng ta cần ban hành văn bản quy phạm pháp
luật trong nớc để hớng dẫn hoặc cụ thể hóa nội

dung của điều ớc quốc tế, tập quán quốc tế đó.
Các quy định về cơ chế thực hiện điều ớc
quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia và
tập quán quốc tế mà Việt Nam thừa nhận nên
đợc đa vào trong điều khoản sửa đổi, bổ
sung của Pháp lệnh về kí kết và thực hiện điều
ớc quốc tế năm 1998 hoặc trong Luật ban
hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996
của Việt Nam. Việc quy định cụ thể cơ chế
thực hiện điều ớc quốc tế, tập quán quốc tế
trong văn bản quy phạm pháp luật trong nớc
một mặt sẽ giảm bớt gánh nặng cho công tác
lập pháp, lập quy của Nhà nớc ta vốn lâu nay
đ quá đồ sộ và bận rộn, mặt khác sẽ tạo điều
kiện thuận lợi cho việc áp dụng và thực thi điều
ớc quốc tế, tập quán quốc tế trong phạm vi
lnh thổ Việt Nam.
* Thứ hai, về vị trí của điều ớc quốc tế


nghiên cứu - trao đổi
40 - Tạp chí luật học

mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia và tập quán
quốc tế mà Việt Nam thừa nhận trong hệ thống
văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam.
Có quan điểm cho rằng, điều ớc quốc tế
mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia có vị trí thứ
hai sau Hiến pháp và trên các luật, bộ luật.
Quan điểm dựa trên một số quy định hiện

hành của pháp luật Việt Nam.
Điều 146 Hiến pháp năm 1992 quy định:
"Hiến pháp nớc Cộng hòa x hội chủ nghĩa
Việt Nam là luật cơ bản của Nhà nớc, có
hiệu lực pháp lí cao nhất. Mọi văn bản pháp
luật khác phải phù hợp với Hiến pháp".
Khoản 1 Điều 3 Pháp lệnh về kí kết và
thực hiện điều ớc quốc tế năm 1998 quy định:
"Điều ớc quốc tế đợc kí kết trên cơ sở tôn
trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lnh thổ
quốc gia, không can thiệp vào công việc nội bộ
của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, phù hợp
với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật
quốc tế và các quy định của Hiến pháp nớc
Cộng hòa x hội chủ nghĩa Việt Nam". Tơng
tự khoản 2 Điều 827 Bộ luật dân sự của nớc
Cộng hòa x hội chủ nghĩa Việt Nam quy
định: "Trong trờng hợp điều ớc quốc tế mà
Cộng hòa x hội chủ nghĩa Việt Nam kí kết
hoặc tham gia có quy định khác với quy định
của Bộ luật này, thì áp dụng quy định của điều
ớc quốc tế".
Nh vậy, quan điểm cho rằng điều ớc
quốc tế có vị trí thứ hai sau Hiến pháp và
trên các luật, Bộ luật cũng chỉ là sự suy đoán
từ quy định hiện hành của các văn bản quy
phạm pháp luật Việt Nam chứ cha có cơ sở
pháp lí chắc chắn. Nếu chúng ta chỉ suy đoán
về mối quan hệ giữa pháp luật quốc tế và
pháp luật Việt Nam từ những quy định còn

chung chung của pháp luật thì cha hợp lí và
cha có sức thuyết phục.
Kinh nghiệm của một số nớc nh Cộng hòa
Pháp, Liên bang Nga cho thấy, mối quan hệ
giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia sẽ
đợc xác định một cách rõ ràng, cụ thể hơn
nếu nh trong Hiến pháp có riêng điều khoản
đề cập mối quan hệ đó. Chúng ta nên học tập
kinh nghiệm của những nớc này để đa vào
Hiến pháp những quy định cụ thể về mối quan
hệ giữa pháp luật quốc tế và pháp luật Việt
Nam trong đó có đề cập vị trí điều ớc quốc tế,
tập quán quốc tế trong hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật Việt Nam.
Việc xác định rõ vị trí của điều ớc, tập
quán quốc tế trong hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật Việt Nam có thể đạt đợc những mục
đích sau:
- Làm cho các cơ quan nhà nớc, các cá
nhân và pháp nhân nhận thức đợc đầy đủ
nghĩa vụ phải tuân thủ, thực hiện, áp dụng điều
ớc quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia
cũng nh tập quán quốc tế mà Việt Nam đ
thừa nhận.
- Tạo cơ sở pháp lí để khẳng định một cách
dứt khoát nguyên tắc điều ớc quốc tế và tập
quán quốc tế chỉ có hiệu lực trên lnh thổ Việt
Nam nếu không có nội dung trái với Hiến pháp
Việt Nam.
Với những giải pháp bớc đầu đó, có thể

việc thực hiện các cam kết quốc tế phát sinh từ
pháp luật quốc tế nói chung, từ điều ớc quốc
tế mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia nói riêng
sẽ diễn ra theo một quy trình thống nhất và
điều quan trọng hơn nữa là Việt Nam có thể
đảm bảo thực hiện nhanh chóng, kịp thời các
cam kết quốc tế của mình. Qua đó thúc đẩy
quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa Việt Nam với
các quốc gia trên thế giới nhằm góp phần thực
hiện thắng lợi đờng lối đối ngoại rộng mở, đa
dạng hoá, đa phơng hóa, chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế và khu vực mà Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX của Đảng đ đề ra./.

×