TIỂU LUẬN MÔN LỊCH SỬ CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ
ĐỀ TÀI:
Phân tích, so sánh lý luận về vai trò của nhà nước trong học thuyết
kinh tế cổ điển, tân cổ điển, học thuyết Keynes với trong lý thuyết
kinh tế hỗn hợp. Nhận xét, ý nghĩa nghiên cứu.
GVHD: TS. Nguyễn Minh Tuấn
Nhóm thực hiện: Võ Hoàng An
Phan Minh Cảnh
Trịnh Phạm Doanh
Lớp: Cao học K19 - KTCT
MỤC LỤC
1
Nhóm thực hiện: Võ Hoàng An 1
Phan Minh Cảnh 1
Trịnh Phạm Doanh 1
Lớp: Cao học K19 - KTCT 1
MỤC LỤC 1
Lời mở đầu 3
1.Vai trò nhà nước trong học thuyết kinh tế chính trị tư sản cổ điển 5
2.Vai trò nhà nước trong học thuyết kinh tế tân cổ điển 7
3.Vai trò nhà nước trong học thuyết kinh tế Keynes 11
4.Vai trò nhà nước trong học thuyết nền kinh tế hỗn hợp 16
5.Nhận xét, so sánh và ý nghĩa của việc nghiên cứu vai trò nhà nước trong lịch sử
các học thuyết kinh tế 21
5.1.Nhận xét và so sánh vai trò nhà nước trong lịch sử các học thuyết kinh tế 21
5.2.Ý nghĩa của việc nghiên cứu vai trò nhà nước trong lịch sử các học thuyết
kinh tế 24
Kết luận 25
Tài liệu tham khảo 28
2
Lời mở đầu
Trong quá trình phát triển, xã hội loài người đã trải qua những hình thái
kinh tế - xã hội khác nhau. Mỗi giai đoạn phát triển khác nhau người ta lý giải
các hiện tượng kinh tế - xã hội dưới nhiều góc độ khác nhau. Cùng với sự
phát triển của xã hội loài người, kinh tế thị trường đã ra đời và phát triển. Sự
phát triển của kinh tế thị trường đã thúc đẩy sự hình thành và phát triển nhiều
học thuyết kinh tế. Mỗi học thuyết kinh tế có những quan điểm và tư tưởng
khác nhau. Tuy nhiên, xét về bản chất các học thuyết kinh tế khác nhau chủ
yếu là xác định vai trò của nhà nước và mối tương quan giữa nhà nước và thị
trường trong vận hành nền kinh tế. Trong thời gian dài, nhiều học giả, nhiều
nhà hoạch định chính sách quốc gia, nhiều nhà chính trị vẫn tiếp tục tranh cãi
câu hỏi: “nhà nước hay thị trường?” vận hành nền kinh tế. Năm 1776, Adam
Smith với tác phẩm “Nghiên cứu về bản chất và nguyên nhân sự giàu có
của các dân tộc” (An Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of
Nations) được xem là người đặt “bàn tay vô hình” cho uy lực của thị trường
tự động điều tiết tài nguyên, tạo nên của cải xã hội. Năm 1936, John Maynard
Keynes với tác phẩm “Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ” (The
General Theory of Employment, Interest and Money) được xem là người đặt
“bàn tay hữu hình” cho các hoạt động của nhà nước điều hành chính trị,
kinh tế và duy trì sự ổn định xã hội. Trong lịch sử các học thuyết kinh tế, vai
trò nhà nước được xem là một bộ phận của đối tượng nghiên cứu. Các trường
phái kinh tế khác nhau có quan điểm khác nhau về vai trò nhà nước nhưng
dưới góc độ nào nhà nước vẫn giữ một vai trò nhất định trong đời sống kinh
tế, chính trị, xã hội nhất định. Trong hệ thống các học thuyết kinh tế về vai trò
nhà nước và thị trường, người ta nhận thấy có ba quan điểm: thứ nhất, quan
điểm nhà nước không can thiệp vào kinh tế; thứ hai, quan điểm đề cao vai trò
nhà nước trong kinh tế; thứ ba, quan điểm trung dung về vai trò nhà nước
trong kinh tế. Chúng ta có thể mô hình hóa các quan điểm này theo hình sau:
3
Nguồn: GS.TSKH. Từ Điển (2009), Một số vấn đề về quản lý nhà nước trong
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc
gia, trang 43.
4
Xuất phát từ mô hình trên, bài viết sau đây không trình bày tất cả các
quan điểm về vai trò nhà nước về kinh tế mà tập trung phân tích, so sánh lý
luận về vai trò của nhà nước trong học thuyết kinh tế cổ điển với đại diện là
Adam Smith, học thuyết kinh tế tân cổ điển (cổ điển mới) với đại diện là Leon
Walras, học thuyết kinh tế của J.M. Keynes và lý thuyết về “nền kinh tế hỗn
hợp” của P.A.Samuelson; từ đó, nhận xét và rút ra ý nghĩa của việc nghiên
cứu vai trò nhà nước trong các học thuyết kinh tế đối với xã hội ngày nay.
1. Vai trò nhà nước trong học thuyết kinh tế chính trị tư sản cổ điển
Trong quá trình tan rã của chủ nghĩa trọng thương vào cuối thế kỷ XVII,
ở nước Anh và Pháp, trường phái kinh tế chính trị tư sản cổ điển (hay còn gọi
là học thuyết kinh tế tư sản cổ điển, kinh tế học tư sản cổ điển) bắt đầu xuất
hiện. Nguyên nhân là do sự phát triển của nền công nghiệp công trường thủ
công. Cuộc cách mạng tư sản Anh diễn ra từ giữa thế kỷ XVII tạo ra sự thay
đổi lớn về mặt kinh tế, chính trị, xã hội. Sự xuất hiện của tầng lớp quí tộc
mới, liên minh với giai cấp tư sản để chống lại triều đình phong kiến. Giai cấp
tư sản Anh đã trưởng thành, ít cần tới sự bảo hộ của nhà nước như trước. Các
chính sách kinh tế của nhà nước trong thời kỳ này cũng ít hà khắc hơn.Về mặt
tư tưởng, các ngành khoa học tự nhiên (toán, thiên văn), khoa học xã hội
(triết, lịch sử, văn học) phát triển đã tạo cho khoa học kinh tế có một cơ sở
phương pháp luận chắc chắn. Nổi lên ở giai đoạn kinh tế này là 3 đại diện tiêu
biểu là William Petty, Adam Smith và David Ricardo. Quan điểm nhà nước
không can thiệp vào kinh tế hay chủ nghĩa tự do kinh tế bắt đầu từ William
Petty. Ông viết: Trong chính sách kinh tế cũng như trong y học cần phải tính
đến những quá trình tự nhiên, không nên dùng những hành động cưỡng bức
riêng để chống lại những quá trình đó. Song quan điểm nhà nước không can
thiệp vào kinh tế được phát triển đầy đủ nhất ở Adam Smith bằng một tác
phẩm nổi tiếng là “Nghiên cứu về bản chất và nguyên nhân sự giàu có của
các dân tộc” xuất bản năm 1776.
5
Điểm xuất phát trong nghiên cứu lý luận kinh tế của Adam Smith là
nhân tố con người kinh tế, là những con người tham gia vào các hoạt động
trao đổi hàng hóa. Các quan hệ trao đổi hàng hóa là những quan hệ phụ thuộc
lẫn nhau về mặt kinh tế. Đó là những quan hệ xã hội bình thường, chỉ có được
ở trong chủ nghĩa tư bản mà thôi.
Quan hệ trao đổi là một thuộc tính bản chất của con người. Con người
được phân biệt với con vật nhờ thuộc tính trao đổi này. Thuộc tính trao đổi
được nảy sinh trên 2 cơ sở: là tình yêu của con người và tính ích kỷ của con
người. A.Smith cho rằng lòng ích kỷ mạnh hơn, làm nảy sinh quan hệ trao
đổi.
Trong quá trình trao đổi, con người bị chi phối bởi lợi ích cá nhân. Mọi
người chỉ biết có tư lợi và chạy theo tư lợi. Trong quá trình theo đuổi lợi ích
cá nhân đó, con người lại bị dẫn dắt bởi một “bàn tay vô hình”. “Bàn tay vô
hình” này đã đưa cá nhân đi từ chỗ đáp ứng một lợi ích khác nằm ngoài
những toan tính cá nhân. Đó là lợi ích xã hội. Vô tình làm lợi cho xã hội mà
không biết. Giải quyết lợi ích cá nhân sẽ giải quyết được lợi ích xã hội.
“Bàn tay vô hình” chính là các qui luật kinh tế khách quan, tập hợp tất cả
các qui luật kinh tế khách quan lại sẽ hình thành nên một “trật tự tự nhiên”.
Điều kiện để duy trì trật tự tự nhiên này là sản xuất và trao đổi hàng hóa.
Adam Smith đề cao tác động tự phát của lợi ích cá nhân, tác động khách quan
của các qui luật kinh tế và tác động tự phát của cơ chế thị trường. Quan điểm
của Smith là phải tự do kinh tế. Đặc trưng của nền kinh tế tự do cạnh tranh
bao gồm: thứ nhất, mọi người đều có quyền tự do tham gia thị trường; thứ hai,
Các quyết định kinh tế đều phải dựa trên các tín hiệu của thị trường; thứ ba,
cạnh tranh thị trường là quyền tự do tối thượng và thứ tư, Nhà nước không
can thiệp vào thị trường.
6
Theo quan điểm của Adam Smith, nhà nước có các chức năng cơ bản là
bảo vệ quyền sở hữu tư bản, đấu tranh chống kẻ thù bên ngoài, chống phần tử
tội phạm trong nước, thậm chí chỉ là “người gác đêm” cho chế độ tư hữu và tự
do kinh doanh. Đôi khi nhà nước cũng có thể thực hiện chức năng kinh tế khi
mà chức năng đó vượt quá khả năng của các đơn vị kinh doanh riêng lẻ như
xây dựng các công trình lớn, làm đường, thủy lợi… Còn trong điều kiện bình
thường, nhiệm vụ của nhà nước là duy trì trật tự trị an, bảo vệ tổ quốc… để
tạo ra một sự ổn định, để tư nhân hoạt động kinh tế. Vì thế, người ta xếp
Adam Smith vào trường phái tự do kinh tế.
Tuy nhiên, để thực hiện các hoạt động nhà nước cần phải có tiền. Vì vậy,
hoạt động chủ yếu của nhà nước là thu và chi ngân sách. Quan điểm của ông
thu và chi phải cân bằng. Ông chủ trương Nhà nước cần chi ít và ủng hộ
những chi phí của ngân sách nhà nước có mang lại lợi ích cho toàn xã hội. Về
thu ngân sách Adam Smith là người đặt cơ sở cho chính sách thuế của nhà
nước tư sản. Ông cho rằng, thuế cần phải phù hợp với sức và khả năng của
công dân. Ông ủng hộ thuế gián thu, chống lại thuế trực thu. Ông cũng chủ
trương xóa bỏ thuế quan bảo hộ mậu dịch. Theo ông cần phải xóa bỏ mọi cản
ngại đối với ngoại thương bởi vì tự do thương mại sẽ đem lại lợi ích cho toàn
xã hội. Việc thu chi ngân sách của nhà nước theo Adam Smith là thực hiện
chức năng quản lý hành chính của nó. Nhà nước theo Adam Smith trước sau
không nên can thiệp vào nền kinh tế.
2. Vai trò nhà nước trong học thuyết kinh tế tân cổ điển
Cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, những mâu thuẫn và những khó
khăn về kinh tế của chủ nghĩa tư bản ngày càng trầm trọng. Giai đoạn này chủ
nghĩa tư bản tự do cạnh tranh đã chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc
quyền. Điều này đã xuất hiện những hiện tượng kinh tế - xã hội mới mà lý
thuyết kinh tế của trường phái cổ điển không giải thích được. Bên cạnh đó,
7
một sự kiện lịch sử trọng đại tác động đến các tư tưởng kinh tế trong thời kỳ
này là sự xuất hiện học thuyết kinh tế của K.Marx. Trong giai đoạn này, nhiều
trường phái kinh tế chính trị học tư bản xuất hiện để phân tích nền kinh tế thị
trường. Trong đó, trường phái tân cổ điển (cổ điển mới) đóng vai trò quan
trọng với những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, chuyển sang nghiên cứu ở lĩnh vực trao đổi, lưu thông và đối
tượng nghiên cứu là các đơn vị kinh tế. Trên cơ sở đó, rút ra kết luận chung
cho toàn xã hội. Phương pháp phân tích này gọi là phương pháp phân tích vi
mô.
Thứ hai, dựa vào yếu tố tâm lý chủ quan để giải thích các hiện tượng và
quá trình kinh tế - xã hội. Đối lập với quan điểm K.Marx, trường phái tân cổ
điển ủng hộ lý thuyết giá trị chủ quan. Theo thuyết này, cùng một hàng hóa,
với người cần thì giá trị cao, với người không cần thì giá trị không cao. Giá trị
do sự đánh giá chủ quan của con người.
Thứ ba, trường phái tân cổ điển muốn biến kinh tế chính trị thành khoa
học kinh tế thuần túy, không có mối liên hệ với các điều kiện chính trị, xã hội.
Họ chủ trương tách môn kinh tế chính trị thành môn kinh tế thuần túy, môn
kinh tế - xã hội và môn kinh tế ứng dụng. Họ đưa ra khái niệm “kinh tế học”
thay cho “kinh tế chính trị học”.
Thứ tư, các nhà kinh tế học thuộc trường phái tân cổ điển tích cực sử
dụng công cụ toán học, mô hình, công thức lượng hóa vào quá trình phân tích
kinh tế, góp phần tăng tính sát thực. Họ phối hợp các phạm trù kinh tế với
phạm trù toán học để đưa ra các khái niệm mới như “lợi ích biên” (marginal
benefit), “năng suất biên” (marginal productivity), “sản phẩm biên” (marginal
product)… Vì vậy, trường phái tân cổ điển còn gọi là trường phái “biên”
(marginal).
8
Trường phái tân cổ điển phát triển nhiều nước như trường phái thành
Viene (Áo), trường phái cận biên Mỹ, trường phái thành Lausanne (Thụy sỹ),
trường phái Cambridge… Nó giữ vai trò thống trị vào những năm cuối thế kỷ
XIX và đầu thế kỷ XX.
Cũng giống như các nhà kinh tế chính trị học tư sản cổ điển, các nhà
kinh tế trường phái tân cổ điển ủng hộ nguyên tắc tự do kinh tế. Họ cho rằng,
hoạt động tự do của các doanh nhân theo sự biến động tự phát của quan hệ
cung – cầu và giá cả trên thị trường là điều kiện cơ bản cho sự phát triển và
cân đối tình hình thị trường. Đại biểu xuất sắc cho trường phái tân cổ điển về
vai trò nhà nước đối với kinh tế chính là Leon Walras (1834-1910). Ông đã
đưa ra lý thuyết về “Cân bằng tổng quát”.
Lý thuyết cân bằng tổng quát của Leon Walras được các nhà kinh tế học
tư bản đánh giá cao. Lý thuyết này phản ánh sự phát triển tư tưởng “Bàn tay
vô hình” của Adam Smith về tư tưởng tự do kinh tế.
Theo Leon Walras, trong cơ cấu nền kinh tế thị trường có ba thị trường
chủ yếu: thị trường sản phẩm, thị trường tư bản và thị trường lao động. Thị
trường sản phẩm là nơi mua bán hàng hóa, tương quan trao đổi giữa các loại
hàng hóa là giá cả của chúng. Thị trường tư bản là nơi hỏi và vay tư bản, lãi
suất tư bản cho và là giá cả của tư bản. Thị trường lao động là nơi thuê mướn
công nhân, tiền lương hay tiền công là giá cả lao động. Ba thị trường này vốn
dĩ là độc lập với nhau, nhưng lại được liên kết với nhau bởi các doanh nhân.
Doanh nhân là người sản xuất hàng hóa để bán. Muốn sản xuất doanh nhân
phải vay vốn trên thị trường tư bản, thuê công nhân trên thị trường lao động,
trên thị trường này doanh nhân là sức cầu. Sản xuất được hàng hóa doanh
nhân bán nó trên thị trường sản phẩm, ở đây doanh nhân là sức cung. Để vay
tư bản doanh nhân phải trả lãi suất, để thuê công nhân doanh nhân phải trả
tiền lương. Lãi suất và tiền lương được gọi là chi phí sản xuất.
9
Giả sử doanh nhân bán hàng với giá cả > chi phí sản xuất thì công việc
kinh doanh có lãi. Doanh nhân có xu hướng tiếp tục mở rộng qui mô sản xuất,
do đó, doanh nhân phải vay thêm tư bản, thuê thêm lao động. Như vậy sức
cầu của doanh nhân tăng lên làm cho lãi suất và tiền lương đều tăng lên. Đồng
thời, khi mở rộng sản xuất thì cung về sản phẩm cũng tăng lên, giá cả sẽ giảm
xuống. Đến một lúc nào đó, giá cả = chi phí sản xuất thì doanh nhân không có
lời nên doanh nhân ngừng sản xuất. Khi dừng sản xuất thì không vay thêm tư
bản, không thuê thêm công nhân, không tăng cung về hàng hóa. Nhờ vậy, giá
cả hàng hóa tư bản và lao động, tức lãi suất và tiền lương ổn định. Từ đó, làm
cho giá hàng tiêu dùng ổn định. Ba thị trường đều đạt trạng thái cân bằng.
Ông gọi là sự cân bằng tổng quát giữa các thị trường. Điều kiện để có sự cân
bằng là có sự cân bằng giữa thu nhập bán hàng và chi phí sản xuất. Trong nền
kinh tế tự do cạnh tranh, trạng thái cân bằng này được thực hiện thông qua sự
dao động tự phát của cung cầu và giá cả hàng hóa trên thị trường.
Lý thuyết cân bằng tổng quát đã làm yên lòng các nhà tư bản do không
có khủng hoảng. Trong kinh tế học tư bản, lý thuyết này phản ánh sự phát
triển tư tưởng “Bàn tay vô hình” của Adam Smith. Song trên thực tế, trạng
thái cân bằng tông quát theo mô hình Leon Walras là không hề có dưới chủ
nghĩa tư bản. Trạng thái cân bằng ấy giống như trạng thái cân bằng của trao
đổi, là một trạng thái lý tưởng và không hiện thực: nó chỉ xảy ra khi nào giá
bán tuyệt đối ngang với giá thành của người sản xuất, và cũng chỉ xảy ra khi
nào cung và cầu thực sự của sản phẩm là tuyệt đối ngang nhau.
Trước thực tế đó, các nhà kinh tế học tân cổ điển tiếp tục phát triển
cácquan điểm kinh tế của trường phái này. Các học thuyết kinh tế thời kỳ này
không những chỉ đi sâu vào việc phân tích những vấn đề cung cầu, giá cả
trong điều kiện cạnh tranh, mà còn chú ý tới các vấn đề về cạnh tranh và độc
quyền, khủng hoảng, thất nghiệp, phúc lợi kinh tế, thuyết số lượng về tiền.
10
Đặc biệt là các học thuyết kinh tế của họ ít nhiều mang sắc thái về tư tưởng
nhà nước can thiệp vào kinh tế và phân tích vĩ mô.
3. Vai trò nhà nước trong học thuyết kinh tế Keynes
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 1929-1933 chứng tỏ học thuyết
“tự điều tiết” kinh tế của trường phái cổ điển và tân cổ điển thiếu tính chất xác
đáng. Lý thuyết về “bàn tay vô hình” của Adam Smith, học thuyết “cân bằng
tổng quát” của Leon Walras tỏ ra kém hiệu nghiệm. Các học thuyết này
không đảm bảo nền kinh tế phát triển lành mạnh. Sự phát triển nhanh chóng
của lực lượng sản xuất đòi hỏi sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế ngày
càng tăng. Điều này đòi hỏi phải có học thuyết kinh tế mới có khả năng thích
nghi với tình hình mới. Từ đó, xuất hiện học thuyết kinh tế tư bản có điều
tiết. Người sáng lập ra lý thuyết này là John Maynard Keynes (1884-1946)
với tác phẩm nổi tiếng nhất là “Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền
tệ” xuất bản năm 1936. Đặc điểm chủ yếu của trường phái Keynes là:
- Thứ nhất, sử dụng phương pháp phân tích vĩ mô những chỉ tiêu của nền
kinh tế vĩ mô như sản lượng, thu nhập, việc làm, giá cả, đầu tư và tiết
kiệm. J.M. Keynes là người xây dựng nên môn học kinh tế học vĩ mô
hiện đại.
- Thứ hai, mục tiêu học thuyết của ông là chống thất nghiệp, giải quyết
công ăn việc làm. Ông coi trọng sức cầu trong nền kinh tế, nên phương
pháp nghiên cứu của ông gọi là phương pháp trọng cầu.
- Thứ ba, J.M. Keynes cho rằng chính tâm lý chủ quan của dân cư là đòn
bẩy tác động mạnh đến nền kinh tế vĩ mô. Vì vậy, đi sâu nghiên cứu
tâm lý tiêu dùng, tâm lý tiết kiệm, tâm lý ưa chuộng tiền mặt.
11
- Thứ tư, ông đã vận dụng lý luận cận biên, các phương pháp toán học,
đồ thị để phân tích các hiện tượng kinh tế và đưa ra một mô hình kinh
tế vĩ mô gồm 3 nhóm đại lượng:
o Một là, đại lượng xuất phát. Nó là nhóm đại lượng không thay
đổi hoặc thay đổi chậm. Đó là nguồn vật chất như tư liệu sản
xuất, số lượng sức lao động, mức độ trang bị kỹ thuật của sản
xuất, trình độ chuyên môn hóa của người lao động, cơ cấu của
chế độ xã hội.
o Hai là, đại lượng khả biến độc lập. Đó là nhóm khuynh hướng
tâm lý chủ quan như khuynh hướng tiêu dùng, tiết kiệm, sự ưa
chuộng tiền mặt… Nhóm này là cơ sở hoạt động của mô hình, là
đòn bẩy bảo đảm cho hoạt động của tổ chức kinh tế tư bản chủ
nghĩa.
o Ba là, đại lượng khả biến phụ thuộc. Đại lượng này cụ thể hóa
tình trạng kinh tế như khối lượng việc làm, thu nhập quốc dân
tính bằng đơn vị tiền công. Đó là các chỉ tiêu quan trọng cấu
thành nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Các đại lượng này thay đổi
theo sự tác động của các biến cố độc lập.
Giữa đại lượng khả biến độc lập và phụ thuộc có mối quan hệ với nhau.
Sản lượng Q, thu nhập R, tiêu dùng C, đầu tư I, tiết kiệm S thì:
Thu nhập = giá trị sản lượng = tiêu dùng + đầu tư; hay R=Q=C+I
Tiết kiệm = thu nhập – tiêu dùng; hay S = R-C
Từ đó suy ra đầu tư = tiền tiết kiệm hay I = S. Theo các nhà kinh tế học
tư sản, đầu tư và tiết kiệm là hai đại lượng quan trọng. J.M. Keynes chỉ ra
rằng việc điều tiết vĩ mô nhằm giải quyết việc làm, tăng thu nhập đòi hỏi phải
12
sử dụng các công cụ chính sách kinh tế nhằm khuyến khích đầu tư và giảm
tiết kiệm. Có như vậy mới giải quyết được tình trạng khủng hoảng và thất
nghiệp.
Giống trường phái tân cổ điển, phương pháp nghiên cứu của Keynes dựa
trên cơ sở tâm lý chủ quan. Song lý thuyết tân cổ điển đi sâu khai thác tâm lý
cá biệt, cá nhân. Keynes chú ý đến tâm lý xã hội, số đông, còn gọi là các qui
luật tâm lý. Ý đồ của ông là muốn nhà nước tác động vào các qui luật tâm lý
để giải quyết những vấn đề kinh tế.
So sánh học thuyết kinh tế tân cổ điển với trường phái Keynes, chúng ta
thấy có sự giống và khác nhau như sau:
- Sự giống nhau là: thứ nhất, cùng có có tư tưởng cận biên, đi theo
nguyên lý cận biên; thứ hai, phương pháp nghiên cứu dựa trên cơ sở tâm lý
chủ quan; thứ ba, cùng sử dụng công cụ toán học trong phân tích; thứ tư, các
học thuyết này rất quan tâm đến vấn đề trao đổi, tiêu dùng và nhu cầu.
- Sự khác nhau là: thứ nhất, lý thuyết tân cổ điển đề cao vai trò của tự do
kinh tế của cơ chế thị trường và phản đối can thiệp của nhà nước. Ngược lại,
J.M. Keynes đề cao sự can thiệp của nhà nước; thứ hai, về phương pháp luận,
tân cổ điển sử dụng phương pháp vi mô, nên yếu tố tâm lý chủ yếu khai thác
yếu tố tâm lý cá nhân. Còn Keynes sử dụng phương pháp vĩ mô, nên yếu tố
tâm lý của Keyness quan tâm đến những khuynh hướng tâm lý xã hội, tâm lý
chung có thể khái quát thành quy luật tâm lý. Ý đồ của J.M.Keynes là muốn
nhà nước tác động vào các quy luật tâm lý để giải quyết những vấn đề kinh tế.
Về vai trò nhà nước đối với kinh tế, J.M.Keynes đã lý giải trong lý
thuyết chung về việc làm và rút ra bốn nội dung cơ bản sau:
13
Thứ nhất, Nhà nước phải có chương trình kinh tế đầu tư trên qui mô lớn
và thông qua đó mà thực hiện sự can thiệp vào các quá trình kinh tế. Ông cho
rằng, để đảm bảo sự cân bằng của nền kinh tế thì không thể dựa vào cơ chế thị
trường tự phát mà phải bằng sự can thiệp tích cực của nhà nước vào kinh tế,
tăng cường “Bàn tay nhà nước”. Thông qua những hỗ trợ của nhà nước như là
những biện pháp để duy trì cầu đầu tư, thông qua những hỗ trợ tín dụng, hỗ
trợ từ ngân sách nhà nước, thông qua hệ thống các đơn đặt hàng của nhà
nước, hệ thống thu mua của nhà nước. Mục đích để tạo ra sự ổn định về môi
trường kinh doanh, ổn định thị trường. Từ đó, ổn định về lợi nhuận cho các
doanh nghiệp. Trong thời kỳ khủng hoảng, ông chủ trương nhà nước cần phải
có chính sách kinh tế tăng đầu tư và chi tiêu nhà nước để nền kinh tế ổn định.
Thứ hai, J.M. Keynes chủ trương sử dụng chính sách tài chính tín dụng
và lưu thông tiền tệ. Ở trong lý thuyết của Keynes, chúng cũng là những công
cụ quan trọng. Mục đích là để tạo lòng tin và sự lạc quan cho các nhà đầu tư.
Từ đó, doanh nhân tích cực đầu tư. Để đạt được mục đích này, ông chủ
trương tăng thêm khối lượng tiền đưa vào lưu thông, tăng giá cả hàng hóa
(nếu các yếu tố đầu vào chưa kịp điều chỉnh giá), sẽ làm tăng phần lời triển
vọng, tăng hiệu quả cận biên của tư bản, tăng cận biên đầu tư tư bản. Khi khối
lượng tiền đưa vào lưu thông tăng lên, cũng sẽ dẫn tới lạm phát. Tuy nhiên,
lạm phát không phải lúc nào cũng có hại, nhà nước có thể chủ động tạo ra lạm
phát, nếu kiểm soát được lạm phát sẽ làm giảm lãi suất, tăng cận biên đầu tư
tư bản. Ông đề xuất để trang trải những khoản chi tiêu của nhà nước, bù đắp
những khoản thâm hụt của ngân sách nhà nước và mở rộng đầu tư của nhà
nước. Keynes chủ trương in thêm tiền giấy. Điều này có thể dẫn đến lạm phát
nhưng có thể kích thích kinh tế. Ông cũng đề xuất dùng lạm phát nhưng
không để rơi vào “bẫy thanh khoản”. Để thực hiện sự điều tiết kinh tế,
Keynes chủ trương tăng thuế thu nhập, phát hành công trái, trái phiếu để bổ
sung nguồn thu cho ngân sách. Đối với thuế thu nhập đối với người lao động,
14
ông cho rằng việc này làm giảm đi phần tiết kiệm của dân cư. Thực chất nhà
nước đã giúp họ chuyển khoản tiết kiệm sang đầu tư. Nhưng vấn đề là phải
làm giảm sự phản ứng của dân chúng, ông chủ trương tăng việc làm.
Thứ ba, chính sách việc làm. Để nâng cao tổng cầu và việc làm, Keynes
chủ trương khuyến khích mọi hoạt động đầu tư để tạo việc làm. Theo ông,
đầu tư vào lĩnh vực nào cũng tốt miễn tạo ra việc làm. Kể cả những hoạt động
đầu tư cho sản xuất vũ khí, chạy đua vũ trang, quân sự hóa nền kinh tế. Có
việc làm sẽ dẫn đến tăng thu nhập, tăng tiêu dùng và cuối cùng chống được
khủng hoảng kinh tế. Ông cũng chủ trương xây dựng một cơ chế phối hợp
giữa các nước để chống lại khủng hoảng kinh tế mang tính chất toàn cầu. Đây
là nền tảng xây dựng hệ thống Bretton Woods năm 1944 nhằm chống phá giá
tiền tệ có tính cạnh tranh bằng cách xây dựng hệ thống “tỷ giá cố định tương
đối”. J.M.Keynes cũng đề xuất giảm thặng dư thương mại của các nước để ổn
định kinh tế của các quốc gia.
Thứ tư, Keynes chủ trương khuyến khích tiêu dùng cá nhân đối với mọi
tầng lớp, kể cả người lao động, doanh nhân và nhà tư bản. Nhưng những biện
pháp đó của ông không đạt được mục đích vì tăng thuế, chính sách “ướp lạnh
tiền lương” và tăng giá cả hàng hóa.
Trong thời gian dài, học thuyết của J.M.Keynes giữ vị trí thống trị trong
hệ tư tưởng kinh tế tư sản. Nó được vận dụng hầu hết ở các nước tư bản. Các
nhà kinh tế Mỹ đánh giá cao học thuyết Keynes, coi đó là liều thuốc chữa cho
chủ nghĩa tư bản Tây Âu khỏi ốm yếu và làm cho nền kinh tế Mỹ khỏe mạnh.
Họ đã bổ sung lý thuyết việc làm của Keynes bằng nhiều chủ trương và biện
pháp khác nhau. Các nhà kinh tế Mỹ coi hoạt động ngân sách nhà nước là cơ
chế chủ yếu để điều tiết kinh tế, coi nó là công cụ ổn định bên trong của nền
kinh tế. Khi nền kinh tế hưng thịnh thì sẽ giảm thuế, tăng trợ cấp xã hội. Để
tiếp sức cho các công cụ ổn định bên trong đó, họ còn đưa ra biện pháp điều
15
hòa. Theo họ, trong thời kỳ hưng thịnh thì giảm chi tiêu nhà nước, còn trong
thời kỳ khủng hoảng thì tăng chi tiêu nhà nước, dù có thâm thụt ngân sách để
bù lại sự giảm sút chi từ phía tư nhân. Họ coi chiến tranh là phương tiện tốt
nhất để ổn định thị trường, thoạt khỏi khủng hoảng thất nghiệp.
Hạn chế lớn nhất của học thuyết Keynes là xem nhẹ, bỏ qua vai trò của
cơ chế thị trường, của tự do kinh tế. J.M.Keynes quá say sưa với vai trò điều
chỉnh can thiệp của nhà nước và thổi phồng vai trò của nhà nước. Điều này
cũng dẫn đến khủng hoảng do nền kinh tế kém hiệu quả.
4. Vai trò nhà nước trong học thuyết nền kinh tế hỗn hợp
Lý thuyết về “nền kinh tế hỗn hợp” là tư tưởng trung tâm của kinh tế học
trường phái chính hiện đại, thống trị thế giới từ những năm thập niên 1970.
Trong lịch sử các học thuyết kinh tế, các nhà kinh tế cổ điển và tân cổ điển
say sưa với “bàn tay vô hình”; các nhà kinh tế theo trường phái Keynes và
Keynes mới say sưa với “bàn tay hữu hình”; trong khi đó P.A. Samuelson
chủ trương phát triển kinh tế phải dựa vào cả “hai bàn tay” là cơ chế thị
trường và cơ chế nhà nước. Ông cho rằng “điều hành một nền kinh tế không
có chính phủ hoặc thị trường thì cũng như định vỗ tay bằng một bàn tay”.
Cơ chế thị trường là một hình thức tổ chức kinh tế trong đó cá nhân
người tiêu dùng và các nhà kinh doanh tác động qua lại lẫn nhau thông qua thị
trường để giải quyết 3 vấn đề trung tâm của tổ chức kinh tế là sản xuất ra cái
gì? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai? Cơ chế thị trường mang nặng yếu
tố tự phát, nhưng lại “không phải là sự hỗn hợp mà là trật tự kinh tế”. Cơ chế
thị trường là một cơ chế hết sức tinh vi để mà phối hợp một cách không tự
giác hoạt động của người tiêu dùng và các nhà kinh doanh thông qua hệ thống
giá cả thị trường. Giá cả chính là phương tiện phát tín hiệu, nó có chức năng
thông tin. Mọi sự phân tích đánh giá tình hình của thị trường bắt đầu từ giá cả.
16
Thông qua sự vận động của giá cả trên thị trường mà các nhà kinh doanh tự
định hướng cho mình trong việc giải quyết các vấn đề sản xuất cái gì? Như
thế nào? cho ai? Người tiêu dùng cũng thông qua sự vận động của giá cả mà
đưa ra những quyết định lựa chọn.
Nói đến thị trường và cơ chế thị trường là nói đến hàng hoá, người bán,
người mua và giá cả. Nền kinh tế thị trường chịu sự thống trị của hai ông vua:
người tiêu dùng và kỹ thuật. Ông vua thứ nhất, người tiêu dùng nắm trong tay
công cụ, phương tiện của trao đổi, thống trị thị trường vì người tiêu dùng bao
giờ cũng ở thế chủ động và có quyền lựa chọn mua hay không mua hàng hoá
doanh nghiệp sản xuất ra. Ông vua thứ hai là kỹ thuật, có ảnh hưởng trực tiếp
tới năng suất, chất lượng, chi phí, hình thức, mẫu mã sản phẩm. Trong nền
kinh tế thị trường, các hãng cạnh tranh với nhau bằng giá cả, mẫu mã. Kỹ
thuật có ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp
trên thị trường. Các doanh nghiệp muốn đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng
thì phải thường xuyên cải tiến, đổi mới về kỹ thuật.
Trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận được xác định là động lực trực
tiếp của các nhà kinh doanh. Vì lợi nhuận, các nhà kinh doanh sẵn sàng cung
cấp và sản xuất bất kỳ loại sản phẩm nào mà thị trường có nhu cầu. Cũng vì
nó mà họ thường xuyên phải lao vào cạnh tranh để cải tiến, đổi mới kỹ thuật,
hiện đại hóa sản xuất.
Cạnh tranh là động lực của nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh cũng được
xem là môi trường của nền kinh tế thị trường. Thông qua cạnh tranh thì các
doanh nghiệp có thể trưởng thành lên mà cũng có thể thất bại. Song nền kinh
tế sẽ trở nên cơ động hơn, linh hoạt hơn, có khả năng thích ứng cao hơn.
Cơ chế thị trường đã mang lại một số ưu điểm như một nền kinh tế vận
động theo cơ chế thị trường sẽ cho nó đạt được những thành tựu to lớn về
17
tăng trưởng và phát triển, về thỏa mãn nhu cầu, về tính cơ động và linh hoạt
của nền kinh tế. Những thành tựu này khó có thể đạt được ở trong một nền
kinh tế không phải là thị trường. Tuy nhiên bàn tay vô hình đôi khi cũng đưa
nền kinh tế tới những sai lầm. Đó chính là khuyết tật của hệ thống kinh tế thị
trường. những khuyết tật này có thể do tác động bên ngoài gây nên, như ô
nhiễm môi trường mà doanh nghiệp không phải trả giá cho sự huỷ hoại đó
hoặc là những thất bại thị trường do tình trạng độc quyền phá hoại cơ chế tự
do cạnh tranh; hoặc là các tệ nạn như khủng hoảng, thất nghiệp. Cuối cùng là
sự phân phối thu nhập bất bình đẳng. Để đối phó với những khuyết tật của cơ
chế thị trường, nền kinh tế hỗn hợp đã phối hợp “bàn tay vô hình” với “bàn
tay hữu hình” như thuế khoá, chi tiêu và luật lệ của chính phủ.
Vai trò của nhà nước trong kinh tế thị trường thể hiện qua 4 chức năng
như sau:
Chức năng thứ nhất là thiết lập khuôn khổ pháp luật. Chức năng này đã
vượt ra ngoài khuôn khổ của kinh tế học. Chính phủ đề ra các quy tắc trò chơi
kinh tế mà các doanh nghiệp, người tiêu dùng và bản thân nhà nước cũng phải
tuân thủ. Những qui tắc trò chơi kinh tế thực chất là hệ thống pháp luật kinh
tế. Các khuôn khổ pháp luật có thể tác động sâu sắc tới ứng xử kinh tế của
con người.
Chức năng thứ hai là sửa chữa những thất bại của thị trường để thị
trường hoạt động có hiệu quả. Trong chức năng này, nhà nước có 4 nhiệm vụ:
Thứ nhất, Nhà nước cần can thiệp để hạn chế độc quyền, đảm bảo tính
hiệu quả của cạnh tranh thị trường. Các tổ chức độc quyền thường lợi dụng ưu
thế của mình để quy định giá cả nhằm thu lợi nhuận. Điều này làm tính hiệu
quả của thị trường bị giảm. Nhà nước cần đưa ra các luật chống độc quyền và
18
luật lệ kinh tế để làm tăng hiệu quả của hệ thống thị trường cạnh tranh không
hoàn hảo.
Thứ hai, những tác động bên ngoài cũng dẫn đến tính không hiệu quả
của thị trường và đòi hỏi nhà nước phải can thiệp. Tác động bên ngoài xảy ra
khi doanh nghiệp hoặc con người tạo ra chi phí – lợi ích cho doanh nghiệp
khác, hoặc người khác mà các doanh nghiệp hoặc con người đó không được
nhận đúng những lợi ích mà họ cần được nhận hoặc không phải trả đúng số
chi phí mà họ phải trả.
Thứ ba, chính phủ phải đảm nhận việc sản xuất các hàng hoá công cộng.
Theo các nhà kinh tế hàng hoá tư nhân là hàng hoá nếu một người dùng thì
người khác không dùng được nữa. Tuy nhiên, hàng hóa công cộng có đặc
trưng:
+ Về mặt kỹ thuật, một người tiêu dùng không làm giảm số lượng
sẵn có đối với người khác.
+ Không thể loại trừ bất cứ ai ra khỏi việc tiêu dùng này, trừ khi
phải trả giá quá đắt.
Ích lợi hàng hóa công cộng đối với tư nhân là rất nhỏ vì vậy họ không
muốn sản xuất. Ngoài ra có nhiều hàng hóa công cộng có ý nghĩa quan trọng
đối với quốc gia như quốc phòng, luật pháp trật tự trong nước không thể giao
cho tư nhân nên nhà nước phải sản xuất.
Thứ tư, thuế. Trên thực tế, phần chi phí của chính phủ phải được trả bằng
tiền thuế thu được. Tất cả mọi người đều phải chịu theo luật thuế. Toàn bộ
công dân tự đặt mình gánh nặng thuế trên vai và mỗi công dân cũng được
hưởng phần hàng hóa công cộng do chính phủ cung cấp.
19
Chức năng thứ ba là đảm bảo sự công bằng. Trong cơ chế thị trường, sự
phân hoá giàu nghèo, bất bình đẳng là tất yếu. Nhà nước cần phải có chính
sách để phân phối thu nhập. Công cụ quan trọng nhất của chính phủ là thuế
luỹ tiến, đánh thuế trên người giàu theo tỷ lệ thu nhập lớn hơn người nghèo.
Bên cạnh thuế, nhà nước cần có hệ thống hỗ trợ cho người già, người khuyết
tật, bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thất nghiệp và các chính sách trợ cấp xoá đói
giảm nghèo.
Chức năng thứ tư là ổn định kinh tế vĩ mô. Từ khi ra đời, chủ nghĩa tư
bản đã từng gặp những thăng trầm kinh tế theo chu kỳ. Do vậy, nhà nước cần
có chính sách can thiệp để giảm bớt những biến động theo chu kỳ kinh tế.
Chính phủ phải ban hành những chính sách kinh tế thích ứng với từng giai
đoạn của chu kỳ thông qua những quyền lực về tài chính, tiền tệ của nhà
nước. Cơ sở về lý thuyết để hình thành quyền lực về tài chính của nhà nước là
của lý thuyết Keynes về “bàn tay hữu hình”. Còn cơ sở về lý thuyết để hình
thành quyền lực về tiền tệ của nhà nước là của lý thuyết tiền tệ của Friedman.
Vì vậy, chính sách về tiền tệ, tài chính có thể nới lỏng hoặc thắt chặt là tùy
từng giai đoạn kinh tế.
Trong quá trình thực hiện vai trò kinh tế, chính phủ phải đưa ra những
quyết định lựa chọn. Lựa chọn của nhà nước gọi là những phương án lựa chọn
công cộng, phải dựa trên cơ sở những phương án lựa chọn cá nhân. Trên thực
tế, không phải lúc nào nhà nước cũng lựa chọn đúng. Điều đó chứng tỏ vai trò
kinh tế của nhà nước cũng có những giới hạn. Để bổ sung, khắc phục những
giới hạn này thì vai trò kinh tế của nhà nước cần được kết hợp với cơ chế thị
trường, hình thành nên một “nền kinh tế hỗn hợp”. Trong “nền kinh tế hỗn
hợp” có cả cơ chế thị trường và chính phủ. Cơ chế thị trường xác định giá cả
và sản lượng trong nhiều lĩnh vực, trong khi đó, chính phủ điều tiết thị trường
bằng các chương trình thuế, chi tiêu và luật lệ. Cả hai bên thị trường và chính
phủ đều có tính chất thiết yếu.
20
5. Nhận xét, so sánh và ý nghĩa của việc nghiên cứu vai trò nhà nước
trong lịch sử các học thuyết kinh tế
5.1. Nhận xét và so sánh vai trò nhà nước trong lịch sử các học thuyết
kinh tế
Qua nghiên cứu vai trò nhà nước về kinh tế trong các học thuyết kinh tế
từ cổ điển, tân cổ điển, trường phái Keynes và lý thuyết về nền kinh tế hỗn
hợp, chúng ta có thể rút ra một số nhận xét và so sánh như sau:
Thứ nhất, trong lịch sử phát triển các học thuyết kinh tế từ cổ điển đến
nay có ba quan điểm về vai trò nhà nước trong nền kinh tế. Một là, quan điểm
nhà nước không can thiệp vào kinh tế; hai là, nhà nước can thiệp mạnh vào
nền kinh tế; ba là, quan điểm trung dung. Quan điểm nhà nước không can
thiệp vào kinh tế xuất hiện vào thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản ở Anh và
Pháp. Quan điểm này được đề cập trong học thuyết kinh tế chính trị tư bản cổ
điển với đại diện tiêu biểu là Adam Smith. Với tác phẩm “Nghiên cứu về bản
chất và nguyên nhân sự giàu có của các dân tộc” năm 1776, Adam Smith
được xem là cha đẻ của quan điểm tự do cạnh tranh kinh tế. Tư tưởng này
được gọi “bàn tay vô hình” của thị trường. Kế thừa quan điểm của học thuyết
kinh tế cổ điển, các nhà kinh tế tân cổ điển tiếp tục phát triển tư tưởng tự do
cạnh tranh trên cơ sở lý thuyết “cân bằng tổng quát” của Walras. “Bàn tay vô
hình” này tiếp tục phát triển trong lý thuyết “nền kinh tế hỗn hợp” của
P.A.Samuelson. Quan điểm nhà nước can thiệp tích cực vào nền kinh tế được
phát triển sau cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933. Đại diện cho quan điểm
này là J.M.Keynes với tác phẩm nổi tiếng là “Lý thuyết chung về việc làm,
lãi suất và tiền tệ” xuất bản năm 1936. Quan điểm này cũng được P.A.
Samuelson kế thừa và phát triển trong lý thuyết “nền kinh tế hỗn hợp”.
Thứ hai, xu hướng dịch chuyển quan điểm về vai trò nhà nước từ thái
cực là nhà nước không can thiệp sang thái cực nhà nước can thiệp tích cực và
21
cuối cùng là quan điểm trung dung. Quan điểm trung dung là đặc trưng cơ
bản của nền kinh tế thị trường hiện đại.
Thứ ba, đặc trưng của học thuyết kinh tế cổ điển và tân cổ điển là duy trì
và khuyến khích rộng rãi tự do cạnh tranh, tự do trao đổi, tự do tiến hành các
hoạt động sản xuất kinh doanh trên cơ sở tín hiệu thị trường và sự điều tiết
của thị trường. Mọi hoạt động của các chủ thể kinh doanh và sự vận động của
giá cả thị trường đều phải tuân theo quy luật khách quan của nền kinh tế thị
trường mà Adam Smith gọi là “bàn tay vô hình”. Theo quan điểm cổ điển và
tân cổ điển thì vai trò nhà nước trong nền kinh tế chỉ là người “giữ nhà”,
nghĩa là nhà nước can thiệp rất hạn chế và mang tính chất gián tiếp vào hoạt
động kinh tế. Xuất phát từ quan điểm “bàn tay vô hình” của Adam Smith, lý
thuyết về “cân bằng tổng quát” của Leon Walras đã làm sáng tỏ cơ chế cân
bằng của thị trường. Học thuyết cổ điển và tân cổ điển đã đánh dấu cột mốc
quan trọng cho sự hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường. Đây chính
là nền tảng để cho các nhà tư tưởng kinh tế sau này phát triển và luận giải cơ
chế thị trường. Trong trường phái chính danh hiện đại mà tiêu biểu là
P.A.Samuelson đã vận dụng một cách sáng tạo những quan điểm của các bậc
tiền bối để xây dựng nên quan điểm về cơ chế thị trường rất có giá trị khoa
học và thực tiễn trong bối cảnh ngày nay. Đặc biệt các quan điểm này có thể
luận giải cơ chế thị trường trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế
quốc tế.
Thứ tư, đặc trưng của trường phái học thuyết Keynes là Nhà nước phải
can thiệp tích cực vào hoạt động kinh tế, gọi là “Bàn tay hữu hình”. Thông
qua việc nghiên cứu các đại lượng tổng quát như tổng cầu, tổng cung, tổng
đầu tư, tổng việc làm, tổng thu nhập và mối quan hệ giữa chúng và thông qua
cơ sở phân tích tâm lý chủ quan của số đông và tâm lý xã hội, các nhà học
thuyết theo trường phái Keynes đã giải thích các hiện tượng kinh tế ở góc độ
vĩ mô. Học thuyết Keynes đề cao tiêu dùng và những biện pháp kích cầu tiêu
22
dùng và đầu tư. Theo trường phái này, nhà nước cần phải tăng chi tiêu trong
thời kỳ khủng hoảng cho dù có thâm thụt ngân sách nhằm giúp quốc gia vượt
qua khủng hoảng nhờ tạo ra nhiều việc làm, tăng thu nhập và tăng tiêu dùng.
So sánh với học thuyết cổ điển và tân cổ điển thì học thuyết của trường phái
Keynes đối lập hoàn toàn. Đó là sự thay đổi quan điểm về vai trò nhà nước từ
vai trò là người “giữ nhà” sang vai trò nhà nước phải can thiệp tích cực vào
nền kinh tế. Vai trò nhà nước trong học thuyết của Keynes đã được ứng dụng
rộng rãi ở các nước trên thế giới và đạt được nhiều thành công đáng kể. Sở dĩ
như vậy là vì các cuộc khủng hoảng kinh tế và chiến tranh thế giới đã minh
chứng cho sự thất bại của thị trường theo quan điểm của học thuyết cổ điển và
tân cổ điển. Đồng thời, trên thế giới thời kỳ này xuất hiện các quốc gia XHCN
theo học thuyết Mác-Lênin. Nhà nước các nước XHCN đã chủ trương kế
hoạch hóa nền kinh tế quốc dân, tuyệt đối hóa vai trò nhà nước và xóa bỏ
hoàn toàn thị trường. Tuy nhiên, quan điểm tuyệt đối hóa vai trò nhà nước
trong nền kinh tế đã làm cho nền kinh tế nhiều quốc gia trên thế giới tỏ ra
kém hiệu quả. Quan điểm về vai trò nhà nước can thiệp tích cực vào nền kinh
tế cũng được các nhà kinh tế thị trường hiện đại kế thừa và phát huy. Trong
đó, lý thuyết “nền kinh tế hỗn hợp” đã thành công trong việc phát triển quan
điểm này.
Thứ năm, đặc trưng của lý thuyết về nền kinh tế hỗn hợp là có “hai bàn
tay” điều tiết nền kinh tế. “Bàn tay vô hình” của thị trường điều tiết nền kinh
tế ở tầm vi mô như giá cả, sản lượng và “Bàn tay hữu hình” của nhà nước
điều tiết nền kinh tế ở tầm vĩ mô như thuế, luật lệ, chính sách. Lý thuyết về
nền kinh tế hỗn hợp đã kế thừa và phát huy những điểm tích cực và khắc phục
được những điểm hạn chế của các học thuyết kinh tế cổ điển, tân cổ điển và
Keynes. Lý thuyết về nền kinh tế hỗn hợp là cơ sở cho hình thành chính sách
điều tiết nền kinh tế của nhà nước. Từ đó, hình thành nên tư tưởng các quốc
gia đi sau, chậm phát triển có thể tăng tốc đuổi theo các nước khác bằng cách
23
chính phủ các nước này tăng cường can thiệp vào nền kinh tế ở tầm vĩ mô.
Đồng thời lý thuyết nền kinh tế hỗn hợp cũng đã xác định được rõ 4 chức
năng cơ bản của nhà nước trong nền kinh tế: thiết lập khuôn khổ luật pháp,
sửa chữa khuyết tật thị trường để thị trường hoạt động hiệu quả, đảm bảo
công bằng và ổn định kinh tế vĩ mô. Do vậy, lý thuyết “nền kinh tế hỗn hợp”
ra đời kế thừa một phần quan điểm của học thuyết cổ điển, tân cổ điển về
“bàn tay vô hình” và kế thừa một phần quan điểm của học thuyết Keynes về
“bàn tay hữu hình” đã giải quyết phần nào các vấn đề nảy sinh trên thế giới.
Lý thuyết “nền kinh tế hỗn hợp” được xem là chuẩn mực của nền kinh tế thị
trường hiện đại. Ngày nay, lý thuyết này không những được các nước tư bản
chủ nghĩa mà ngay cả các nước theo XHCN cũng xem là nền tảng để phát
triển kinh tế thị trường.
5.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu vai trò nhà nước trong lịch sử các học
thuyết kinh tế
Việc nghiên cứu vai trò nhà nước trong lịch sử các học thuyết kinh tế
vừa có ý nghĩa về mặt khoa học, vừa có ý nghĩa về mặt thực tiễn.
Thứ nhất, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc nghiên cứu
vai trò nhà nước trong nền kinh tế. Vai trò nhà nước trong lịch sử các học
thuyết kinh tế là một bộ phận đối tượng nghiên cứu quan trọng của lịch sử các
học thuyết kinh tế. Lịch sử các học thuyết kinh tế là một bộ môn khoa học độc
lập, chiếm vị trí quan trọng trong số các môn khoa học xã hội. Xuất phát từ
việc nghiên cứu vai trò nhà nước trong lịch sử các học thuyết kinh tế mà sau
này phát triển thành bộ môn khoa học xã hội độc lập là môn quản lý nhà nước
về kinh tế.
Thứ hai, việc nghiên cứu vai trò nhà nước trong lịch sử các học thuyết
kinh tế giúp chúng ta hiểu rõ hệ thống quan điểm các lý luận về vai trò nhà
24
nước trong nền kinh tế làm cơ sở cho việc nghiên cứu các vấn đề liên quan
đến kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta hiện nay.
Thứ ba, việc nghiên cứu vai trò nhà nước trong nền kinh tế, đặc biệt là
lý thuyết về nền kinh tế hỗn hợp giúp chúng ta nhận thức được những ưu
điểm và nhược điểm của “hai bàn tay”. Từ đó chúng ta nhận thức rõ hơn ranh
giới tương đối của “bàn tay vô hình” và “bàn tay hữu hình” để điều tiết hoạt
động của nền kinh tế.
Thứ tư, việc nghiên cứu vai trò nhà nước trong lịch sử các học thuyết
kinh tế giúp chúng ta hiểu rõ bản chất của nền kinh tế thị trường hiện đại ngày
nay.
Thứ năm, việc nghiên cứu vai trò nhà nước trong lịch sử các học thuyết
kinh tế giúp cho các nhà hoạch định hiểu rõ hơn bản chất sự can thiệp của nhà
nhà nước vào nền kinh tế để có những chính sách phù hợp.
Thứ sáu, trong điều kiện kinh tế Việt Nam hiện nay, việc nghiên cứu vai
trò nhà nước trong lịch sử các học thuyết kinh tế rất thiết để chúng ta có thể
nắm vững các chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước trong
quá trình xây dựng đất nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại vào năm 2020.
Kết luận
Vấn đề quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa thực chất là xác định vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc nghiên cứu tổng kết vai trò của nhà
nước thông qua các học thuyết kinh tế cổ điển, tân cổ điển, Keynes và nền
kinh tế hỗn hợp rất cần thiết và có ý nghĩa giá trị về lý luận và thực tiễn của
nền kinh tế nước ta hiện nay. Vai trò của nhà nước được thể hiện qua các
25