Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Tieu luận môn KT chính trị ảnh hưởng của chính sách tiền tệ với vấn đề ổn định kinh tế vĩ mô ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.91 KB, 15 trang )

MỞ ĐẦU
Chính sách kinh tế vĩ mơ là các chính sách kinh tế nhằm mục đích ổn định
kinh tế vĩ mơ và đạt trạng thái tồn dụng lao động. Hai chính sách kinh tế vĩ mơ
quan trọng là chính sách tài chính và chính sách tiền tệ. Có thể có một số chính
sách kinh tế khác cũng có tác động tới kinh tế vĩ mơ, như chính sách thương mại
(quota, thuế quan) song mục đích chính của chúng khơng phải là ổn định kinh tế vĩ
mơ.
Do đó, để đạt được các mục tiêu về tăng trưởng và phát triển kinh tế, các
quốc gia đều phải sử dụng các công cụ chính sách kinh tế vĩ mơ như chính sách
tài khố, chính sách thu nhập, chính sách kinh tế đối ngoại và chính sách tiền
tệ. Thơng qua việc sử dụng, điều hành các công cụ này sẽ tác động đến các
mục tiêu như tăng trưởng, lạm phát, việc làm… Như vậy, Chính sách tiền tệ đóng
vai trị là một bộ phận quan trọng và khơng thể thiếu trong hệ thống chính sách
kinh tế vĩ mơ cũng như trong q trình điều hành vĩ mô của Nhà nước.
Hiện nay, Việt Nam đã khá thành công trong việc điều hành linh hoạt các
công cụ chính sách kinh tế vĩ mơ, nhất là chính sách tiền tệ, nhằm ngăn chặn đà
suy giảm kinh tế, giữ ổn định hệ thống tài chính - tín dụng - ngân hàng và phục vụ
các mục tiêu an sinh - xã hội. Xuất phát từ thực tiễn trên tôi đã chọn “Ảnh hưởng
của chính sách tiền tệ với vấn đề ổn định kinh tế vĩ mô ở nước ta hiện nay” làm
bài thu hoạch hết môn.


NỘI DUNG
1. Khái quát về chính sách tiền tệ
1.1. Khái niệm chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ là tập hợp các quyết định của ngân hàng trung ương về
mức cung ứng tiền tệ nhằm kiềm chế lạm phát và kích thích tăng trưởng.
Cơ sở của tiền tệ là nhà nước có thể can thiệp vào q trình cung ứng tiền ra
kênh lưu thơng, qua đó tác động đến mức giá chung và hành vi của các chủ thể
tham gia thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, tiền là đơn vị quy ước phản ánh mức giá tương


đối giữa các hàng hóa với nhau. Nếu mức giá tương đối này bị rối loạn thì các chủ
thể kinh tế, nhất là người kinh doanh không thể hoạch định kế hoạch sản xuất, kinh
doanh của họ một cách chủ động, không hoạch tốn được lỗ, lãi, do đó khơng
muốn đầu tư vì mức độ rủi ro cao. Để hỗ trợ hoạt động kinh doanh, nhà nước thông
qua ngân hàng trung ương của nước đó, có thể điều tiết lượng tiền tín dụng cung
ứng bởi ngân hàng thương mại, qua đó duy trì lạm phát ở mức vừa. Với mức lạm
phát vừa phải và được kiễm sốt, nhà đầu tư có thể chỉ số hóa tỷ lệ lạm phát vào
giá bán hàng hóa, do đó có thể thích nghi với lạm phát.
Mặc dù về tổng thể, chính sách tiền tệ có ảnh hưởng đến mọi chủ thể trong
nền kinh tế, nhưng đối tượng chụi tác động trực tiếp và nhiều nhất của chính sách
tiền tệ là các ngân hàng thương mại. Trong trường hợp chính sách tiền tệ gây khó
khăn cho hoạt động tìm kiếm lợi nhuận của ngân hàng thương mại thì có thể nảy
sinh những phản ứng trái chiều của ngân hàng thương mại.
Mục tiêu hàng đầu của chính sách tiền tệ là kiểm sốt lạm phát, hỗ trợ chính
sách tài khóa trong khắc phục các dao động của chu kỳ kinh doanh. Ngồi ra, chính
sách tiền tệ, nếu điều hành tốt có thể tạo mơi trường khuyến khích đầu tư, thúc đẩy
tăng trưởng.
1.2. Đặc điểm của chính sách tiền tệ
So với các chính sách vĩ mơ khác, chính sách tiền tệ có một số đặc điểm đặc
thù sau:


Thứ nhất, chính sách tiền tệ được tổ chức và thực hiện chỉ bởi ngân hàng
trung ương (Việt Nam là Ngân hàng Nhà nước) dựa trên những thông tin về thị
trường mà ngân hàng trung ương nắm được. Vì thế việc hoạch định chính sách tiền
tệ nhanh và linh hoạt hơn chính sách tài khóa và chính sách thương mại, chính sách
đầu tư.
Thứ hai, chính sách tiền tệ có bộ cơng cụ đa dạng nên có thể hỗ trợ lẫn nhau
nhằm mục tiêu, nhất là mục tiêu kiềm chế lạm phát. So với chính sách tài khóa, tác
động của chính sách tiền tệ tới lạm phát nhanh hơn, hiệu quả cao hơn.

Thứ ba, chính sách tiền tệ chủ yếu tác động vào hoạt động các tổ chức tín
dụng nên khơng gặp nhiều khó khăn, mâu thuẫn trong q trình hoạch định như
chính sách tài khóa. Diện tác động của chính sách tiền tệ khá hẹp, thời gian tác
động ngắn hơn các chính sách kinh tế vĩ mơ khác.
1.2. Các cơng cụ chủ yếu của chính sách tiền tệ
Để thực hiện chính sách tiền tệ theo các mục tiêu đã xác định trong từng thời
kỳ, Ngân hàng Trung ương (NHTW) sử dụng một số cơng cụ chính sách tiền tệ
nhằm tác động đến khối lượng tiền trong lưu thông và lãi suất (chi phí) vay vốn.
Cơng cụ chính sách tiền tệ là các hoạt động được thực hiện trực tiếp bởi NHTW
nhằm tác động trực tiếp tới các mục tiêu hoạt động, qua đó ảnh hưởng trực tiếp
hoặc gián tiếp tới mục tiêu trung gian, từ đó đạt được các mục tiêu cuối cùng của
chính sách tiền tệ.
Đây là nhóm cơng cụ tác động trước hết vào các mục tiêu hoạt động của
chính sách tiền tệ như lãi suất thị trường liên ngân hàng, dự trữ không vay, dự trữ
đi vay… và thông qua cơ chế thị trường mà tác động này truyền tới các mục tiêu
trung gian là khối lượng tiền cung ứng và lãi suất. Nhóm cơng cụ này bao gồm:
Dự trữ bắt buộc
Dự trữ bắt buộc (DTBB) là số tiền mà các NHTM buộc phải duy trì trên một
tài khoản tiền gửi tại NHTW trong một thời kỳ nhất định. Dự trữ bắt buộc
được NHTW quy định đối với từng loại tiền gửi cấu thành nên nguồn vốn
hoạt động của một ngân hàng. Tỷ lệ Dự trữ bắt buộc do NHTW quy định và được


xác định bằng một tỷ lệ % nhất định trên tổng số dư tiền gửi của khách hàng
tại NHTM. Tỷ lệ Dự trữ bắt buộc được áp dụng có phân biệt đối với các loại tiền
gửi có thời hạn khác nhau, quy mơ và tính chất hoạt động của NHTM.
Dự trữ bắt buộc tác động tới cung ứng tiền tệ bằng cách gây ra thay đổi số
nhân cung ứng tiền tệ (số nhân đơn cung ứng tiền tệ = 1/tỷ lệ DTBB). Tỷ lệ Dự trữ
bắt buộc tăng lên sẽ làm giảm số tiền gửi được nâng đơn bởi một mức nhất định
của cơ số tiền tệ và dẫn đến việc thu hẹp cung ứng tiền. Mặt khác, tỷ lệ Dự trữ bắt

buộc giảm xuống sẽ dẫn đến một sự tăng lên của cung ứng tiền tệ do việc tạo thêm
tiền gửi gấp nhiều lần. Việc quy định tỷ lệ Dự trữ bắt buộc do NHTW quyết định
tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể của nền kinh tế.
Chính sách chiết khấu
Chiết khấu là một trong những hình thức cho vay của NHTW đối với
các NHTM. Khi cấp một khoản tín dụng cho NHTM, một mặt NHTW đã làm tăng
lượng tiền cung ứng, mặt khác tạo cơ sở cho các NHTM tạo bút tệ cũng như khai
thông được năng lực thanh tốn của họ.
Chính sách chiết khấu bao gồm các quy định về hạn mức chiết khấu, lãi suất
chiết khấu và điều kiện cho vay của NHTW đối với các ngân hàng. NHTW cho
vay ngắn hạn trên cơ sở chiết khấu các chứng từ có giá của ngân hàng. NHTW
kiểm sốt công cụ này chủ yếu bằng cách tác động tới giá cả khoản vay thông qua
lãi suất chiết khấu căn cứ vào mục tiêu của chính sách tiền tệ là thắt chặt hay nới
lỏng, từ đó tác động tới lượng tiền trong lưu thông.
Sự thay đổi về lãi suất chiết khấu được xem là một dấu hiệu thông báo của
NHTW trong định hướng thực hiện chính sách tiền tệ. Các tuyên bố của NHTW
về chiều hướng biến động lãi suất chiết khấu (tăng lên hoặc giảm xuống) có
tác dụng hướng dẫn hành vi của thị trường theo định hướng chính sách tiền tệ.
Nghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động NHTW mua, bán GTCG như
tín phiếu kho bạc, trái phiếu Chính phủ, tín phiếu NHTW, chứng chỉ tiền gửi…trên


thị trường tiền tệ nhằm làm thay đổi cơ số tiền tệ mà đặc biệt là tiền dự trữ trong hệ
thống ngân hàng, qua đó tác động đến khối lượng tiền cung ứng.
Do vậy, thị trường này có khả năng tiếp nhận được một lượng rất lớn
nghiệp vụ của NHTW mà không làm cho giá cả biến động mạnh.
Nghiệp vụ thị trường mở là cơng cụ chính sách tiền tệ quan trọng của
NHTW. Nghiệp vụ này là yếu tố quyết định quan trọng nhất đối với những thay
đổi trong cơ số tiền tệ và đó cũng là nguồn gốc chính gây nên những biến

động trong cung ứng tiền tệ. Nghiệp vụ thị trường mở là một trong những cửa ngõ
quan trọng để NHTW sử dụng công cụ thị trường mở để điều chỉnh lượng tiền
cung ứng trong lưu thông thông qua việc mua hay bán các các loại GTCG. Qua
nghiệp vụ mua bán này NHTW làm tăng hay giảm dự trữ của các NHTM, tác
động đến khả năng tín dụng của các ngân hàng này và từ đó làm tăng hay
giảm lượng tiền cung ứng.
Các công cụ bổ trợ
Bên cạnh những cơng cụ chủ yếu nêu trên thì NHTW cịn sử dụng các cơng
cụ bổ trợ để thực hiện chính sách tiền tệ.
+ Lãi suất
Lãi suất được xem là một cơng cụ gián tiếp thực hiện chính sách tiền tệ
trong điều khiển mức cung ứng tiền cho nền kinh tế, bởi lẽ lãi suất không trực tiếp
làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ trong lưu thông. Sự biến động của lãi suất
có thể kích thích hoặc kìm hãm sản xuất. Do vậy, lãi suất là một công cụ
quan trọng của NHTW trong thực hiện chính sách tiền tệ.
Thơng qua chính sách chiết khấu đối với các ngân hàng, NHTW thực hiện
quản lý gián tiếp lãi suất cho vay của các ngân hàng đối với nền kinh tế. Khi muốn
điều chỉnh lãi suất của các ngân hàng, NHTW điều chỉnh các lãi suất của mình, từ
đó tác động đến lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng, cuối cùng sẽ tác
động đến lãi suất huy động, cho vay của các ngân hàng. Ngồi ra, NHTW có thể
quản lý trực tiếp lãi suất của các TCTD đối với nền kinh tế thông qua quy định các
mức lãi suất cụ thể về cho vay và huy động. Tuy nhiên, hình thức quản lý trực tiếp


lãi suất này chỉ phù hợp tại các nước có hệ thống tài chính tiền tệ chưa phát triển và
xu hướng chung là giảm dần sự quản lý trực tiếp này.
+ Hạn mức tín dụng
Hạn mức tín dụng là một trong những công cụ can thiệp trực tiếp
của NHTW để khống chế mức tăng khối lượng tín dụng của hệ thống tổ chức
tín dụng cung ứng cho nền kinh tế đảm bảo mức tăng trưởng của tổng phương tiện

thanh toán theo mục tiêu đề ra. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà NHTW
buộc các ngân hàng phải tơn trọng khi cấp tín dụng cho nền kinh tế.
Mức dư nợ quy định cho từng ngân hàng căn cứ vào đặc điểm kinh doanh
của ngân hàng, trong định hướng cơ cấu kinh tế và trong giới hạn tổng dư nợ
tín dụng dự tính của tồn bộ nền kinh tế trong một thời gian xác định. Hạn mức tín
dụng được sử dụng để khống chế tổng dư nợ tín dụng, qua đó khống chế tổng
lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế. Do vậy cơ chế tác động của nó mang tính áp
đặt của NHTW đối với hệ thống ngân hàng.
+ Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là tương quan giữa sức mua của đồng nội tệ và đồng ngoại
tệ, hay có thể nói là giá cả của đồng tiền này đo bằng một đồng tiền khác. Tỷ
giá vừa phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa biểu hiện quan hệ cung cầu ngoại
tệ. Đến lượt mình, tỷ giá hối đối là cơng cụ, là địn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ,
có tác động mạnh mẽ đến xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong
nước. Chính sách tỷ giá tác động nhạy bén và mạnh mẽ đến sản xuất, xuất nhập
khẩu hàng hoá, tình trạng tài chính tiền tệ, cán cân thanh tốn quốc tế, vốn đầu tư
và dự trữ của quốc gia.
Về thực chất thì tỷ giá khơng phải là cơng cụ chính sách tiền tệ bởi lẽ tỷ giá
khơng làm tăng giảm khối lượng tiền trong lưu thơng, mà chỉ góp phần thay đổi
cơ cấu khối lượng tiền. Tuy nhiên tại nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia
có nền kinh tế đang phát triển, có mức độ đơla hố cao, thì tỷ giá được xem là một
cơng cụ bổ trợ quan trọng cho điều hành chính sách tiền tệ.


2. Chính sách tiền tệ với vấn đề ổn định kinh tế vi mô ở nước ta hiện nay
2.1. Những tác động tích cực đến ổn định kinh tế vĩ mơ
Thực hiện Nghị quyết 01/NQ-CP của Chính phủ (ngày 7/1/2016) về những
nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2016, Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) đã ban hành Chỉ thị số 01/CT-NHNN về tổ chức thực hiện chính sách tiền

tệ (CSTT) và đảm bảo hoạt động ngân hàng an toàn, hiệu quả năm 2016.
Theo đó, CSTT trong năm 2016 tiếp tục được điều hành theo hướng chủ
động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế
vĩ mơ khác nhằm kiểm sốt lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mơ, góp phần hỗ trợ tăng
trưởng kinh tế, duy trì ổn định thị trường tiền tệ. Cụ thể:
Về chính sách lãi suất, NHNN chủ trương điều hành lãi suất theo hướng hài
hòa với diễn biến lạm phát, tình hình kinh tế vĩ mơ và diễn biến thị trường tiền tệ,
ngoại hối và cân đối lợi ích giữa ngân hàng- người gửi tiền – người vay, góp phần
ổn định thị trường tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
Trong năm 2016, lãi suất đã được duy trì ở mức ổn định để phục vụ mục
đích hỗ trợ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp (DN). Từ cuối tháng 5/2016,
NHNN đã chỉ đạo các tổ chức tín dụng (TCTD) thực hiện các biện pháp cân đối
giữa nguồn vốn và sử dụng vốn duy trì ổn định lãi suất huy động, tiết giảm chi phí
hoạt động, nâng cao hiệu quả kinh doanh để có điều kiện giảm lãi suất cho vay.
Cùng với đó, NHNN đã ban hành Thơng tư 06/2016/TT-NHNN ngày
27/5/2016 điều chỉnh tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn giảm dần
theo lộ trình nhằm hạn chế rủi ro thanh khoản (Quy định có hiệu lực từ ngày
1/1/2017). Hệ thống ngân hàng và các DN bất động sản có gần một năm để điều
chỉnh, thực hiện theo quy định đã góp phần hỗ trợ giảm áp lực lãi suất cho các
TCTD.
Về chính sách tín dụng, NHNN điều hành chính sách tín dụng theo hướng
mở rộng nhằm tăng nguồn cung ứng vốn ra nền kinh tế, hỗ trợ sản xuất kinh doanh
và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tập trung vào triển khai có hiệu quả các chương


trình tín dụng đối với ngành, lĩnh vực, tín dụng chính sách theo chủ trương của
Chính phủ.
Trong năm 2016, chính sách tín dụng được điều hành theo hướng: (i) Khống
chế trần lãi suất cho vay với nông nghiệp nông thôn; xuất khẩu; công nghiệp hỗ
trợ; DN nhỏ và vừa; công nghệ cao (hiện ở mức 7%/năm); (ii) Giảm tỷ lệ dự trữ

bắt buộc và công cụ tái cấp vốn để hướng dịng vốn tín dụng vào nơng nghiệp
(Thơng tư 20/TT-NHNN, ngày 29/09/2010); (iii) Kết hợp chính sách tín dụng của
ngân hàng với chính sách tài khóa trong hỗ trợ lãi suất giảm tổn thất sau thu hoạch,
với mức hỗ trợ 100% hoặc 50% theo thời gian vay phù hợp...
Về chính sách tỷ giá hối đoái, ngay từ đầu năm 2016, NHNN đã ban hành
chính sách điều hành tỷ giá mới theo hướng linh hoạt nhằm đáp ứng những yêu cầu
từ bối cảnh thương mại và đầu tư quốc tế, tăng cường ký kết các hiệp định thương
mại tự do.
Điểm mới trong điều hành chính sách tỷ giá hối đối này là tỷ giá trung tâm
được NHNN công bố hàng ngày, vào trước phiên giao dịch, dựa trên cơ sở tham
chiếu 3 yếu tố: (i) Diễn biến tỷ giá bình quân gia quyền trên thị trường ngoại tệ liên
ngân hàng; (ii) Diễn biến của đồng USD và một số đồng ngoại tệ trên thị trường
quốc tế; (iii) Các cân đối kinh tế vĩ mô, tiền tệ, mục tiêu điều hành CSTT và chính
sách kinh tế vĩ mơ.
Với những định hướng điều hành chính sách như trên, CSTT đã phối hợp
chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mơ trong việc góp
phần bảo đảm tăng trưởng cung tiền hợp lý, giữ ổn định mặt bằng lãi suất trên thị
trường, ổn định tỷ giá, ổn định thanh khoản, kiểm soát lạm phát đồng thời đạt mức
tăng trưởng tín dụng theo mục tiêu đề ra.
Những tác động tích cực của CSTT đến ổn định kinh tế vĩ mô được thể hiện
trên các khía cạnh sau:
Thứ nhất, lãi suất được duy trì khá ổn định trong năm 2016 và hầu như
không xảy ra biến động lớn. Lãi suất huy động mặc dù trải qua đợt tăng lãi suất
nhẹ trong tháng 9/2016 từ các ngân hàng nhỏ (Ngân hàng Bản Việt, Ngân hàng


Việt Á, Ngân hàng Phương Đông, Ngân hàng Quốc dân) và đợt giảm lãi suất nhẹ
từ các ngân hàng lớn trong tháng 10 (VPBank, Vietcombank), nhưng nhìn chung,
mặt bằng lãi suất huy động vẫn được giữ ổn định ở mức 6,5% cho kỳ hạn 1 năm và
7,2% cho kỳ hạn trên 1 năm.

Mặc dù có áp lực tăng lãi suất nhưng với việc thực hiện linh hoạt các giải
pháp điều hành của NHNN, mặt bằng lãi suất huy động được giữ ổn định, qua đó
giảm sức ép lên lãi suất cho vay trong điều kiện lạm phát có xu hướng tăng.
Cụ thể, NHNN đã duy trì ổn định các mức lãi suất điều hành, thông qua điều
hành cung tiền hợp lý, linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở, tái cấp vốn với thời hạn
và khối lượng hợp lý để hỗ trợ thanh khoản cho các TCTD, thực hiện mua ngoại tệ
khi thuận lợi, qua đó duy trì dư thừa thanh khoản của hệ thống, đưa mặt bằng lãi
suất liên ngân hàng ở mức thấp, tạo điều kiện cho các TCTD giữ ổn định lãi suất
huy động và giảm lãi suất cho vay khi có điều kiện.
Thêm vào đó, việc mở lại tín dụng ngoại tệ cho DN xuất khẩu, thêm nguồn
tín dụng ngoại tệ, cung vốn chi phí thấp cũng tạo điều kiện để giảm bớt áp lực dồn
vay VND, thêm thuận lợi để có thể giảm lãi suất cho vay nói chung. Mặt bằng lãi
suất cho vay đã hạ vào tháng 5/2016, giảm từ 8,15% xuống 8,02%/năm cho các
khoản vay ngắn hạn, giảm từ 10,2% xuống 10,1% bình quân cho các khoản vay
trung và dài hạn, sau đó tiếp tục được duy trì ổn định đến cuối năm 2016.
Lãi suất liên ngân hàng trong năm 2016 nhìn chung thấp hơn nhiều so với
năm 2015, mặt bằng lãi suất liên ngân hàng giảm mạnh kể từ tháng 4/2016 (từ mức
4,13%) và chỉ đến tháng 11/2016 mới có xu hướng tăng trở lại, từ mức 1,18% lên
mức 3,42% trong tháng 12, do nhu cầu vay vốn trong nền kinh tế thường tăng cao
vào dịp cuối năm. Bên cạnh đó, hoạt động trên thị trường mở OMO kể từ tháng 5
bắt đầu trầm lắng, chỉ đến tháng 12/2016, NHNN mới có động thái bơm rịng tổng
cộng 53.286 tỷ đồng.
Qua đó, có thể thấy thanh khoản của hệ thống rất dồi dào trong cả năm 2016.
Khi tình hình thanh khoản của các ngân hàng chịu áp lực sụt giảm vào những tháng
cuối năm, NHNN đã điều hịa vốn linh hoạt thơng qua thị trường mở và kênh tín


phiếu, với việc phát hành tín phiếu kỳ hạn dài ngày hơn nhằm đảm bảo tính thanh
khoản cho hệ thống. Thanh khoản của hệ thống các TCTD tiếp tục được đảm bảo,
thị trường liên ngân hàng hoạt động thông suốt.

Thứ hai, tăng trưởng tín dụng ở mức hợp lý, đạt 18,71% (tính đến cuối tháng
11/2016) so với cuối năm 2015. Cơ cấu tín dụng chuyển dịch theo hướng tích cực,
tập trung vốn cho lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Cụ thể khoảng 80% vốn tín dụng
đã và đang được đưa vào sản xuất kinh doanh, đặc biệt là cho các lĩnh vực ưu tiên
để hỗ trợ tốt hơn cho nền kinh tế).
Tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động có xu hướng giảm từ mức
87,9% cuối năm 2015 xuống 86,35% nhưng vẫn cao hơn mức an toàn theo quy
định của NHNN (80%). Tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động gián đoạn
liên tục trong 10 tháng đầu năm 2016 cho thấy, thanh khoản của hệ thống tăng lên.
Thứ ba, tổng phương tiện thanh toán và tăng trưởng huy động đã lần lượt
tăng 17,88% và 18,38%. Tổng phương tiện thanh toán đã tăng cao hơn cùng kỳ
nhưng chưa tạo sức ép đến lạm phát. Lạm phát cơ bản ổn định, chỉ số giá tiêu dùng
(CPI) tăng nhanh chủ yếu do điều chỉnh tăng giá các mặt hàng Nhà nước quản lý.
Lạm phát cơ bản ở mức 1,83% cho thấy, NHNN đã điều tiết lượng tiền tệ một cách
hợp lý để kiểm soát được mức lạm phát theo mục tiêu đặt ra cho năm 2016.
Thứ tư, tỷ giá USD/VND khơng có nhiều biến động lớn và được duy trì ổn
định trong năm 2016 (Hình 2). Tỷ giá VND/USD liên tục duy trì được diễn biến ổn
định do nhận được sự hỗ trợ của các yếu tố như: (i) Cơ chế tỷ giá trung tâm và các
công cụ điều tiết thị trường ngoại hối đang dần phát huy được hiệu quả, hạn chế
hành vi đầu cơ, găm giữ ngoại tệ; (ii) Nguồn cung ngoại tệ tương đối dồi dào do
cán cân thương mại tiếp tục thặng dư, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng
trưởng khả quan; (iii) Đồng USD trên thị trường quốc tế có xu hướng giảm giá
trong bối cảnh Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ (FED) liên tiếp đưa ra thông điệp trì
hỗn việc tăng lãi suất; (iv) Hầu hết các đồng tiền trong rổ tính tỷ giá trung tâm của
NHNN đều lên giá so với đồng USD đã giúp giải tỏa sức ép lên tỷ giá VND/USD.


Sự ổn định của tỷ giá trong 10 tháng đầu năm đã giúp NHNN tích trữ được
một lượng ngoại hối lên tới 40 tỷ USD. Ngoài ra, tỷ giá ổn định cũng giúp giảm
tình trạng đơla hóa, tỷ lệ USD trên tổng phương tiện thanh tốn (M2) giảm xuống

cịn 10%, tương đương mức đơla hóa nhẹ theo tiêu chuẩn của Quỹ Tiền tệ Quốc tế
(IMF). Cách thức điều hành tỷ giá mới linh hoạt hơn đã giúp cho tỷ giá biến động
hàng ngày theo kịp với những diễn biến trên thị trường trong nước và quốc tế.
2.2. Một số vấn đề đặt ra
Thứ nhất, tăng trưởng tín dụng các tháng trong năm 2016 đều tăng chậm hơn
so với tăng trưởng huy động, xu hướng này ngược với xu hướng của năm 2015.
Điều này cho thấy, hệ thống ngân hàng còn gặp nhiều khó khăn, với tình hình kinh
doanh của hệ thống ngân hàng trong thời gian tới sẽ chịu các áp lực không nhỏ.
Thứ hai, việc phối hợp CSTT và chính sách tài khóa tuy đã đạt những kết
quả nhất định nhưng vẫn tồn tại một số hạn chế: (i) Việc phối hợp mới hướng đến
từng mục tiêu kinh tế vĩ mơ ưu tiên trong từng thời điểm, chưa có sự phối hợp để
giải quyết đồng bộ tất cả các mục tiêu vĩ mô; (ii) Chưa xây dựng được cơ sở khoa
học trong việc quyết định lựa chọn CSTT hay chính sách tài khóa là cơng cụ sẽ
phát huy được tác động nhiều nhất đến tổng cầu, cũng như chưa có cơ sở xác định
liều lượng tác động của từng công cụ đến tổng cầu bao nhiêu là hợp lý trong từng
bối cảnh kinh tế cụ thể.
Thứ ba, việc vẫn duy trì trần lãi suất huy động và cho vay trong năm 2016
đã can thiệp vào sự vận hành của thị trường, gây trở ngại cho công việc giám sát
cũng như tạo ra nhiều rủi ro, ảnh hưởng đến ổn định kinh tế vĩ mô. Lãi suất cơ bản
chưa thể hiện rõ tính định hướng thị trường, cịn mang nặng tính hình thức, chưa
phản ánh đầy đủ mối quan hệ cung - cầu về vốn.
Mặc dù Luật NHNN Việt Nam năm 2010 (Điều 12) quy định lãi suất cơ bản
được sử dụng nhằm điều hành CSTT nhưng trên thực tế hầu như không được sử
dụng. Năm 2016, trong bối cảnh áp lực lạm phát tăng cao hơn 2015 cả về lạm phát
tiền tệ (tăng phương tiện thanh toán và nới lỏng tín dụng), lạm phát chi phí đẩy


(tăng lương, giá dịch vụ công…) và lạm phát cầu kéo, trần lãi suất đồng nội tệ
không thay đổi và trần lãi suất tiền gửi USD vẫn được giữ ở mức 0%.
Trong khi CSTT được điều chỉnh linh hoạt qua các chu kỳ nới lỏng và thắt

chặt, đồng thời, lãi suất kinh doanh của các TCTD cũng đã thay đổi khá nhiều,
nhưng lãi suất cơ bản vẫn giữ nguyên mức 9%/năm từ năm 2010 đến nay.
Thứ tư, nợ xấu chưa được xử lý triệt để, rủi ro nợ xấu rất có thể sẽ tăng trở
lại nếu như q trình cơ cấu lại nợ xấu không phát huy tác dụng trong những năm
tới. Mặc dù NHNN công bố nợ xấu trong tồn hệ thống giảm xuống dưới 3% tổng
dư nợ tính tới cuối năm 2016, theo đúng yêu cầu mà Chính phủ đã đặt ra nhưng kết
quả này là do: (i) Tổng tín dụng tăng trong năm 2016; (ii) Nợ xấu chuyển sang
Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC).
Tuy nhiên, chất lượng xử lý nợ xấu vẫn còn nhiều hạn chế, VAMC chưa giải
quyết dứt điểm được nợ xấu đã mua, bởi thị trường mua bán nợ xấu còn chưa đi
vào hoạt động và còn vướng mắc trong hàng lang pháp lý để vận hành thị trường.
Thêm vào đó, nguồn nhân lực và tài chính thực để xử lý nợ xấu cịn hạn chế.
2.3. Một số giải pháp
Chính sách tiền tệ quốc gia 5 năm tới (2016 - 2020) sẽ bám sát và hỗ trợ
thực hiện các mục tiêu mà Đại hội XII của Đảng đã xác định, trong đó các giải
pháp được nhấn mạnh là:
Thứ nhất, theo dõi sát diễn biến kinh tế vĩ mô, thị trường tiền tệ, tăng cường
công tác phân tích, thống kê, dự báo để kịp thời hoạch định, điều hành chính sách
tiền tệ linh hoạt.
Thứ hai, chủ động phối hợp đồng bộ các cơng cụ chính sách tiền tệ theo
phương châm nâng cao vị thế đồng Việt Nam trong quan hệ với các đồng tiền khác.
Thứ ba, kiểm sốt quy mơ tín dụng phù hpwj với định hướng phát triển đi
đơi với đảm bảo an tồn, hiệu quả.
Thứ tư, triển khai mạnh công tác thông tin, truyền thông để các chủ thể kinh
tế nắm được các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ và phối hợp cho tốt.


Thứ năm, điều hành tỷ giá hối đoái theo tỷ giá trung tâm. Ngân hàng Nhà
nước sẽ công bố tỷ giá này hằng ngày với biến động theo cả hai chiều lên xuống để
phản ánh sát hơn diễn biến của thị trường trong và ngoài nước nhằm hạn chế

những cú sốc từ bên ngoài, cũng như loại bỏ dần tâm lý găm giữ, đầu cơ trên thị
trường ngoại tệ. Tiếp tục giảm tình trạng đơ la hóa, vàng hóa trong nền kinh tế, đẩy
mạnh thanh tốn khơng dung tiền mặt.
Thứ sáu, tăng cường phối hợp các chính sách vĩ mơ khác, đặc biệt là chính
sách tài khóa để chủ động kịp thời trong điều hành chính sách tiền tệ.


KẾT LUẬN
Sự phát triển các cơng cụ chính sách tiền tệ là một q trình phức tạp thường
địi hỏi một thời gian khá dài để hoàn thành. Nhưng các vấn đề liên quan đến chính
sách tiền tệ hiếm khi được giải quyết triệt để, đặc biệt đối với nền kinh tế đang
trong quá trình chuyển đổi như Việt Nam. Sự đan xen phức tạp của chính sách tiền
tệ với các chính sách kinh tế vĩ mơ khác trong bối cảnh nền kinh tế đang khó khăn
hơn trước có thể đưa đến những thay đổi về ngắn hạn kèm theo những thoả hiệp
nhân nhượng tình thế trong điều hành chính sách. Tuy nhiên về trung, dài hạn, mục
tiêu cuối cùng và mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ vãn phải được tuân thủ
nghiêm ngặt. Đặc biệt là việc hoàn thiện chính sách tiền tệ sẽ lệ thuộc nhiều vào
khả năng tiếp cận và vân dụng hệ thống các công cụ thực thi chính sách tiền tệ của
NHNN, gắn liền với quá trình tiếp tục đẩy mạnh, đổi mới, hiện đại hố cơng nghệ
ngân hàng hiện nay.
Cùng với những khó khăn hiện nay, chính sách tiền tệ ở Việt Nam còn đứng
trước thử thách ngày càng gia tăng với nguy cơ tụt hậu trước một thế giới đang
bước vào thời kỳ tăng trưởng nhanh. Do đó, chính sách tiền tệ phải đảm bảo đạt
được những ưu việt nhất định để giải quyết mối tương quan giữa mục tiêu ổn định
và tăng trưởng, xây dựng một nền kinh tế phát triển cao, lâu bền.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Vinh Danh, “Tiền tệ và hoạt động của ngân hàng”, Nhà xuất bản Giao
thông - Vận tải, H, 2009.

2. Giáo trình Cao cấp Lý luận Chính trị, Quản lý kinh tế, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, H, 2018.
3. Luật Ngân sách nhà nước 1996, 2002, 2015.
4. Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, 2016.
5. Luật Thương mại năm 2015.
6. Luật Đầu tư năm 2005, 2014.
7. Nguyễn Thế Thọ, “Công cụ tài chính trong nền kinh tế thị trường”, Nhà
xuất bản Thống kê, 1993.
8. TS. Lê Thị Thúy Vân, “Chính sách tiền tệ với vấn đề ổn định kinh tế vĩ
mô”, Tạp chí tài chính kỳ 1+2/2017.
9. Văn kiện Đại hội tồn quốc Đảng cộng sản lần thứ XI,XII phần về chính
sách kinh tế.
10. www.luanvan.net.



×