nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học số
2
/2003
33
Đặng Thanh Nga *
ỏi cung bị can là hoạt động điều tra do
điều tra viên tiến hành bằng cách sử
dụng các biện pháp tác động đến t duy, tình
cảm, ý chí của bị can theo quy định của pháp
luật, thông qua giao tiếp ngôn ngữ và các
phơng tiện biểu cảm khác nh nét mặt, cử
chỉ, ánh mắt nhằm thu thập chứng cứ từ lời
khai của họ.
Thực chất của hỏi cung bị can là cuộc
đấu tranh về ý chí và lí trí giữa điều tra viên
và bị can. Do đó, để hoạt động này đạt đợc
hiệu quả và chất lợng cao, đòi hỏi điều tra
viên phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ
vững vàng, có kiến thức sâu rộng về x hội,
kĩ năng giao tiếp Trong phạm vi bài viết
này, chúng tôi xin trình bày một số nội dung
cơ bản về kĩ năng giao tiếp của điều tra viên
trong hoạt động hỏi cung bị can.
1. Giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lí giữa
ngời và ngời thông qua đó con ngời trao
đổi với nhau về thông tin và cảm xúc, tri
giác, tác động qua lại với nhau trong những
tình huống cụ thể, nhằm thực hiện mục đích
của hoạt động nhất định.
(1)
Giao tiếp trong
hoạt động hỏi cung bị can là quan hệ giao
tiếp chính thức theo quy định của luật tố tụng
hình sự. Trong mối quan hệ này, điều tra
viên luôn giữ vai trò chủ đạo, phối hợp, điều
chỉnh các tác động, có quyền tổ chức và điều
hành các cuộc tiếp xúc với bị can nhằm tìm
ra sự thật khách quan của vụ án. Ngợc lại,
bị can với t cách là đối tợng bị tác động, bị
cơ quan điều tra áp dụng các biện pháp
cỡng chế để điều tra, buộc phải tuân thủ các
quy định của pháp luật nên họ tham gia giao
tiếp với sự bắt buộc và phải thực hiện các
nhiệm vụ do điều tra viên đặt ra một cách thụ
động. Vì vậy, giao tiếp trong hoạt động hỏi
cung bị can là loại hình giao tiếp đặc biệt,
mang tính cỡng chế, không tự nguyện và
cũng không phải do ý muốn của cả hai phía.
Giao tiếp trong hỏi cung bị can khác với
giao tiếp trong cuộc sống hàng ngày bởi một
số đặc điểm có tính đặc thù. Đó là: 1) Về
mặt pháp lí, nội dung giao tiếp phải tuân thủ
các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Phơng pháp giao tiếp phải kết hợp tác động
x hội với tác động bằng pháp luật, chính
sách của Nhà nớc; 2) Về chủ thể, trong giao
tiếp điều tra viên phải có khả năng thuyết
phục, chủ động, mu trí, năng động, sáng
tạo, có thái độ khách quan, tính quyết đoán;
phát huy tính tích cực, chủ động của bị can;
3) Về mục đích, giao tiếp để thu thập đầy đủ,
chính xác, khách quan lời khai của bị can về
toàn bộ sự thật của vụ án, hành vi phạm tội
của bị can cũng nh các tin tức, tài liệu khác
H
* Giảng viên Khoa t pháp
Trờng đại học luật Hà Nội
nghiên cứu - trao đổi
34
Tạp chí luật học số 2
/2003
mà bị can biết có ý nghĩa đối với công tác
điều tra và phòng ngừa tội phạm nhằm tạo ra
bầu không khí tâm lí tôn trọng, hiểu biết lẫn
nhau giữa điều tra viên và bị can. Từ đó bị
can có thái độ tôn trọng, tin tởng điều tra
viên mà tiếp nhận tác động một cách tích
cực; 4) Về mặt khoa học, nội dung giao tiếp
đợc xây dựng trên cơ sở của nhiều ngành
khoa học, đặc biệt là khoa học giao tiếp,
khoa học pháp lí cũng nh khoa học về
nghiệp vụ điều tra và ngôn ngữ học
2. Kĩ năng giao tiếp của điều tra viên đối
với bị can là sự vận dụng sáng tạo và phối
hợp hài hoà, hợp lí hệ thống thao tác, cử chỉ,
điệu bộ hành vi (kể cả hành vi ngôn ngữ)
nhằm đảm bảo cho sự tiếp xúc với bị can đạt
kết quả cao trong hoạt động hỏi cung.
Kĩ năng giao tiếp của điều tra viên trong
hoạt động hỏi cung bị can bao gồm ba nhóm
kĩ năng: Kĩ năng định hớng giao tiếp (hiểu
rõ đối tợng để vạch kế hoạch chuẩn bị giao
tiếp); kĩ năng định vị (đặt mình vào tâm lí,
hoàn cảnh cụ thể của đối tợng giao tiếp để
tạo ra sự đồng cảm); kĩ năng điều khiển quá
trình giao tiếp (luôn giữ đợc sự bình tĩnh, tự
chủ, sử dụng ngôn ngữ và phi ngôn ngữ để
tác động đến đối tợng giao tiếp).
3. Kĩ năng định hớng giao tiếp là một
trong những kĩ năng quan trọng đối với
hoạt động hỏi cung bị can. Do đó, đòi hỏi
điều tra viên phải nắm vững kĩ năng này thì
mới đạt hiệu quả cao trong cuộc giao tiếp
đ đặt ra. Nó bao gồm kĩ năng định hớng
trớc và kĩ năng định hớng trong quá trình
giao tiếp với bị can.
Kĩ năng định hớng trớc khi tiếp xúc
với bị can thể hiện khi điều tra viên đợc
phân công điều tra vụ án, nghiên cứu kĩ
những tài liệu, chứng cứ đ thu thập đợc từ
những biện pháp điều tra khác (khám xét,
khám nghiệm hiện trờng, lấy lời khai của
ngời làm chứng, của ngời bị hại, trng cầu
giám định ). Trên cơ sở đó, điều tra viên
định hớng đợc những vấn đề cần làm rõ
trong quá trình hỏi cung, những tài liệu
chứng cứ đ thu thập đợc, những câu hỏi
đợc đa ra để bị can trả lời, dự kiến chiến
thuật hỏi cung. Kĩ năng định hớng trớc khi
tiếp xúc với bị can còn thể hiện khi điều tra
viên nghiên cứu những đặc điểm của nhân
thân bị can (giới tính, tuổi, trình độ học vấn,
nghề nghiệp, hoàn cảnh gia đình, tiền án,
tiền sự ); các đặc điểm về đạo đức, tâm lí
(thái độ của bị can đối với giá trị đạo đức x
hội khác nhau, tính cách, khí chất, hứng thú,
trạng thái tâm lí của bị can ); các đặc điểm
pháp lí hình sự của bị can (động cơ, mục
đích phạm tội ). Trên cơ sở đó điều tra viên
cần dự đoán xem bị can sẽ có những phản
ứng nh thế nào với những nội dung sẽ đợc
nêu ra trong hỏi cung. Điều này giúp cho
điều tra viên chủ động, linh hoạt, sáng tạo
lựa chọn và áp dụng các thủ thuật hỏi cung
bị can phù hợp, tránh những tình huống bất
ngờ, bị động, lúng túng trớc những phản
ứng tiêu cực của bị can. Sau khi đ dự kiến
đợc các phản ứng có thể xảy ra ở bị can,
điều tra viên cần dự kiến thời gian, địa
điểm tiếp xúc với bị can, dự kiến cách mở
đầu, diễn biến và kết thúc giao tiếp trong
hỏi cung bị can.
Kĩ năng định hớng trong quá trình giao
tiếp hỏi cung bị can thể hiện khi tiếp xúc với
bị can, điều tra viên phải quan sát nét mặt, cử
nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học số
2
/2003
35
chỉ, hành vi lời nói của bị can để nhanh
chóng phát hiện trạng thái tâm lí của họ. Tuỳ
theo trạng thái tâm lí của bị can là bình
thờng hay bất thờng mà điều tra viên phải
ra quyết định có nên xúc tiến cuộc hỏi cung
nh đ dự định hay hon lại. Ví dụ: Nếu quan
sát thấy đồng tử mắt bị can gin ra, mắt mở
to nhìn thẳng điều tra viên, nét mặt bình
thản, ngồi với t thế không gò bó chứng tỏ
bị can đang ở trong trạng thái tâm lí tích cực
thì điều tra viên nên sẵn sàng hỏi cung bị
can. Ngợc lại, ngay từ đầu bị can đ tỏ ra lì
lợm, ngoan cố hay tỏ ra thách thức, lẩn tránh
trong giao tiếp với điều tra viên thì đồng tử mắt
co, lông mày nhíu lại, hai tay khoanh trớc
ngực Trong trờng hợp này, điều tra viên phải
tìm mọi cách để tiếp xúc với bị can. Hoặc
khi thấy bị can có hiện tợng khô môi (bị
can cứ mím miệng nhấp môi cho ớt nhng
thỉnh thoảng dải môi lại khô và dính chặt với
nhau, đến lúc hở sẽ phát ra tiếng chép) thì
đây là trạng thái biểu hiện sự gian dối của bị
can.
(2)
Thế giới nội tâm của con ngời đợc
biểu hiện qua những hành vi, cử chỉ của họ.
Mỗi cử chỉ không chỉ là tác động của cơ thể
mà còn là tác động của tâm hồn, thông báo
cho ta về tâm t, nguyện vọng, quan điểm,
thái độ của đối tợng tại thời điểm đó.
Ngoài việc quan sát bị can, điều tra viên
phải chú ý quan sát đến hoàn cảnh giao tiếp
xung quanh có thuận lợi không? Có cần loại
bỏ yếu tố bất lợi nào? Có cần chuyển sang
địa điểm giao tiếp khác không? Nói chung
không nên chọn địa điểm hỏi cung là chỗ ở
của bị can. Địa điểm hỏi cung bị can phải
đáp ứng một số yêu cầu nh kích thớc của
phòng hỏi cung vừa phải, phòng đợc bài trí
đơn giản, kín đáo, chỗ ngồi của điều tra viên
và bị can phải đợc sắp xếp hợp lí nhằm
tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp xúc tâm
lí giữa điều tra viên và bị can, không làm cho
bị can phân tán t tởng.
(3)
Nh vậy, điều
tra viên phải có kĩ năng quan sát tinh tế để
phán đoán chính xác các trạng thái tâm lí
bên trong của bị can, hiểu đúng các trạng
thái tinh thần của họ, để từ đó định hớng
chính xác quá trình giao tiếp và tiến hành
hỏi cung bị can.
4. Kĩ năng định vị trong hoạt động hỏi
cung bị can là khả năng của điều tra viên biết
xác định vị trí trong giao tiếp, biết đặt vị trí
của mình vào vị trí của bị can để tạo ra sự
đồng cảm và biết tạo điều kiện để bị can trở
nên tích cực, chủ động khi giao tiếp với
mình. Kĩ năng định vị của điều tra viên còn
thể hiện ở chỗ xác định đúng không gian và
thời gian giao tiếp. Trớc hết, điều tra viên
cần chú ý phát hiện và xoá bỏ các chớng
ngại tâm lí ảnh hởng tới quá trình xây dựng
mối quan hệ tích cực của bị can với mình
nh thái độ lì lợm, thách thức, không muốn
tiếp xúc với điều tra viên, tâm thế cảnh giác,
đề phòng, đối phó, tâm trạng lo sợ, mỏi mệt,
trầm uất, hi vọng vào sự giúp đỡ từ bên
ngoài Cùng với việc khắc phục các chớng
ngại tâm lí và tạo điều kiện để bị can bộc lộ
đầy đủ các phẩm chất tâm lí, các khả năng
cũng nh các đặc điểm khác trong nhân cách
của họ, điều tra viên phải biết khêu gợi ở bị
can lòng kính trọng và nhận thấy nếu cứ tiếp
tục ngoan cố không chịu khai báo hoặc khai
báo gian dối thì không những không cản trở
đợc quá trình làm rõ sự thật vụ án mà còn
đẩy chính bị can vào tình huống bất lợi hơn.
nghiên cứu - trao đổi
36
Tạp chí luật học số 2
/2003
Mặt khác, chính điều tra viên cũng phải đẩy
lùi chớng ngại tâm lí của mình với bị can
nh tâm thế định kiến, áp đặt, buộc tội bị
can mà luôn phải thể hiện thái độ khách
quan để khơi dậy các động cơ thôi thúc sự
thành khẩn ở bị can.
Nh vậy, khi hỏi cung bị can, điều tra
viên nên có những tác động về mặt tâm lí
giúp bị can từng bớc bộc lộ sự cởi mở, dần
dần có đợc sự thoải mái trong tiếp xúc nh
phân tích, thuyết phục nhẹ nhàng có tình có
lí, kết hợp với các hành động thực tế nh
quan tâm đến chế độ sinh hoạt, đáp ứng một
số nhu cầu của bị can trong điều kiện cho
phép Tất cả đều có tác dụng tạo ra sự tin
cậy, tôn trọng của bị can đối với điều tra viên,
làm cơ sở cho quá trình xây dựng mối quan
hệ tâm lí tích cực giữa điều tra viên và bị can.
Điều tra viên phải nhập vai một cách hoàn
toàn chân thực, không gợn chút giả dối mới
đạt đợc sự hoàn thiện về kĩ năng định vị.
5. Kĩ năng điều khiển quá trình giao tiếp
của điều tra viên thể hiện ở chỗ biết lôi cuốn
bị can tham gia tích cực vào giao tiếp, biết
duy trì giao tiếp theo đúng hớng để đạt mục
đích, nhiệm vụ đ đặt ra, biết làm chủ trạng
thái cảm xúc của mình, biết sử dụng phơng
tiện giao tiếp. Kĩ năng làm chủ trạng thái
cảm xúc của bản thân thể hiện ở chỗ biết tự
chủ hành vi, biết kiềm chế xúc cảm và tình
cảm của mình khi cần thiết, biết hớng phản
ứng, hành vi của mình theo mục đích, nội
dung nhiệm vụ giao tiếp. Để khích lệ, động
viên, thuyết phục bị can theo mục đích của
cuộc hỏi cung thì điều tra viên phải hiểu
đợc những đặc điểm tâm sinh lí, hoàn cảnh
sống, nhu cầu, hứng thú của bị can và biết
sử dụng các phơng tiện giao tiếp một cách
hợp lí. Kĩ năng điều khiển quá trình giao tiếp
của điều tra viên trong hỏi cung còn thể hiện
qua khả năng làm chủ các phơng tiện giao
tiếp nh ngôn ngữ nói, viết hay phơng tiện
phi ngôn ngữ nh tác phong, điệu bộ, nét
mặt, ánh mắt, nụ cời Khi tiếp xúc với bị
can, điều tra viên cần tránh các biểu hiện thái
quá nh nóng nảy, cục cằn, có lời lẽ nhạo
báng, hay khuyên nhủ không cần thiết mà
phải có tác phong đàng hoàng, đĩnh đạc, có
thái độ đúng mực, tỉ mỉ, chu đáo, nh nhặn,
bình tĩnh trong mọi hoàn cảnh, phải biết biểu
lộ thái độ chú ý lắng nghe. Để làm chủ các
phơng tiện giao tiếp, điều tra viên phải có
khả năng diễn đạt mạch lạc, rõ ràng, lu loát,
không có những khuyết tật về âm sắc của
giọng nói nh nói ngọng, nói lắp, nói quá to
hay nói quá nhỏ đồng thời biết đa ra các
câu hỏi ngắn, gọn, dễ hiểu, có nội dung rõ
ràng, tránh tối đa các câu hỏi tối nghĩa, thô
bạo. Ngoài ra, điều tra viên phải biết sử dụng
ngôn ngữ phù hợp với từng bị can.
Tóm lại, để có khả năng thuyết phục cao
trong giao tiếp với bị can, điều tra viên cần sử
dụng thành thạo các kĩ năng định hớng, kĩ
năng định vị, kĩ năng điều khiển quá trình
giao tiếp. Các kĩ năng này phải đợc kết hợp
chặt chẽ với nhau mới có thể thực hiện thành
công việc lôi cuốn bị can vào cuộc hỏi cung./.
(1).Xem: Giao tiếp s phạm. Nxb. Giáo dục.
1998, tr. 4.
(2).Xem: Tâm lí hỏi cung hình sự. Trờng Đại học
cảnh sát nhân dân. 1998 (Dịch từ: Hỏi cung và lời
thú tội (Tiếng Anh). Theo bản dịch của Viện khoa
học VKSNDTC), tr. 42.
(3).Xem: Giáo trình khoa học điều tra hình sự.
Trờng đại học luật Hà Nội. Nxb. Công an nhân dân.
Hà Nội 2001, tr. 111-112.