Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Tiểu luận môn TT HCM Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng cầm quyền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.47 KB, 17 trang )

MỞ ĐẦU
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm xây dựng và củng cố
Đảng, coi đó là nhiệm vụ quan trọng của Đảng và mỗi đảng viên chân chính. Quan
điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng một Đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh
đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ trong mỗi giai đoạn cách mạng là rất cần thiết.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng và xây dựng Đảng cầm quyền là sự kế thừa,
vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin. Tư tưởng của Hồ Chí
Minh về Đảng cầm quyền có sự phát triển so với quan điểm của chủ nghĩa MácLênin đó là “Đảng của giai cấp”, “Đảng của cả dân tộc”, “Đảng của toàn dân”,
“Đảng ở trong xã hội”, “Đảng do nhân dân tham gia quá trình tổ chức, kiểm tra,
giám sát…”.
Xây dựng Đảng cầm quyền là một vấn đề rất rộng lớn, có ý nghĩa quan
trọng, rất khó khăn và phức tạp. “Đảng cầm quyền” là khái niệm dùng trong khoa
học chính trị, chỉ một đảng chính trị đại diện cho một giai cấp đang nắm giữ và
lãnh đạo chính quyền để điều hành, quản lý đất nước nhằm phục vụ lợi ích của giai
cấp mình.
Bài thu hoạch này đề cập đến vấn đề: “Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây
dựng Đảng cầm quyền”.

1


NỘI DUNG
1- Khái niệm Đảng cầm quyền
C.Mác và Ph.Ăngghen là những người đầu tiên xây dựng học thuyết về
Đảng Cộng sản trong những năm nửa đầu thế kỷ XIX. Tuy nhiên, trong thời kỳ của
C.Mác và Ph.Ăngghen chưa có một đảng nào lãnh đạo nhân dân giành được chính
quyền. Do đó, vấn đề đảng trong điều kiện lãnh đạo chính quyền xây dựng xã hội
mới - xã hội chủ nghĩa chưa được các ông nghiên cứu nhiều. Sự ra đời của Đảng
Bơnsêvích Nga (đảng kiểu mới của giai cấp cơng nhân) và việc thành lập Quốc tế
III là sự thể hiện tư tưởng của Lênin về học thuyết Đảng Cộng sản.
Khái niệm “đảng cầm quyền” được dùng ở các nước tư bản chủ nghĩa và các


nước xã hội chủ nghĩa. Các nước tư bản chủ nghĩa, khái niệm này đùng để chỉ một
đảng hay một liên minh chính trị gồm nhiều đảng đã nắm được chính quyền, điều
hành đất nước trong nhiệm kỳ hiện tại của quốc hội, nhiệm kỳ của tổng thống. Với
các nước xã hội chủ nghĩa, khái niệm này được dùng trong thời kỳ từ khi Đảng
Cộng sản đã giành được chính quyền, nắm chính quyền, lãnh đạo nhân dân thực
hiện nhiệm vụ, mục tiêu chính trị. Như vậy, đảng cầm quyền là đảng giành chiến
thắng trong các cuộc bầu cử dân chủ và cạnh tranh. Từ đó, đảng thành lập chính
phủ đưa ra các quyết định chính sách đại diện cho nhân dân.
Ngay từ trước Cách mạng tháng Mười Nga (năm 1917), Lênin nói rằng
Đảng Bơnsêvích Nga bất cứ lúc nào cũng sẵn sàng đứng ra nắm chính quyền. Sau
Cách mạng Tháng Mười Nga, Đảng Bơnsêvích, sau đó là Đảng Cộng sản Liên Xơ
trở thành đảng cầm quyền đã có những đóng góp hết sức to lớn cho sự nghiệp cách
mạng của nhân dân Liên Xô và nhân dân thế giới. Lênin lần đầu tiên đã đưa ra khái
niệm “Đảng Cộng sản cầm quyền” vào ngày 27/3/1922 trong Báo cáo chính trị của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Nga và nhận định ở nước Nga chỉ có
“đảng cầm quyền duy nhất”

2


Ở Việt Nam, sau cách mạng tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng
thuật ngữ này để nói về vai trò cầm quyền của Đảng như “Đảng giành được chính
quyền”, ”Đảng nắm chính quyền”, ”Đảng cầm quyền”. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã viết “Đảng ta là một Đảng cầm quyền”. Những khái niệm này cũng
đã được ghi trong các văn kiện của Đảng ta khi đề cập đến vai trò của Đảng đối với
xã hội từ sau khi có chính quyền cách mạng. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam
được Đại hội toàn quốc lần thứ X, XI, XII thơng qua có ghi “Đảng Cộng sản Việt
Nam là đảng cầm quyền”.
Với các Đảng Cộng sản cầm quyền, thuật ngữ Đảng Cộng sản dùng để chỉ
các đảng Cộng sản ở những nước có duy nhất một đảng cầm quyền, nắm chính

quyền lãnh đạo mọi mặt trong đời sống xã hội. Đảng cầm quyền có nghĩa là đảng
phải chịu trách nhiệm trước nhân dân, trước dân tộc. Điều mà Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã từng nói, Đảng chẳng những phải lo những việc to lớn như việc biến đổi
kinh tế và văn hóa mà cịn cịn phải lo đến những việc nhỏ nhặt “tương cà, mắm
muối” là những thứ cần thiết cho đời sống thường nhật của nhân dân. Đảng đại
diện lợi ích của giai cấp cơng nhân, cho toàn thể nhân dân lao động, trở thành đội
tiên phong chính trị của cả dân tộc. Đảng ln giữ được bản chất cách mạng và
khoa học, có phương thức lãnh đạo đúng đắn.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã giữ vững được nguyên tắc xây dựng đảng của
các nhà nhà sáng lập chủ nghĩa cộng sản, vận dụng sáng tạo, kế thừa có chọn lọc
học thuyết của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Đảng là một tổ chức của những người tự nguyện cùng chung một chí hướng
đấu tranh cho lợi ích của một giai cấp hoặc một tầng lớp nhất định. Ở các nước
phương Tây, thuật ngữ “đảng cầm quyền”, “đảng chấp chính”, “đảng nắm chính
quyền” đã được dùng từ lâu, dùng để chỉ rõ vai trò, vị thế của một đảng khi đã có
chính quyền. Đảng cầm quyền có nghĩa là đảng lãnh đạo chính quyền, chi phối
chính quyền, làm cho mọi hoạt động của chính quyền thể hiện tư tưởng, đường lối

3


của đảng đó, phù hợp với lập trường và phục vụ cho lợi ích của giai cấp, tầng lớp
mà đảng đó đại diện.
2- Nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng trước và sau khi giành
chính quyền
Sự lãnh đạo của Đảng khi đã có chính quyền khác rất nhiều so với khi chưa
có chính quyền. Trước khi có chính quyền, phương thức lãnh đạo của Đảng chủ
yếu là do các tổ chức Đảng và cán bộ, đảng viên trực tiếp tuyên truyền, phổ biến
đến các hội, đoàn thể nhân dân, đến các quần chúng “cốt cán” của Đảng, thậm chí
đến từng người dân, từ đó tổ chức nhân dân thực hiện. Khi đó, quan hệ giữa Đảng

với nhân dân là quan hệ máu thịt, mọi sự xa rời nhân dân đều dẫn đến tổn thất cho
cách mạng, cho tổ chức đảng. Lúc này, trong Đảng khơng có điều kiện để phát sinh
tệ tham nhũng quan liêu, ức hiếp quần chúng.
Khi Đảng đã giành được chính quyền thì chính quyền là công cụ mạnh mẽ,
sắc bén nhất để đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng vào cuộc sống,
bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội. Đảng lãnh đạo chính quyền
(Nhà nước) thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng thành Hiến
pháp, pháp luật, kế hoạch và tổ chức thực hiện. Lúc này, Đảng lãnh đạo chính
quyền và thơng qua chính quyền để nhân dân làm chủ đất nước, làm chủ xã hội.
Ðối với Ðảng Cộng sản Việt Nam, vấn đề chính quyền đã được giải quyết
thông qua con đường cách mạng, phù hợp với những điều kiện lịch sử của đất
nước. Trước kia, khi đất nước cịn chìm đắm trong ách nơ lệ thì nhiệm vụ hàng đầu
của Ðảng là lãnh đạo nhân dân làm cách mạng lật đổ ách thống trị của chủ nghĩa
thực dân phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân. Nhưng đến khi đã giành
chính quyền thì trọng trách của Ðảng là lãnh đạo gìn giữ chính quyền, bảo vệ Tổ
quốc, làm cho chính quyền ấy thực hiện tốt các nhiệm vụ của cách mạng, vì lợi ích
của Tổ quốc, của nhân dân.
Đảng cầm quyền là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội; theo Chủ
tịch Hồ Chí Minh, Đảng là đầy tớ của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến
4


pháp và pháp luật. Quyền của Đảng là ở chỗ xác định cho được đường lối, chủ
trương, chính sách đúng đắn, lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và tổ chức nhân dân thực hiện. Đồng thời Đảng phải
chịu trách nhiệm trước nhân dân về mọi đường lối, chủ trương, chính sách đã đề ra.
Với tư cách một lãnh tụ của Đảng, Hồ Chí Minh khơng bao giờ qn nhắc nhở cán
bộ đảng viên phải nhớ đến trách nhiệm của một Đảng cầm quyền. Người luôn chú
ý giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên và tồn Đảng nói chung về trách nhiệm của
Đảng đối với nhân dân, đối với Nhà nước của dân cũng như đối với toàn dân tộc.

Cho đến cuối đời, trong Di chúc, Người vẫn không quên nhắc lại: “Đảng ta là một
Đảng cầm quyền”.
3- Bản chất của Đảng cầm quyền
Các văn kiện của Hội nghị hợp nhất Đảng 2/1930, Hồ Chí Minh khẳng định
“Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp” (Sách lược vắn tắt), “là đội tiên
phong của đạo qn vơ sản” (Chương trình tóm tắt). Đảng Cộng sản Việt Nam
mang bản chất của giai cấp cơng nhân, có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng đi
đến thắng lợi cuối cùng. Hồ Chí Minh nhận thức, giai cấp công nhân là giai cấp
tiên tiến nhất trong sức sản xuất, gánh trách nhiệm đánh đổ chế độ tư bản và đế
quốc, để xây dựng một xã hội mới, giai cấp cơng nhân có thể thấm nhuần một tư
tưởng cách mạng nhất, tức là chủ nghĩa Mác-Lênin. Vì vậy, “về mặt chính trị, tư
tưởng, tổ chức và hành động, giai cấp công nhân đều giữ vai trị lãnh đạo”. Bản
chất giai cấp cơng nhân của Đảng thể hiện nền tảng tư tưởng, đường lối, nguyên
tắc tổ chức của Đảng kiểu mới, ở thực tiễn đấu tranh cách mạng của Đảng.
Trong “Chương trình tóm tắt của Đảng” thông qua hội nghị hợp nhất Đảng
ngày 3/2/1930, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết “Khơng bao giờ Đảng lại hy sinh
quyền lợi của giai cấp công nhân và nông dân cho một giai cấp khác”. Chỉ mang
bản chất giai cấp cơng nhân thì Đảng mới đủ khả năng để đảm đương sứ mệnh lớn
mà giai cấp công nhân và dân tộc giao phó.

5


Hồ Chí Minh ln nhấn mạnh: Những người cộng sản chúng ta không một
phút nào được quên lý tưởng cao cả của mình là phấn đấu cho Tổ quốc hồn toàn
độc lập, cho chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta và trên thế giới.
Trong Di chúc, Người vẫn không quên căn dặn: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền.
Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần
kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng là
người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Theo Hồ Chí

Minh, cái quyền mà Đảng có được, là do dân, nhờ dân và của dân, cho nên, cầm
quyền là công bộc thực sự của nhân dân. Hơn nữa, Hồ Chí Minh cịn địi hỏi Đảng
phải “là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
Ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ Cộng hịa ra đời, Hồ Chí Minh đã
cùng với Đảng bắt tay ngay vào việc xây dựng Nhà nước kiểu mới ở nước ta, với
một hệ thống chính quyền từ Trung ương đến cơ sở. Đó là Nhà nước dân chủ nhân
dân, đại biểu cho mọi giai tầng xã hội, trước hết là công nhân, nông dân, những
người lao động chân tay và trí óc là những giai tầng chiếm tuyệt đại đa số trong
dân tộc. Cùng với việc xây dựng bộ máy Nhà nước kiểu mới và ban hành Hiến
pháp, pháp luật, Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn quan tâm đến việc xây dựng cách lãnh
đạo mới của Đảng và cách làm việc mới của cán bộ, đảng viên trong điều kiện
Đảng cầm quyền.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Đảng Cộng sảng Đông Dương (từ
tháng 2 năm 1951 là Đảng Lao động Việt Nam và từ tháng 12 năm 1976 là Đảng
Cộng sản Việt Nam) đã trở thành Đảng cầm quyền. Đảng cầm quyền, khơng chỉ
lãnh đạo chính quyền, mà cịn lãnh đạo tồn xã hội. Vì vậy, Điều 4 của Hiến pháp
năm 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã khẳng định vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với toàn xã hội.
Đảng ta đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam qua 2 thời kỳ: từ năm 1930 đến
năm l945 là thời kỳ chưa giành được chính quyền; từ năm 1945 đến nay là thời kỳ
Đảng lãnh đạo nhân dân xóa bỏ được chính quyền thực dân phong kiến để xây
6


dựng chính quyền nhân dân, từ đó trở thành đảng cầm quyền. Đảng cầm quyền là
để chỉ vai trò của Đảng khi đã giành được chính quyền, cũng có nghĩa là Đảng lãnh
đạo khi đã có chính quyền, lãnh đạo tồn xã hội bằng chính quyền, thơng qua
chính quyền và các đoàn thể nhân dân
Năm 1947, trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
từng nhắc nhở “Ðảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm

trịn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung
sướng”.
Năm 1953, trong thư gửi Lớp chỉnh Ðảng Liên khu 5, Hồ Chí Minh đã dặn
dị “Mục đích chỉnh Ðảng là để dùi mài cán bộ và đảng viên thành những chiến sĩ
xứng đáng là người đầy tớ của nhân dân”.
Năm 1960, trong bài nói tại lễ kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập Ðảng, Người
nhấn mạnh: “Ðảng ta vĩ đại, vì ngồi lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân
tộc, Ðảng ta khơng có lợi ích gì khác”.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đảng cầm quyền thì vấn đề quan trọng nhất là
phải xác định cho được đường lối đúng đắn để phục hưng và phát triển đất nước,
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Để có được đường lối đúng đắn, Đảng phải
nâng cao trình độ lý luận, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin để
tìm ra quy luật phát triển của cách mạng nước ta. Đặc biệt, Người đã chỉ rõ phải
căn cứ vào thực tiễn Việt Nam vận dụng lập trường, quan điểm, phương pháp của
chủ nghĩa Mác-Lênin nhằm giải quyết những vấn đề mà thực tiễn Việt Nam đang
đặt ra. Do đó, nếu chúng ta có làm khác Liên Xơ, Trung Quốc nhưng đem lại lợi
ích cho dân cho nước thì như vậy cũng là mácxít. Đó là những chỉ dẫn hết sức
quan trọng định hướng cho tư duy lãnh đạo của Đảng trong mọi thời kỳ cách
mạng.
4- Nhiệm vụ, mục đích của Đảng cầm quyền
- Nhiệm vụ của Đảng cầm quyền là tổ chức, quản lý đất nước, bảo vệ lợi ích
cho nhân dân. Lênin chỉ rõ nhiệm vụ trọng yếu của Đảng Bơnsêvích Nga sau khi
7


giành được chính quyền là “tổ chức, quản lý nước Nga”. Khi Đảng lên cầm quyền,
thì Hồ Chí Minh cần phải giải quyết đồng bộ, thống nhất giữa kinh tế - chính trị,
văn hóa - xã hội. Vì thế, năm đầu tiên giành được chính quyền, Hồ Chí Minh đã
chỉ đạo hoạt động của bộ máy chính quyền “việc gì có lợi cho nhân dân phải hết
sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”. Hồ Chí Minh đã chỉ ra quy luật

xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, là xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới,
con người mới và nền văn hóa mới có quan hệ biện chứng.
Đảng phải thường xuyên chỉnh huấn về tư tưởng, chỉnh huấn về tổ chức để
tăng cường sức mạnh của Đảng, đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ mới. Hồ Chí Minh
chỉ rõ: Là một Đảng lãnh đạo, Đảng ta cần mạnh mẽ, trong sạch kiểu mẫu. Tồn
Đảng phải tư tưởng nhất trí, hành động nhất trí, đồn kết nhất trí mới làm trịn
nhiệm vụ của Đảng.
Xây dựng hệ thống chính trị, kiện tồn bộ máy nhà nước là nhiệm vụ quan
trọng của Đảng cầm quyền. Lênin nói: giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền
càng khó hơn. Theo Hồ Chí Minh, giành chính quyền bằng bạo lực cách mạng của
quần chúng, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, chính trị đi trước
một bước để làm cơ sở cho việc hình thành lực lượng vũ trang. Đi từ khởi nghĩa
từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Phương pháp xây dựng
chính quyền của Hồ Chí Minh ln diễn ra rất sớm, có cơ sở pháp lý.
- Mục đích chỉnh Đảng là nâng cao tư tưởng và trình độ chính trị của đảng
viên và cán bộ, làm cho đảng viên và cán bộ theo đúng quan điểm và lập trường
vô sản. “Nếu chúng ta chỉnh Đảng thành cơng thì nó sẽ khuyếch trương những
thắng lợi về quân sự, chính trị, kinh tế…Chỉnh Đảng phải có trọng tâm: Chỉnh đốn
tư tưởng rồi mới chỉnh đốn tổ chức. Chỉnh huấn cán bộ rồi mới chỉnh huấn tồn thể
đảng viên”. Cơng cụ chỉnh đốn để chỉnh đốn tư tưởng và tổ chức là tự phê bình và
phê bình. Người cách mạng càng phải kiên quyết thực hành tự phê bình, nếu khơng
thì khơng xứng đáng là người cách mạng. Mục đích của tự phê bình và phê bình là

8


đoàn kết nội bộ từ trên xuống dưới, làm cho công việc tiến bộ hơn, thắt chặt mối
quan hệ giữa Đảng, chính phủ và nhân dân, sửa chữa những sai lầm khuyết điểm.
Theo Hồ Chí Minh, mỗi bước chuyển của cách mạng đều phải tiến hành
chỉnh đốn Đảng, nhờ vậy mà Đảng ta đã không ngừng lớn mạnh, xứng đáng với

niềm tin cậy của nhân dân.
Ngày nay, Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng cầm quyền nhận thức rõ trách
nhiệm của mình trước dân tộc, trước đất nước để đề ra đường lối xây dựng và phát
triển đất nước, phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị, của tồn xã hội từ đó xác
định đúng nội dung và phương thức hoạt động của Đảng, phát huy mặt tích cực,
khắc phục hạn chế khó khăn, ngăn ngừa và khắc phục những nguy cơ của một
đảng cầm quyền.
5- Quan điểm Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền
5.1- Giữ vững lập trường, tư tưởng của giai cấp công nhân trong xây
dựng đường lối, chiến lược và sách lược
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời trong một quốc gia thuộc địa, nửa phong
kiến, nên ít nhiều bị ảnh hưởng bởi những tàn dư phong kiến, đó là tâm lý tiểu
nơng, chủ nghĩa cá nhân...Với thành công của Cách mạng Tháng Tám 1945, Đảng
ta trở thành Đảng cầm quyền. Do đa số đảng viên xuất thân từ cơng nhân, nơng dân
nên trình độ văn hố và lý luận nói chung cịn nhiều hạn chế. Trước tình hình đó,
Hồ Chí Minh nêu rõ, phải chỉnh huấn, chỉnh đốn lại nội bộ Đảng, để cán bộ trong
Đảng hiểu rõ lợi ích của Đảng ln gắn với lợi ích của nhân dân lao động và của cả
dân tộc, hiểu rõ hơn nhiệm vụ của chính mình; làm cho cán bộ ngoài Đảng hiểu và
tin Đảng hơn trước, thơng qua đó để xây dựng một Đảng cầm quyền trong sạch,
vững mạnh. Để bảo đảm đề ra được đường lối, quyết sách đúng đắn, xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, đem lại cuộc sống ấm no và
hạnh phúc cho nhân dân, thì Đảng cần phải thường xuyên tăng cường xây dựng,
củng cố và chỉnh đốn Đảng trên tất cả các mặt tư tưởng, chính trị và tổ chức, khơng
ngừng nâng cao trình độ lý luận của Đảng.
9


Kế thừa và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể ở
Việt Nam, ngay từ năm 1927, trong tác phẩm Đường cách mệnh, Người dẫn luận
điểm của Lênin: “Khơng có lý luận cách mệnh thì khơng có cách mệnh vận động...

chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền phong, đảng cách mệnh mới làm nổi trách
nhiệm cách mệnh tiền phong”, đó là một trong những nguyên tắc quan trọng trong
công tác xây dựng Đảng. Năm 1960, trong tác phẩm Ba mươi năm hoạt động của
Đảng, Hồ Chí Minh khẳng định bài học kinh nghiệm lớn đưa cách mạng Việt Nam
thành công là do “Đảng ta luôn đứng vững trên lập trường giai cấp vô sản, tuyệt
đối trung thành với lợi ích của giai cấp và của nhân dân, biết vận dụng lý luận
Mác-Lênin vào tình hình thực tế của nước ta và đề ra đường lối, chính sách đúng
đắn”.
Theo Hồ Chí Minh, để xây dựng một đảng cầm quyền trong sạch, vững
mạnh, trước hết, cần phải nhất quán sự lựa chọn và khẳng định hệ tư tưởng, thế
giới quan và mục tiêu cần hướng tới của Đảng trong tồn bộ q trình lãnh đạo
cách mạng, trong đó, mục tiêu này thống nhất với mục tiêu của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và của cả dân tộc. Thứ hai, nhận thức sâu sắc, đầy đủ việc xây
dựng và bảo vệ hệ tư tưởng của Đảng chính là bảo vệ những nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác-Lênin, vận dụng sáng tạo những nguyên lý này vào tình hình cụ thể
của đất nước, làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin thấm sâu vào từng đảng viên, tổ chức
cơ sở đảng, thực sự là cơ sở tư tưởng cho hành động. Thứ ba, xác định rõ những
nhận thức, quan điểm lệch lạc, sai trái, để đấu tranh bảo vệ hệ tư tưởng, trong xây
dựng đường lối, chiến lược và sách lược của Đảng, qua đó từng bước nâng cao
nhận thức, củng cố vững chắc quan điểm, lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị,
phương pháp đấu tranh cho đội ngũ đảng viên và các tổ chức đảng. Thứ tư, thực
hiện tốt phê và tự phê bình trong học tập lý luận chính trị của đảng viên; chỉnh
Đảng, chỉnh huấn để giáo dục, nâng cao nhận thức cho đảng viên. Cần gắn học tập
lý luận và chính trị trong mối quan hệ với nguyên tắc phê và tự phê để tìm ra
phương hướng, biện pháp và cách thức hiệu quả để tiếp tục học tập tốt hơn nữa.
10


5.2- Xây dựng tổ chức, bộ máy của Đảng đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ
trong mỗi giai đoạn cách mạng

Xây dựng tổ chức, bộ máy của một chính đảng vô sản kiểu mới luôn là một
nội dung quan trọng trong cả lý luận và thực tiễn công tác xây dựng Đảng. Kế thừa
và phát triển sáng tạo tư tưởng của các nhà kinh điển Mác-Lênin về xây dựng tổ
chức bộ máy của Đảng trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng
định vai trị quan trọng của tổ chức bộ máy của Đảng, coi đây là cơ sở quan trọng
để thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng. Theo Người, việc xây dựng tổ
chức bộ máy của Đảng cần:
- Thứ nhất, mục tiêu của việc xây dựng, kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng
là vì lợi ích của nhân dân.
Điều này xuất phát từ chính bản chất của một Đảng Mác-Lênin chân chính.
Lợi ích của nhân dân, dân tộc là mục tiêu cao nhất, là ước vọng phấn đấu của mỗi
đảng viên chân chính cũng như của tồn Đảng. Ngồi lợi ích của dân tộc, Tổ quốc
và nhân dân, thì Đảng khơng có bất kỳ một lợi ích nào khác, bởi lẽ, Đảng là một tổ
chức xuất phát từ dân, vì dân mà được tổ chức ra, đó “khơng phải là một tổ chức để
làm quan phát tài. Nó phải làm trịn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc
giàu mạnh, đồng bào sung sướng”.
- Thứ hai, việc xây dựng, kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng phải giữ gìn
sự thống nhất của Đảng, bảo đảm sự đoàn kết trong nội bộ Đảng.
Giữ gìn sự thống nhất của Đảng là một trong những nguyên tắc cơ bản trong
công tác xây dựng Đảng. Sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng cần phải được giữ
gìn “như con ngươi của mắt. Phải hết lịng tôn trọng tập thể, phát huy dân chủ nội
bộ; tuyệt đối khơng được độc đốn cá nhân, tự đặt mình cao hơn tổ chức...”.
- Thứ ba, thực hiện tốt nguyên tắc “dân chủ tập trung” trong xây dựng và
kiện toàn bộ máy tổ chức của Đảng. Thực hiện nghiêm kỷ luật của Đảng.
Điều này đã được Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng tổ chức theo nguyên
tắc dân chủ tập trung. Nghĩa là: có đảng chương thống nhất, kỷ luật thống nhất, cơ
11


quan lãnh đạo thống nhất. Cá nhân phải phục tùng đồn thể, số ít phải phục tùng số

nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung ương”.
Do vậy, Đảng cần phải “giữ vững chế độ dân chủ tập trung. Phải luôn luôn chỉnh
đốn tổ chức, loại bỏ những phần tử xấu ra khỏi Đảng. Phải bồi dưỡng, lựa chọn và
dùng cán bộ một cách đúng đắn”.
Như vậy, trong xây dựng và kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng cần giữ
vững nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện nghiêm kỷ luật của Đảng, thể hiện ở
các điểm sau:
- Đảng lãnh đạo thống nhất công tác cán bộ.
- Xây dựng tổ chức, lựa chọn cán bộ cần tập trung trí tuệ của nhiều người,
quyết định theo đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên.
- Thực hiện dân chủ tập trung trong tuyển chọn, bố trí, sử dụng cán bộ, trong
chỉnh đốn tổ chức của Đảng.
- Dựa vào nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Đảng.
- Thứ tư, chỉnh đốn, kiện toàn bộ máy của Đảng từ trên xuống dưới một
cách gọn gàng, hợp lý. Nhiệm vụ của mỗi bộ phận, mỗi người phải được quy định
rõ ràng, được thường xuyên đôn đốc, kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện. Kiện toàn tổ
chức, bộ máy của Đảng cần được thực hiện một cách thận trọng, vững chắc, tránh
nóng vội; thực hiện rộng rãi trong quần chúng để huy động được tối đa những cá
nhân tích cực, nhiệt tình cách mạng trong bộ máy của Đảng.
Xây dựng Đảng không chỉ là công việc của Đảng, của đảng viên mà cũng là
của toàn dân, bởi lẽ, Đảng do dân, vì dân mà được tổ chức ra, hoạt động vì lợi ích
của dân, ngược lại, dân là gốc rễ của Đảng. Nhân dân giúp xây dựng Đảng bằng
nhiều cách, như: nhận thức để hiểu rõ Đảng, mục tiêu của Đảng; tích cực hưởng
ứng những lời kêu gọi của Đảng, ủng hộ Đảng; đóng góp ý kiến cho Đảng về xây
dựng tổ chức, đội ngũ cán bộ; giúp Đảng hiểu rõ tình hình thực tế và nguyện vọng
của nhân dân để ra chính sách đúng, kịp thời,...

12



5.3- Xây dựng đội ngũ cán bộ vừa hồng, vừa chuyên, đáp ứng yêu cầu
của tình hình mới
Đã là Đảng cầm quyền bao giờ cũng phải giải quyết hai vấn đề quan trọng,
đó là xác định đúng đắn đường lối chính trị và xây dựng đội ngũ cán bộ. Hồ Chí
Minh đặc biệt coi trọng cơng tác cán bộ của Đảng, coi đó là một nội dung quan
trọng trong xây dựng bộ máy, tổ chức của Đảng và Nhà nước. Người nhấn mạnh:
“Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, và “muôn việc thành công hoặc thất bại,
đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Do vậy, Người luôn quan tâm sâu sắc đến việc xây
dựng đội ngũ cán bộ vừa hồng, vừa chuyên cả ở tầm lý luận và hoạt động thực
tiễn. Đây là một quá trình vừa cấp bách, vừa lâu dài, với những nội dung hết sức
phong phú, đa dạng, từ tuyển chọn cán bộ, đến đào tạo, bố trí, sử dụng, đánh giá và
đãi ngộ cán bộ.
- Thứ nhất, về tuyển chọn cán bộ của Đảng.
Theo Hồ Chí Minh, người cán bộ mẫu mực cần được tuyển chọn là những
người có những đặc điểm cơ bản sau:
1. Đêm ngày nghĩ đến sự nghiệp cách mạng và cứu độ nhân loại. Hy sinh
tiền bạc, thời gian và cả máu vì lợi ích các dân tộc bị áp bức; tóm lại, phải vị tha và
khơng ích kỷ, phải tuân thủ theo phương châm "TỔ QUỐC TRÊN HẾT” ở mọi nơi
và mọi lúc.
2. Làm việc không mệt mỏi tuỳ theo phương tiện và năng lực của mình.
Xem thường cái chết, bất chấp hiểm nguy.
3. Thuận theo hoàn cảnh về thời gian, khơng gian, khơng bỏ qua điều gì;
ln ln nói và hành động một cách có ý thức. Suy nghĩ kỹ càng trước khi hành
động.
4. Lãnh đạo, hướng dẫn, giáo dục nhân dân, tạo sự tin cậy từ nhân dân để có
thể sử dụng sức mạnh của nhân dân cho sự nghiệp cách mạng.

13



5. Xem thường danh vị, ngôi thứ và tiền bạc; khơng cục bộ, khơng kiêu
ngạo, kiên trì và nhẫn nại. Thực sự khiêm tốn, khoan hoà, lượng thứ đối với đồng
nghiệp và nhân dân(7).
- Thứ hai, về đào tạo cán bộ của Đảng.
Đào tạo cán bộ cần thực hiện một cách tổng hợp, từ đào tạo văn hoá, kiến
thức chuyên mơn, nghiệp vụ đến lý luận, chính trị; tức là tạo cho được một đội ngũ
cán bộ “vừa hồng, vừa chuyên”. Theo đó, nội dung đào tạo cần xuất phát từ u
cầu thực tế, thiết thực, khơng phơ trương, hình thức; cần: “Mở lớp nào cho ra lớp
ấy. Lựa chọn người dạy và người đến học cho cẩn thận. Đừng mở lớp lung tung” (8);
và việc học tập cần học một cách cặn kẽ, thấu đáo, cụ thể và sâu sắc đến tận bản
chất của vấn đề.
Song, để thực hiện tốt đào tạo cán bộ thì khâu lựa chọn người dạy và học
cần hết sức kỹ càng; tổ chức lớp học cần phù hợp với yêu cầu thực tiễn; phương
pháp dạy và học cần khoa học. Đối với người dạy thì, người dạy nghề nào phải tinh
thơng nghề đó, ln trau dồi nghề đó. Người đào tạo về lý luận cần phải thông
suốt, nắm vững các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối cách
mạng của Đảng, kiên định mục tiêu, lý tưởng của Đảng; có tư cách đạo đức cách
mạng, hết lịng vì Đảng, vì Tổ quốc và nhân dân. Đối với người học, thì phương
thức tự học, tự đào tạo cần được coi là phương thức chính để tu dưỡng đạo đức
cách mạng, cũng như để đạt được mục đích học tập.
Về nội dung đào tạo, theo Hồ Chí Minh, do cách mạng là một công việc to
lớn, nên nội dung đào tạo hết sức phong phú, song cũng cần hết sức thiết thực, bao
gồm 3 nội dung chính:
+ Đào tạo lý luận: Trước hết cần làm cho cán bộ nhận thức rõ tầm quan
trọng của lý luận và việc đào tạo, huấn luyện về lý luận cho cán bộ, đảng viên.
Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Hồ Chí Minh khẳng định: “khơng có lý luận
cách mạng thì cũng khơng thể có phong trào cách mạng”, do đó, cần đào tạo lý

14



luận cho cán bộ, đảng viên để giải quyết tốt yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng và
thực tế của Đảng; gắn học tập lý luận với liên hệ thực tiễn, vì hoạt động thực tiễn.
+ Đào tạo chun mơn cần căn cứ vào đối tượng, nhu cầu và nhiệm vụ
chuyên môn của từng loại cán bộ; bảo đảm mỗi cán bộ đều phải chuyên sâu một
nghề. Theo Người, để việc đào tạo chuyên môn được tốt, cần đào tạo văn hố,
nâng cao trình độ học vấn của cán bộ, vì đây là cơ sở quan trọng để có thể tiếp tục
đào tạo lý luận, chuyên môn và nghiệp vụ. Việc tổ chức đào tạo chuyên môn cần
dựa trên cơ sở “phải theo trình độ văn hố cao hay thấp mà đặt lớp, chứ không theo
cấp bậc cán bộ cao hay thấp”, để việc học tập có hiệu quả, tránh chênh lệch trình
độ. Người yêu cầu, mọi cán bộ, đảng viên đều phải nghiên cứu, học tập chủ nghĩa
Mác - Lênin, đường lối, chính sách của Đảng, văn hố, kỹ thuật, lao động sản
xuất…
+ Đào tạo chính trị với hai nội dung huấn luyện thời sự và huấn luyện chính
sách. Theo Hồ Chí Minh, nếu cán bộ chỉ có văn hố, giỏi chun mơn, mà thiếu
hoặc khơng có hiểu biết về chính trị, hay hiểu biết chính trị khơng đầy đủ, thì chưa
đủ, như một mắt mở, một mắt nhắm và do đó khó có thể hồn thành tốt nhiệm vụ
cách mạng giao.
Hồ Chí Minh cịn cho rằng, cơng tác đào tạo cán bộ cần phải giúp người học
nhận thức rõ phương châm, phương pháp và cách thức học tập. Đó là:
Thực hiện học tập suốt đời, lấy tự học làm cốt. Nghĩa là, mỗi cán bộ, đảng viên cần
không ngừng học tập, nâng cao trình độ hiểu biết về mọi mặt, rèn luyện tư duy độc
lập và sáng tạo, cải tiến phương pháp, xây dựng tác phong làm việc khoa học,
nhằm nâng cao chất lượng cơng việc của mình tuỳ theo mỗi vị trí đảm nhiệm trong
bộ máy Đảng, Nhà nước. Cán bộ cần phải học tập, tu dưỡng khơng ngừng, và “chỉ
có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ” và “lấy tự học làm cốt”.
Thực hiện học tập mọi lúc, mọi nơi với những hình thức phù hợp, trong đó
học tập trong thực tiễn, trong nhân dân là một hình thức quan trọng. Người khẳng
định: “Học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học nhân dân, không học nhân
15



dân là một thiếu sót lớn”. Đồng thời, bảo đảm nguyên tắchọc tập đi đôi với làm
việc nhằm bảo đảm mục tiêu của học tập là phải thiết thực, bổ ích, hiệu quả và sát
thực với công việc của mỗi cán bộ, đảng viên, tránh mọi sự lãng phí vơ ích.
- Thứ ba, về bố trí, sử dụng và đánh giá cán bộ.
Lựa chọn và đào tạo cán bộ đã quan trọng, song bố trí và sử dụng cán bộ lại
càng quan trọng. Hồ Chí Minh cho rằng, “dụng nhân như dụng mộc”, tránh dùng
cán bộ “một bề”, và phải khéo dùng cán bộ. Vì, nếu “Tài to ta dùng làm việc to, tài
nhỏ ta cắt làm việc nhỏ, ai có năng lực về việc gì, ta đặt ngay vào việc ấy. Biết
dùng người như vậy, ta sẽ không lo gì thiếu cán bộ”; và “bất kỳ ai, có khả năng, đủ
tiêu chuẩn, cần cho nhu cầu của cách mạng là phải dùng”. Người còn khẳng định,
“Đảng ta phải khéo kết hợp cán bộ già với cán bộ trẻ. Không nên coi thường cán
bộ trẻ”.
Trong xem xét, đánh giá cán bộ cần “quyết khơng nên chấp nhất, vì nó cũng
biến hố”, nên cần phải “xét kỹ tồn bộ cơng việc của cán bộ”. Hơn nữa, người
đánh giá cán bộ, cần phải là người trung trực, chí cơng vơ tư, người phải tự biết
mình trước khi biết người, vì “đã khơng tự biết mình thì khó mà biết người, vì vậy
muốn biết đúng sự phải trái ở người ta, thì trước phải biết đúng sự phải trái của
mình. Nếu khơng biết sự phải trái ở mình, thì chắc khơng thể nhận rõ người cán bộ
tốt hay xấu”.

16


KẾT LUẬN
Trong hơn 30 năm đổi mới toàn diện đất nước, bên cạnh những thành tựu to
lớn trên các lĩnh vực mà Đảng và nhân dân ta đã đạt được, xét về chủ quan, Đảng
ta cũng còn một số hạn chế, như tình trạng lạc hậu, yếu kém về lý luận; cơ cấu tổ
chức và bộ máy còn cồng kềnh, năng lực của đội ngũ cán bộ còn những hạn chế

trước yêu cầu của tình hình mới; tình trạng xa dân, quan liêu, tham nhũng cũng là
một vấn nạn trong Đảng. Do vậy, để Đảng trở thành một Đảng cầm quyền trong
sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu của cách mạng trong giai đoạn hiện nay, cần
nghiên cứu, vận dụng sâu sắc hơn nữa tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác xây dựng
Đảng; tiếp tục hồn thiện tổ chức bộ máy của Đảng theo nguyên tắc “tinh giảm,
hiệu quả”; bảo đảm mỗi bộ phận trong hệ thống đáp ứng đầy đủ yêu cầu, nhiệm vụ
của Đảng giao, phù hợp với tình hình thực tế; xây dựng kiện tồn đội ngũ cán bộ
theo hướng vừa “hồng” vừa “chuyên”; giỏi về lý luận, đồng thời tinh thông nghiệp
vụ, kỹ năng đối với từng chức danh, công việc cụ thể. Bổ sung, xây dựng và hoàn
thiện hệ thống quy định về cán bộ cơng chức, từ tuyển chọn, đào tạo, bố trí, sử
dụng, đánh giá, đãi ngộ cán bộ.
Sự lãnh đạo và vai trò cầm quyền của Đảng Cộng sản càng được thử thách
và khẳng định. Trước bối cảnh tình hình quốc tế có nhiều biến động phức tạp khó
lường Đảng ta kiên định mục tiêu cách mạng, tự chủ, sáng tạo, lãnh đạo tồn dân
tiến hành cơng cuộc đổi mới thu được nhiều kết quả, kinh tế khơng ngừng phát
triển, chính trị xã hội ổn định, đối ngoại mở rộng, đời sống nhân dân ngày càng
được cải thiện rõ rệt. Điều đó chứng minh sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết
định tạo ra những thành tựu cho công cuộc đổi mới đất nước./.

17



×