Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Tiểu luận Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.11 KB, 13 trang )

MỞ ĐẦU

Mục tiêu của công cuộc kiến thiết chủ nghĩa xã hội (CNXH), với tính cách là
cuộc đấu tranh cuối cùng để xóa bỏ mọi chế độ xã hội dựa trên bóc lột lao động, áp
bức, bất cơng hiển nhiên phải là giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng lao
động và giải phóng con người để mọi người đều được phát triển tự do, toàn diện. Trên
thực tế, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội được triển khai trên từng “mảnh đất hiện
thực” với điều kiện, đặc điểm… rất cụ thể; với những xuất phát điểm và những hồn
cảnh khơng giống nhau. Bởi vậy, những mục tiêu nêu trên chỉ là những mục tiêu cuối
cùng. Chúng phải được cụ thể hóa thành những mục tiêu xác định cho từng quốc gia,
trong từng thời kỳ, giai đoạn, bước đi… Chính đây là một trong những vấn đề phức tạp
và khó khăn nhất của những người cộng sản trong quá trình lãnh đạo nhân dân thực
hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Lịch sử phong trào cộng sản và cơng
nhân quốc tế đã có nhiều bằng chứng về các hiểu sai lầm trong việc xác định mục tiêu
cụ thể của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội: hoặc là giáo điều, máy móc lấy
những mục tiêu cuối cùng làm mục tiêu trước mắt; hoặc tuyệt đối hóa những mục tiêu
trước mắt, coi nhẹ, thậm chí thủ tiêu những mục tiêu cuối cùng, thủ tiêu mục tiêu, lý
tưởng của giai cấp công nhân.
Bổ sung, phát triển mơ hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trên cơ sở bảo đảm
các nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản khoa học, phù hợp với điều kiện của đất nước và
xu hướng phát triển của thế giới đương đại trở thành yêu cầu, nhiệm vụ cấp thiết cả về
lý luận và thực tiễn. Trên cơ sở nắm vững, vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội; đồng thời bám sát đặc điểm
và xu thế vận động của thời đại ngày nay và thực tiễn đất nước, trong quá trình đổi mới
từ năm 1986 đến nay, Đảng ta đã xây dựng nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa xã hội và
các đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Bài thu hoạch này đề
1

1



cập đến vấn đề: “Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam trong thời kỳ mới”

NỘI DUNG

Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội thời kỳ đổi mới đang đặt ra khơng ít
vấn đề cần nghiên cứu, giải quyết. Những câu hỏi như: Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
có những đặc trưng gì? Bằng cách nào để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam trong điều kiện hiện nay? đang tiếp tục đặt ra và đòi hỏi phải được trả lời
bằng lý luận và thực tiễn sinh động.
1- Nhận thức lý luận của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ
nghĩa xã hội:
Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội là sự vận dụng
những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ
nghĩa xã hội gắn với quá trình phát triển đất nước qua các thời kỳ. Thời kỳ trước đổi
mới, nhận thức về xã hội xã hội chủ nghĩa đã được Đảng ta phác thảo ban đầu trong
các văn kiện Đại hội từ năm 1954 đến năm 1986. Nhìn một cách tổng thể, thời kỳ
này, chúng ta chưa xác định được mơ hình và những đặc trưng cụ thể của xã hội xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Những điểm mới trong nhận thức về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta thời kỳ đổi mới thể hiện trên những
nét căn bản sau:
- Thứ nhất, nhận thức rõ hơn về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (1986) đã
chỉ rõ những hạn chế, khuyết điểm, nguyên nhân của hạn chế, yếu kém trong nhận
2

2


thức về xã hội xã hội chủ nghĩa. Lần đầu tiên trong lịch sử xây dựng chủ nghĩa xã

hội ở Việt Nam, mơ hình xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng đã được
Đảng ta chỉ ra trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991), gồm 6 đặc trưng: Do nhân dân lao động làm
chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ
công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất cơng, làm theo năng
lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát
triển toàn diện cá nhân; các dân tộc trong nước bình đẳng, đồn kết và giúp đỡ lẫn
nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên
thế giới.
Tiến trình đổi mới của Việt Nam được bắt đầu từ đổi mới tư duy, trước hết
là đổi mới tư duy về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tại Đại
hội VI, Đảng ta xác định, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội tất yếu phải trải
qua một thời kỳ quá độ và độ dài của thời kỳ đó phụ thuộc vào điều kiện kinh tế,
chính trị, xã hội cụ thể của mỗi nước. Đối với nước ta, thời kỳ quá độ rất lâu
dài và khó khăn. Đó là một thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để
nhằm xây dựng từ đầu một chế độ xã hội mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản
xuất và kiến trúc thượng tầng; trong đó, bao hàm nhiều chặng đường, nhiều bước
quá độ nhỏ với những nhiệm vụ tương ứng. Phải có “những hình thức và bước đi
thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng
sản xuất, ln ln có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất”. Đây
là những cơ sở lý luận quan trọng để Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra đường lối phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, sử dụng đúng đắn quan hệ hàng tiền...; trong đó, thành phần kinh tế nhà nước đóng vai trị chủ đạo và chi phối các
thành phần kinh tế khác. Với đường lối đổi mới của Đảng, trước hết là đổi mới kinh
tế, lực lượng sản xuất được giải phóng khỏi những trói buộc cũ, có những bước phát
3

3



triển quan trọng, có những chuyển biến tích cực thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát
triển, tạo nên sắc thái mới trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Đường lối
phát triển kinh tế đúng đắn này đã được Đảng tiếp tục phát triển và hồn thiện dần
qua các kỳ đại hội sau đó, tạo điều kiện cho sự phát triển mới về chất trong toàn bộ
đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Nhận thức này khắc phục được tư tưởng chủ
quan, nóng vội, giản đơn về thời kỳ quá độ.
- Thứ hai, nhận thức đầy đủ hơn về cách thức bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Việc “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” được giải thích rõ về hai phương
diện: Một là, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là “bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị
của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa”. Hai là, trong khi
bỏ qua những mặt đó, cần “tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt
được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát triển
nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”. Đương nhiên, việc kế thừa
những thành tựu này phải trên quan điểm phát triển, có chọn lọc. Nhận thức này đã
góp phần khắc phục tư duy giáo điều, siêu hình về sự tương đồng và khác biệt của
hai hình thái kinh tế - xã hội mà trước đây chúng ta đã mắc phải. Thực tế xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và ở các nước khác đã khẳng định luận điểm của V.I.
Lênin: “chủ nghĩa cộng sản đã phát sinh như thế nào từ tổng số những kiến thức của
nhân loại”.
- Thứ ba, về các phương hướng quá độ lên chủ nghĩa xã hội và những vấn đề
đặt ra cần phải giải quyết trong xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Cương lĩnh năm 1991 đã vạch ra 7 phương hướng cơ bản của quá trình xây
dựng xã hội mới theo những đặc trưng được xác định. Sau 25 năm thực hiện Cương
lĩnh năm 1991, từ việc tổng kết thực tiễn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội,
4

4



Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã bổ sung, phát triển nhận thức về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội, thể hiện ở 8 phương hướng cơ bản nhằm thực hiện
thành công mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng được về cơ
bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội và kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư
tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để đưa Việt Nam trở thành một nước xã hội chủ
nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Những phương hướng cơ bản đó bao
gồm: Một là, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri
thức, bảo vệ tài nguyên môi trường; hai là, phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa; ba là, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây
dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội; bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội; năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp
tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; sáu là, xây dựng nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng
mặt trận dân tộc thống nhất; bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tám là, xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh.
Tám phương hướng nêu trên về cơ bản đã thể hiện rõ phương thức, con đường
xây dựng chủ nghĩa xã hội trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, các
chủ trương trong đường lối đối nội, đối ngoại. Mặt khác, vai trị của tồn bộ hệ
thống chính trị cũng như trách nhiệm của từng thành viên trong hệ thống chính trị do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đã được thể hiện rõ trong một số phương hướng.
Bên cạnh việc xác định 8 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa, 8 phương hướng cơ
bản quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đại hội XI cũng chỉ ra 8 mối quan hệ
lớn cần nắm vững và giải quyết tốt trong quá trình thực hiện các phương hướng đã
nêu: Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực
5

5



lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa
độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân
dân làm chủ. Trong quá trình phát triển ở Việt Nam, thị trường đóng vai trị chủ yếu
trong huy động và phân bổ các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải
phóng sức sản xuất. Nhà nước đóng vai trị định hướng, xây dựng và hồn thiện thể
chế kinh tế, tạo mơi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng
các cơng cụ, chính sách và nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền
kinh tế, thúc đẩy sức sản xuất kinh doanh và bảo vệ mơi trường. Chính vì vậy, mối
quan hệ giữa nhà nước và thị trường, được bổ sung mới trong Văn kiện Đại hội XII
của Đảng.
Đại hội cũng chỉ rõ các mối quan hệ lớn cần nhận thức và giải quyết kịp thời,
đúng đắn trong quá trình đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội: quan hệ giữa đổi mới, ổn
định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và
định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn
thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát
triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
2- Nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời
kỳ mới:
- Đẩy mạnh cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức,
bảo vệ tài nguyên - môi trường:

6

6



Đối với nước ta, từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, muốn tiến lên chủ
nghĩa xã hội, nhất thiết phải trải qua cơng nghiệp hóa. Cơng nghiệp hóa - hiện đại
hóa giúp phát triển lực lượng sản xuất, làm thay đổi căn bản công nghệ sản xuất,
tăng năng suất lao động. Đây là thời kỳ tạo tiền đề vật chất để không ngừng củng cố
và tăng cường vai trò của kinh tế nhà nước trong điều tiết sản xuất và dẫn dắt thị
trường. Đồng thời, cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa là động lực phát triển kinh tế - xã
hội, tạo điều kiện tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh và là tiền đề cho việc
xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, đủ sức tham gia một cách có hiệu quả vào
sự phân công và hợp tác quốc tế.
Song song với quá trình cơng nghiệp hóa - hóa hiện đại hóa, chúng ta đang
phải chịu những áp lực về thay đổi cấu trúc và mơ hình phát triển do sự cạn kiệt tài
nguyên, ô nhiễm môi trường ngày càng lộ rõ. Do đó, các mối quan tâm về mơi
trường cần được lồng ghép ngay từ quá trình ra các quyết định về phát triến kinh tế
và xã hội. Có nghĩa là, cần cụ thể hóa nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng thân thiện với môi trường, tiếp cận mô hình tăng trưởng xanh đã được đề cập
trong văn kiện của Đại hội Đảng lần thứ XI. Trong đó, Nhà nước cần dành sự quan
tâm đặc biệt để xây dựng năng lực nội sinh nhằm sử dụng và phát triển các công
nghệ tiết kiệm tài nguyên, nguyên liệu, năng lượng...; vì đây là động lực chủ yếu để
thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta theo hướng phát triển bền
vững.
- Phát triển kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa:
Đó là “nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị
trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn
phát triển của đất nước”. Trên vấn đề căn cốt nhất của thể chế kinh tế là vấn đề sở
hữu: “có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước
7


7


giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế”. Xác
định vị thế của Nhà nước và vị trí của người lao động trong thể chế kinh tế: “Nhà
nước đóng vai trị định hướng, xây dựng và hồn thiện thể chế kinh tế, thực hiện tiến
bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy vai trò làm
chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội”. Để xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhiệm vụ then chốt là Đảng phải “tăng cường
lãnh đạo việc thể chế hóa và việc tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước về kinh tế - xã hội; tăng cường công tác kiểm tra,
giám sát, sơ kết, tổng kết thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng; lãnh
đạo việc bố trí cán bộ và lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện của đội ngũ cán bộ hoạt
động trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội”.
Qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch
sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa;
khẳng định “con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn
của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử”. Một trong những mối quan hệ lớn cần
nhận thức đúng đắn và xử lý tốt trong suốt quá trình phát triển đất nước là mối quan
hệ giữa tuân thủ theo các quy luật thị trường và đảm bảo định hướng xã hội chủ
nghĩa, “phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội”.
- Xây dựng nển văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con
người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội:
Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc. Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ, trong đó, cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm
mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn
diện của con người trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã
8


8


hội và tự nhiên. Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị truyền thống tốt đẹp, bền
vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, được vun đắp qua lịch
sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là, lịng u nước nồng nàn,
ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đồn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia
đình - Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; cần cù, sáng tạo
trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong cuộc sống; dũng cảm, kiên
cường, bất khuất trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm; văn hóa là nền tảng tinh
thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã
hội. Văn hóa khơng phải là kết quả thụ động, yếu tố đứng bên ngoài, bên cạnh hoặc
đi sau kinh tế, phụ thuộc hồn tồn vào trình độ phát triển kinh tế mà văn hóa vừa là
mục tiêu, vừa động lực thúc đẩy kinh tế. “Văn hóa thấm sâu vào tồn bộ đời sống và
hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa
bàn dân cư, vào mọi sinh hoạt và quan hệ con người, tạo ra trên đất nước ta đời sống
tinh thần cao đẹp".
- Bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội:
Tăng cường tiềm lực quốc phịng, an ninh của đất nước, trong đó đặc biệt coi
trọng xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần, “thế trận lịng dân”. Tiếp tục điều chỉnh
bố trí chiến lược lực lượng vũ trang nhân dân, công an nhân dân để có cơ cấu tương
đối, tinh, gọn, cơ động, có sức chiến đấu cao. Chủ động nắm chắc tình hình và dự
báo đúng các tình huống phức tạp có thể xảy ra, đặc biệt trên các vùng biển, đảo,
biên giới, các địa bàn chiến lược. Chú trọng xây dựng Qn đội nhân dân và Cơng
an nhân dân chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Nâng cao ý thức trách nhiệm,
bản lĩnh chính trị cho cán bộ, chiến sỹ, lực lượng vũ trang.
Tăng cường nắm bắt tình hình diễn biến tư tưởng của nhân dân, các vấn đề
dân tộc, tơn giáo; chủ động và tích cực giải quyết thấu đáo những vấn đề mới phát
sinh, nhất là về đất đai, xây dựng, thu phí các trạm BOT, về môi trường…không để

9

9


phát sinh điểm nóng. Tăng cường đảm bảo trật tự, an tồn xã hội nhất là vùng nơng
thơn, vùng sâu, vùng xa không để các thế lực thù địch lôi kéo, kích động làm phức
tạp thêm tình hình.
- Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hữu nghị, hợp tác
và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế:
Đẩy mạnh xây dựng đưa quan hệ với các đối tác, nhất là các nước láng giềng,
các nước trong cộng đồng ASEAN, các nước lớn, bạn bè truyền thống đi vào chiều
sâu, ổn định, vững chắc. Tiếp tục thực hiện tốt Hiệp định, thỏa thuận đã ký về biên
giới với các nước láng giềng (kể cả trên bộ và trên biển) trên cơ sở thỏa thuận cấp
cao về những nguyên tắc cơ bản các bên đã thống nhất. Thực hiện chiến lược đối
ngoại vừa có nguyên tắc, vừa linh hoạt mềm dẻo để thêm bạn, bớt thù. Chủ động
tích cực tuyên truyền các thành tựu của Việt Nam về các lĩnh vực dân chủ, nhân
quyền, dân tộc, tôn giáo. Phối hợp chặt chẽ ngoại giao nhà nước, đối ngoại của Đảng
và đối ngoại nhân dân; đẩy mạnh đối ngoại quốc phòng, an ninh để tăng cường sự
tin cậy với các nước đối tác và tranh thủ sự đồng thuận, ủng hộ của cộng đồng quốc
tế đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
- Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân
tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất:
“Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những
quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân, từ nêu sáng kiến, tham gia
thảo luận, tranh luận đến giám sát quá trình thực hiện”. Đồng thời, “tiếp tục hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” được chú trọng như một trong 12 nhiệm vụ
tổng quát trong những năm tới. Lịch sử chính trị thế giới đã chứng minh, khơng có
nhà nước pháp quyền nào thốt ly được bản chất giai cấp và khơng có nền dân chủ
nào chung chung, trừu tượng. Mặt khác, thực tế cho thấy, trên những vấn đề hết sức

10

10


sống còn này, các thế lực tư bản chủ nghĩa đang ra sức tác động, gây ảnh hưởng, giành
giật không gian cho dân chủ và pháp quyền tư sản. Bởi vậy, thường xuyên nhấn mạnh
những điều vừa nêu là cần thiết và đúng đắn.
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân:
Nhà nước phải luôn luôn chú trọng kết hợp thực hiện tốt chức năng xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện
pháp luật và chính sách đó; phải ln ln gắn bó chặt chẽ nhiệm vụ phát triển kinh
tế với bảo đảm quốc phòng, an ninh. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam phải dựa vào lực lượng nhân dân, phát huy dân chủ xã hội chủ
nghĩa; phải xuất phát từ nguyện vọng và lợi ích của nhân dân và dựa trên nguyên tắc
tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức và phân công
quyền lực nhà nước thực sự khoa học, phát huy mạnh mẽ hiệu lực, hiệu quả quản lý
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước thực hiện ba quyền
thống nhất có sự phân cơng rành mạch, trong đó, đề cao trách nhiệm, tính chủ động
và sự phối hợp hoạt động của các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp; thực hiện sự phân cấp hợp lý quyền lực nhà nước giữa chính
quyền trung ương và chính quyền địa phương; xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở
vững mạnh, bảo đảm thực hiện có hiệu quả chủ trương, đường lối, nghị quyết của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Để xây dựng Nhà nước vững mạnh, cần
tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, đẩy mạnh cải cách hành chính,
cải cách tư pháp; xác định rõ tính chất, vị trí, vai trị, chức năng, nhiệm vụ, mơ hình
tổ chức của Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các cấp; tiếp tục nghiên cứu làm
rõ mơ hình tổ chức các cơ quan tư pháp (tòa án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra) cho

phù hợp với yêu cầu mới; tăng cường vai trị quản lý vĩ mơ của Nhà nước trong điều
kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. Các
11

11


cơ quan nhà nước thực hiện quản lý nhà nước đối với các hoạt động kinh tế, bảo
đảm sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.
- Xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh:
Vấn đề cốt lõi ở đây là chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam mới là người lãnh đạo
đất nước ta đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, giữ vững vai trị lãnh đạo
của Đảng Cộng sản trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một
vấn đề có tính nguyên tắc, một điều kiện tiên quyết. Tuy nhiên, để giữ vững được
nguyên tắc này Đảng Cộng sản Việt Nam cần thực hiện một số vấn đề cốt lõi sau:
+ Một là, Đảng Cộng sản không phân chia quyền lãnh đạo quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cho bất cứ lực lượng chính trị nào khác nhằm đảm bảo
sự thống nhất và tính nhất quán của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa.
+ Hai là, Đảng phải đổi mới toàn diện về tổ chức và phương thức lãnh đạo đối
với Nhà nước và xã hội.
+ Ba là, Đảng cần kiên quyết chỉnh đốn xây dựng đảng; kiên quyết chống suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong đảng viên nhất là đội ngũ cán bộ
lãnh đạo cao cấp; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng xây dựng lòng tin trong
nhân dân; kiên quyết giải tán các tổ chức đảng cơ sở suy thoái, mất sức chiến đấu;
kiên quyết loại bỏ những phần tử thái hóa, biến chất ra khỏi hàng ngũ Đảng.
+ Bốn là, kiên quyết đấu tranh chống những thế lực phản động trong nước và
quốc tế nhằm xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vai trị lãnh đạo
của Đảng; kiên quyết chống "diễn biến hịa bình", bạo loạn lật đổ, giữ vững vai trò
lãnh đạo của đảng, giữ vững ổn định chính trị.


12

12


+ Năm là, mở rộng quan hệ quốc tế, kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ quyền
biển đảo đất nước, bảo vệ lợi ích quốc gia, bảo đảm đời sống hịa bình cho nhân dân.

KẾT LUẬN
Tóm lại, đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của cách mạng Việt
Nam. Để thực hiện thành công con đường này, về thực tiễn, đòi hỏi các cấp, các
ngành, cán bộ và nhân dân quán triệt những quan điểm của Đảng, đồng thuận, chung
sức, quyết tâm thực hiện tốt những nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài của đất
nước; về lý luận, cần tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu, khái quát, trả lời đầy đủ
những vấn đề đặt ra: Xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam là gì? Xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam như thế nào? Để trả lời và làm rõ hai câu hỏi trên, trong thời gian
tới, công tác tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
cần quan tâm làm sáng tỏ một số vấn đề sau: Chủ nghĩa xã hội là tất yếu trong sự
phát triển của nhân loại nhưng không phải là cái đương nhiên có, thụ động ngồi chờ
mà phải thông qua sự nỗ lực hoạt động thực tiễn của Đảng, nhân dân ta để hiện thực
hóa mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội là một trình độ mới trong sự phát
triển của nhân loại, nó khơng có mơ hình, con đường có sẵn mà địi hỏi Đảng ta, trên
cơ sở những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh phải
khơng ngừng sáng tạo, bám sát thực tiễn của đất nước và thời đại để xây dựng chủ
nghĩa xã hội, đồng thời hoàn thiện lý luận về chủ nghĩa xã hội. Cần nhận thức rõ
ràng rằng, xây dựng chủ nghĩa xã hội có tính lịch sử, cụ thể; tùy từng giai đoạn nhất
định mà xác định nội dung, phương thức phù hợp; thoát ly điều kiện thực tế, chủ
nghĩa xã hội sẽ rơi vào ảo tưởng, chủ quan, duy ý chí - đây là điều đã từng diễn ra
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội tại một số quốc gia, dân tộc./.


13

13



×