Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và liên hệ ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.54 KB, 15 trang )

MỤC LỤC

1


MỞ ĐẦU
Sứ mệnh lịch sử của GCCN là phạm trù cơ bản nhất, phạm trù trung tâm,
phạm trù xuất phát của CNXHKH. Phát hiện ra SMLS của GCCN là một trong
những cống hiến vĩ đại nhất của chủ nghĩa Mác. Khẳng định SMLS của GCCN là
giai cấp duy nhất có khả năng lãnh đạo các tầng lớp nhân dân lao động bị áp bức,
bóc lột trong cuộc đấu tranh từng bước xố bỏ CNTB và xây dựng thành cơng
CNXH là lập trường chính trị của những người Mác xít - Lê nin xít chân chính, là
ranh giới phân biệt họ với những người cải lương và những phần tử cơ hội, xét lại.
Hiện nay, trước sự khủng hoảng, sụp đỗ của CNXH ở Đông Âu, Liên Xô, chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang tập trung xuyên tạc phủ nhận SMLS
của GCCN. Vì vậy việc nghiên cứu làm sáng tỏ SMLS của GCCN trong thời đại
hiện nay là vấn đề vơ cùng quan trọng, có ý nghĩa vừa cấp bách, vừa cơ bản lâu
dài, để kiên định chủ nghĩa Mác-Lê nin và lập trường GCCN. Để làm rõ hơn vấn
đề này e xin chọn đề tài “Học thuyết về “sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân” và liên hệ ở Việt Nam”.

2


NỘI DUNG
I.NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CƠNG
NHÂN
1. Vị trí của phạm trù sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong học
thuyết Mác-Lê nin và trong cuộc đấu tranh tư tưởng lý luận hiện nay
Sứ mệnh lịch sử của GCCN là một trong ba phát kiến vĩ đại của Mác-Ăng
ghen làm cho CNXH tử không tưởng trở thành khoa học. Sự phát hiện ra Sứ mệnh


lịch sử của GCCN, làm cho chủ nghĩa Mác triệt để, hồn bị và đạt được mục đích
"khơng chỉ để nhận thức thế giới mà vấn đề cơ bản là cải tạo thế giới". Sứ mệnh
lịch sử là phạm trù trung tâm, phạm trù xuất phát của CNXHKH, cũng giống như
phạm trù vật chất, ý thức là trung tâm của Triết học; phạm trù hàng hoá, giá trị
thặng dư là trung tâm của kinh tế - chính trị.Thái độ đối với sứ mệnh lịch sử của
GCCN là tiêu chí để phân biệt đầu là người mắc xít chân chính, đầu là kẻ cơ hội,
xét lại. Phủ nhận sứ mệnh lịch sử của GCCN cũng chính là phủ nhận chun chính
vơ sản, cách mạng vơ sản, liên minh giai cấp, vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản
cho nên đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lê nin trong giai đoạn hiện nay chính là
phải đấu tranh bảo vệ sứ mệnh lịch sử của GCCN. Hiện nay sứ mệnh lịch sử của
GCCN đang là mục tiêu trọng điểm chống phá của các học giả tư sản và các thế
lực thù địch. Chúng muốn thay GCCN bằng tầng lớp trí thức hay "khối lịch sử
mới", từ đó phủ nhận sứ mệnh lịch sử của GCCN.
2. Khái niên giai cẩn công nhân
Để hiểu sứ mệnh lịch sử của GCCN, trước hết cần làm rõ khái niệm giai cấp
cơng nhân. Chính C.Mác đã đặt vấn đề như vậy: "vấn đề là ở chỗ tìm hiểu xem giai
cấp vơ sản thực ra là gì và phù hợp với tồn tại ấy của bản thân nó, giai cấp buộc
phải làm gì về mặt lịch sử”. C.Mác và Ph.Ăng ghen dùng nhiều thuật ngữ khác
nhau để nói về giai cấp cơng nhân như: giai cấp vơ sản, giai cấp công nhân hiện
đại, nhân đại công nghiệp. Nhưng các thuật ngữ đó đều đồng nghĩa để biểu thị một
khái niệm: GCCN con đẻ của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, giai cấp đại
biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, cho phương thức sản xuất hiện đại. C.Mác Ăng ghen còn dùng những thuật ngữ có nội dung hẹp hơn để chi các loại cơng
nhân trong các ngành khác nhau, trong những giai đoạn phát triển khác nhau của
công nghiệp: công nhân công trường, công nhân khai khống, cơng nhân luyện
kim, cơng nhân cơ khí dù các khái niệm GCCN có nhiều tên gọi khác nhau, nhưng
theo C.MácĂng ghen vẫn chỉ mang hai thuộc tính căn bản: Một là: Về phương
thức lao động: công nhân là những người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành
3



máy móc, tiến hành sản xuất trong các tình vực cơng nghiệp hoặc có tính chất cơng
nghiệp ngày càng xã hội hoa cao Tiêu chí này nói lên q trình phát triển của
GCCN từ thợ thủ công đến công nhân công trường thủ công và cuối cùng là công
nhân công nghiệp hiện đại. GCCN là sản phẩm của đại công nghiệp, công nghiệp
càng phát triển các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển
của GCCN cũng phát triển theo. Hai là: Về vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa. Đó là những người lao động, khơng có tư liệu sản xuất phải bán sức lao
động cho nhà tư bản, bị nhà tư bản bóc lột giá trị thặng dư. C.Mác và Ph.Ăng ghen
nhấn mạnh tiêu chí này, vì chính điều này khiến GCCN trở thành giai cấp đối
kháng với giai cấp tư sản. Giai cấp tư sản càng lớn lên thì GCCN chỉ có thể sống
với điều kiện là kiếm được việc làm và chỉ kiếm được việc làm nếu lao động của
họ làm tăng thêm tư bản. Những công nhân ấy, buộc phải tự bán mình để kiếm ăn
từng bữa một, trở thành một hàng hoá sức lao động chịu mọi sự may rồi, cạnh
tranh trên thị trường. Tiêu chí này nổi lên một trong những đặc trưng cơ bản của
GCCN dưới chế độ tư bản chủ nghĩa nên Mác và Ăng ghen gọi GCCN là giai cấp
vô sản. Thời Mác cùng với sự tiến bộ của khoa học công nghệ, GCCN có xu hướng
"tri thức hố" và ngày càng tiếp thu đơng đảo những người thuộc tầng lớp trí thức
vào hàng ngũ của mình. Nhưng trình độ tri thức không làm thay đổi bản chất của
GCCN trong CNTB, với tính cách là giai cấp làm thuê cho giai cấp tư sản trong
hoạt động sản xuất công nghiệp. Trước kia công nhân bán sức lao động chân tay là
chủ yếu thì nay họ bán cả sức lao động chân tay và lao động trí óc, thậm chí một số
chủ yếu là bán lao động trí óc. Do sự phát triển của sản xuất và văn minh đời sống
công nhân ở các nước tư bản phát triển có những thay đổi quan trọng. Phần đơng
họ khơng cịn là người vơ sản nguyên nghĩa của từ này, mà một số đã có tư liệu sản
xuất phụ, có thể cũng gia đình làm thêm một cơng đoạn phụ cho các xí nghiệp
chính, một số có cổ phần ở xí nghiệp tựa hồ như phần nào tham gia làm chủ xí
nghiệp. Đời sống vật chất, tinh thần được cải thiện có ơ tơ, nhà lầu, được quan tâm
đến nghỉ đẻ, sinh nhật, du lịch. Nhưng tất cả tình hình ấy khơng hề làm thay đổi
một sự thật là toàn bộ tư liệu sản xuất cơ bản, chủ yếu nhất của nền sản xuất TBCN
vẫn nằm trong tay giai cấp tư sản. GCCN về cơ bản vẫn khơng có tư liệu sản xuất

cho nên phải bán sức lao động cho giai cấp tư sản cả lao động trí óc và lao động
chân tay để kiếm sống, do đó vẫn bị bóc lột giá trị thặng dư
Ở các nước tư bản phát triển công nhân hoạt động trong các ngành dịch vụ
trực tiếp phục vụ cho sản xuất công nghiệp như: Bưu điện, viễn thông, giao thông
vận tải hoặc gián tiếp thúc đẩy sản xuất phát triển như một số khâu trong thương
nghiệp, tiếp thị, quảng cáo tài chính, ngân hàng, đó cũng là cơng nhân làm công ăn
lương phục vụ hệ thống quản lý của các công ty.
4


Bên cạnh những công nhân làm việc trong các cơ sở sản xuất hiện đại ở các
nước tư bản phát triển vẫn cịn tồn tại những cơng nhân truyền thống hoạt động
trong các ngànhcơng nghiệp truyền thống thậm chí cịn có cả một số nghề thủ
cơng. Đặc biệt các nước chậm phát triển chiếm 3/4 dân số thế giới, GCCN chủ yếu
5 vẫn là những công nhân công nghiệp truyền thống. Do đó GCCN khơng tan đi
khơng giảm số lượng mà vẫn phát triển cả số lượng và chất lượng và hai tiêu chí cơ
bản để xem xét GCCN của Mác-Ăng ghen vẫn còn nguyên giá trị.
Đối với các nước XHCN, GCCN đã trở thành giai cấp cầm quyền và trở
thành giai cấp lãnh đạo cuộc đấu tranh cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, đại
biểu lợi ích cho nhân dân lao động, làm chủ tư liệu sản xuất chủ yếu. Trong thời kỳ
quá độ lên CNXH, GCCN được đặc trưng chủ yếu bằng tiêu chỉ thứ nhất, cịn về
tiêu chí thứ hai nếu xét tồn bộ giai cấp thì GCCN đã là người làm chủ. Nhưng
trong điều kiện kinh tế nhiều thành phần thì cịn một bộ phận công nhân làm thuê
trong các doanh nghiệp tư bản, tư nhân. Những người này một mặt cùng toàn bộ
GCCN và nhân dân lao động làm chủ xã hội nhưng xét về mặt cá nhân, họ vẫn là
người làm cơng ăn lương và bị chủ sở hữu bóc lột giá trị thặng dư. Song đã có sự
bảo trợ của nhà nước bằng luật lệ động và luật đầu tư nước ngoài. Với cách tiếp
cận như trên, quan điểm của Mác về hai tiêu chí cơ bản của GCCN cho đến nay
vẫn nguyên giá trị, vẫn là cơ sở phương pháp luận để chúng ta nghiên cứu GCCN
hiện đại, đặc biệt là để làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của GCCN trong thời đại hiện

nay. GCCN là tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với sự hình
thành, phát triển của nền cơng nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng
sản xuất có tính xã hội hố ngày càng cao; là lực lượng sản xuất tiên tiến, trực tiếp
tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan
hệ xã hội, là lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ CNTB lên CNXH;.
3. Nội dung sứ mệnh lịch sử của GCCN
Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác-Lê nin đã khẳng định GCCN hiện đại là
giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất, có khả năng tổ chức và lãnh đạo toàn
thể nhân dân lao động tiến hành cuộc cách mạng làm chuyển biến hình thái kinh tế
tư bản chủ nghĩa sang hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa, giải phóng nhân
loại khỏi ách áp bức, bắt và mọi hình thức bóc lột. Ăng ghen viết: "Thực hiện sự
nghiệp giải phóng thế giới ấy, đó là sử mệnh lịch sử của GCCN hiện đại". V.I.Lê
nin cũng chỉ rõ: "Điểm chủ yếu trong học thuyết Mác là nó đã làm sáng tỏ vai trị
lịch sử của giai cấp vô sản là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Nói một
cách khái quát nội dung sứ mệnh lịch sử của GCCN là xoá bỏ chế độ TBCN, xây
5


dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh, không có người bóc lột người trên cơ sở
cơng hữu về tư liệu sản xuất.
Thực chất sứ mệnh lịch sử của GCCN là xố bỏ chế độ áp bức, bóc lột
TBCN, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa khơng cịn áp
bức, bóc lột, đem lại tự do hạnh phúc và sự phát triển toàn diện của con người. Là
sự kết hợp 4 sự nghiệp giải phóng: giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải
phóng xã hội, giải phóng con người. Đây là một quá trình cải biến cách mạng lâu
dài kết hợp chặt chẽ giữa cải tạo với xây dựng, trong đó xây dựng là cơ bản nhất,
quyết định nhất. Đặc điểm SMLS của GCCN đó là:
Về kinh tế: SMLS của GCCN khơng phải là sự chuyển biến từ chế độ tư
hữu này sang một chế độ tư hữu khác, thay đổi hình thức bóc lột này bằng hình
thức bóc lột khác. Mà mục tiêu cuối cùng của GCCN là xoá bỏ chế độ tư hữu

TBCN các tư liệu sản xuất chủ yếu, không ngừng phát triển lực lượng sản xuất tạo
ra điều kiện khách quan để xố bỏ mọi hình thức người bóc lột người, thực hiện sự
nghiệp giải phóng triệt để con người và xã hội. Đó là nội dung cốt lõi của SMLS
của GCCN. Khơng phải xố bỏ mọi tư hữu nói chung mà xố bỏ tư hữu tư bản.
Phân biệt tư hữu với sở hữu chính đáng. Khơng ngừng thúc đẩy sự phát triển lực
lượng sản xuất. Từng bước xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất, trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất. Là một quá trình cải biến cách mạng lâu dài
gian khổ, phải trải qua nhiều bước trung gian quá độ bằng nhiều hình thức, bước đi
thích hợp. Xây dựng quan hệ sản xuất khơng phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất.
Về chính trị: Tất cả các phong trào lịch sử từ trước tới nay đều do thiễu số
thực hiện và mưu cầu lợi ích cho thiểu số. Phong trào vô sản là phong trào độc lập
của tuy đại đa số, mưu lợi ích tuyệt đại đa số (Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản).
Trước hết, GCVS thơng qua cuộc cách mạng vơ sản lật đổ chính quyền tư sản.
Thơng qua chun chính vơ sản và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tổ chức
xây dựng chế độ mới để đạt đến mục đích cuối cùng xây dựng thành cơng chủ
nghĩa cộng sản trên tồn thế giới.
Về tinh chất: Sứ mệnh lịch sử của GCCN là sự nghiệp vừa mang tính dân
tộc, vừa mang tính quốc tế, phải kết hợp chặt chẽ nghĩa vụ dân tộc và nghĩa vụ
quốc tế. GCCN ở các quốc gia dân tộc đều cùng địa vị kinh tế - xã hội và bản chất
như nhau, có lợi ích cơ bản thống nhất, có kẻ thủ chung là giai cấp tư sản và thế
lực phản động, đoàn kết quốc tế là điều kiện, nhân tố bảo đảm cho cuộc cách mạng
vô sản giành được thắng lợi. Tuy nhiên sứ mệnh lịch sử đó phải được thực hiện
6


trước tiên trong khuôn khổ từng quốc gia dân tộc. Cuộc đấu tranh chống giai cấp tư
sản, dù về mặt nội dung không phải là cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu lại
mang hình thức đấu tranh dân tộc.
4. Cơ sở khách quan quy định SMLS của GCCN

Học thuyết Mác - Ăng ghen về SMLS của GCCN chứng minh rằng SMLS
của GCCN được quy định bởi những điều kiện kinh tế - xã hội khách quan đó là:
"Cùng với sự phát triển của đại cơng nghiệp, chính cái nền tảng trên đó giai cấp tư
sản đã sản xuất và chiếm hữu sản phẩm của nó, đã bị phá sập dưới chân GCTS.
Trước hết, GCTS sản sinh ra những người đào huyệt chơn chính nó. Sự sụp đổ của
GCTS và sự thắng lợi của GCVS đều là tất yếu như nhau" (Tuyên ngôn của Đảng
cộng sản). Sứ mệnh lịch sử của GCCN là khách quan. Cơ sở khách quan quy định
sứ mệnh lịch sử của GCCN đó là: Thứ nhất, do địa vị kinh tế - xã hội của GCCN.
Địa vị kinh tế - xã hội của GCCN thể hiện là con đẻ của nền đại công nghiệp.
CNTB càng phát triển; đại công nghiệp càng phát triển làm cho mâu thuẫn giữa lực
lượng sản xuất xã hội hoá với quan hệ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất càng
gay gắt biểu hiện ra xã hội đó là mâu thuẫn.
Đến đây: "Sự phát triển của đại công nghiệp đã phá sập dưới chân giải cấp
tư sản cái nền tảng trên đó giai cấp tư sản đã xây dựng lên chế độ sản xuất và
chiếm hữu nó. Chúng chẳng những đã rên ra vũ khí tự giết mình mà cịn rèn luyện
những người sử dụng vũ khí đó là giai cấp vơ sản" (Tun ngơn Đảng cộng sản).
Do đó, GCCN đại diện cho phương thức sản xuất hiện đại GCCN sản xuất gắn liền
với máy móc hiện đại, trình độ khơng ngừng được nâng cao "trí thức hố" cùng với
sự phát triển của khoa học công nghệ, nên GCCN là lực lượng sản xuất tiên tiến,
đồng thời, GCCN lại là giai cấp duy nhất khơng tư hữu, có khả năng thiết lập chế
độ công hữu về tư liệu sản xuất. Từ đó GCCN có khả năng tổ chức, xây dựng một
phương thức sản xuất mới, hiện đại để thay thế phương thức sản xuất TBCN đã lỗi
thời lạc hậu. Đó là một tất yếu khách quan đã được lịch sử chứng minh, giai cấp
nào đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến, giai cấp đó có khả năng tổ chức, xây
dựng phương thức sản xuất mới. Với tư cách như vậy, GCCN là lực lượng quyết
định phá vỡ quan hệ sản xuất TBCN, làm cho quan hệ sản xuất dựa trên chế độ
cơng hữu phù hợp với tính chất, trình độ xã hội hố lực lượng sản xuất. Do đó, sau
khi giành chính quyền là người duy nhất có khả năng lãnh đạo xã hội xây dựng
một phương thức sản xuất mới cao hơn phương thức sản xuất TBCN. Thứ hai, do
bản chất cách mạng triệt để của GCCN. Từ địa vị kinh tế - xã hội và trải qua thực

tiễn đấu tranh đã tôi luyện cho giai cấp cơng nhân có bản chất giai cấp tiên tiến
triệt để cách mạng, tính tổ chức kỷ luật. đồn kết giai cấp, dân tộc, quốc tế. Do đó
7


GCCN có khả năng đồn kết các giai cấp khác, lôi cuốn, tập hợp, tổ chức quần
chúng đấu tranh chống giai cấp tư sản và các thế lực phản động. Đồng thời, giữ vai
trị lãnh đạo phong trào và đốn kết tồn thể giai cấp vơ sản, nhân dân lao động và
các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Sự phát triển của GCCN và phong trào
công nhân với sự kết hợp CNXHKH đã dẫn đến việc hình thành các ĐCS, GCCN
trở thành giai cấp lãnh đạo cách mạng. Từ khi có ĐCS với hệ tư tưởng cách mạng
khoa học, cuộc cách mạng của GCCN mặc dủ gặp mn vàn khó khăn, thách thức,
đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, từng bước hiện thực hoá SMLS của mình.
Đối với CNTB, đã điều chỉnh, thích nghi, thay đổi bản chất, tự hố thân
cũng GCCN, nên khơng cịn mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, dẫn
đến khơng cịn đấu tranh giai cấp, khơng còn cách mạng xã hội nên GCCN cũng
hết SMLS. Họ cho rằng trong lịch sử phát triển của xã hội lồi người, bao giờ cũng
có 2 giai cấp cơ bản trong một xã hội đấu tranh với nhau, cũng bị tiêu diệt để xuất
hiện giai cấp thứ ba thống trị xã hội. Do đó giai cấp vơ sản đấu tranh với giai cấp
tư sản sẽ dẫn đến cũng bị diệt vong, để tầng lớp trí thức xuất hiện là người lãnh
đạo, xây dựng chế độ xã hội mới. Trong tình hình đó, khơng phải khơng có những
người đã mơ hồ, phao động, tử bỏ lập trường GCCN, đồng loã với luận điệu sai
trái của giai cấp tư sản, đói xố bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, phủ nhận SMLS của
GCCN.Vì vậy, cơng tác lý luận tư tưởng hiện nay cần phải cảnh giác và kiên quyết
đấu tranh với những luận điệu sai trái đó. Ngồi ra, một số quan điểm sai lầm tuyệt
đối hố vai trị giai cấp nơng dân, tầng lớp trí thức, thực chất cũng là nhằm phủ
nhận SMLS của GCCN. Do sự phát triển và hình thức bóc lột của GCTS đối với
nơng dân, giai cấp nông dân đã trở thành người bạn đồng minh tự nhiên của
GCCN, vì thế chỉ khi nào liên minh được với giai cấp nơng dân thì cách mạng vơ
sản mới trở thành bài đồng ca, cịn khơng nó sẽ trở thành khúc hát đơn ca của con

thiên nga trước khi chết. Nhưng giai cấp nơng dân khơng có hệ tư tưởng độc lập,
bản chất hai mặt vừa là người lao động, vừa là người tư hữu nhỏ nên tính tổ chức
kỷ luật kém, cách mạng không triệt để, tư duy kinh tế manh mún, tản mạn, không
đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến, phương thức sản xuất hiện đại GCND chỉ
liên minh với GCCN, thì mới được giải phóng và giành quyền làm chủ. Thực tiễn
lịch sử cách mạng thế giới và Việt Nam đã chứng minh điều đó. Cách mạng là sự
nghiệp vĩ đại của quần chúng, trong đó, trí thức có vai trị rất quan trọng. Song tầng
lớp trí thức khơng thể lãnh đạo xã hội để xố bỏ chế độ áp bức bóc lột được vì
khơng đại diện cho phương thức sản xuất hiện đại, trí thức là một tầng lớp xã hội
khơng phải là một giai cấp độc lập. Tri thức không đại diện cho phương thức sản
xuất hiện đại, trí thức khơng có hệ tư tưởng độc lập. Nó chỉ theo và chịu ảnh hưởng
tư tưởng của giai cấp mà nó phục vụ. Tri thức khơng có lợi ích đối kháng với
8


GCTS, thậm chí cịn được GCTS mua chuộc, đối xử hậu hình để phục vụ đắc lực
cho GCTS. Trên thực tế lịch sử đội ngũ trí thức chưa bao giờ lãnh đạo cách mạng
và giành thắng lợi. Do đó, đưa trí thức thay SMLS của GCCN là xuyên tạc thế giới
quan của chủ nghĩa Mác-Lê nin, đưa mâu thuẫn cơ bản của CNTB ra khỏi lĩnh vực
sản xuất vật chất, chuyển sang lập trường giải thích các q trình xã hội theo kiểu
duy tâm.
II. VAI TRÒ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN
SỬ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CƠNG NHÂN.
1. Sự tất yếu phải có Đảng và quy luật hình thành Đảng cách mạng của
GCCN.
SMLS của GCCN là khách quan, song để biến khả năng khách quan đó
thành hiện thực, phải có những nhân tố chủ quan như: có Đảng lãnh đạo, liên minh
giai cấp, đồn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế trong toàn bộ tiến trình cách mạng
XHCN... Trong đó sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định nhất. Các nhà sáng
lập chủ nghĩa xã hội khoa học đã khẳng định: Chỉ khi nào GCCN đạt tới trình độ tự

giác bằng việc tiếp thu lý luận khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lê nin
thì phong trào cách mạng của nó mới thật sự là một phong trào chính trị độc lập.
Thơng qua cuộc đấu tranh chống GCTS, GCCN phát triển tử trình độ tự phát lên
trình độ tự giác, chuyển tử giai cấp tự nó thành giai cấp vì nó. Thế nhưng, q trình
đó diễn ra nhanh hay chậm, thuận lợi hay khó khăn phụ thuộc vào việc truyền bá
chủ nghĩa Mác- Lê nin như thế nào, có chiến thắng được các trào lưu cơ hội, xã hội
dân chủ hay không. Nếu phong trào chỉ dừng ở tự nó, chưa có lý luận chủ nghĩa xã
hội khoa học, thì phong trào công nhân chỉ mang ý thức công liên chủ nghĩa mà
thơi. Do đó, phong trào cơng nhân phải có chủ nghĩa Mác-Lê nin soi sáng, GCCN
mới đạt đến trình độ nhận thức lý luận về vai trị SMLS của mình. Chủ nghĩa MácLê nin là hệ tư tưởng của GCCN nhưng lúc đầu nó nằm ngồi phong trào cơng
nhân. Sự thâm nhập của chủ nghĩa Mác - Lê nin vào phong trào cơng nhân dẫn đến
sự hình thành chính đảng của GCCN. VI Lê nin đã chỉ ra quy luật hình thành đảng
cách mạng của GCCN đó là sự kết hợp phong trào công nhân với chủ nghĩa xã hội
khoa học. Nhưng trong mỗi nước sự kết hợp ấy là sản phẩm của lịch sử lại được
thực hiện bằng con đường đặc biệt, tuỳ theo điều kiện thời gian không gian. Sự
lãnh đạo của Đảng là một tất yếu khách quan đã được Mác - Ăng ghen khẳng định:
"Trong cuộc đấu tranh của mình chống lại quyền lực liên hiệp của các giai cấp hữu
sản, chỉ khi nào GCCN tự mình tổ chức được thành một chính đảng độc lập của
mình chống lại quyền lực liên hiệp của các giai cấp hữu sản, chỉ khi nào GCCN tự
mình tổ chức được thành một chính đảng độc lập với tất cả mọi chính đảng cũ do
9


giai cấp hữu sản lập ra thì mới có thể hành động với tư cách là một giai cấp được".
Tư tưởng trên của Mác – Ăng ghen thể hiện rằng khơng có một giai cấp nào đứng
ra trực tiếp lãnh đạo xã hội mà không thông qua tổ chức của mình. Bởi lẽ một giai
cấp gồm nhiều bộ phận và trình độ khác nhau, cần tạo ra một hạt nhân chân chính
có khả năng phản ánh được lợi ích, nguyện vọng chung và tiêu biểu cho đường lối,
chính sách của tồn thể giai cấp. Hạt nhân chính trị ấy trong xã hội hiện đại là
Đảng. Đối với GCCN cũng vậy, để thực hiện SMLS của mình, GCCN phải có

Đảng. Đảng cách mạng của GCCN phải thật sự đại biểu cho lợi ích GCCN, của
nhân dân lao động và tồn dân tộc, thật sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ
chức, là đội tiền phong, bộ tham mưu chiến đấu của GCCN, có đường lối chính
sách đúng đắn, sáng tạo, đù phẩm chất và năng lực lãnh đạo giai cấp công nhân và
nhân dân lao động thực hiện thắng lợi mục tiêu, lý tưởng của GCCN.
2. Mối quan hệ và vai trò của Đảng với GCCN
Mối quan hệ của Đảng với GCCN là mối quan hệ biện chứng giữa bộ phận
và toàn bộ. GCCN là cơ sở xã hội - giai cấp của Đảng, là nguồn bổ sung lực lượng
của Đảng. Đảng là đội tiên phong chiến đấu, lãnh tụ chính trị và Bộ tham mưu
chiến đấu của GCCN, là biểu hiện tập trung lợi Ích, nguyện vọng, phẩm chất, trí
tuệ của GCCN và dân tộc. Giữa Đảng và GCCN có mối liên hệ hữu cơ khơng tách
rời nhau, tách Đảng khỏi giai cấp chẳng khác nào tách trái tim ra khỏi cơ thể.
Những đảng viên của Đảng có thể không phải là công nhân nhưng phải là người
giác ngộ về SMLS của GCCN và đứng trên lập trường của GCCN, mang bản chất
GCCN.Với một đảng chân chính thì sự lãnh đạo của Đảng chính là sự lãnh đạo của
GCCN. Tuy nhiên không thể đánh đồng Đàng với giai cấp là một, mà Đảng là đội
tiền phong của GCCN Tính tiền phong thể hiện về lý luận: Đảng phải nắm vững
chủ nghĩa Mác-Lê nin, quy luật vận động của lịch sử, định ra được đường lối chiến
lược, sách lược đúng đắn, đưa cách mạng phát triển không ngừng. Đảng phải tiêu
biểu cho trí tuệ, lương tâm, đạo đức, là trung tâm đoàn kết mọi lực lượng để tiến
hành cách mạng; về hành động, Đảng phải gắn bỏ với quần chúng nhân dân, tiền
phong, gương mẫu đi đầu trong mọi phong trào cách mạng, vận động, lôi cuốn
quần chúng tin và làm theo Đảng.
Vai trị của Đảng với q trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của GCCN đó là
sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện tiên quyết để thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử
của GCCN. Có Đảng lãnh đạo phong trào công nhân mới chuyển từ tự phát sang tự
giác, từ giai cấp "tự nổ" sang giai cấp vì nó là một trong những nhân tố quyết định
để GCCN giác ngộ và thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình. Sứ mệnh lịch
sử của GCCN là do địa vị kinh tế - xã hội quy định, nhưng dưới CNTB không phải
10



ai trong GCCN cũng nhận thức được SMLS của mình. Do giai cấp tư sản ln tìm
mọi thủ đoạn tun truyền tham độc, mua chuộc, chia rẽ phong trào công nhân
nhằm thủ tiêu ý chí đấu tranh của GCCN để họ cam tâm làm nô lệ, làm thuê cho
giai cấp tư sản. Do GCTS thi hành những chính sách đàn áp khốc liệt các phong
trào cách mạng tiến bộ của GCCN, làm cho nhiều người thủ tiêu ý chi đấu tranh.
Do sự phá hoại của chủ nghĩa cơ hội, xét lại, các tổ chức cơng đồn vàng và các
thế lực phản động đối với phong trào công nhân.
Đảng là lãnh tụ chính trị, đội tiền phong và bộ tham mưu chiến đấu của
GCCN, chỉ có Đảng GCCN mới trở thành giai cấp lãnh đạo cách mạng và mới đi
đến thắng lợi cuối củng là xây dựng thành công CNCS. Thực tiễn lịch sử đã chứng
minh: cách mạng 1848 – 1849 ở Châu Âu, cơng xã Pa Ri khơng có Đảng nên cách
mạng thất bại. Đến cách mạng Tháng Mười Nga 1917, cách mạng Tháng 8/1945
nhờ có Đảng cách mạng đã thắng lợi và thành công rực rỡ. Thực tế sự sụp đổ của
chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu cho thấy, nếu Đảng Cộng sản không giữ
được vai trị lãnh đạo xã hội, GCCN sẽ mất chính quyền, đất nước lại rơi vào quỹ
đạo CNTB. Từ đó cũng có cơ sở để giải thích tại sao GCCN ở các nước tư bản
phát triển đồng, mạnh nhưng cách mạng XHCN chưa nổ ra, chưa giành thắng lợi vì
ở đó chưa có một Đảng mác xít Lênin nít chân chính vững mạnh lãnh đạo, có Đảng
cách mạng chân chính, GCCN mới trở thành giai cấp lãnh đạo các giai cấp, tầng
lớp nhân dân lao động nhằm thiết lập khối liên minh bền vững cơng nhân - nơng
dân - trí thức nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc.
III - GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM VÀ SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA
NĨ 1. Đặc điểm giai cấp cơng nhân Việt Nam trong quá trình hình thành
GCCN Việt Nam ra đời cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, do chính sách khai
thác thuộc của của thực dân Pháp ở Đông Dương. GCCN Việt Nam là một bộ phận
của GCCN quốc tế, có địa vị kinh tế xã hội, đặc trưng, bản chất cách mạng và
SMLS như GCCN quốc tế. Ngoài những đặc điểm chung, GCCN Việt Nam cịn có
những đặc điểm riêng đó là, ra đời trong lịng một dân tộc có truyền thống yêu

nước, kiên cường đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm. Ở GCCN nỗi nhục mất
nước cộng với nỗi khổ vì ách áp bức của đế quốc phong kiến, khiến cho tinh thần
cách mạng, nghị lực cách mạng và tính triệt để cách mạng của GCCN được nhân
lên gấp bội. GCCN Việt Nam ra đời và từng bước trưởng thành trong khơng khí sơi
sục của một loạt phong trào yêu nước và các cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp
liên tục nỗ ra, đã hun đúc ý chi bất khuất, kiên cường, cổ vũ tinh thần yêu nước và
quyết tâm đập tan xiềng xích nơ lệ của thực dân phong kiến. GCCN Việt Nam
được cổ vũ bởi phong trào cộng sản công nhân quốc tế, đặc biệt là thắng lợi cách
11


mạng Tháng Mười Nga, được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc truyền bá chủ nghĩa MácLê nin vào Việt Nam, sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân
và phong trào yêu nước Việt Nam đã dẫn đến sự hình thành chính Đảng của GCCN
Việt Nam. Đảng cộng sản Việt Nam là một đảng cách mạng chân chính, vững
mạnh về chính trị, tư tưởng và tố chức, là người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi
của dân tộc hoa cái nước lạ bước vào kỳ nguyên độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc
và đi lên CNXH.
GCCN Việt Nam tuyệt đại xuất thân từ nông dân lao động nên có mối liên
hệ tự nhiên với giai cấp nơng dân và các tầng lớp lao động khác, cùng chung lợi
ích cơ bản, cùng chung kẻ thủ, tạo điều kiện thuận lợi để GCCN xây dựng khối
liên minh công - nơng - trí thức vững chắc và khối đại đồn kết dân tộc rộng rãi,
đảm bảo cho sự lãnh đạo của GCCN trong suốt quá trình cách mạng.
2. Sứ mệnh lịch sử của GCCN VN giai đoạn hiện nay
Về GCCNVN hiện nay: Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta đang xây dựng
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước: “GCCN Việt Nam là lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm
những người lao động chân tay và trí óc, làm cơng hưởng lương trong các loại hình
sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ
có tinh chất cơng nghiệp” (Văn kiện Hội nghị TW6 khoá X).
Về sứ mệnh lịch sử của GCCNVN hiện nay: GCCN nước ta có sứ mệnh lịch

sử to lớn đó là giai cấp lãnh đạo cách mạng thơng qua đội tiền phong là ĐCSVN;
GC đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; giai cấp tiên phong trong sự
nghiệp xây dựng CNXH, lực lượng đi đầu trong CNH, HĐH đất trong sự nghiệp
xây dựng CNXH, lực lượng đi đầu trong CNH, HĐH đất nước vì mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, lực lượng nòng cốt trong
LMGCCN với GCND và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng).
Về tình hình GCCNVN hiện nay: Nghị quyết TW6 khoá X chỉ rõ: “Qua hơn
20 năm đổi mới, cùng với quá trình CNH, HĐH đất nước, GCCN nước ta đã có
những chuyển biến quan trọng, tăng nhanh về số lượng, đa dạng về cơ cấu, chất
lượng được nâng lên, đã hình thành ngày càng đơng đảo bộ phận cơng nhân tri
thức, đã đóng góp 18 trực tiếp to lớn vào q trình phát triển đất nước”. Trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, việc làm và đời sống của GCCN ngày
càng được cải thiện. Tuy nhiên, sự phát triển của GCCN chưa đáp ứng được yêu
cầu về số lượng, cơ cấu, và trình độ học vấn, chun mơn, kỹ năng nghề nghiệp,
thiếu nghiêm trọng các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành
12


nghề; tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động cịn nhiều hạn chế; đa phần cơng
nhân từ nơng dân, chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống. Một bộ phận cơng
nhân chậm thích nghi với cơ chế thị trường. Địa vị thống trị của GCCN chưa thể
hiện đầy đủ giác ngộ GC và bản lĩnh chính trị của CN khơng đồng đều, sự hiểu biết
về chính sách, pháp luật còn một số hạn chế.
3. Vận dụng học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân ở Việt Nam
hiện nay
Thứ nhất, trong lĩnh vực kinh tế: Tiếp tục tham gia thực hiện mơ hình cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế gắn với phát triển kinh tế tri thức, phải chủ
động vươn lên làm chủ khoa học - công nghệ; phải tiên phong đi đầu trong những
lĩnh vực then chốt mới có thế giữ được vai trị của mình trong cuộc cách mạng

cơng nghiệp 4.0 hiện nay. Giai cấp công nhân Việt Nam cần tham gia sâu rộng vào
sản xuất và chuỗi giá trị tồn cầu; có văn minh công nghiệp chiếm ưu thế trong sản
xuất và đời sống xã hội; phát triển nhanh và bền vững phù hợp với điều kiện của
từng giai đoạn.
Thứ hai, trong lĩnh vực chính trị - xã hội: Giai cấp cơng nhân Việt Nam góp
phần giữ vững, củng cố và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao vai trò tiên
phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên và tăng cường xây dựng, chỉnh đốn đảng;
ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thối về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện
“tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong Đảng. Thơng qua vai trò của Đảng Cộng sản
Việt Nam, giai cấp cơng nhân Việt Nam đã và đang góp phần xây dựng hệ thống
chính trị; là giai cấp tiên phong trong xây dựng chủ nghĩa xã hội; là lực lượng nòng
cốt trong liên minh giai cấp, đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thứ ba, trong lĩnh vực văn hóa - tư tưởng: Cùng với sự quan tâm của Đảng,
giai cấp công nhân phát triển về cả số lượng và chất lượng, bản lĩnh chính trị, trình
độ học vấn, chun mơn nghề nghiệp không ngừng được nâng cao. Công tác giáo
dục, đào tạo, bồi dưỡng giai cấp công nhân được quan tâm đáp ứng yêu cầu mới.
Nội dung và phương thức giáo dục chính trị, tư tưởng cho giai cấp cơng nhân
được đổi mới. Đây là một trong những nội dung quan trọng trong đổi mới công tác
tư tưởng, lý luận của Đảng nói chung, đối với giai cấp cơng nhân nói riêng. Phải
tăng dần số lượng giai cấp công nhân trong Đảng. Đảng ta đã ln thường xun
giáo dục chính trị cho giai cấp công nhân để họ nhận thức được đầy đủ vai trị của
mình trong q trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay ở nước ta.
Cùng với q trình phát triển đất nước, giai cấp cơng nhân Việt Nam đã khơng
ngừng lớn mạnh và góp phần quan trọng trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam hiện nay trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng.
13


KẾT LUẬN
Do địa vị kinh tế - xã hội quyết định, GCCN là giai cấp duy nhất có sứ mệnh

lịch sử thủ tiêu CNTB, xây dựng thành công CNXH và CNCS. Để thực hiện sứ
mệnh lịch sử của mình, GCCN phải tổ chức ra được chính đảng độc lập của mình,
liên minh với giai cấp nơng dân, đội ngũ trí thức, tiến hành cuộc cách mạng XHCN
sâu sắc, triệt để trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội để xây dựng thành công
CNXH và CNCS ở mỗi nước và trên toàn thế giới. Sứ mệnh lịch sử của GCCN
trong thời đại hiện nay là hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH.
Với tư cách là sản phẩm và là chủ thể của cách mạng công nghiệp, giai cấp
công nhân trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0 vẫn sẽ là lực lượng tiên phong
và là đại biểu cho xu thế tiến bộ, văn minh mà nhân loại hướng tới. Vì thế, học
thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân của C.Mác vẫn còn nguyên giá
trị. Việc nghiên cứu đầy đủ những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và vận dụng ở Việt Nam
sẽ khẳng định sức sống của học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
của C.Mác và bổ sung, phát triển học thuyết này ở Việt Nam hiện nay. Cùng với
xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng phát triển về số lượng và chất
lượng, bảo vệ giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, kiên quyết đấu tranh phản bác các
quan điểm sai trái, thù địch nhằm góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng;
thực hiện mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” mà
Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
14


/> /> />
15




×