Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI ĐỀ TÀI QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VĂN MINH VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (255.45 KB, 27 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

MÔN LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI
ĐỀ TÀI : QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VĂN MINH VIỆT NAM

GIẢNG VIÊN: PGS.TS. DƯƠNG VĂN HUY
SINH VIÊN: TRẦN TUẤN ANH MSSV:21010309
LỚP : QHS.21.GD2_N4


Tóm tắt
Văn minh Việt Nam là nền văn minh hội tụ nhiều yếu tố của các nền văn
minh khác dựa trên cơ sở của nền văn minh người Việt như văn minh Trung Hoa,
văn minh Ấn độ, văn minh Phương Tây, văn minh Trung Đông… Những nền văn
minh ấy ảnh hưởng trên tất cả các lĩnh vực từ tư tưởng, tơn giáo, văn hóa, nghệ
thuật, chữ viết, lễ hội, trang phục…Bài viết này đã phân tích những nguồn tư liệu,
các cơng trình nghiên cứu của các nhà sử học, ngơn ngữ học, dân tộc học, các kết
quả của các nhà khảo cổ học để chứng minh sự đa dạng trong nền văn minh Việt
Nam dưới sự ảnh hưởng của các nền văn minh khác. Văn minh Việt Nam là sự kết
tinh của các nền văn minh trên thế giới. Nó là cơ sở là tiền đề để Việt Nam có
những phát triển mạnh mẽ hơn nữa trong thế kỷ mới, thời đại mới.
Từ khóa: Văn minh, Việt Nam, Trung Quốc, Ấn Độ, phương Tây, tơn giáo, văn
hóa.

Mở đầu
Khi bàn về vị thế của một quốc gia trên thế giới, nhân dịp Hội nghị Ngoại
giao lần thứ 29 và Ngoại vụ 18 vào tháng 8/2016, ngun Phó thủ tướng nước
Cộng hồ Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam Vũ Khoan đã đưa ra khái niệm “vị thế quốc
tế” bao gồm 5 nhân tố: tự nhiên; lịch sử; kinh tế; quân sự; đường lối chính sách đối
nội và đối ngoại. Như vậy, nước Việt Nam hội tụ đầy đủ các nhân tố đó. Việt Nam


là đất nước có vị trí địa lý – chính trị vơ cùng quan trọng trong khu vực châu Á nói
riêng và cả thế giới nói chung. Về nội lực, Việt Nam xứng đáng với tên gọi quốc
gia gắn liền với “ rừng vàng biển bạc”. Về ngoại lực, Việt Nam là ngã tư của
đường biển, đường hàng không trên thế giới. Chính vì vậy, Việt Nam trở thành đất
nước có ý nghĩa chính trị rất lớn. Các cuộc xung đột, tranh chấp diễn ra suốt từ
những ngày thành lập nhà nước đến cuối thế kỉ XX và kéo dài đến ngày nay trong
vấn đề Biển Đông. Với nhân tố địa chính trị như vậy, trong q trình dựng nước và
giữ nước, Việt Nam cũng đã giao thoa với các nền văn minh khác, tiếp nhận chúng
và tồn tại cho đến ngày nay. Là một người Việt Nam, việc tìm hiểu về lịch sử và
văn minh của đất nước mình xem như là một hành động yêu nước, giúp giữ gìn và
phát huy nền văn minh Việt Nam, như lời của chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy :
Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam.


Giáo sư Olov R.T.Jansé (1895-1985), nhà khảo cổ học nổi tiếng người Thụy
Điển có thời gian làm việc ở Đơng Dương (nước Việt Nam – Lào – Campuchia)
đã viết ra ba quyển sách Khảo cổ học Đơng Dương. Trong đó ông đã đưa ra kết
luận “ Việt Nam – Ngã tư các tộc người và các nền văn minh”. Lịch sử và văn
minh của Việt Nam đã bắt nguồn sâu xa từ hàng vạn năm trước cho đến bây giờ,
quyển sách “Lịch sử Việt Nam, từ nguồn gốc đến thế kỉ XX” của Giáo sư Lê
Thành Khôi là kiệt tác sử học có giá trị tham khảo căn bản khi tìm hiểu về lịch sử
Việt Nam. Cơng trình nghiên cứu này đã mang đến cho người đọc có cái nhìn tổng
quan hơn về Việt Nam từ địa lý, lịch sử, chính trị, kinh tế, sinh học…Từ đó mà ta
có cái nhìn khách quan về văn minh Việt Nam. Cuối cùng GS. Lê Thành Khơi đã
tổng kết ra được chính nhân dân, con người Việt Nam mới là người khai dựng, làm
chủ, tạo nên nền văn minh trên mảnh đất hình chữ “S” này. GS Văn Tạo khi nhắc
đến Việt Nam trong thế giới hơm này nhìn theo chiều sâu văn minh, văn hiến cũng
đã khẳng định: “Văn hoá Việt Nam cịn là một nền văn hố mở. Tuy mang tính bản
địa Lạc – Hồng đặc sắc nhưng khơng đóng kín mà lại rộng rãi giao lưu và hội nhập

được với nhiều nền văn hoá lớn lao trên thế giới từ cổ chí kim như: văn hố Trung
Hoa, Ấn Độ, Nhật, Pháp, Mỹ...”[7].
Trong nghiên cứu này, tác giả đã nghiên cứu theo phương pháp phân tích
định tính với kĩ thuật phân tích tài liệu làm phương pháp chính. Bên cạnh đó tác
giả đã đưa ra các câu hỏi nghiên cứu trong nghiên cứu này là: Tại sao nền văn
minh Việt Nam khơng bị đồng hố bởi nền văn minh Trung Quốc trong 1000 năm
bắc thuộc? Làm thế nào mà con người Việt Nam vẫn giữ gìn được nét riêng văn
hố của bản thân trong những hoàn cảnh như vậy? Liệu văn hố Việt Nam có bị
hồ tan trong thời đại mới hay không? Để trả lời cho những câu hỏi này tác giả đã
khơng phân tích q trình phát triển văn minh Việt Nam theo chiều dài lịch sử mà
phân tích nền văn minh Việt Nam cùng với các nền văn minh ngoài Việt Nam đã
du nhập và để ủng hộ quan điểm của Giáo sư O.Jansé. Bố cục của nghiên cứu được
tác giả chia làm các phần sau : Phần thứ nhất là điều kiện địa lý tự nhiên; Phần thứ
hai là Văn minh Việt Nam – văn minh người Việt; Phần thứ ba là Văn minh Trung
Hoa ảnh hưởng sâu sắc đến Văn minh Việt Nam; Phần thứ tư là ảnh hưởng của
Văn minh Ấn Độ đến với văn minh Việt Nam; Phần thứ năm là ảnh hưởng của văn
minh phương Tây với văn minh Việt Nam; Cuối cùng là ảnh hưởng văn minh
Trung Đông với văn minh Việt Nam.

1. Điều kiện địa lý tự nhiên
Việt Nam- quốc gia thuộc bán đảo Đông Dương, nằm gần trung tâm của khu
vực Đông Nam Á, tiếp giáp với hai khối Ấn Độ và Trung Quốc bởi dãy núi cao đồ


sộ. Vùng đất Việt Nam bao gồm toàn bộ phần đất liền và các hải đảo, có tổng diện
tích là 331212 km2, với đường biên giới dài hơn 4600km và đường bờ biển dài
3260 km. Vùng biển Việt Nam có diện tích khoảng 1 triệu km2 ở biển Đơng bao
gồm: nội thuỷ, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm
lục địa.
Quá trình hình thành và phát triển lãnh thổ Việt Nam là quá trình diễn ra lâu

dài và phức tạp, trải qua cả 3 giai đoạn : Giai đoạn tiền Cambri, giai đoạn Cổ kiến
tạo, giai đoạn Tân kiến tạo. Các đá biến chất cổ nhất được tìm thấy ở Việt Nam là
khu vực Kon Tum, Hoàng Liên Sơn với tuổi khoảng 2.5 tỉ năm. Về cơ bản, đại bộ
phận lãnh thổ Việt Nam hiện nay được hình thành từ khi kết thúc giai đoạn Cổ kiến
tạo cách đây 65 triệu năm.
Việt Nam là một quốc gia nhiều đồi núi, có đến ¾ diện tích lãnh thổ là đồi
núi, trong đó đồng bằng và đồi núi thấp chiếm tới 85% diện tích. Hướng núi chính
gồm hai hướng: tây bắc – đơng nam thể hiện rõ ở khu vực từ hữu ngạn sông Hồng
đến dãy Bạch Mã, hướng vòng cung thể hiện rõ rệt ở vùng núi Đông Bắc và khu
vực Trường Sơn Nam.
Việt Nam có nhiều sơng ngịi, mạng lưới sơng dày đặc. Việt Nam có tới
3260 con sơng dài trên 10 km. Sơng ngịi mang đến lượng nước lớn, đạt tổng là
839 tỉ m3/ năm và mang theo lượng phù sa hằng năm khoảng 200 triệu tấn. Hai hệ
thống sông lớn là hệ thống sông Hồng và hệ thống sông Cửu Long đều bắt nguồn
từ Trung Quốc. kèm với đó là sự bồi lấp tạo nên hai đồng bằng lớn, thuận lợi cho
sự phát triển của nông nghiệp và cư trú của con người, đây cũng là nơi hình thành
nên nền văn minh Việt gốc.
Vị trí địa lý tự nhiên Việt Nam cịn gặp chút khó khăn. Tuy nhiên, nhìn
chung, Việt Nam là quốc gia thích hợp cho việc phát triển nơng nghiệp và là nơi cư
trú tuyệt vời cho nhiều giống loài. Việt Nam, từ xa xưa Việt Nam đã là nơi giao
lưu, trao đổi, giữa các nền văn hoá khác nhau trong khu vực Đông Nam Á, Ấn Độ,
Trung Quốc, Trung Đơng, và các nền văn hố phương Tây sau này.


2. Văn minh Việt Nam – văn minh người Việt
2.1. Việt Nam thời Cộng sản Nguyên thuỷ.
Loài người thuở sơ khai mang những đặc điểm của loài vượn nên chúng ta
thường gọi là Người vượn. Các nhà khảo cổ học đã có những phát hiện khảo cổ ở
các hang Thẩm Khuyên, Thẩm Hai ( Lạng Sơn), hang Hùm (Yên Bái) tìm thấy một
số răng người vượn nằm trong lớp trầm tích. Điều đó đã chứng tỏ, vào thời đồ đá

cũ, con người đã có sự hiện diện ở nhiều nơi trên đất nước Việt Nam vào khoảng
200.000 năm trước.
Để thích nghi với sự biến đổi và phát triển của tự nhiên, lồi Người vượn đã
có những chuyển biến thành Người tinh khơn. Dấu tích người tinh khơn giai đoạn
đầu được tìm thấy ở mái đá Ngườm(Thái Nguyên), Sơn Vi (Phú Thọ), ngồi ra các
nhà khảo cổ cịn phát hiện được những hóa thạch răng của Người tinh khơn ở hang
Thẩm Ồm (Nghệ An), hang Hùm (Yên Bái), Thung Lang (Ninh Bình). Ở Đồi
Thơng (Hà Giang) và Ngườm (Thái Ngun), những công cụ lao động của người
tinh khôn cũng đã được phát hiện. Nổi bật ở Đồi Thông là kĩ nghệ cuội, còn ở
Ngườm là kĩ nghệ mảnh tước. Vào cuối thời kì đá cũ, con người đã hiện diện trên
một vùng địa bàn rộng lớn phía bắc kéo dài từ Sơn La đến tận Quảng Trị, gồm 160
di chỉ đã được phát hiện [4]. Các di tích này được các nhà khảo cổ học gọi bằng
thuật ngữ là Văn hoá Sơn Vi. Con người thời Văn hoá Sơn Vi đã có những bước
phát triển đầu tiên về săn bắt và hái lượm, kĩ thuật chế tác đá cũng có bước phát
triển nhất định. Con người cũng đã di cư từ miền núi xuống đồng bằng. Các thị tộc,
bộ lạc cũng ra đời.
Bước vào thời kì đá mới, những con người của văn hố Sơn Vi trong q
trình lao động đã có những bước phát triển mới, bước sang một giai đoạn mới cao
hơn – Văn hố Hồ Bình – Bắc Sơn. Giai đoạn này, các cơng cụ đã có thêm nhiều
loại hình mới, phong phú, đa dạng và có tác dụng lớn hơn như rùa ngắn, rìu hạnh
nhân, rìu bầu dục. Các hình thái ý thức xã hội cũng đã xuất hiện, tiêu biểu là ý thức
thẩm mỹ. Con người lúc này đã biết làm đồ gốm, các vật trang sức bằng xương, ốc
biển... Từ chỉ có săn bắt và hái lượm, con người lúc này cũng đã biết trồng trọt và
chăn nuôi. Điều này giúp con người dần dần thốt khỏi lệ thuộc hồn tồn vào
thiên nhiên nhờ lượng lương thực tích trữ.
Trên cơ sở của sự phát triển công cụ lao động và các hoạt động tinh thần
ngày càng đa dạng, con người cách đây khoảng 6000 năm đến 5000 năm đã bước


sang một giai đoạn mới – cách mạng đá mới. Con người lúc này đã biết mài nhẵn

cả hai mặt đá. Ngoài ra, con người đã biết dùng các cây như tre, nứa, xương, sừng
để chế tác cung tên, cán cuốc, cán dao…Với những tiến bộ về kĩ thuật, con người
sống trên lãnh thổ Việt Nam bây giờ cũng đã có những bước phát triển mới về địa
bàn. Hoạt động săn bắt hái lượm khơng cịn đóng vai trị chủ đạo. Nền nông nghiệp
trồng lúa đã xuất hiện. Đời sống vật chất và tinh thần của cư dân thời này đã phát
triển rất mạnh mẽ. Xã hội công xã thị tộc mẫu hệ đóng vai trị quan trọng.
Nơng nghiệp trồng trọt phát triển mạnh đóng vai trị ngày càng quan trọng
trong đời sống của con người. Chính vì thế con người dần đần tìm đến các vùng
đồng bằng sơng rộng lớn để định cư. Cuối thời kì đá mới, trên lưu vực sông hồng
các bộ lạc đã phát triển kĩ thuật chế tác ngồi đá cịn có luyện kim đồng thau ở
bước đầu. Mở ra thời đại văn hoá Phùng Ngun. Di chỉ văn hố Phùng Ngun
tìm thấy được ở nhiều nơi thuộc lưu vực sông Hồng nhứ Phú Thọ, Bắc Ninh, Hà
Nội…Phùng Nguyên chính là sự kết nối trung gian giữa thời kì văn hố Hồ Bình
– Bắc Sơn và thời đồng Đơng Sơn. Bên cạnh đó cịn các văn hoá thuộc các bộ lạc
khác trên những lưu vực sông lớn của nước Việt Nam như bộ lạc Hoa Lộc, Cồn
Chân Tiên ở lưu vực sông Mã – sông Chu. Ở lưu vực sông Lam, các nhà khảo cổ
học cũng đã phát hiện ra di tích Đền Đồi thuộc sơ kì thời đại đồng thau. Cùng thời
đó, ở miền nam từ Nam Trung Bộ cũng có sự xuất hiện các nền văn hoá lớn như
văn hoá Tiền Sa Huỳnh, văn hoá Đồng Nai. Cách đây khoảng 4000 năm, các tộc
người ở Sa Huỳnh đã biết luyện kim, khác với văn hố Phùng Ngun, ở đây dân
cư rất ít luyện kim đồng mà thay bằng kĩ thuật luyện kim sắt. các nhà khảo cổ học
đã phát hiện nhiều di tích như Bàu Trám, Bàu Né, Phú Hồ, Long Trạch, Bình
Châu…Cư dân văn hóa Đồng Nai sống bên lưu vực sơng Bé, và vùng đất đỏ
bazan màu mỡ nên thích hợp làm nghề trồng lúa và các cây lương thực khác. Các
trang sức thuỷ tinh cũng xuất hiện ở thời đại này. Nói chung, bước vào thời đại
này, của cải con người tạo ra đã có sự tích trữ nhất định, đời sống vật chất và tinh
thần có bước phát triển mạnh, tín ngưỡng đã hình thành rõ nét, các hình thức tâm
linh ngày càng đa dạng. Chế độ cộng sản ngun thuỷ đang có dấu hiệu bước vào
thời kì tan rã, hình thành một xã hội mới.
2.2 Việt Nam thời kì dựng nước.

Trải qua sự phát triển cơng cụ lao động từ thời đại đồ đá cũ đến thời đại đồ
đồng, trí tuệ con người phát triển khơng ngừng, lượng của cải sản xuất ra tích lũy
ngày càng nhiều, bắt đầu có sự phân hố giàu nghèo giữa các cư dân, thời đại cộng


sản nguyên thuỷ sụp đổ. Các bộ lạc lớn liên kết với nhau tạo ra cộng đồng người
với quy mô lớn hơn. Các hình thức nhà nước đầu tiên ra đời.
Người Việt Nam cho đến bây giờ vẫn lớn lên trong truyền thuyết về “con
Rồng cháu Tiên”. Nhà nước Văn Lang ra đời đánh dấu một bước phát triển mới về
bộ mặt xã hội thời bấy giờ. Đưa đến hình thành một nhà nước chung, một nền văn
hoá, văn minh chung cùng một tổ chức chính trị, xã hội. Người đứng đầu tục xưng
là Hùng Vương. Nhà nước Văn Lang trải qua 18 đời vua Hùng, đóng đơ ở Mê
Linh.
Nhà nước Văn Lang cũng tồn tại trên sử kí trong một số tác phẩm của các
triều đại sau như Việt Nam thế chí của Hồ Tơng Thốc, Lĩnh Nam chích qi của
Trần Thế Pháp, Đại Việt sử kí tồn thư của Ngô Sĩ Liên…Nhiều ý kiến cho rằng
các nhà sử học Việt viết ra để đặt ngang hàng Việt Nam với quốc gia Trung Quốc.
Tuy nhiên, năm 1924, di tích Đông Sơn được phát hiện và sự vào cuộc của
các nhà khảo cổ đã lần nữa khẳng định lại sự tồn tại của nhà nước này. Năm 1934,
nhà khảo cổ học người Áo heine Geldern R,trên cơ sở các di tích khai quật từ năm
1924 trở lại đây đẵ khẳng định sự tồn tại của một nền văn hoá đồng thau phát triển
ở Việt Nam thời bấy giờ, ông đã đề nghị gọi thời kì đó là “Văn hóa Đơng Sơn”.
Tuy nhiên do đặc thù của lúc đó, mãi cho đến khi miền Bắc được hồn tồn giải
phóng (1954) thì công cuộc khảo cổ và nghiên cứu lịch sử về thời đại Văn hố
Đơng Sơn mới được đẩy mạnh và phát triển mạnh mẽ. Lần lượt các cơng trình
nghiên cứu được tun bố như : Văn hóa Đơng sơn hay văn hóa Lạc Việt của tác
giả Đào Duy Anh , Xã hội nước Văn Lang và Âu Lạc của tác giả Văn Tân…
Dưới thời Văn Lang, kinh tế - xã hội đã có những sự chuyển biến mạnh mẽ.
Kĩ thuật luyện kim ngày càng phát triển mạnh mẽ thay thế các cơng cụ bằng đá.
Các cơng cụ tìm thấy chủ yếu là công cụ trồng trọt như lưỡi cuốc,lưỡi cày, thuổng,

xẻng, rìu… Nền kinh tế nơng nghiệp dùng cày là nguồn cung cấp lương thực chính
ni sống con người, trở thành cở sở cho các hoạt động khác. Các nhà khảo cổ học
đã phát hiện được hàng trăm làng cổ, khu mộ cổ, một lượng khổng lồ các di vật
được tìm thấy với nhiều chất liệu khác nhau từ đồ đồng, đồ sắt, đồ gốm. Nghiên
cứu các hiện vật này, nhất là các hiện vật tuỳ táng trong mộ, chúng ta sẽ thấy có sự
phân hố giàu nghèo rõ rệt [6]. Xã hội lúc bây giờ hình thành các tầng lớp khác
nhau. Đứng đầu là tầng lớp quý tộc, bao gồm các tộc trưởng, tù trường, bộ lạc và
những người giàu có khác. Tiếp đến là tầng lớp dân tự do đông đảo. Cuối cùng là


tầng lớp nơ tì, những người bị nơ lệ. Sự ra đời của nhà nước Văn Lang đánh dấu
bước phát triển lớn lao mang ý nghĩa thời đại trong lịch sử Việt Nam – mở đầu thời
đại dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.
Năm 221 TCN, Thuỷ Hoàng Đế Tần Thuỷ Hoàng thống nhất Trung Quốc,
thiết lập một nhà nước quân chủ trung ương tập quyền chuyên chế hùng mạnh. 3
năm sau, Tần Thuỷ Hoàng sai quân xâm lược về phía nam trong đó có nước Văn
Lang. Đây là cuộc chiến, cũng như thách thức lớn nhất đối với nền văn minh còn
mới bước vào những bước sơ khai như nhà nước Văn Lang. Tuy vậy, bằng ý chí và
chiến thuật khơn khéo, Thục Phán thời bấy giờ là lãnh tụ của bộ lạc Tây Âu đã chỉ
huy chống giặc ngoại xâm. Quân Tần rút lui, Thục Phán với tư cách chỉ huy đã
thay thế vua Hùng lên làm vua, lập ra nhà nước Âu Lạc xưng là An Dương Vương
vào đầu thế kỉ III tr.CN. Dưới thời An Dương Vương, Âu Lạc đã xây dựng được
một đạo quân khá mạnh sử dụng cung nỏ. Truyền thuyết về chiếc nỏ thần An
Dương Vương đã minh chứng cho điều đó. Những mũi tên được các nhà khảo cổ
học tìm thấy ở thành Cổ Loa là minh chứng rõ nét cho điều đó. Thành Cổ Loa cũng
là minh chứng cho bước phát triển mới cho nền văn minh lúc bây giờ khi lần đầu
tiên “đô thị cổ đại” xuất hiện trên đất nước này. Cổ Loa đã trở thành một trung tâm
qn sự, chính trị vững chắc.
Trải qua q trình hình thành và phát triển, văn minh Văn Lang – Âu Lạc đã
trở thành cội nguồn, làm cơ sở tiền đề cho các nền văn minh sau này của người

Việt. Giữ gìn bản sắc dân tộc, hiểu về cội nguồn dân tộc là điều mà chúng ta thuộc
thời đại hiện nay cần phải làm để phát huy tinh thần Việt Nam bất khuất.
2.3 Việt Nam thời kì quân chủ.
Trải qua gần 1000 năm đô hộ, năm 939, sau chiến thắng Bạch Đằng vĩ đại
trước quân Nam Hán, Ngô Quyền xưng vương, thiết lập triều đại phong kiến quân
chủ riêng biệt của Việt Nam. Từ đấy, Việt Nam trở thành một nhà nước riêng biệt,
tách rời khỏi sự đô hộ của Trung Quốc, mở ra bước phát triển đối với lịch sử phong
kiến Việt Nam.
Nhà nước phong kiến Việt Nam kéo dài xuyên suốt hơn 10 thế kỉ, từ năm
939 đến năm 1945. Suốt 10 thế kỉ ấy, lịch sử văn minh Việt Nam đã đạt được
những thành tựu rực rỡ dưới các triều đại nhà Ngô (939-965), Nhà Đinh (968-980),
nhà Tiền Lê (980-1009), nhà Lý (1009-1225), nhà Trần( 1226-1440), nhà Hồ


(1400-1407), nhà Hậu Lê (1428-1527), nhà Mạc (1527-1592), thời Trịnh – Nguyễn
( 1592- 1777), nhà Tây Sơn (1778-1802), nhà Nguyễn (1802-1945).
2.3.1 Việt Nam thời nhà Ngô – Đinh – Tiền Lê.
Năm 968, Vạn Thắng Vương Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất
đất nước, lên ngôi vua lấy tên hiệu là Đinh Tiên Hoàng, quốc hiệu là Đại Cổ VIệt,
đóng đơ ở Hoa Lư. Như vậy người Việt kể từ thời Văn Lang – Âu Lạc lại một lần
nữa làm chủ đất nước. Bởi sự đô hộ dài lâu, chiến tranh loạn lạc xảy ra liên miên,
nên khi lên nắm chính quyền, các triều đại vua đều ra sức khuyến nơng và siết chặt
luật pháp. Để duy trì quyền lực tập trung của nhà nước quân chủ chuyên chế nên
đã ban hành chế độ sở hữu tối cao của nhà vua đối với ruộng đất trong nước. Nhà
vua phong ấp cho con cái và các tướng lĩnh có cơng, đất ở nơng thơn thì người dân
chia ra cày và nhà nước thu thuế. Bên cạnh đó, vua cịn ban hành chế độ ngụ binh
ư nơng để có được lượng lính khi cần cho nhu cầu qn sự.
Chính vì những năm tháng hịa bình, và các chính sách khuyến khích mà nền
kinh tế Việt Nam thời bấy giờ được phục hồi và phát triển. Hệ thống sông kênh
được phát triển mạnh dưới thời nhà Lê như kênh Đa Cái ( Nghi Lộc – Nghệ An),

sông Nghèn ( Hà Tĩnh)…
Thủ công nghiệp thời Đinh - Tiền Lê cũng ngày càng được mở rộng trên cơ
sở từ thời Bắc thuộc. Những xưởng đúc tiền, vũ khí, may vá được hình thành.
Ngành kiến trúc cũng có những bước phát triển vượt bậc với các cơng trình
kiến trúc đặc biệt: điện Bách bảo thiên tuế, điện Phong Lưu, điện Tử Hoa, điện
Bồng Lai, đài Kính Thiên ở động Thiên Tơn…
Thời Đinh – Tiền Lê, sự giao thương giữa các vùng đã diễn ra khá thường
xuyên, chợ búa mọc lên ở mọi nơi. Về ngoại thương, thuyền bn nước ngồi đã
có mặt ở nước ta từ năm 976. Đại Cồ Việt cũng đã thông thương trở lại với nhà
Tống từ năm 1009.
Hịa bình đã mang đến sự ổn định và phát triển cho các triều đại Đinh – Tiền
Lê. Nó sáng tạo điều kiện cho quốc lực và nền văn minh có những bước phát triển
mạnh mẽ. Nó tạo điều kiện cho những bước phát triển sau này và cả công cuộc
kháng chiến chống xâm lược từ phương Bắc.


2.3.2 Việt Nam thời nhà Lý.
Năm 1009, nhà Lê suy yếu, được sự giúp đỡ của thế lực tăng ni Phật tử mà
đứng đầu là nhà sư Vạn Hạnh cùng với triều thần ủng hộ, Lý Cơng Uẩn lên ngơi
hồng đế, mở đầu cho sự hưng thịnh của triều Lý hơn 200 năm. Năm 1010, Lý
Công Uẩn dời đô về Đại La, sau đổi tên thành Thăng Long ( Hà Nội ngày nay). Từ
đấy Thăng Long cũng trở thành “ nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”[2].
Kinh thành Thăng Long cũng xứng đáng với vị thế quốc đô của Việt Nam
thời bấy giờ, trở thành trung tâm kinh tế - chính trị quan trọng của cả nước và khu
vực Đông Nam Á. Thành Thăng Long chia làm hai khu vực riêng biệt, có 2 vịng
thành bao bọc. Vòng trong bao bọc phần lớn quận Đống Đa ngày nay. Vịng ngồi
là La Thành mà đến nay vẫn cịn được giữ nguyên bắt đầu từ Hồ Tây chạy theo
đường Hoàng Hoa Thám, đường Bưởi, đê La Thành, đổ ra Đại Cổ Việt, Trần Khát
Chân cho đến Ô Đống Mác lại gặp đê Sông Hồng.
Dựa trên cơ sở của triều đại nhà Lê Sơ, các vua nhà Lý tiếp tục phát triển

các chính sách tiến bộ trước đó. Năm 1042, Lý Thái Tơng đã cho người biên soạn
Hình thư, mở ra một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh cho một quốc gia.
Lý Công Uẩn lên ngôi nhờ sức mạnh của tập đoàn tăng ni phật tử nên nhà
Lý cũng ra sức ủng hộ Phật Giáo, từ đấy các chức tăng quan cũng ra đời, mà đứng
đầu nhất là Quốc Sư. Phật Giáo ở thời Lý phát triển đạt đến đỉnh điểm. Việc xây
chùa, đúc chuông diễn ra hàng năm được ghi lại trong Toàn thư. Các thiền phái
mới cũng xuất hiện như Thảo Đường, Vô Ngân Thông…
Song song với việc Phật Giáo phát triển thì nghệ thuật dưới thời Lý cũng
phát triển mạnh mẽ. Đây là thời kì đẹp nhất của nghệ thuật Việt Nam[1]. Kiến trúc
thời bấy giờ chịu rất nhiều ảnh hưởng từ Ấn Độ và Trung Á kết hợp với các kiểu
kiến trúc của Trung Quốc nhưng mà vẫn mang một phong cách đặc biệt của riêng
Việt Nam. Nét đặc trưng cơ bản là mái cong. Kiến trúc chùa chiền cũng tạo nên
diện mạo mới cho nước Đại Việt. Các chùa nổi tiếng được dựng lên như quán Trấn
Vũ ( quán Thánh), chùa Diên Hựu ( chùa Một Cột), chùa Lý Quốc Sư, đền Linh
Lang (Voi Phục), đền Vạn Phúc… Nho Giáo cũng có những kiến trúc của mình mà
tiêu biểu là Văn Miếu Quốc Tử Giám.
Vào thế kỷ XI-XII, nghề gốm đạt tới đỉnh cao của mình với các sản phẩm đa
dạng như: tấm lát, gạch, ghép ngói, đồ gốm tráng men, đúc tượng … Các làng gốm


tập trung nhiều nhất ở Thanh Hóa. Các nhà khảo cổ học đã tìm ra rất nhiều lị gốm
ở đây. Nổi bật là các loại gốm được tráng men xanh từ xanh biển đến màu lục nhạt
hơi xám. Các họa tiết cũng được chạm trổ cơng phu với nhiều hình từ động vật,
đến các hình thức sinh hoạt, chiến đấu của người dân.
Triều Lý cũng là triều đại có nhiều lễ hội lớn được ghi lại trong Toàn Thư và
các văn bia lịch sử.
Về kinh tế, ruộng đất được sở hữu dưới các hình thức : ruộng đất thuộc nhà
nước, ruộng tịch điền, ruộng Sơn lăng, ruộng công làng xã, ruộng thác đao và ấp
thang mộc, ruộng đất nhà chùa, ruộng sở hữu tư nhân. Triều đại nhà Lý cũng tích
cực đắp đê phịng lũ lụt mà tiêu biểu như đê Đản Nãi ( Yên Định – Thanh Hóa),

kênh Lãm ( Ninh Bình).
Thủ cơng nghiệp thời Lý cũng chia làm hai bộ phận, của nhà nước và tư
nhân. Các ngành nghề nổi tiếng như : đúc tiền, chế tạo binh khí, thuyền, cũng như
các vật phẩm tơ lụa, gốm sứ… Nghề dệt cũng ra đời với công chúa Từ Hoa là tổ
sư.
Thời Lý, kinh tế tiền tệ đã đóng vai trị quan trọng trong việc trao đổi và lưu
thơng hàng hóa. Ngoại thương cũng bước phát triển mới. Vân Đồn trở thành trung
tâm giao dịch đón các thuyền buồm nước ngoài tới như Trảo Oa (Indonesia) , Lộ
Lạc, Xiêm La (Thái Lan)…
Sự phát triển mạnh mẽ cả về kinh tế và văn hóa dưới thời Đại Việt đã làm
tiền đề cho những chiến thắng trước giặc ngoại xâm Trung Quốc khi vẫn có tham
vọng mở rộng về phía Nam.
2.3.3 Việt Nam thời nhà Trần.
Năm 1226, dưới sự sắp xếp của Trần Thủ Độ, một cuộc thay đổi triều đại
diễn ra, chính quyền thay đổi từ dịng họ Lý sang dịng họ Trần. Dưới thời nhà
Trần, Đại Việt tiếp tục mở ra thời kì tiếp tục phát triển cao hơn cả về kinh tế và xã
hội. Sau khi diệt trừ hết tàn dư của dòng họ Lý, vua Trần cho thiên hạ gọi mình là
quan gia[10] , nâng cao tính chun chế và tập trung quyền lực triều đình.
Năm 1230, nhà Trần ra bộ Quốc triều thông chế, quy định bộ máy nhà nước
hồn chỉnh hơn. Ở triều đình có Thượng thư sảnh gồm 6 bộ : lại , lễ, hộ, binh, hình,
cơng. Nhà Trần chia cả nước thành 12 lộ : Thiên Trường, Long Hưng, Quốc Oai,


Bắc Giang, Hải Đơng, Trường n, Kiến Xương, Hồng, Khối, Thanh Hóa, Hồng
Giang, Diễn Châu.
Qn đội dưới triều Trần cũng được phát triển và hoàn thiện hơn. Nhà Tràn
đặc biệt coi trọng Cấm quân nên quân bị ngày càng được tăng cường, phiên chế
càng phức tạp, chặt chẽ hơn.
Thời nhà Trần, quan lại đã có lương bổng. Việc khảo cơng cũng có quy định
cụ thể. 15 năm xét duyệt một lần, 10 năm thăng một tước, 15 năm thăng một bậc.

Nhà Trần còn lựa chọn quan lại qua Khoa cử, công lao, thủ sĩ và cả mua bán.
Về Pháp luật, nhà Trần ban hành bộ Quốc triều hình luật. Các cơ quan duy trì pháp
luật cũng được tăng cường và hoàn thiện. nhà Trần tăng cường hoàn thiện chế độ
phân chia đẳng cấp sâm nghiêm. Vua và hoàng gia được pháp ;luật bảo vệ triệt để
bởi đặc quyền và quyền lợi riêng. Nơ tì bắt buộc phải xăm chữ vào trán.
Về kinh tế, quyền sở hữu ruộng đất được nhà Trần bảo vệ bằng các pháp luật
cụ thể. Nhà Trần cũng có những biện pháp phát triển nền sản xuất nông nghiệp.
nếu như trước đây việc tổ chức thủy lợi chỉ diễn ra ở cục bộ - địa phương, thì dưới
triều Trần tủy lợi được tổ chức trong phạm vi cả nước. Nhà nước trực tiếp tổ chức
đắp đê trên các triền sơng và có cơ quan chun trách chỉ đạo và quản lí đê điều
[9].
Nhà Trần tiếp tục duy trì các quan xưởng thủ cơng nghiệp của nhà nước :
xưởng gốm, xưởng dệt, xưởng chế tạo vũ khí…Tuy nhiên, địa vị xã hội của các thợ
thủ công rất thấp kém.
Trong dân gian, các làng nghề phát triển rực rỡ, như nghề gốm ở làng Bát
Tràng ( Gia Lâm, Hà Nội), gốm Thổ Hà, Phù Lãng ( Bắc Ninh). Ở Nho Lâm đến
bây giờ vẫn có các di tích về làng rèn nổi tiếng một thời. Chính sự phát triển kinh
tế, văn hóa, giáo dục mà một số ngành nghề mới phát triển nhanh chóng như nghề
làm giấy và khắc bản in, nghề đúc đồng, nghề mộc và nghề xây dựng.
Cuối thời lý, Phật Giáo đã dần dần biến chất. Đến thời nhà Trần, Nho giáo
đã bắt đầu hưng thịnh trong khi Phật Giáo lại suy thoái. Tuy vậy những vị vua đầu
tiên của nhà Trần vẫn quan tâm đến tu đạo từ nhỏ. Tiêu biểu là vua Trần Nhân
Tông sáng lập ra thiền phái Trúc Lâm. Phật Giáo chỉ là tín ngưỡng dân gian mà
khơng phải đạo trị quốc của các quốc gia phong kiến, chính vì vậy, Nho giáo sẽ


thay thế trở thành tư tưởng chủ đạo để các nhà vua duy trì nền chính trị qn chủ
chun chế của mình.
Trong gần 75 năm trị vị, các vua nhà Trần đã mở 17 khoa thi văn. Trước đó,
nhà Lý chỉ mở 7 khoa thi. Các khoa thi này không chỉ tuyển mộ quan lại và đối với

cả tăng ni phật tử, đạo sĩ. Nhà Trần đề cao Tam giáo đồng nguyên.
Các tác phẩm chữ Nôm cũng xuất hiện với tần suất ngày càng nhiều. Trong
đó tiêu biểu là Hình bộ thượng thư Nguyễn Thun, ơng thích sáng tác thơ phú
bằng chữ Nôm.
2.3.4 Cải cách thời nhà Hồ.
Đầu năm 1400, Hồ Quý Ly phế truất ngôi vị của vua Trần, tự lập làm vua.
Đặt tên nước là Đại Ngu, niên hiệu là Thành Nguyên. Nhà Hồ ra đời. Ngay khi lên
làm vua, Hồ Quý Ly tiếp tục công cuộc cải cách của mình từ trước đó.
Về chính trị, Hồ Q Ly đã đề nghị dùng những người có tài cán cả văn lẫn
võ để cữ ra làm quan chứ không riêng gì tơn thất như dưới thời nhà Trần. Sau khi
lên ngôi, Hồ Quý Ly cử quan ở Tam quán và nội nhân về các địa phương điều tra
quan lại để tiến hành thăng chức, giáng chức.
Về kinh tế, trước đó vào năm 1397, Hồ Quý Ly đã đề nghị vua Trần xuống
chiếu hạn định số ruộng tư: thứ dân khơng thể có được qua 10 mẫu. Người dân có
nhiều ruộng có thể lấy ruộng chuộc tội, ruộng thừa thì đem sung cơng.
Về tài chính, Hồ Q Ly cho lưu hành tiền giấy “thông bảo hội sao” với 7
loại mệnh giá : 10 đồng, 30 đồng, 1 tiền, 2 tiền, 3 tiền, 5 tiền và 1 quan. Nhà Hồ
cũng cấm dân chúng tiêu thụ tiền đồng, và phạt tử hình với tội làm tiền giả.
Về xã hội, nhà Hồ hạn chế nơ tì. Nhà Hồ cho các lộ làm lại sổ hộ. Thống kê
cho thấy số dân từ 15- 60 tuổi tăng lên gấp hai lần trước thống kê.
Về văn hóa – giáo dục: nhà Hồ đề cao Chu Cơng. Năm 1392, Hồ Quý Ly
soạn sách “ Minh đạo” phê phán Khổng Tử, dèm pha các nhà Tống Nho. Hồ Q
Ly cũng là người đề cao chữ Nơm: tự mình phiên dịch nhiều quyển sách như
Thượng thư, Kinh Thi và làm nhiều thơ Nôm.


Về khoa cử, Hồ Quý Ly cho sửa lại chế độ thi cử, tăng thêm trường thứ 5 là
thi viết chữ và toán. Những người thi Hội phải thêm một bài thì do vua ra đề để xét
thứ bậc.
Hồ Quý Ly cũng cho dân chúng xây kinh đô mới ở An Tơn, Vĩnh Lộc,

Thanh Hóa. Đến nay Thành nhà Hồ vẫn cịn tồn tại di tích và trở thành di tích lịch
sử Quốc Gia (1962).
Về quân sự, Hồ Nguyên Trừng con trai cả của Hồ Quý Ly đã chế tạo ra súng
thần cơ, súng đại bác ( thần cơ sang pháo), chiến thuyền. Sau khi bị nhà Minh bắt,
ông được nhà Minh cho làm quan ở Công bộ.
Hồ Quý Ly là nhà cải cách lớn đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Với mong
muốn đưa đất nước thoát ra khỏi sự khủng hoảng suy thoái từ cuối nhà Trần trên
các mặt kinh tế, chính trị, tài chính, văn hóa giáo dục, xã hội. Tuy nhiên, những cải
cách ấy còn mang tính cấp tiến, một số chính sách gây ra mâu thuẫn nội bộ, ảnh
hưởng đến sự đoàn kết trong nhân dân nên dẫn đến sự thất bại và tan rã của nhà
Hồ. Tuy vậy, những cải cách của ông vẫn để lại những bài học quý giá mà những
nhà cải cách đời sau còn phải hướng đến.
2.3.5 Việt Nam thời nhà Hậu Lê.
Năm 1428, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng, Lê Lợi lên ngơi Hồng đế,
đóng đơ ở Đơng Kinh (Thăng Long), khôi phục tên nước Đại Việt. Trải qua 5 đời
vua Lê, đắt nước được dần dần hồi phục phát triển lên tầm cao mới cả về kinh tế
chính trị, xã hội.
Về chính trị, vua Lê Thánh Tơng bãi bỏ các chức vụ trung gian, trực tiếp chỉ
đạo 6 bộ Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Cơng. Cùng với đó là 6 Tự, Viện Hàn lâm, Viện
Quốc sử, Quốc tử giám, Bí thư giám…
Về quân sự, trước khi lên ngôi vua, quân đội Lam Sơn lên tới 35 vạn người.
Sau khi lên ngôi, Lê Thái Tổ chỉ giữ lại 10 vạn qn chính quy, có bốn chủng loại:
bộ binh, thủy binh, tượng binh, kỵ binh. Ngồi ra cịn một đội quân dùng súng gọi
là hỏa đồng.
Về luật pháp, năm 1483, vua Lê Thánh Tông cho ban hành bộ luật Hồng
Đức. Sau đó các triều đại vua sau bổ sung sửa đổi thêm các điều luật và ban hành
với tên “ Lê triều hình luật”, gồm 722 điều chia thành 16 chương.


Về kinh tế, sau 10 năm chiến tranh, ruộng đất bị bỏ hoang vơ số. Chính vì

thế ngay khi vừa lên ngôi, vua Lê Thái Tổ đã ban hành một loạt sách lệnh để khôi
phục nông nghiệp. vua cho 15 vạn người xuất ngũ về quê làm ruộng. Vua truyền
lệnh cho nạn dân về lại quê cũ để trồng trọt, nếu không sẽ bị phạt nặng. Đât đai của
quan lại, q tộc đời trước khơng có kế thừa đều bị sung cơng làm đồn điền hay
thưởng cho tướng lĩnh có cơng.
Bên cạnh đó, thủ cơng nghiệp và thương nghiệp cũng được hồi phục và phát
triển. các làng nghề như gốm Bát Tràng, nhuộm Huê Cầu, tơ lụa Thanh Oai, dệt
Tây Sơn, gấm Lạng Sơn, lễ phục Nghệ An được dựng lại. Ở Đơng Kinh cịn có 36
phố phường chun làm tiếp các ngành nghề cũ: Phường Tàng kiếm làm kiệu, áo
giáp, đồ đài mâm, võng, gấm trừ, dù lọng, phường Yên Thái làm giấy, phường
Thụy Chương và Nghi Tàm dệt vải nhỏ và lụa, phường Hà Tân nung đá vôi,
phường Hàng Đào nhuộm điều…[5] Đến bây giờ 36 phố phường vẫn còn tồn tại
trở thành khu du lịch phố cổ.
Về tài chính, nhà Lê hủy bỏ tiền giấy thời Hồ, đúc tiền đồng và quy định 1
quan bằng 10 tiền, 1 tiền bằng 60 đồng. Tuy nhiên, khi Thái Tổ lên ngôi, đồng và
tiền đồng trở nên quý hiếm. Các đơn vị đo lường cũng được thống nhất để thuận
lợi cho việc giao thương buôn bán.
Về tôn giáo, thời Hậu Lê độc tôn tư tưởng Nho Giáo, Phật Giáo và Đạo Giáo
được kiểm soát chặt chẽ hơn. Nhà vua cấm quan lại, nhân dân không được xây
thêm chùa chiền, tự tiện đúc tường, tơ tượng. Các hoạt động cúng, bói của đạo sĩ bị
ngăn cấm hoàn toàn. Bởi vậy, văn hóa Đại Việt đương thời ít đi yếu tố dân gian.
Thời Hậu Lê được xem là đỉnh cao của nền quân chủ chuyên chế của lịch sử
Việt Nam, mà đỉnh điểm là thời vua Lê Thánh Tơng. Các cơng trình khổng lồ trong
các lĩnh vực hành chính, kinh tế xã hội đã được thực hiện, tiếp nối các bước phát
triển văn minh trước đó dưới triều đại Lý – Trần. Tuy nền kinh tế hàng hóa thị
trường có bước phát triển mạnh nhưng địa vị của thương nhân trong xã hội vẫn bị
kiềm chế do sự độc tôn của Nho Giáo và lợi ích của tập đồn nho sĩ quan chức.
2.3.6 Việt Nam bị chia cắt thời Nam Triều - Bắc Triều, Đàng Trong – Đàng Ngoài.
Cuối thế kỉ XVI, nhà Lê đi theo hướng suy tàn, đời sống nhân dân khổ cực,
các cuộc khởi nghĩa nổi lên ở nhiều đời. Từ tình hình đó, tướng Mạc Đăng Dung

đã nổi lên, bằng mưu mẹo và vũ lực, ông đã đánh bại lần lượt các đối thủ và lên


ngôi vua năm 1527. Mạc Đăng Dung lên ngôi vua để củng cố địa vị của mình đã
có những chính sách thân nhà Minh, cắt một số vùng đất phía Bắc cho nhà Minh để
đổi lấy hậu thuẫn. Đây là chính sách sai lầm, nhà Mạc khơng có được sự ủng hộ
của nho sĩ và quần chúng nhân dân và thất bại ngay sau đó.
Nhà Lê khi bị cướp ngơi đã trốn vào miền Nam, nhiều quan lại trong đó đi
theo mà đứng đầu là Nguyễn Kim. Năm 1545, nhà Lê đã chiếm lại vùng đất Thanh
Hóa và Nghệ An.
Trong suốt thời gian đó, đã diễn ra hàng chục cuộc chiến tranh với quy mô
từ lớn đến nhỏ. Đến năm 1592, quân Mạc thua trận, bị mất thành Thăng Long. Tuy
nhiên nhà Mạc vẫn cịn tồn tại sau đó ở vùng đất Cao Bằng thêm 85 năm nữa.
Chiến tranh đã gây ra hàng chục vạn người chết chóc, bên cạnh đó, ruộng đồng bị
tàn phá nặng nề, nạn đói xảy ra triền miên, để lại hậu quả nghiêm trọng với tình
hình đất nước thời bấy giờ.
Tưởng chừng sự thất bại của nhà Mạc đã chấm dứt hẳn chiến tranh, nhưng
một cuộc chiến tranh nội bộ lại xảy ra trong thế lực chiến thắng. Để tiếp tục nắm
giữ quyền lực, Trịnh Kiểm đã tìm cách diệt trừ phe cánh của Nguyễn Kim để lại.
Các con của Nguyễn Kim mà đứng đầu là Nguyễn Hồng đã tìm cách trốn chạy
vào Thuận Hóa. Trải qua hai đời, chính quyền họ Nguyễn dần ổn định và muốn
tách rời khỏi sự phụ thuộc họ Trịnh. Trong gần 50 năm từ năm 1627 đến năm 1672,
cả hai thế lực đã đánh nhau 7 lần. Tuy nhiên những cuộc chiến tranh đó đều khơng
có kết quả thắng lợi cho bên nào, chỉ đem lại sự hao người tốn của. Hai họ Trịnh,
Nguyễn đã phải ngừng chiến và lấy sơng Gianh làm ranh giới.
Thời kì phân chia nội chiến lâu dài đã làm nền văn minh Đại Việt bị chững
lại, tuy nhiên sự mở rộng lãnh thổ của Đàng Trong đến tận Cà Mau đã tạo mầm
mống cho quá trình hình thành lãnh thổ Việt Nam ngày nay. Những dấu hiệu mầm
mống của các phương thức sản xuất khác cũng ra đời bên cạnh nền sản xuất nông
nghiệp phong kiến. Sự giao lưu, thương mại cũng trở nên phổ biến và tiếp xúc với

các nền văn minh khác.
Từ thế kỷ XVI-XVIII, các đô thị cổ ngày càng xuất hiện ở Đại Việt bởi sự
phát triển của kinh tế hàng hóa thị trường. Một số địa điểm như Đồng Đăng, Kỳ
Lừa ( Lạng Sơn), Vân Đồn, Đông Triều ( Quảng Ninh), Phục Lễ ( Nghệ An), Phú


Xuân ( Thừa Thiên Huế), Hội An, Phố Hiến ( Hưng Yên), Bến Nghé (Gia Định),
Hà Tiên… đã tụ tập rất nhiều dân cư với sự phát triển của công thương nghiệp.
Các chính quyền Đàng Trong – Đàng Ngồi đếu muốn độc tơn Nho Giáo để
củng cố nền chính trị qn chủ chuyến chế. Tuy nhiên, do sự thối hóa, sự tranh
chấp giữa các thế lực và sự ảnh hưởng của nền kinh tế hàng hóa – tiền tệ đã dẫn
đến sự suy thối của Nho Giáo:
Cịn bạc cịn tiền cịn đệ tử
Hết cơm hết rượu hết ơng tơi.[3]
Việc mua quan bán tước cũng diễn ra công khai để lấy tiền tài duy trì chiến tranh.
Trong thời kỳ này, Phật Giáo lại được phục hồi, đặc biệt là Đàng Trong. Các
chùa chiền được sửa chữa lại như chùa Thiên Hựu, Bảo Phúc, Viên Giác,Tây
Phương, Quỳnh Lâm, Thiên Mụ…
Cùng với sự phát triển ngoại thương và con đường biển, Các thuyền bn
Châu Âu đã đến Đại Việt, đi kèm với đó là các giáo sĩ của Thiên Chúa Giáo đã đi
theo truyền đạo. Từ thế kỷ XVII, đạo Thiên Chúa Giáo đã chính thức trở thành tơn
giáo mới tại Việt Nam.
Để truyền đạo, các giáo sĩ đã sáng tạo ra chữ Quốc ngữ. Giáo sĩ Alexandre
de Rhodes là người có cơng hoàn thiện quyển từ điển Việt - Bồ - Latinh, dựa trên
các quyển từ điển trước đó của Gaspar do Amaral và Antonio Barbosa.
Vào thời kì này tín ngưỡng cổ truyền đã phát triển mạnh mẽ. Tục thờ Thành
Hoàng, tổ tiên và những người có cơng với đất nước trở nên phổ biến. Điều này
cũng cho thấy sự khủng hoảng về mặt tinh thần của nhân dân khi phải chứng kiến
chiến tranh và nạn đói liên tục.
Thế kỷ XVI-XVIII, nghệ thuật dân gian đã tạo nên một trào lưu mới. Rất

nhiều thể loại khác nhau đã ra đời như ca dao, tục ngữ, truyện cười... Các làn điệu
dân ca mang tính đặc sắc của địa phương cũng ra đời như quan họ Bắc Ninh, điệu
ví dặm Nghệ An, các điệu hò Huế, điệu lý miền Nam bộ… Nghệ thuật đã thể hiện
ý thức tinh thần của người dân thời bấy giờ.


2.3.7 Việt Nam thời nhà Tây Sơn.
Năm 1778, Nguyễn Nhạc lên ngơi Hồng đế, đặt niên hiệu là Thái Đức,
đóng đơ ở Đồ Bàn (Bình Định), mở đầu cho cuộc nổi dậy ở Tây Sơn thắng lợi. Tuy
nhiên, ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ lại bất hòa trong việc
phân chia quyền lực nên đã chia đất để cai trị. Nguyễn Nhạc chỉ cai quản từ Quảng
Ngãi đến Bình Thuận, Nguyễn Huệ cai quản từ Quảng Nam ra Bắc, mặc dù phía
Bắc vẫn cịn tồn tại nhà Lê. Nguyễn Lữ được phong trấn giữ đất Gia Định.
Năm 1788, quân Thanh xâm lược Đại Việt. Nguyễn Huệ đã quyết định lên
ngơi hồng đế, đặt niên hiệu là Quang Trung rồi tiến quân ra bắc đánh bại quân
Thanh.
Ngay khi đánh đuổi quân Thanh, Quang Trung bắt tay vào công cuộc cải tổ
và khơi phục đất nước, chính sách khuyến nơng được ban hành dưới hình thức
“Chiếu khuyến nơng”. Trong vịng 3-4 năm, đất nước đã khôi phục nông nghiệp
được một nửa. Tuy nhiên chưa có chính sách cụ thể giải quyết vấn đề ruộng đất
cho nơng dân.
Quang Trung khuyến khích công thương nghiệp phát triển, mở rộng các làng
nghề và phát triển nội thương và ngoại thương.
Trong lĩnh vực giáo dục, Quang Trung tồn chữ Nôm lên thành chữ viết chính
thức của dân tộc. Các sách, đều được dịch sang chữ Nôm để làm tài liệu giáo dục
và thi cử.
Về ngoại giao, Quang Trung tích cực chính sách hịa hỗn với nhà Thanh,
tránh việc chiến tranh liên miên, tranh thủ thời gian khôi phục quốc lực, ổn định
sinh hoạt cho người dân. Quang Trung rất giao hảo với các nước lân cận như Vạn
Tượng ( Lào), Miến Điện ( Myanmar).

Quang Trung cũng đại lượng với các tôn giáo, cho phép các tơn giáo hoạt
động với mục đích tín ngưỡng khơng liên quan đến chính trị. Ơng địi hỏi các tăng
sĩ phải có học vấn và đạo đức. Những ai khơng có đủ điều kiện đều buộc phải hồn
tục.
Có thể nói sau Hồ Quý Ly, Quang Trung là nhà cải cách thứ hai của Việt
Nam. Với sự thông minh và tầm nhìn xa cùng với tinh thần dân tộc độc lập tự
cường, Quang Trung muốn đưa Đại Việt lên một tầm cao mới, sánh vai với các


quốc gia tiên tiến khác. Tuy nhiên, sự ra đi sớm của Quang Trung đã để lại những
bề bộn của cơng cuộc cải cách, triều vua sau khơng ai có đủ tầm nhìn cũng như trí
óc để nối tiếp. Triều đại Tây Sơn sụp đổ ngay sau đó. Triều đại Tây Sơn và đặc biệt
là vua Quang Trung đã để lại những bài học quý giá cho thế hệ sau này.
2.3.8 Nhà Nguyễn – triều đại cuối cùng của phong kiến Việt Nam.
Năm 1802, Nguyễn Ánh đánh bại triều Tây Sơn, thống nhất tồn bộ lãnh
thổ, ơng lên ngơi vua, đặt niên hiệu là Gia Long. Năm 1804, ông đặt tên quốc hiệu
là Việt Nam, cái tên Việt Nam gắn liền từ đó cho tới bây giờ.
Năm 1815, vua Gia Long cho ban hành bộ luật “Hoàng triều luật lệ” hay còn
gọi là luật Gia Long. Bộ luật gồm 398 điều, chia thành 7 chương.
Về ngoại giao, nhà Nguyễn thần phục với nhà Thanh. Đối với các nước như
Cao Miên, Lào lại dùng quân đội bắt thần phục. Đối với các nước phương Tây,
dưới thời Gia Long chỉ giao hảo với Pháp, sang thời Minh Mạng thì đoạn tuyệt
hẳn. Thời Minh Mạng, nhà vua thực hiện chính sách cấm đạo, bế quan tỏa cảng,
không giao dịch với các nước phương Tây. Chính sách đó được thực hiện duy trì
cho đến lúc thực dân Pháp nổ súng xâm lược.
Kinh tế nông nghiệp dưới thời nhà Nguyễn đã có các hoạt động khá đa dạng,
tuy nhiên thiên tai, dịch bệnh xảy ra liên tiếp, tình trạng vỡ đê diễn ra hàng năm
gây thiệt hại lớn cho nông dân, khiến cuộc sống của nhân dân càng ngày càng khó
khăn.
Bởi vì chính sách “bế quan tỏa cảng” mà thương nghiệp dưới thời Nguyễn

lụi tàn dần. Năm 1834, vua Minh Mạng còn ra lệnh cấm dân họp chợ do lo sợ
phong trào nông dân lan rộng. Nhà Nguyễn cũng độc quyền ngoại thương, chỉ cử
người đi thuyền buôn bán đến các nước lân cận. Tuy nhiên xã hội bây giờ khơng có
sự biến chuyển phù hợp với đà phát triển của thế giới.
Việt Nam thời nhà Nguyễn do sự ảnh hưởng của phương Tây nên người Việt
cũng bắt đầu có ý thức về khoa học kĩ thuật. Nhà vua đã ra lệnh cho các thợ thủ
cơng nghiên cứu chế tạo ra các máy móc đơn giản như tưới nước, tàu thủy chạy
bằng máy hơi nước…
Trong giai đoạn này, nghệ thuật dân gian vẫn tiếp tục phát triển mạnh mẽ.
người Việt đã có tư tưởng cho mình nền văn hóa riêng biệt. Các thể loại đa dạng


phong phú, văn thơ châm biếm ngày càng nhiều do sự thối nát của bộ mặt xã hội
phong kiến. Các bài thơ Nôm ngày càng phổ biến, tiêu biểu như Truyện Kiều của
Nguyễn Du.
Sự sụp đổ của nhà Nguyễn giữa thế kỉ XX là sự sụp đổ của nền văn minh
phong kiến ở Việt Nam. Trải qua hơn 10 thể kỷ, nền phong kiến Việt Nam đã phát
triển lúc thăng lúc trầm nhưng để lại khối lượng văn hóa đồ sộ, là minh chứng cho
nền văn minh người Việt đã từng tồn tại và phát triển sau này.
2.4 Việt Nam thời hiện đại.
Ngày 2-9-1945, chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản tun ngơn độc lập tại quảng
trường Ba Đình Hà Nội, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Kể từ đấy
một nhà nước của dân, do dân và vì dân đã ra đời trên đất nước Việt Nam. Khác
với đại đa số các nước trên thế giới, Việt Nam là một trong ít nước lựa chọn chủ
nghĩa cộng sản làm thể chế chính trị cho mình. Văn minh Việt Nam đã chuyển sang
một hướng khác. Ngày nay Việt Nam đang tích cực đẩy mạnh văn minh hóa bằng
cơng cuộc cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Gần 80 năm độc lập, tự do, 50
năm thống nhất đất nước, Việt Nam đã từ một quốc gia có nền nơng nghiệp lạc hậu
giờ đây đã trở thành nước có tốc độ phát triển hàng đầu trên thế giới. Địa vị kinh tế
- chính trị - xã hội trên trường quốc tế được nâng cao. Việt Nam cũng là nước tích

cực tham gia các hoạt động nhằm bảo vệ nền hịa bình của nhân loại.
Trong thời đại cơng nghệ 4.0, việc phát triển văn minh còn phải đi đơi với
việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc dựa trên các văn hóa cổ truyền, tránh bị đồng
hóa bởi các nền văn minh khác. Những văn hóa mà ông cha chúng ta xây dựng cho
chúng ta đã đẹp,thì ngày nay và mai sau nó sẽ đẹp lên bội phần, một khi chúng ta
xây dựng thành công được chế độ xã hội mới, nền kinh tế mới, con người mới xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.[8]
2.5 Văn minh Chăm Pa.
Văn minh Chăm Pa bắt nguồn từ văn hóa Sa Huỳnh. Cư dân ở đây cư ngụ
trên dải đất miền Nam Trung Bộ, phía Tây là dãy núi Trường Sơn, phía Đông là
vùng biển Đông rộng lớn. Các đồng bằng thưởng nhỏ hẹp, bị chia cách do các dãy
núi đâm thẳng ra biển. Bù lại, tài nguyên thiên nhiên ở đây rất phong phú, đa dạng
từ tài nguyên rừng cho đến tài nguyên biển.


Khoảng năm 192, cuộc khởi nghĩa của nhân dân Tượng Lâm trước nhà Hán
hoàn toàn thắng lợi. Nhà nước Lâm Ấp ra đời, đánh dấu thời đại văn minh Chăm
Pa ra đời.
Văn minh Chăm Pa chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi tôn giáo và văn minh Ấn
Độ, người Chăm tôn thờ thần Indra ở khắp mọi nơi. Ngồi ra cịn có thần Shiva, vợ
của thần Shiva là Thánh Mẫu Yan po Nagar.
Người Chăm sử dụng ngôn ngữ từ rất sớm. bia Võ Cạnh (Nha Trang) đã ghi
chép lại những sự kiện lịch sử từ thế kỷ II. Người chăm sử dụng chữ Phạn thành
ngơn ngữ chính thống của mình.
Chính vì chịu sử ảnh hưởng nặng nề của Ấn Giáo mà kiến trúc ở CHăm Pa
cũng mang hình dạng tháp của Ấn Độ, các tháp được xây dựng bằng gạch, đá nung
đỏ. Tiêu biểu là quần thể kiến trúc Mỹ Sơn.
Người Chăm không biết làm giấy nên thường sử dụng các chất liệu bằng đá,
gỗ để điêu khắc, người Chăm thường khắc lên các hoạt động lễ hội, sinh hoạt hằng
ngày của người dân.

Văn minh Chăm Pa trải qua nhiều thế kỷ tồn tại độc lập và phát triển đã gộp
nhập vào văn minh Đại Việt. Tuy nhiên ngày nay, một bộ phận người vẫn cịn giữ
lại những nét văn hóa đặc trưng của Chăm Pa.

3. Văn minh Trung Hoa ảnh hưởng sâu sắc đến văn minh Việt Nam.
3.1 Ảnh hưởng đến thể chế chính trị.
Văn minh Trung Hoa tác động đến Việt Nam từ rất sớm. Ngay từ thời kì đầu
thành lập nước Văn Lang – Âu Lạc đã bị ảnh hưởng từ thể chế Trung Quốc thời
bấy giờ. Nhà nước Văn Lang theo thể chế chính trị của thời đại nhà Chu Trung
Quốc.
Năm 179 TCN, Triệu Đà đánh chiếm Âu Lạc. 5 năm sau, Triệu Đà lập nước
Nam Việt gồm một phần lãnh thổ của Việt Nam và Trung QUốc ngày nay. Như
vậy, Triệu Đà đã đem thể chế chính trị nguyên vẹn áp dụng vào nhà nước Nam
Việt.


Văn minh Đại Việt với nền quân chủ chuyên chế cũng đả ảnh hưởng bởi các
triều đại phong kiến Trung Quốc. Các cơ quan, tên gọi, các bộ đều học tập nền
chính trị Trung Quốc.
3.2 Ảnh hưởng đến tư tưởng, tôn giáo.
Cùng với sự xâm chiếm và đô hộ Việt Nam hơn một ngàn năm Bắc thuộc,
các tư tưởng của Trung Quốc đã thâm nhập đến gốc rễ của văn minh người Việt bởi
các chính sách đồng hóa.
Chính quyền phong kiến luôn tôn sùng Nho Giáo làm đạo trị quốc, nên Nho
Giáo cũng đã du nhập vào Việt Nam. Thời nhà Lý, Văn Miếu Quốc Tử Giám được
xây dựng. Từ đó Nho Giáo được cơng nhận chính thức tại Việt Nam. Nho giáo suy
tơn những ln lí đạo đức “ tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” cùng với tư
tưởng “ trung quân ái quốc”. Nho Giáo là con đường dẫn đến thi cử và ra làm quan
nền Nho Giáo cũng đại diện cho tầng lớp quý tộc lúc bấy giờ.
Một tôn giáo khác xuất phát từ Trung Quốc là Đạo Giáo cũng đã du nhập

vào Việt Nam. Các tục lễ thờ cúng thần linh, thánh thần hóa diễn ra đa dạng. Kết
hợp với đó, văn hóa tín ngưỡng dân gian cũng phát triển mạnh mẽ đặc biệt từ thế kỉ
XVI-XVIII.
3.3 ảnh hưởng đến văn hóa, giáo dục.
Thời Bắc thuộc, người Hán đã âm mưu đồng hóa dân tộc ta, chúng lập ra
nhiều trường học, để dạy chữ Hán, tiếng Hán. Chính vì thế mà sự Hán hóa đã ăn
sâu vào ngơn ngữ và tiếng nói Việt Nam. Hiện tại, trong kho tàng ngơn ngữ tiếng
Việt có một bộ phận lớn của tiếng Hán Việt. Một số từ của Tiếng Việt có phát âm
gần giống với một số vùng ở Trung Quốc như Quảng Đông, Quảng Tây.
Trên cơ sở của chữ Hán, người Việt đã sáng tạo ra chữ Nôm, đặc biệt dưới
thời Quang Trung, vị vua này đã công nhận chữ Nôm là chữ quốc ngữ của nước ta.
Văn học Việt Nam chịu ảnh hưởng đặc biệt nghiêm trọng bởi văn học Trung
Quốc. Các thể văn, thể thơ được du nhập vào Việt Nam và được các nhà trí thức sử
dụng rộng rãi. Các tác phẩm thường sử dụng những câu chuyện ở Trung Quốc để
viết như truyện Kiều của Nguyễn Du.


Trong giáo dục, các khoa thi cử dưới các triều đại phong kiến Việt Nam đều
dựa trên nền tảng là Nho Giáo. Các kì thi đều dựa trên các bộ sách của Trung Quốc
như Tứ Thư Ngũ Kinh, Đại Học, Tam Tự Kinh, thơ Đường, thơ Tống…
3.4 Ảnh hưởng đến nghệ thuật.
Người Việt từ xưa đã áp dụng các kiến thức về kiến trúc của Trung QUốc để
từ đó áp dụng và sáng tạo trong lối kiến trúc của mình. Các kiến trúc cung điện,
chùa chiền đều được xây dựng gần giống với các kiến trúc Trung Quốc, tuy nhiên
cũng có những điểm riêng biệt như mái vịm cong.
Các chi tiết hội họa, nghệ thuật của Trung Quốc cũng đã du nhập vào Việt
Nam như các biểu tượng tứ linh. Tuy nhiên hình rồng ở mỗi triều đại lại có sự khác
nhau và có những đặc trưng dễ nhận biết.
3.5 Ảnh hưởng đến trang phục.
Các trang phục cổ của người Việt đều có những nét tương đồng với Hán

Phục. các trang phục của vua chúa, quan lại, hay tầng lớp sĩ tử có hoạ tiết và kiểu
cách giống với quan lại Trung Quốc.
Tuy nhiên, trang phục dân gian của Việt Nam lại có những nét riêng biệt như
áo dài ngày nay.
3.6 Ảnh hưởng đến lễ hội, ẩm thực.
Ở Việt Nam, từ xưa đã có các ngày lễ giống với ngày lễ ở Trung Quốc như
tết Nguyên Đán, tết Trung Thu, rằm tháng Giêng, lễ Thất tịch, tết Đoan Ngọ, tiết
Thanh Minh…
Trung Quốc là quốc gia rộng lớn với nhiều dân tộc khác nhau, chính vì thế
nền ẩm thực của họ cũng đa dạng đặc sắc. Các món ăn và kiểu nấu của người
Trung Quốc cũng dần dần du nhập vào Việt Nam. Các món ăn như hủ tiếu, bánh
bao, vịt quay… ngày càng phổ biến ở Việt Nam. Các phương thức nấu ăn như
chiên, xào, chưng hầm hấp cũng được du nhập. Kết hợp với các món ăn, các
nguyên liệu, gia vị ở Việt Nam mà tạo ra những nét văn hóa riêng biệt trong ẩm
thực Việt.


4. Ảnh hưởng của văn minh Ấn Độ với văn minh Việt Nam.
4.1 Ảnh hưởng về tư tưởng, tôn giáo.
Cả hai tôn giáo thành lập ở Ấn Độ là Bà Là Môn và Phật Giáo đều được du
nhập vào Việt Nam theo những con đường khác nhau và đều để lại những ảnh
hưởng sâu sắc vào văn hóa Việt.
Đạo Bà La Mơn có ảnh hưởng lớn nhất đến văn minh Chăm Pa. Trong khi
đó Phật Giáo lại có ảnh hưởng sâu rộng đến văn minh Đại Việt và cho đến ngày
nay. Nhà Lý được thành lập dựa trên lực lượng của Phật Giáo nên thời kì này, Phật
Giáo cũng phát triển đến đỉnh cao nhất.
4.2 Ảnh hưởng về văn hóa, chữ viết.
Ngay từ thời kì đầu, người Chăm đã biết sử dụng chữ Phạn để ghi lại trên
bia đá. Các ngôn ngữ trong kinh giáo của Phật Giáo cũng được ghi lại bằng chữ
Phạn. các tu sĩ niệm kinh cũng bằng tiếng Phạn.

Chùa chiền mọc lên ở mọi nơi khắp Việt Nam, rất ít địa phương nào mà
khơng có nổi một ngôi chùa.

5. Ảnh hưởng của văn minh phương Tây với văn minh Việt Nam.
5.1 ảnh hưởng về tư tưởng và tôn giáo.
Văn minh Phương Tây đã xâm nhập vào Việt Nam từ rất sớm những đến thế
kỷ XVI-XVII mới diễn ra thường xuyên hơn. Theo chân các thuyền buôn, các giáo
sĩ của Thiên Chúa Giáo đã truyền đạo vào Việt Nam. Theo điều tra dân số chính
thức của Nhà nước, ngày nay Thiên Chúa Giáo chiếm khoảng 7% dân số Việt
Nam, là tơn giáo có số dân lớn nhất cả nước.
5.2 ảnh hưởng đến văn hóa, chữ viết.
Để tiện cho việc truyền đạo, các tu sĩ đã sáng tạo ra chữ quốc ngữ bằng chữ
cái la tinh, chính là chữ quốc ngữ ngày nay của Việt Nam. Có thể nói văn minh
Phương Tây đã đem lại hệ thống hóa ngơn ngữ, chữ cái cho Tiếng Việt, góp phần
quan trọng trong việc giao lưu của người Việt với thế giới.
Trong ngơn ngữ hiện nay, có rất nhiều từ tiếng Việt được vay mượn từ tiếng
các nước phương Tây, mà nhiều nhất là tiếng Pháp như ghi- đơng, gác-ba-ga, ba
toong… Chính những từ Việt hóa đó làm phong phú thêm ngơn ngữ Tiếng Việt.


Theo đó, các hình thức văn học mới cũng du nhập vào Việt Nam. Thể văn
xuôi,tiểu thuyết hiện đại, thơ tự do đã được du nhập và phát triển rộng rãi. Các tác
giả tiêu biểu gồm có : Hồ Biểu Chánh, THế Lữ, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu…
5.3 Ảnh hưởng đến nghệ thuật, kiến trúc.
Suốt 5 thế kỷ du nhập vào Việt Nam và sự đô hộ của thực dân Pháp đã để lại
cho Việt Nam nhiều cơng trình kiến trúc mang đặc điểm của văn minh phương tây.
Các nhà thơ của Thiên Chúa Giáo được xây dựng. Hệ thống cầu đường mà tiêu
biểu là cầu Long Biên. Tuyến đường sắt được xây dựng, làm thay đổi bộ mặt của
cả nước ta thời bấy giờ.
Các hình thức hội họa mới đã du nhập vào Việt Nam như các loại tranh sơn

dầu, tranh bộ màu.
Các bộ mơn thể thao như bóng đá, tennis, cầu lông cũng dần dần lần lượt du
nhập vào Việt Nam.
5.4 Ảnh hưởng đến giáo dục.
Người Pháp đến và đô hộ nước ta đã mang theo nền giáo dục mới đến.
Người Pháp chèn ép Nho Giáo, mở rộng khoa học. Các tri thức của chúng ta ban
đầu phản kháng sau đó tiếp nhận chúng. Tiêu biểu có Nguyễn Trường Tộ. Sau khi
đi du học ông đã về và đưa ra một loạt cải cách nhưng không được vua chấp thuận.
Từ khi ra đời, tư tưởng Marxist đã có ảnh hưởng sâu rộng đến giai cấp cơng
nhân trên tồn thế giới. Tư tưởng ấy phù hợp với việc giải phóng đất nước và tình
hình Việt Nam lúc bấy giờ nên được các thanh niên yêu nước tiếp nhận trong đó
nổi bật nhất là Nguyễn Ái Quốc. Và sự thật đã đúng, với tư tưởng và đường lối
đúng đắn của Marx đã dẫn đến thắng lợi của nhân dân Việt Nam trên con đường
xây dựng chủ nghĩa xã hội.
5.5 Ảnh hưởng đến lễ hội, trang phục.
Các ngày lễ, lễ hội của người phương Tây đã du nhập vào Việt Nam đã được
người dân đón nhận, các ngày lễ của Thiên Chúa Giáo được tổ chức song song với
các ngày lễ truyền thống như lễ Noel, lễ Phục Sinh, tết Dương Lịch…
Người Việt cũng bắt đầu tổ chức đám cưới của mình theo hình thức phương
Tây, các cặp đơi của Thiên Chúa Giáo đã vào lễ đường trong nhà thờ để tổ chức,


×