Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Sinh lý Guyton: Tiền thai nghén và các hormone nữ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.59 KB, 18 trang )

Chức năng sinh sản của phụ nữ chia làm 2 giai đoạn chính: (1) sự chuẩn bị của cơ thể phụ nữ cho việc thụ tinh và mang thai,
và (2) quãng thời gian mang thai. Trong chương này sẽ nói về sự chuẩn bị của cơ thể phụ nữ cho mang thai, và Chương 83
trình bày về sinh lý của quá trình mang thai và sinh đẻ.
I.

GIẢI PHẪU SINH LÝ CÁC CƠ QUAN SINH SẢN CỦA PHỤ NỮ.

Figures 82-1 and 82-2 trình bày về những cơ quan chính của hệ sinh dục phụ nữ, trong số đó quan trọng nhất là hai buồng
trứng, vòi trứng, tử cung và âm đạo. Sự sinh sản bắt đầu với sự phát triển của trứng ở buồng trứng, Vào khoảng giữa mỗi chu
kì kinh nguyệt (CKKN), duy nhất một nang trứng được tách ra khỏi buồng trứng và đi vào khoang ổ bụng gần với các tua
vòi của vòi trứng hai bên. Nang trứng này sau đó chui vào một trong hai vịi trứng và đi vào tử cung; nếu nó được thụ tinh
bởi một tinh trùng, nó sẽ làm tổ ở tử cung, nơi nang trứng được thụ tinh phát triển thành một bào thai, một bánh rau, một
màng ối- và cuối cùng trở thành một em bé.
II . SỰ TẠO TRỨNG VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NANG TRỨNG Ở BUỒNG TRỨNG
Trứng đang phát triển (oocyte) cũng giống như trứng trưởng thành (ovum) đều trải qua những giai đoạn của Sự tạo trứng
(oogenesis) (Hình 82-3). Trong giai đoạn phát triển sớm của phơi thai, tế bào mầm nguyên thủy từ nội bì lưng của túi nỗn
hồng di chuyển dọc theo mạc treo ruột sau lên lớp bề mặt của buồng trứng, vị trí dó được phủ một lớp biểu mơ mầm, hình
thành phơi từ lớp biểu mô mầm của germinal ridges. Trong suốt giai đoạn di cư, những tế bào mầm phân chia nhiều lần. Một
khi những tế bào mầm nguyên thủy di chuyển đến lớp biểu mô mầm, chúng bắt đầu di chuyển đến vùng vỏ và trở thành nang
trứng nguyên thủy (primodial ova).
Mỗi nang trứng nguyên thủy phủ xung quanh nó bởi một lớp tế bào mỏng từ mô đệm của buồng trứng (ovarian stroma) và
khiến chúng có tính chất của biểu mô; những tế bào dạng biểu mô này được gọi là những tế bào hạt (granulosa cells). Nang
trứng được bao quanh bởi một lớp tế bào hoàng thể được gọi là nang trứng nguyên thủy
Trong giai đoạn này, nang trứng vẫn chưa phát triển hoàn chỉnh và được gọi là nang sơ cấp (primary oocyte), cần
thêm hai lần phân bào nữa mới có thể thụ tinh với tinh trùng.
Nỗn ngun bào (oogonia)ở buồng trứng trong thời kì phơi thai đã hoàn thành việc phân chia và bước đầu tiên của quá trình
giảm phân bắt đầu vào tháng thứ 5. Tế bào mầm nguyên phân sau đó dừng hẳn và khơng có thêm nỗn bào nào được tạo
thành. Lúc sinh ra mỗi buồng trứng chứa khoảng 1-2 triệu nang noãn nguyên thủy (primary oocytes)Nang noãn nguyên thủy
phân chia lần đầu tiên sau tuổi dậy thì, Mỗi nỗn bào phân chia thành hai tế bào, một nang trứng lớn (nang thứ cấp) và một
thể cực thứ nhất. Mỗi một tế bào có chứa 23 nhiễm sắc thể nhân đơi. Thể cực thứ nhất có thể hoặc khơng trải qua phân bào
giảm nhiễm thứ hai và sau đó tiêu biến. Trứng trải qua lần phân bào giảm nhiễm thứ hai, và sau khi nhiễm sắc tử chị em tách


ra, sự giảm phân tạm thời dừng lại. Nếu trứng được thụ tinh, bước cuối cùng trong giảm phân xảy ra và các nhiễm sắc tử chị
em trong trứng đi đến các tế bào riêng biệt.
Khi buồng trứng phóng nỗn (rụng trứng) và nếu sau đó trứng được thụ tinh, bước phân bào cuối cùng sẽ xảy ra. Một nửa số
các nhiễm sắc thể chị em vẫn ở lại trong trứng thụ tinh và nửa còn lại được chuyển vào thể cực thứ hai, sau đó tiêu biến.
Ở tuổi dậy thì, chỉ có khoảng 300.000 trứng cịn lại trong buồng trứng, và chỉ có một tỷ lệ phần trăm nhỏ những tế bào trứng
này sẽ trưởng thành. Hàng ngàn tế bào trứng không được phát triển sẽ thối hóa dần và tiêu biến. Trong độ tuổi sinh sản của
người phụ nữ, khoảng từ 13 và 46 tuổi, chỉ có 400- 500 nang nguyên thủyphát triển đủ mức để phóng nỗn- mỗi tháng một
lần, những trứng cịn lại bị thối hóa dần. Vào cuối thời kì sinh sản (mãn kinh), chỉ cịn lại một vài nang nguyên thủy ở buồng
trứng, và thậm chí những nang này cũng sẽ bị thối hóa ngay sau đó.


2. Sự phát triển của nang trứng- giai đoạn “nang” của chu kì buồng trứng.

Hình 82-5 trình bày những bước phát triển của nang trứng ở buồng trứng. Khi bé gái ra đời, mỗi nang được bao q
một lớp tế bào hạt; nang trứng, và lớp tế bào hạt bao sát xung quanh, được gọi là nang trứng nguyên thủy (hình 82-4)
thời kì thơ ấu, những tế bào hạt được cho rằng là nơi cung cấp chất dinh dưỡng cho nang trứng và tiết ra yếu tố ức ch
thành noãn giúp nang trứng giữ ở trạng thái nguyên thủy trong pha đầu của sự giảm giảm phân. Sau đó, sau tuổi dậy
FSH và LH được bài tiết từ thùy trước tuyến yên đủ về số lượng, buồng trứng cùng với một số nang của nó bắt đầu p

Giai đoạn đầu tiên của sự phát triển nang trứng là sự phát triển ở mức trung bình của nang, đường kính tăng gấp đ
gấp ba. Sau đó theo sự lớn lên thêm vào của lớp tế bào hạt ở một số nang; những nang này được gọi là nang trứng ng
phát.
1

Sự phát triển của nang thứ phát và nang nước.

Trong những ngày đầu của mỗi CKKN, nồng độ của FSH và LH được tiết ra từ thùy trước tuyến yên hơi tăng đến
vừa phải, và sự gia tăng của FSH hơi lớn hơn của LH và dẫn trước LH trong vài ngày. Những hormone này, đặc biệt
kích thích sự phát triển của 6 đến 12 nang trứng nguyên phát mỗi tháng. Sự ảnh hưởng đầu tiên là sự tăng sinh đột ng
các tế bào hạt, mang đến sự tăng số lớp tế bào. Hơn nữa, các tế bào hình thoi đến từ khoảng kẽ buồng trứng tập hợp t

lớp bên ngoài các tế bào hạt, mang đến sự tăng trưởng cho phần thứ hai của tế bào được gọi là lớp áo. Lớp áo được c
hai lớp. Lớp áo trong, các tế bào có cấu tạo biểu mơ giống như các tế bào hạt và phát triển khả năng chế tiết thêm các
hormone giới tính (estrogen và progesterone). Lớp vỏ ngồi, phát triển thành bao vỏ liên kết có nhiều mạch máu (hig
vascular connective tissue capsule), sau này sẽ trở thành lớp vỏ bao của nang trứng phát triển.

Sau giai đoạn tăng sinh của sự phát triển, trong vài ngày, các tế bào hạt bài tiết dịch nang chứa nồng độ cao estrog
trong những hormone sinh dục quan trọng (sẽ được nói đến sau). Sự tích lũy tăng dần của lượng dịch này tạo nên mộ
trong khối tế bào hạt (được trình bày ở hình 82-5)

Sự phát triển sớm của nang nguyên phát trở thành nàng thứ phát được kích thích bởi FSH. Sau đó sự tăng trưởng
chóng diễn ra, làm cho nang trứng ngày càng lớn hơn và được gọi là nang nước (vesicular follicles). Sự tăng trưởng
gây ra bởi: (1) Estrogen được tiết vào nang trứng làm cho các tế bào hạt tăng số lượng các thụ thể FSH; tạo ra sự phả
dương tính, bởi vì việc này làm cho các tế bào hạt tăng nhạy cảm với FSH hơn. (2) FSH tuyến yên và estrogen cùng
thụ thể LH ở các tế bào hạt, dẫn đến có thêm sự kích thích của LH cùng với sự kích thích của FSH và càng làm tăng
sự chế tiết hormone của nang trứng. (3) Sự tăng lên của estrogen từ nang trứng cùng với sự tăng lên của LH từ thùy t
tuyến yên phối hợp lại gây ra sự tăng sinh của lớp áo nang cũng như tăng cường khả năng bài tiết của chúng.

Một khi nang trứng thứ phát bắt đầu phát triển, chúng tăng trưởng một cách bùng nổ. Noãn cũng lớn lên gấp 3 đến
đường kính, tổng đường kính của nỗn tăng gấp 10 lần, cịn mass to lên gấp 1000 lần. Trong khi nang trứng to ra, no
một khối tế bào hạt bị đẩy về một phía của nang trứng.
2

Chỉ duy nhất một nang trứng trưởng thành hoàn toàn mõi tháng, và các nang còn lại bị teo đi.
Sau một tuần hoặc nhiều hơn của quá trình phát triển nhưng trước khi diễn ra sự thụ tinh, một nang trứng bắt đầu
vượt trội hơn số nang còn lại; 5 đến 11 nang còn lại bị teo đi và trở thành nang tịt (atretic).

Nguyên nhân của sự teo các nang vẫn cịn chưa rõ, nhưng được cho rằng là vì: lượng lớn estrogen từ nang trứng p
trội nhất tác động lên vùng dưới đồi để làm giảm sự bài tiết FSH tại thùy trước tuyến yên, bằng cách này ngăn chặn sự



trưởng của các nang trứng cịn lại. Do đó, nang trứng lớn nhất tiếp tục phát triển bởi vì ảnh hưởng của sự phản hồi dươ
ngược lại các nang trứng khác ngừng phát triển và thực chất rất khó giải thích.

Giai đoạn teo rất quan trọng, bởi vì nó chỉ cho phép duy nhất một nang trứng phát triển đủ lớn mỗi tháng để thụ ti
chặn việc có hơn một phôi thai phát triển trong một lần mang thai. Nang trứng đạt đường kính khoảng 1 đến 1,5 cm tr
đoạn thụ tinh và được gọi là nang trưởng thành.
3

Sự phóng nỗn:

Sự phóng nỗn trên những phụ nữ có CKKN kéo dài 28 ngày thường diễn ra vào ngày thứ 14 sau khi bắt đầu CKK
trước khi phóng nỗn, lớp áo ngoài của nang trứng lớn lên đột ngột, và một vùng nhỏ ở trung tâm bao nang- được gọi
trứng (stigma), mọc lên như núm vú. Trong khoảng 30 phút hoặc lâu hơn, dịch bắt đầu được tiết ra từ nang trứng qua
và khoảng sau đó 2 phút, gị trứng tách rộng ra, tiết nhiều dịch nhầy hơn, dịch nhầy lấp đầy phần trung tâm của nang t
thốt ra ngồi. Trong dịch nhầy này mang theo noãn được bao quanh bởi vài ngàn tế bào hạt, được gọi là corona radia
1

Sự tăng đột ngột của LH rất cần thiết cho sự phóng nỗn.

LH cần thiết cho giai đoạn phát triển cuối cùng của nang trứng và sự phóng nỗn. Nếu khơng có hormone này, ng
có nồng độ cao của FSH, nang trứng cũng khơng thể phóng nỗn.

Khoảng 2 ngày trước khi phóng nỗn (lý do vẫn chưa được biết hồn tồn nhưng sẽ được nói đến ở phần sau), nồn
do thùy trước tuyến yên tiết ra tăng lên rõ rệt, tăng từ 6 đến 10 lần và đạt đến mức cao nhất khoảng 16 giờ trước phón
Cùng thời điểm đó, FSH cũng tăng lên gấp 2 đến 3 lần, và FSH cùng với LH phối hợp lại tạo ra sự lớn lên nhanh chón
nang trứng trong ngày cuối trước khi phóng nỗn. LH cịn gây ra ảnh hưởng đặc hiệu lên các tế bào hạt và tế bào của
trong, biến phần lớn chúng trở thành những tế bào chế tiết progesterone. Do đó, mức độ chế tiết estrogen bắt đầu giảm
1 ngày trước khi phóng nỗn, ngược lại, progesterone ngày càng được tiết ra nhiều hơn.

Đây là sự kết hợp của: (1) sự phát triển nhanh chóng của nang trứng, (2) ức chế bài tiết estrogen sau giai đoạn bài

mức hormone này, và (3) bắt đầu chế tiết progesterone. Nếu không có sự chế tiết progesterone, sẽ khơng thể xảy ra ph
nỗn.
2

Bắt đầu phóng nỗn:

Hình 82-6 mơ tả q trình bắt đầu phóng nỗn, cho ta thấy vai trị của hormone LH được tiết ra từ thùy trước tuyế
LH kích thích sự chế tiết hormone của nang trứng trong đó có progesterone. Trong vịng vài giờ, có 2 sự kiện diễn ra
áo ngoài (lớp vỏ nang) bắt đầu tiết ra enzyme phân giải protein từ các hạt lysosome, bào mòn lớp vỏ nang làm cho lớ
ngày càng mỏng dần cùng với sự to lên của tồn bộ nang và sự thối hóa của nỗn. (2) cùng lúc đó, xảy ra sự phát tri
chóng của các mạch máu vào trong vỏ nang cùng với prostaglandin (hormone tại chỗ gây giãn mạch) được tiết vào tr
nang. Hai sự kiện này làm cho huyết tương ngấm vào trong lịng nang trứng, góp phần làm cho nang to lên. Cuối cùn
to lên kết hợp với sự thối hóa của nỗn làm vỡ nang, giải phóng nỗn.
3

Hồng thể và giai đoạn hồng thể của chu kì buồng trứng.

Trong vài giờ sau khi nỗn được phóng ra từ nang trứng, phần còn lại của các tế bào hạt và tế bào lớp áo trong nhanh
thành các tế bào hồng thể. Chúng tăng kích thước gấp đơi hoặc nhiều hơn và chứa đầy chất béo làm cho chúng có màu v
Q trình này gọi là hồng thể hóa, và toàn bộ khối tế bào này được gọi là hồng thể (Hình 82-5). Nguồn cung cấp máu c
phát triển phong phú vào trong hoàng thể.


Những tế bào hạt trong hoàng thể phát triển rộng lưới nội chất mịn (extensive intracellular smooth endoplastic reticula
tiết một lượng lớn progesterone và estrogen (progesterone nhiều hơn estrogen). Các tế bào lớp áo trong tiết ra chủ yếu là c
hormone nam tính như testosterone và androstenedion nhiều hơn là các hormone nữ. Tuy nhiên, đa số các hormone này cũ
các tế bào hạt chuyển thành hormone nữ giới.

Ở phụ nữ bình thường, hồng thể lớn lên đạt đường kính khoảng 1,5 cm sau 7- 8 ngày sau phóng nỗn. Sau đó hồng
đầu teo đi và cuối cùng mất chức năng chế tiết cũng như màu vàng nhạt- màu của chất béo sau phóng nỗn khoảng 12 ngà

thành hồng thể thối hóa. Vài tuần sau đó, nó được thay thế bởi mô liên kết và khoảng hơn một tháng sau sẽ tiêu biến.
1

Chức năng kích thích hồng thể của LH:

Sự biến đổi của các tế bào hạt và tế bào lớp áo trong thành tế bào hoàng thể phụ thuộc phần lớn vào lượng LH được ti
thùy trước tuyến yên. Thực chất, khả năng này khiến cho LH có tên là “ hormone kích thích hồng thể”. Q trình hồng t
cịn dựa trên sự phóng nỗn của nang trứng. Một hormone khơng điển hình nằm trong dịch nang, gọi là yếu tố ức chế hồn
dường như giữ cho q trình hồng thể hóa được kiểm sốt đến sau khi sự phóng nỗn xảy ra.
2

3

4

Sự chế tiết của hồng thể: một chức năng nữa của LH
Hoàng thể là một tuyến chế tiết mạnh mẽ, tiết ra một lượng lớn progesterone và estrogen. Một khi LH (chủ yếu đư
nhiều trong thời kì nang trứng tăng sinh) đã tác động lên các tế bào hạt và các tế bào lớp áo trong để diễn ra sự hoàng
các tế bào hoàng thể dường như đã được lập trình trước và sẽ trải qua các giai đoạn (1) tăng sinh, (2) lớn lên, (3) chế t
cuối cùng là (4) thối hóa. Tất cả diễn ra trong khoảng 12 ngày. Chúng tơi sẽ nói về q trình mang thai ở Chương 83
hiện một hormone khác cũng mang tính chất gần tương tự như LH, đó là hormone rau thai (hCG), được tiết ra từ bánh
thể tác động lên hoàng thể nhằm kéo dài sự tồn tại của nó, thường diễn ra trong ít nhất 2 đến 4 tháng đầu của thai kì.
Sự teo nhỏ của hồng thể và bắt đầu một chu kì buồng trứng tiếp theo:
Estrogen và progesterone (ở một mức độ bài tiết thấp hơn), được tiết ra bởi hoàng thể trong suốt giai đoạn hồng
chu kì buồng trứng, gây ra feedback mạnh mẽ lên thùy trước tuyến yên để duy trì sự bài tiết FSH và LH ln ở mức đ
Thêm vào đó, các tế bào hoàng thể tiết ra một lượng nhỏ hormone inhibin, tương tự như inhibin được tiết ra từ tế
Sertoli ở tinh hoàn nam giới, hormone này ức chế sự chế tiết của thùy trước tuyến yên, đặc biệt là chế tiết FSH. Kết qu
nồng độ của FSH và LH trong máu duy trì ở mức thấp, sự biến mất của hai hormone này khiến cho hoàng thể bị thối
tồn, q trình này gọi là sự thối hóa hồng thể.
Sự thối hóa bình thường diễn ra chính xác vào khoảng ngày thứ 12 của hoàng thể, vào khoảng ngày thứ 26 của C

bình thường, 2 ngày trước khi bắt đầu hành kinh. Vào thời điểm đó, sự chế tiết FSH ngừng lại đột ngột, progesterone
inhibin mất đi tác dụng ức chế lên thùy trước tuyến yên, cho phép tuyến yên trước tăng bài tiết FSH và LH trở lại. FSH
khởi động quá trình phát triển của các nang trứng mới, bắt đầu một chu kì buồng trứng mới. Sự bài tiết rất ít hormone
progesterone và estrogen vào thời điểm này dẫn đến sự hành kinh ở tử cung, sẽ được nói đến sau.
Kết quả:

Cứ khoảng mỗi 28 ngày, các hormone tuyến sinh dục từ thùy trước tuyến yên kích thích khoảng 8-12 nang trứng mới
phát triển tại buồng trứng. Một trong những nang này cuối cùng trở thành “nang trửng thành” và rụng vào ngày thứ 14 tro
kì. Chủ yếu estrogen được bài tiết trong quá trình phát triển của nang.
Sau sự phóng nỗn, các tế bào chế tiết của nang rụng biến thành hoàng thể, chế tiết một lượng lớn hai hormone nữ qua
progesterone và estrogen. Sau 2 tuần, hoảng thể thối hóa, hậu quả là các hormone buồng trứng estrogen và progesterone
mạnh, và sự hành kinh bắt đầu. Sau đó lại khởi động một chu kì buồng trứng mới.
III

CHỨC NĂNG CỦA CÁC HORMONE BUỒNG TRỨNG- ESTRADIOL VÀ PROGESTERON


Hai loại hormone buồng trứng là estrogen và progestin, thành phần quan trọng nhất của estrogen là estradiol và của pr
là progesteron. Estrogen chủ yếu tác động lên sự tăng trưởng và phát triển của các tế bào đặc hiệu trong cơ thể- đảm bảo c
phát triển hầu hết các đặc tính sinh dục thứ phát của nữ giới. Chức năng chủ yếu của progestin là chuẩn bị ở tử cung cho s
thai và ở tuyến vú để tạo sữa.
1

Tính chất hóa học của các hormone sinh dục:
1 Estrogen:

Bình thường ở phụ nữ khơng mang thai, một lượng có ý nghĩa estrogen được bài tiết duy nhất từ buồng trứng, mặc dù
phần nhỏ được tiết ra từ vỏ thượng thận. Trong quá trình mang thai, một lượng rất lớn estrogen được tiết ra từ bánh rau (sẽ
nói đến ở Chương 83).


Có 3 loại estrogen trong huyết tương người phụ nữ: β-estradiol, estron, và estriol, cơng thức của chúng được trình bày
82-7. Estrogen chính được tiết từ buồng trứng là β-estradiol. Một lượng nhỏ estron cũng được tiết, nhưng đa số chúng đượ
ở mô ngoại vi của androgen được tiết từ tuyến thượng thận (but most of this is formed in the peripheral tissues from andro
secreted by the adrenal corticles) và các tế bào thuộc lớp áo nang. Estriol là một hormone yếu; là sản phẩm của quá trình o
estradiol hoặc estron, được chuyển hóa chủ yếu ở gan. β-estradiol mạnh gấp 12 lần estron và gấp 80 lần estriol. So sánh về
mạnh, ta có thể thấy β-estradiol mạnh gấp nhiều lần hai hormone kia kết hợp lại. Do đó, β-estradiol được cho là estrogen c
mặc dù ảnh hưởng của estron cũng không thể phủ định.
1.1. Progestin

Cho đến nay hormone quan trọng nhất của các hormone progestin là progesteron. Tuy nhiên, cũng có lượng nhỏ một l
hormone progestin- 17-α-hydroxyprogesteron, được tiết cùng với progesterone và cơ bản có tác dụng tương tự như proges
Từ đó, trên thực hành, progesterone được coi là hormone quan trọng nhất của progestin.

Bình thưởng ở phụ nữ không mang thai, progesterone chỉ được tiết ra với một lượng có ý nghĩa ở nửa sau của chu kì b
trứng, khi đó progesterone được tiết bởi hồng thể.

Như chúng ta sẽ thấy ở Chương 83, một lượng lớn progesterone cũng được bài tiết từ bánh rau trong quá trình mang t
biệt từ tháng thứ tư trở đi của thai kì.
1.1. Sự tổng hợp của estrogen và progesteron:

Cơng thức hóa học của estrogen và progesterone ở hình 82-7 cho thấy chúng đều là các steroid. Chúng được tổng hợp
trứng chủ yếu từ cholesterol nguồn gốc từ máu và một lượng nhỏ từ các acetyl coenzyme A, tập hợp các phân tử này có th
lại để tạo nên sự phù hợp của nhân steroid. (multiple molecules of which can combine to form the appropriate ateroid nuc

Trong quá trình tổng hợp, phần lớn progesterone và hormone nam testosterone được tổng hợp trước; sau đó, trong gia
nang trứng của chu kì buồng trứng, trước khi hai hormone này rời khỏi buồng trứng, hầu hết testosterone và một lượng lớn
progesterone được các tế bào hạt chuyển thành estrogen. Bởi vì lớp áo nang bị mất enzyme aromatase ở các tế bào hạt nên
thể chuyển androgen thành estrogen. Tuy nhiên, androgen được khuếch tán qua khỏi lớp áo nang đến adjacent các tế bào h
(adjacent granulosa cells), tại đây chúng được chuyển thành estrogen nhờ enzyme aromatase, hoạt động này được kích thí
FSH (hình 82-8)


Trong quá trình tổng hợp, phần lớn progesterone và hormone nam testosterone được tổng hợp trước; sau đó, trong gia
nang trứng của chu kì buồng trứng, trước khi hai hormone này rời khỏi buồng trứng, hầu hết testosterone và một lượng lớn
progesterone được các tế bào hạt chuyển thành estrogen. Trong giai đoạn hoàng thể, progesterone được tiết ra quá nhiều s


phần được chuyển đổi, làm cho lượng progesterone trong máu tăng cao. Ngoài ra, ở nữ lượng testosteron được bài tiết từ b
trứng vào huyết tương bằng khoảng 1/15 lần lượng testosterone được tiết ra từ tinh hoàn ở nam giới.
1.1. Estrogen và progesterone được vận chuyển trong máu đến protein huyết tương.

Cả estrogen và progesterone đều được vận chuyển trong máu nhờ albumin huyết tương và với các globulin gắn đặ
(specific estrogen-progesteron- binding globulins). Sự liên kết giữa hai hormone này với protein huyết tương đủ lỏng lẻo đ
nhanh chóng được hấp thu vào các mơ trong thời gian khoảng 30 phút hoặc hơn.
2

Sự phân hủy estrogen ở gan:

Gan phân hủy estrogen thành glucoroni và sulphat, và khoảng 1/5 sản phẩm của sự phân hủy này được đào thải qu
mật; phần còn lại được thải qua nước tiểu. Gan cịn chuyển hóa hai loại estrogen mạnh là estradiol và estron thành loại est
yếu- estriol. Do đó, thực tế khả năng giáng hóa của gan làm tăng hoạt hóa estrogen trên cơ thể, đơi khi có thể gây ra cường
estrogen.
3

Số phận của progesterone

Khoảng vài phút sau khi được bài tiết, hầu hết progesterone bị phân hủy thành các nhân steroid và mất hết chức n
Cũng như estrogen, gan là nơi thực hiện q trình giáng hóa progesterone.
Sản phẩm chính của sự giáng hóa progesterone là pregnandiol. Khoảng 10% progesterone được bài tiết qua nước
dạng prenandiol. Do đó, ta có thể ước lượng nồng độ progesterone của cơ thể từ sự bài tiết này.


2 Chức năng của estrogen- ảnh hưởng của estrogen lên đặc tính sinh dục tiên phát và thứ phát.
Chức năng cơ bản của estrogen là kích thích sự tăng sinh và phát triển tế bào ở các mô của bộ máy sinh dục và các mô kh
quan đến chức năng sinh sản.
1

Ảnh hưởng của estrogen lên tử cung và bộ phận sinh dục ngoài:

Trong thời thơ ấu, estrogen chỉ được tiết với một lượng rất nhỏ, nhưng đến giai đoạn dậy thì, lượng estrogen được tiế
sự kích thích của hormone điều hòa tuyến sinh dục của tuyến yên tăng lên trên 20 lần. Khí đó, cơ quan sinh dục nữ chuyển
trẻ em sang người trưởng thành. Buồng trứng, vịi trứng, tử cung và âm đạo cũng tăng kích thước lên nhiều lần. Cùng với
lên của bộ phận sinh dục ngồi, cũng có sự phát triển của mỡ ở vùng mu và hai môi lớn và sự lớn lên của hai mơi nhỏ.

Thêm vào đó, estrogen chuyển biểu mơ âm đạo từ biểu mô trụ sang biểu mô lát- dạng này vững chắc hơn khi gặp chấ
hay nhiễm khuẩn so với dạng biểu mơ trụ trước tuổi dậy thì. Nhiễm trùng âm đạo ở trẻ em thường có thể chữa khỏi bằng l
estrogen đơn thuần vì sẽ làm bền vững biểu mô âm đạo.

Vài năm đầu sau giai đoạn dậy thì, kích thước tử cung tăng lên gấp 2 đến ba lần, nhưng quan trọng hơn việc tăng lên
thước tử cung là sự biến đổi ở lớp nội mạc tử cung dưới ảnh hưởng của estrogen. Estrogen đánh dấu sự tăng sinh của chất
mạc tử cung và sự tăng sinh mạnh mẽ của các tuyến nội mạc, các tuyến này sau này sẽ cung cấp chất dinh dưỡng cho trứn
làm tổ. Những ảnh hưởng này sẽ được trình bày ở phần Mối quan hệ với chu kì nội mạc.
2

Ảnh hưởng của estrogen lên vòi Fallope:

Tác dụng của estrogen lên lớp niêm mạc lót của vịi Fallope tương tự tác dụng lên nội mạc tử cung. Chúng làm ch
hạch ở lớp niêm mạc tăng sinh; đặc biệt quan trọng, chúng làm tăng số lượng các tế bào lông chuyển ở niêm mạc. Hơn nữ


làm tăng hoạt động của các lông này. Những lông này luôn chuyển động về hướng tử cung giúp đẩy noãn đã thụ tinh đi th
này.

3

Ảnh hưởng của estrogen lên vú:

Ban đầu vú của trẻ nữ và nam hoàn toàn giống nhau. Thực tế, dưới tác động phù hợp của các hormone, vú của nam
trong 20 năm đầu có thể phát triển đầy đủ và bài tiết sữa tương tự như nữ giới.

Estrogen kích thích (1) phát triển mơ đệm của vú, (2) phát triển hệ thống chế tiết rộng rãi (an extensive ductile sys
(3) lắng đọng mô mỡ ở vú. Các tiểu thùy và các túi chế tiết của vú phát triển chậm khi chỉ có sự tác động của estrogen, nh
có mặt của progesterone và prolactin sẽ tạo ra sự phát triển toàn diện về cả cấu trúc và chức năng của những thành phần n

Tóm lại, estrogen khởi động sự phát triển của vú và chức năng tạo sữa. Estrogen cịn tác động đến đặc tính phát tr
xuất hiện của vú trưởng thành. (external appearance of the mature female breast). Tuy nhiên, estrogen khơng thể hồn thàn
phát triển từ vú thành một cơ quan tiết sữa.

4

Ảnh hưởng của estrogen lên xương:

Estrogen không những ức chế hoạt động hủy xương mà cịn kích thích xương phát triển. Như đã được trình bày ở
80, ít nhất một phần của sự ảnh hưởng này là do sự kích thích của osteoprotegerin hay còn gọi là yếu tố ức chế hủy xương
cytokine ức chế sự hủy hoại xương.

Trong giai đoạn dậy thì, khi người con gái bước vào tuổi sinh sản, chiều cao sẽ phát triển rất nhanh so với trước đ
nhiên, estrogen cũng có ảnh hưởng mạnh mẽ khác đến sự phát triển xương: Estrogen kết hợp epiphysis with the sharp của
xương dài. Ảnh hưởng này của estrogen trên cơ thể phụ nữ mạnh mẽ hơn so với ảnh hưởng tương tự của testosterone ở na
Do đó, sự phát triển của nữ giới thường kết thúc sớm hơn vài năm so với nam giới. Những người nữ giới bị thiểu năng (eu
hay nói cách khác bị thiếu hụt hồn tồn sự bài tiết estrogen thường thường cao hơn vài inches so với nữ giới bình thường
epiphyses kết hợp một cách bất thường.
5


Loãng xương gây ra bởi sự thiết hụt estrogen ở người cao tuổi:

Sau mãn kinh, gần như khơng có một lượng estrogen nào được tiết ra ở buồng trứng. Sự thiếu hụt estrogen này dẫ
hậu quả (1) tăng hoạt động hủy xương, (2) giảm khung liên kết của xương và (3) giảm lắng đọng calci và phosphate vào x
một số phụ nữ, những tác động này xảy ra rất mạnh, và hẫu quả là sự lỗng xương (được trình bày ở Chương 80). Bởi vì s
xương có thể làm yếu xương và gây ra gãy xương, đặc biệt là gãy xương đốt sống. Một số phụ nữ tiền mãn kinh đã được đ
phòng bằng estrogen thay thế để ngăn chặn những ảnh hưởng do loãng xương gây ra.
6

Estrogen làm tăng nhẹ sự lắng đọng protein.

Estrogen làm tăng nhẹ lượng protein của cơ thể, bằng chứng là có sự cân bằng dương của Nito khi có mặt estroge
hưởng này phần lớn thể hiện ở sự kích thích phát triển của estrogen lên bộ phận sinh dục, xương và một số mô cơ thể. Sự
đọng protein gây ra bởi testosterone rộng hơn và mạnh hơn estrogen nhiều lần.
7

Estrogen làm tăng chuyển hóa và tăng lắng đọng chất béo:


Estrogen làm tăng nhẹ tốc độ chuyển hóa của cơ thể, nhưng chỉ bằng 1/3 so với tác dụng của hormone nam proge
Estrogen cũng làm tăng lắng đọng lượng mỡ dưới da. Do đó, tỉ lệ mỡ của phụ nữ được cho là cao hơn tỉ lệ mỡ của nam gi
chứa nhiều protein hơn. Ngoài lắng đọng mỡ ở vú và mơ liên kết dưới da, estrogen cịn làm tăng lắng đọng mỡ ở mông và
điểm đặc trưng ở nữ giới.
8

Estrogen có một chút ảnh hưởng lên sự mọc tóc:

Estrogen không gây nhiều ảnh hưởng lên sự phân bố lông (hair distribution). Tuy nhiên, lông lại mọc ở những vị t
mu và nách sau tuổi dậy thì. Androgen được tiết ra nhiều ở tuyến thượng thận sau giai đoạn dậy thì tác động nhiều đến sự

này.
9

Ảnh hưởng của estrogen lên da:

Estrogen kích thích lên bề mặt da làm mặt da mềm và mịn hơn, hơn nữa, da người phụ nữ dày hơn da trẻ em hoặc
đàn ông bị mất tinh hồn (castrated female). Estrogen cịn làm tăng sinh mạch máu của da,thường liên quan tới việc da ph
thường ấm hơn và chảy máu nhiều hơn khi bị rách bề mặt sơ với nam giới.
10 Ảnh hưởng của estrogen lên cân bằng điện giải:

Cấu trúc hóa học của estrogen gần tương tự các hormone vỏ thượng thận đã được chú ý đến. Estrogen, giống như
aldosterone và một số hormone vỏ thượng thận, làm tăng tái hấp thu ion natri và nước ở ống thận. Ảnh hưởng này của estr
thường yếu và không rõ rệt. Tuy nhiên trong giai đoạn mang thai, một lượng lớn estrogen do rau thai tiết ra có thể ảnh hưở
tái hấp thu của ống thận, sẽ được trình bày ở Chương 83.
3

Chức năng của progesterone:
1 Progesterone điều khiển sự thay đổi chế tiết ở tử cung.

Một chức năng quan trọng của progesterone là điều khiển sự thay đổi chế tiết của nội mạc tử cung trong nửa sau C
do đó chuẩn bị nội mạc của tử cung cho sự làm tổ của trứng sau khi thụ tinh. Chứng năng này được trình bày sau trong mố
hệ với chu kì nội mạc tử cung.

Bên cạnh sự tác động lên lớp nội mạc, progesterone làm giảm tần số và cường độ co cơ tử cung, do đógiúp ngăn n
đào thải trứng đã làm tổ.
2

Ảnh hưởng của progesterone lên ống Fallope.

Progesteron cũng làm gia tăng chế tiết ở niêm mạc lót bên trong vịi Fallope (the mucosal lining of the fallopian tu

Những sự chế tiết này rất quan trọng trong việc ni dưỡng hợp tử (fertilized), nỗn phân chia (dividing ovum) khi nó di c
trong vịi Fallope trước khi làm tổ ở tử cung.
3

Progesteron ảnh hưởng đến sự phát triển của vú:

Progesteron điều khiển sự phát triển của các tiểu thùy và các tuyến chế tiết ở vú, làm cho các tế bào nang tăng sin
à bắt đầu chế tiết. Tuy nhiên, progesterone không làm cho các nang chế tiết sữal như đã mô tả ở Chương 83, sữa chỉ được
sau khi tuyến vú trưởng thành được kích thích bởi prolactin từ thùy trước tuyến yên.

Progesteron còn làm cho vú căng lên. Một phần của sự căng lên này là do sự tăng sinh của các thùy tuyến và các n
phần là kết quả của sự tăng tích tụ dịch ở trong các mô của vú.


4

Chu kì nội mạc tử cung và kinh nguyệt.

Liên quan với chu kì chế tiết của estrogen và progesterone ở buồng trứng là chu kì nội mạc ở lớp nội mạc tử cung và đ
thành những giai đoạn sau: (1) sự tăng sinh của nội mạc tử cung, (2) sự phát triển của các tuyến chế tiết trong niêm m
sự bong ra của lớp nội mạc hay còn gọi là kinh nguyệt. Sự khác biệt của các giai đoạn được mơ tả ở HÌnh 82-9.
1

Giai đoạn tăng sinh (giai đoạn estrogen) của chu kì nội mạc, xảy ra trước khi rụng trứng:

Vào thời gian đầu của mỗi chu kì, hầu hết nội mạc đã bị bong ra trong kinh nguyệt. Sau kinh nguyệt, chỉ còn lại m
nội mạc mỏng và những tế bào biểu mơ cịn sót lại được dính với vị trí sâu hơn của các tuyến chế tiết và lớp dưới nội mạc
ảnh hưởng của estrogen, được tiết ra ở buồng trứng với một lượng ngày càng nhiều trong giai đoạn đầu tiên của chu kì bu
trứng, các tế bào đệm và tế bào biểu mô tăng sinh nhanh chóng. Bề mặt nội mạc tử cung được hồi phục trong vịng 4-7 ng
khi xuất hiện kinh nguyệt.


Sau đó, trong 1,5 tuần tiếp theo, trước khi sự rụng trứng diễn ra, lớp nội mạc dày lên cực đại, lý do là tăng số lượn
bào đệm và sự tăng trưởng mạnh mẽ (progressive growth) của các tuyến nội mạc cùng với sự tăng sinh mạch máu vào tro
mạc tử cung. Khi sự rụng trứng diễn ra, nội mạc tử cung dày khoảng 3-5mm.

Các tuyến nội mạc, đặc biệt là các tuyến ở vùng cổ tử cung, chế tiết chất nhầy loãng (thin, stringly mucus). Dịch n
thực tế xếp thành hàng (actually align themselves) suốt chiều dài ống cổ tử cung, tạo nên một rãnh giúp cho tinh trùng di c
đúng đường từ âm đạo lên tử cung.
2

Giai đoạn chế tiết (giai đoạn progesterone của chu kì nội mạc, xảy ra sau khi rụng trứng.

Trong nửa sau chu kì, sau khi sự rụng trứng diễn ra, progesterone và estrogen cùng được tiết ra với lượng rất lớn t
thể. Estrogen gây ra sự tăng sinh nhẹ của các tế bào nội mạc trong chu kì, trong khi đó progesterone có tác dụng rõ rệt lên
lên và tăng chế tiết của lớp nội mạc. Các tuyến ngày càng xoắn lại (in tortuosity), và chất tiết thừa ra tích lũy lại trong các
niêm mạc. Thêm vào đó, lượng tế bào chất của các tế bào đệm cũng tăng lên,, chất béo và glycogen lắng đọng nhiều vào
bào đệm, và các mạch máu cấp máu cho nội mạc cũng tăng sinh hơn nữa để đáp ứng nhu cầu cho hoạt động chế tiết diễn
các mạch máu cũng xoắn nhiều hơn. Vào mức đỉnh điểm của giai đoạn chế tiết, khoảng 1 tuần sau khi trứng rụng, nội mạ
dày khoảng 5-6mm

Tồn bộ mục đích của những sự biến đổi là để tạo ra lớp nội mạc chế tiết mạnh mẽ chứa một lượng lớn chất dinh
cung cấp trong điều kiện phù hợp cho sự làm tổ của trứng sau khi thụ tinh trong nửa sau của CKKN. Từ lúc hợp tử (fertil
vào buồng tử cung từ ống Fallope (xảy ra 3-4 ngày sau khi trứng rụng) đến lúc hợp tử làm tổ (7-9 ngày sau khi rụng trứn
tiết của nộ mạc tử cung, hay còn gọi là “sữa tử cung”, cung cấp dinh dưỡng cho giai đoạn đầu của sự phân bào của hợp tử
một khi hợp tử đã làm tổ vào nội mạc, các tế bào lá nuôi (trophoblastic) trên bề mặt bắt đầu sử dụng các chất dinh dưỡng
chứa trong lớp nội mạc, do đó việc tạo ra một lượng lớn chất dinh dưỡng và rất trong giai đoạn đầu của phôi.
3

Hành kinh:


Nếu trứng không được thụ tinh, khoảng 2 ngày trước khi kết thúc CKKN, thể vàng ở buồng trứng thối hóa và các
hormone buồng trứng (estrogen và progesterone) giảm xuống mức thấp nhất (được minh họa ở hình 82-4). Sau đó hành k
ra.

Hành kinh là do sự suy giảm của estrogen và progesterone, đặc biệt là progesterone, vào cuối chu kì buồng trứng.


hưởng đầu tiên là giảm kích thích của 2 hormone này lên lớp nội mạc, theo sau đó là sự teo đi nhanh chóng của lớp nội m
khoảng 65% so với độ dày trước đó. Sau đó, trong 24 giờ trước khi hành kinh, các mạch máu xoắn làm cho lớp té bào nộ
co thắt, chính xác là do một số ảnh hưởng của sự co nhỏ, như sự giải phóng chất gây co mạch- có lẽ một trong các loại c
mạch của prostaglandin xuất hiện nhiều hơn vào thời điểm này.

Sự co mạch làm hạn chế sự cung cấp dinh dưỡng cho lớp nội mạc tử cung, thêm vào đó là mất đi sự kích thích củ
hormone khởi động quá trình hoại tử lớp nội mạc, đặc biệt ở các mạch máu. Do đó, đầu tiên máu bị rỉ vào lớp mạch máu
và vùng xuất huyết lan rộng rất nhanh trong 24- 36 giờ. Dần dần, lớp nội mạc hoại tử bị bong ra khỏi tử cung ở những vị
huyết cho đến 48 giờ sau khi bắt đầu hành kinh, tất cả lớp bề mặt nội mạc đều bị bong hết. Khối gồm mô nội mạc bị bon
mạch máu bị hoại tử trong buồng tử cung, cộng thêm tác dụng làm co mạch của prostaglandin và một số chất bong ra phâ
tất cả hoạt động phối hợp, làm cho tử cung co lại tống các chất trong tử cung ra ngồi.

Bình thường trong giai đoạn hành kinh, có khoảng 40ml máu và 35ml huyết tương bị mất. Máu kinh bình thường
khơng đơng bởi vì sự phân hủy fibrin đã xảy ra trong quá trình hoại tử lớp nội mạc. Nếu máu chảy nhiều từ nội mạc tử cu
phân hủy fibrin khơng đủ nên vẫn cịn cục máu đơng thốt ra ngồi. Sự xuất hiện của cục máu đơng trong CKKN thường
biểu hiện bệnh lý của tử cung.

Trong vòng 4-7 ngày sau khi bắt đầu hành kinh, sự mất máu ngừng lại bởi vì khi đó, nội mạc tử cung đang được t
lại.
4

Khí hư trong giai đoạn hành kinh:


Trong CKKN, một số lượng rất lớn bạch cầu được tiết ra trong quá trình hoại tử và xuất huyết. Chắc chắn một số
phóng từ sự hoại tử lớp nội mạc dẫn đến sự thoát ra của bạch cầu. Kết quả của những bạch cầu này và có thể một số yếu tố
cung rất bền vững với nhiễm khuẩn trong giai đoạn hành kinh, dù lớp bề mặt nội mạc bị bong hết. Do đó nó có giá trị bảo
lớn.

I.

Quy định nhịp độ hàng tháng của CKKN- sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa các hormone của trục buồng trứ
dưới đồi- tuyến yên.

Như chúng tơi đã trình bày về sự chuyển đổi chính mang tính chu kì (major cyclical changes) xảy ra trong suốt CKKN
tơi sẽ cố gắng làm rõ tính nhịp điệu là ngun nhân gây ra tính chu kì này.
1

Tuyến dưới đồi tiết ra GnRH, kích thích thùy trước tuyến yên bài tiết FSH và LH:

Như đã nói ở Chương 74, sự bài tiết của hầu hết các hormone thùy trước tuyến yên đều được điều khiển bởi “các horm
(releasing hormones) được bài tiết ở vùng dưới đồi và sau đó được vận chuyển đến thùy trước tuyến yên bằng hệ mạc
dưới đồi- tuyến yên. Đối với các hormone điều hòa tuyến sinh dục, có một hormone quan trọng được tiết ra đó là GnR
Hormone này được tinh chế (purified) và công thức là chuỗi 12 peptid: Glu-His-Trp-Ser-Tyr-Gly-Leu-Arg-Pro-Gly-N
1

Sự ngắt quãng, nhịp bài tiết GnRH của vùng dưới đồi kích thích nhịp bài tiết LH ở thùy trước tuyến yên:

Vùng dưới đồi khơng tiết GnRH liên tục, thay vào đó là những đợt bài tiết kéo dài 5-25 phút xảy ra trong 1-2 giờ. Đường
dưới trong Hình 82-10 diễn tả tín hiệu nhịp điện thế ở vùng dưới đồi gây ra sự tiết GnRH.
Có một điều hấp dẫn đó là khi GnRH được bài tiết liên tục do đó thường xuyên xuất hiện hơn là theo nhịp (it’s intriguing


GnRH is infused continusly so that it’s available all the time rather than in pulses), làm ngừng sự bài tiết FSH và LH của t

tuyến n. Do đó, vì một lý do nào đó, nhịp tự nhiên của sự bài tiết GnRH rất quan trọng đối với chức năng của hormone

Nhịp bài tiết của GnRH cũng gây ảnh hưởng đến sự ngắt quãng của bài tiết LH mỗi 90 phút (được trình bày ở đường cong
trên trong hình 82-10).
2

Trung tâm sản xuất GnRH ở vùng dưới đồi:

Hoạt động thần kinh điều khiển sự chế tiết GnRH diễn ra tại vùng mediobasal hypothalamus, đặc biệt ở phần nhân cung (a
nuclei) của khu vực này. Do đó, người ta cho rằng nhân cung điều khiển hầu hết các hoạt động sinh dục ở nữ giới, mặc dù
neuron tại vùng trước thị của phần trước vùng dưới đồi cũng bài tiết một lượng vừa phải GnRH. Tập hợp các trung tâm ne
phần cao hơn của hệ viền (hệ điều khiển chức năng tâm lý) vận chuyển tín hiệu thần kinh đến nhân cung để điều chỉnh cư
tần số bài tiết GnRH, từ đó giải thích một phần tại sao các yếu tố tâm lý thường ảnh hưởng đến chức năng sinh dục phụ nữ
2

Sự phản hồi âm tính của estrogen và progesterone làm giảm bài tiết FSH và LH:

Một lượng nhỏ estrogen cũng đủ tạo ra sự tác động mãnh mẽ ức chế sự bài tiết FSH và LH. Ngoài ra, khi xuất hiện th
progesterone, tác dụng ức chế của estrogen tăng lên rất nhiều mặc dù tác dụng ức chế của riêng progenteron là khơng
(hình 82-11).

Những phản hồi này dường như tác động chủ yếu lên thùy trước tuyến yên ngay lập tức, ngồi ra chúng cịn làm giảm
tiết GnRH ở vùng dưới đồi với mức độ nhẹ hơn, đặc biệt làm thay đổi tần số bài tiết GnRH.
1

Inhibin từ hoàng thể ức chế bài tiết FSH và LH:

Ngoài ảnh hưởng của feedback âm tính của estrogen và progesterone, vài hormone khác cũng tham gia vào việc này, đặc b
inhibin- được tiết ra cùng với các hormone steroid giới tính (secreted along with the steroid sex hormones) bởi các tế bào
hoàng thể tương tự như các tế bào Sertoli tiết inhibin ở tinh hoàn nam giới. Hormone này gây ảnh hưởng trên nữ giới tươn

trên nam giới: ức chế bài tiết FSH và giảm bài tiết LH (với mức độ nhẹ hơn) ở thùy trước tuyến yên. Do đó, inhibin có lẽ
trọng trong việc làm giảm sự bài tiết FSH và LH ở cuối mỗi CKKN.
3

Sự phản hồi dương tính của estrogen thời kì tiền rụng trứng- sự tăng đột ngột giai đoạn tiền rụng trứng của LH.

Vì lý do nào đó chưa hoàn toàn được làm rõ, thùy trước tuyến yên tiết một lượng lớn LH 1-2 ngày trước khi trứng rụng. T
này được mơ tả ở Hình 82-4. Hình này cũng chỉ ra sự giảm đột ngột của FSH và LH trước khi trứng rụng.

Thí nghiệm cho thấy lượng estrogen trong cơ thể nữ giới trên mức quan trọng (infusion of estrogen into a female above th
rate) trong 2-3 ngày trong giai đoạn cuối của nửa đầu CKKN làm tăng nhanh sự phát triển của nang trứng cũng như làm tă
sự bài tiết của buồng trứng. Trong giai đoạn này, sự bài tiết FSH và LH từ thùy trước tuyến yên đầu tiên giảm một chút, sa
bài tiết LH tăng lên đột ngột từ 6-8 lần và sự bài tiết FSH tăng lên 2 lần. Hiện nồng độ LH tăng cao đột ngột làm cho sự rụ
xảy ra.
Nguyên nhân của sự tăng tiết LH đột ngột còn chưa được làm rõ. Tuy nhiên, một vài lý do được đưa ra:

(1) trong chu kì, vào thời điểm đó estrogen có riêng một feedback dương tính (peculiar positive feedback effect) kích thích
yên bài tiết LH, và một kích thích nhỏ bài tiết FSH (hình 82-11); đây là một sự tương phản rõ ràng (sharp contrast) với fe
âm tính xảy ra trong giai đoạn còn lại của CKKN.


(2) các tế bào hạt ở nang trứng bắt đầu tiết một lượng nhỏ và tăng dần progesteron mỗi ngày cho đến trước khi LH đạt đỉ
(secrete small but increasing quantities of progesterone a day or so before the preovulatory LH surge), và có thể lý do này
thích bài tiết LH (stimulate the excess of LH).
Nếu khơng có đỉnh LH trước rụng trứng, trứng sẽ không thể rụng được.
4

Sự tác động lẫn nhau của trục dưới đồi- tuyến yên- buồng trứng.

Hiện nay, sau rất nhiều sự thảo luận về những thông tin đã biết về sự tác động qua lại giưuax các thành phần trong hệ horm

giới, chúng ta có thể tham gia giải thích sự tác động qua lại điều khiển nhịp độ của CKKN. Nó có thể chia làm 3 giai đoạn
1

2

Sự bài tiết các hormone buồng trứng sau rụng trứng, và sự giảm hormone điều hòa tuyến sinh dục từ tuyến yê
thời gian sau khi rụng trứng và bắt đầu hành kinh, hoàng thể tiết một lượng lớn estrogen và progesterone, cũn
inhibin. Các hormone này phối hợp tạo ra feedback âm lên thùy trước tuyến yên và vùng dưới đồi, làm giảm s
FSH và LH và làm nồng độ FSH và LH đạt mức thấp nhất khoảng 3-4 ngày trước khi bắt đầu hành kinh (hình
Giai đoạn nang trứng phát triển:

2-3 ngày trước khi hành kinh, hoàng thể gần như co lại hoàn toàn (regressed to almost total involution), và sự bài tiết estro
progesterone và inhibin của hoàng thể giảm xuống mức rất thấp (low ebb). Việc này khiến cho vùng dưới đồi và tuyến yên
giải phóng khỏi feedback âm tính do các hormone này tạo ra. Do đó, sau 1 ngày trở đi (a day or so later), vào lúc bắt đầu h
kinh, tuyến yên bài tiết FSH tăng lên gấp đơi, và sau đó, kéo dài trong vài ngày sau khi bắt đầu hành kinh, sự bài tiết LH c
nhẹ.Hai hormone này khởi động sự phát triển của nang trứng mới và đẩy nhanh sự bài tiết estrogen, đạt đỉnh nồng độ estro
khoảng 12,5 -13 ngày sau khi bắt đầu một CKKN.

Trong 11-112 ngày đầu tiên trong giai đoạn nang trứng phát triển, mức độ chế tiết các hormone điều hòa tuyến sinh dục FS
của tuyến yên bị giảm một chút do ảnh hưởng của feedback âm do chủ yếu là estrogen lên thùy trước tuyến yên. Sau đó là
điểm LH tăng nhanh đột ngột và FSH cũng tăng nhưng ít hơn. Việc này tạo ra đỉnh LH và FSH, sau đó dẫn đến rụng trứng
3

Đỉnh LH và FSH gây ra rụng trứng:

Vào khoảng 11,5-12 ngày sau khi bắt đầu CKKN, quá trình giảm bài tiết FSH và LH dừng lại đột ngột. Người ta cho rằng
cao của estrogen vào thời điểm đó (hoặc do sự xuất hiện bài tiết progesterone từ nang trứng) tạo ra một feedback dương k
lên thùy trước tuyến yên (đã được giải thích ở phần trước), tạo nên một đỉnh rất cao LH, và một đỉnh FSH thấp hơn . Bất
nguyên nhân nào tạo ra đỉnh LH và FSH trong giai đoạn tiền rụng trứng, nồng độ rất cao LH dẫn đến hai hiện tượng: rụng
sau đó là sự phát triển và chế tiết của hoàng thể. Ngoài ra, hệ hormone sinh dục bắt đầu một giai đoạn bài tiết mới cho đến

trứng tiếp theo.


Chu kì khơng rụng trứng- chu kì sinh dục trong giai đoạn dậy thì:

Nếu nồng độ đỉnh LH không đạt đủ độ lớn, sự rụng trứng sẽ khơng xảy ra, và được gọi là “chu kì khong rụng trứng”. Các
của chu kì sinh dục vẫn tiếp tục, tuy nhiên chúng sẽ thay đổi theo hướng sau: Đầu tiên, trứng khơng rụng làm cho hồng th
phát triển, và hầu như khơng có sự bài tiết progesterone trong giai đoạn sau của CKKN. Thứ hai, chu kì sẽ rút ngắn lại vài
nhưng nhịp độ vẫn được duy trì. Do đó, dường như progesteron khơng cần thiết trong việc duy trì tính nhịp điệu, mặc dù n
làm thay đổi nhịp điệu của chu kì.

Vài chu kì đầu tiên trong giai đoạn dậy thì thường là chu kì khơng rụng trứng, cũng như với các chu kì , trong những thán
hoặc năm cuối trước khi nãm kinh. Đây là điều hiển nhiên bởi vì khi đó nồng độ đỉnh LH không đủ mạnh để gây ra rụng t


5

Dậy thì và kinh nguyệt:

Dậy thì có nghĩa là sự bắt đầu giai đoạn trưởng thành sinh dục, và kinh nguyệt có nghĩa là bắt đầu xuất hiện CKKN đầu ti
đoạn dậy thì được tạo ra bởi quá trình tăng bài tiết hormone điều hòa tuyến sinh dục của thùy trước tuyến yên, khởi phát v
khoảng 8 tuổi (hình 82-12), thường đạt mức trưởng thành hoàn toàn và xuất hiện kinh nguyệt trong khoảng 11- 16 tuổi (tr
13 tuổi).

Ở phụ nữ, cũng giống như nam giới, tuyến yên và buồng trứng trong thời kì bào thai hồn tồn có đầy đủ chức năng nếu n
những kích thích thích hợp. Tuy nhiên, cung như ở nam giới, vì một lí do nào đó, vùng dưới đồi khơng tiết ra lượng GnRH
gây tác dụng trong thời kì thơ ấu. Thí nghiệm cho thấy vùng dưới đồi tự có đủ khả năng bài tiết những hormone này, nhưn
số tín hiệu từ các vùng khác nhau trên não làm cho sự bài tiết không diễn ra. Do đó, người ta cho rằng sự khởi động giai đ
thì được kích thích bởi các q trình hoàn thiện xảy ra tại một vùng khác ở não, có thể ở đâu đó trên hệ viền.


Hình 82-13 cho thấy (1) sự tăng bài tiết estrogen trong giai đoạn dậy thì, (2) sự biến đổi có tính chu kì trong suốt CKKN,
tăng bài tiết estrogen trong những năm đầu độ tuổi sinh sản, (4) quá trình giảm bài tiết estrogen cho đến khi kết thúc tuổi s
và cuối cùng (5) hầu như khơng cịn estrogen hay progesterone được tiết ra sau khi mãn kinh.
6

Mãn kinh:

Đến khoảng 40- 50 tuổi, chu kì sinh dục thường bắt đầu bị rối loạn, và sự rụng trứng thường không xảy ra. Sau vài tháng đ
năm, chu kì kết thúc hồn tồn (hình 82-13). Thời gian chu kì ngừng lại và các hormone sinh dục giảm xuống đến mức gầ
biến mất hoàn toàn được gọi là giai đoạn mãn kinh.

Nguyên nhân gây ra mãn kinh là do buồng trứng bị “đốt cháy”. Trong độ tuổi sinh sản, có khoảng 400 nang trứng nguyên
triển thành nang trưởng thành và rụng trứng, và hàng tram đến hàng ngàn trứng bị thối hóa. Ở độ tuổi 45, chỉ có vài nang
thủy cịn lại bị kích thích bởi FSH và LH, và như hình 82-13 cho thấy, sự bài tiết estrogen của buồng trứng giảm tương đư
sự giảm số lượng nang trứng và cuối cùng về mức không. Khi sự bài tiết estrogen giảm xuống dưới mức có thể gây ảnh hư
estrogen khơng cịn khả năng ức chế sự bài tiết FSH và LH.Thay vào đó, như Hình 82-12, FSH và LH (chủ yếu là FSH) v
tiết ra sau khi mãn kinh với một lượng lớn và tăng dần, trong khi những nang trứng nguyên thủy còn lại bị teo và sự bài tiế
estrogen của buồng trứng giảm xuống hầu như về không.

Khi mãn kinh, cơ thể người phụ nữ phải điều chỉnh từ trạng thái sinh lý được kích thích bởi estrogen và progesterone sang
thái khơng cịn các hormone này. Sự mất đi estrogen thường được đánh dấu bởi sự thay đổi về sinh lý ở các chức năng của
bao gồm (1) “cơn bốc hỏa”- có tính chất như nóng bừng da, (2) cảm giác như bị khó thở, (3) cáu gắt, (4) mệt mỏi, (5) bồn
lắng, (6) dễ thay đổi trạng thái tâm lý, và (7)suy giảm độ cứng cũng như độ calci hóa xương của cơ thể. Những dấu hiệu n
hiện đầy đủ ở khoảng 15% số phụ nữ đến điều trị. Việc cung cấp một lượng nhỏ estrogen hàng ngày thường cải thiện được
triệu chứng, và với quá trình giảm dần liều, phụ nữ mãn kinh có thể ngăn chặn được những triệu chứng này.

Các thử nghiệm lớn trên lâm sàng cho thấy cung cấ estrogen sau mãn kinh, mặc dù có thể cải thiện các triệu trứng của mã
nhưng có thể làm tăng nguy cơ mắc các bệnh tim mạch. Do đó, đièu trị hormone estrogen thay thế khơng cịn được khuyế
dùng thường xuyên ở những phụ nữ sau khi mãn kinh. Tuy nhiên, trong một vài nghiêm cứu chỉ ra rằng liệu pháp estrogen
làm giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch nếu được dùng sớm trong những năm đầu sau mãn kinh. Do đó, hiện tại liệu pháp e

vẫn được khuyến cáo rằng những phụ nữ sau mãn kinh đang được cân nhắc điều trị hormone estrogen thay thế nên thảo lu
bác sĩ điều trị về lợi ích và nguy cơ cứ phương pháp này.
IV

Sự bài tiết bất thường của buồng trứng:


1

Thiểu năng sinh dục- sự giảm bài tiết của buồng trứng:

Buồng trứng bài tiết hormone thấp hơn bình thường có thể là hậu quả của thiểu năng buồng trứng, không có buồn trứng ho
bất thường buồng trứng làm buồng trứng rối loạn bài tiết hormone bởi vì thiếu hụt emzym tại các tế bào chế tiết. Khi buồn
bất thường từ khi sinh ra hoặc buồng trứng bị mất chức năng trước tuổi dậy thì, sẽ xảy ra thiểu năng sinh dục nữ. Trong tìn
này, đặc tính sinh dục thứ phát khơng xuất hiện, và cơ quan sinh dục vẫn cịn ở hình dạng trẻ em. Đặc biệt tính chất của tìn
này kéo dài sự phát triển của các xương dài bởi vì các đầu xương khơng kết hợp vào thân xương sớm như bình thường. Hậ
những người lưỡng giới nữ (eunuch) cơ bản là có chiều cao bằng hoặc có thể cao hơn một chút so với nam giới cùng châu
cùng chủng tộc.

Khi buồng trứng của người phụ nữ đã phát triển hoàn toàn bị lấy bỏ đi, các cơ quan sinh dục bị thối hóa, như tử cung co
thước về kích thước tử cung trẻ em, âm đạo trở nên nhỏ lại, niêm mạc mỏng dần và dễ bị tổn thương. Vú cũng bị teo nhỏ v
xuống, lông mu cũng thưa đi. Những thay đổi này tương tự như ở phụ nữ mãn kinh.
2

Rối loạn kinh nguyệt, và hiện tượng vô kinh do thiểu năng sinh dục:

Như đã nhắc đến trong phần Mãn kinh, lượng estrogen được bài tiết ở buồng trứng phải đạt ngưỡng nhất định mới có thể
nhịp chu kì sinh dục. Do đó, trong trường hợp bị thiểu năng sinh dục hoặc khi buồng trứng chỉ bài tiết một lượng nhỏ estro
hậu quả của một số yếu tố khác, ví dụ như suy giáp, chu kì buồng trứng thường khơng thể diễn ra một cách bình thường. T
đó, giai đoạn có kinh nguyệt sẽ mất nhanh trong vòng vài tháng hoặc kinh nguyệt đột ngột bị mất hồn tồn (vơ kinh). Ch

buồng trứng bị kéo dài có thể liên quan đến khả năng suy chức năng rụng trứng (the failure of ovulation), có thể do lượng
ra không đủ để tạo đỉnh LH- rất cần thiết cho sự rụng trứng.
3

Sự tăng tiết của buồng trứng (Hypersecretion)

Sự tăng tiết các hormone buồng trứng là hiện tượng thực thể hiếm, bời vì sự bài tiết estrogen quá mức sẽ tự động giảm nồ
hormone điều hòa tuyến sinh dục do tuyến yên tiết ra, và làm giới hạn sự bài tiết hormone của buồng trứng. Do đó, sự tăng
hormone của feminizing chỉ gặp khi có khối u feminizing phát triển.

U tế bào hạt (hiếm gặp) có thể phát triển ở buồng trứng, hay xảy ra hơn khi ở độ tuổi mãn kinh. Những u này tiết ra một lư
estrogen , làm ảnh hưởng của estrogen nhiều quá mức cần thiết, bao gồm phì đại nội mạc tử cung và thường gây ra chảy m
lớp nội mạc này. Thực tế, chảy máu là dấu hiệu đầu tiên và duy nhất của loại u này.
V
1

Hoạt động sinh dục của phụ nữ:
Sự kích thích hoạt động sinh dục ở phụ nữ:

Cũng như ở nam giới, quá trình trưởng thành hoạt động sinh dục ở nữ giới cũng dựa trên sự kích thich về tâm lý cũng như
thích sinh dục tại vùng.

Nghĩ về tình dục có thể dẫn đến sự ham muốn tình dục (Thinking sexual thoughts can lead to female sexual desire), và giú
cho việc thực hiện hoạt động sinh dục (this aids greatly in the performance of the female sexual act). Sự ham muốn dựa tr
muốn tâm lý và ham muốn sinh lý (Such desire is based on psychological and physiological drive), mặc dù sự ham muốn
tăng lên tỉ lệ với lượng hormone sinh dục được tiết ra. Sự ham muốn cũng thay đổi theo CKKN, đạt đỉnh khi gần rụng trứ
vì nồng độ cao của estrogen được tiết ra trong giai doạn tiền rụng trứng.

Tính chất của sự kích thích tại chỗ diễn ra nhiều hoặc ít hơn (occurs in more or less the same manner as in men) so với na
bởi vì xoa bóp và những loại kích thích khác như âm hộ, âm đạo hay một số vùng ở đáy chậu có thể tạo ra khối cảm tình



trí đầu âm vật là nơi rất nhạy cảm với sự kích thích.

Như ở nam giới, tín hiệu thần kinh của cảm giác tình dục được vận chuyển đến các đốt tủy cùng của tủy sống thông qua c
thần kinh từ bộ phận sinh dục ngoài và đám rối thần kinh cùng. Một khi những tín hiệu này đi vào tủy sống, chúng được v
chuyển lên não. Ngoài ra, phản xạ tại chỗ inter-grated của vùng tủy cùng và tủy lưng ít nhất (Also, local reflexes integrate
sacral and lumbar spinal cord are at least partly responsible ) cũng tham gia một phần tạo ra các đáp ứng tại chỗ tại bộ phậ
dục phụ nữ.
2

Sự cương cứng và sự bôi trơn (Lubrication) ở phụ nữ

Nằm xung quanh đường vào âm đạo và xung quanh âm vật là mô cương cứng gần giống như mô cương cứng của dương
cương cứng này, tương nhự như dương vật, được chi phối bởi thần kinh phó giao cảm đi xuyên qua thần kinh tạng vùng ch
đám rối cùng đến bộ phận sinh dục ngoài. Trong giai đoạn sớm của sự kích thích tình dục, tín hiệu phó giao cảm làm giãn
mạch trong mơ cương, có thể là hậu quả của việc bài tiết acetylcholin, nitric oxit và polypeptide vận mạch trong ruột (vas
intestinal polypeptide)- VIP tại đầu tận các dây thần kinh. Việc này dẫn đến sự ứ máu đột ngột trong mô cương làm cho cử
bó chặt lấy dương vật; việc này giúp cho người đàn ơng đạt được trạng thái cực khối và xuất tinh.

Các tín hiệu phó giao cảm cịn đi đến đơi tuyến Batholin nằm ở phí dưới hai mơi bé và khiến chúng ngay lập tưc stieets ch
vào trong âm vật. Chất nhầy này có vai trị bơi trơn trong khi quan hệ tình dục, mặc dù một phần chức năng bôi trơn đến t
nhầy được tiết ra từ biểu mô âm đạo và một phần nhỏ từ niệu đạo nam giới. Sự bôi trơn quan trọng đối với hoạt động quan
dục để đạt được sự vừa lòng về cảm giác xoa bóp hơn là cảm giác kích thích (establish a satisfactory massaging sensation
than an irritative sensation), cảm giác có thể được tạo ra khi kích thích âm đạo nhưng không tiết chất nhờn (may be provo
dry vagina). Cảm giác xoa bóp tạo nên cực khối bời vì kích thích thích hợp tạo phản xạ cuối cùng ở cả 2 người nam và n
khoái. (A massaging sensation constitutes the optimal stimulus for evoking the appropriate reflexes that culminate in both
and female climaxes)
3


Khối cảm của phụ nữ: (female orgasm)

Khi kích thích tại chỗ đạt cực đỉnh, và đặc biệt khi cảm giác tại chỗ được trợ giúp thêm bởi tín hiệu tâm lý thích hợp từ nã
phản xạ bắt đầu tạo ra khối cảm. (hay cịn gọi là điểm cực khối của phụ nữ. Điểm cực khoái của phụ nữ cũng tương tự c
và phóng tinh ở nam giới, và nó có thể điều khiển sự thụ tinh của nỗn. Thực ra, phụ nữ được biết đến hơi có phần dễ thụ
(more fertile) hơn khi đưa tinh trùng vào bằng quan hệ tình dục thơng thường hơn là phương pháp nhân tạo, do đó cho thấ
năng quan trọng của đỉnh cực khoái ở phụ nữ. Một vài lý do được nêu ra sau đây:

Thứ nhất, trong giai đoạn cực khoái, các cơ đáy chậu co thắt- là một phản xạ của tủy sống tương tự như hiện tượng phóng
nam giới. Có thể việc này khiến cho tử cung và vòi Fallope đi động nhiều hơn trong giai đoạn cực khoái, do đó giúp tinh t
chuyển lên qua tử cung đến với nỗn; tuy nhiên thơng tin này vẫn cịn chưa được kiểm chứng. Ngồi ra, cực khối dường
giãn cở tử cung tới 30 phút, do đó giúp cho việc di chuyển của tinh trùng được dễ dàng hơn.

Thứ hai, ở một số động vật bậc thấp hơn, khi giao hợp khiến cho thùy trước tuyến yên tiết ra oxytocin; ảnh hưởng này đượ
đầu từ hạch hạnh nhân ở não sau đó đi qua vùng dưới đồi rrồi đến tuyến yên. Oxytocin gây ra tăng nhịp co cơ tử cung, làm
vận chuyển của tinh trùng. Một số tinh trùng đã chỉ ra rằng thời gian đi qua tồn bộ chièu dài vịi Fallope của bò là khoảng
nhanh gấp 10 lần tốc độ bơi của tinh trùng bình thường có thể đạt được. Nhưng hiện tượng này trên người vẫn chưa được
chứng.


Bên cạnh sự ảnh hưởng của cực khoái lên sự thụ tinh, cảm giác tình dục mãnh liệt được phát triển trong giai đoạn cực kho
có thể đi lên não và gây co cơ mạnh trên toàn bộ cơ thể. Nhưng sau trạng thái cực điểm sau hoạt động tình dục, sẽ mang đ
giác thỏa mãn kéo dài khoảng vài phút (this tension gives way during the succeeding minutes to a sense of satisfaction
characterized by relaxed peacefulness), được goi là resolution.
VI
Thời điểm thích hợp cho thụ thai của phụ nữ (fertility)
1 Thời điểm thích hợp cho thụ thai trong mỗi CKKN:

Nỗn sống và có thể thụ tinh sau khi rụng khỏi nang trứng trong vịng 24 giờ. Do đó, tinh trùng bắt buộc phải có mặt sớm
rụng trứng nếu muốn được thụ tinh. Một số tinh trùng có thể sống được trong ống sinh dục phụ nữ khoảng 5 ngày. Do đó,

tinh xảy ra, gaio hợp phải diễn ra trong vòng 4-5 ngày trước khi rụng trúng đến vài giờ sau khi trứng rụng. Do đó, giai đoạ
hợp để thụ thai của phụ nữ khá ngắn, chỉ khoảng 4-5 ngày.
2

Phương pháp tránh thai theo nhịp (Rhythm Method of Contraception)

Một trong những phương pháp tránh thai được sử dụng trên thực tế là không quan hệ gần thời gian rụng trứng. Điều khó k
phương pháp này là biết được chính xác thời gian trứng rụng. Khoảng thời gian từ khi trúng rụng đến khi bắt đầu hành kin
13-15 ngày. Do đó, nếu CKKN bình thường, kéo dài đúng 28 ngày, sự rụng trứng thường xảy ra trong khoảng ngày thứ 14
ngược lại, CKKN kéo dài 40 ngày, thì ngày rụng trứng nằm trong khoảng ngày thứ 26±1, còn nếu CKKN kéo dài 21 ngày
rụng trứng nằm trong khoảng ngày thứ 7±1. Do đó, thường nên tránh quan hệ 4 ngày trước ngày dự tính rụng trứng đến 3
thời gian dự đốn trứng rụng. Tuy nhiên biện pháp này chỉ dành cho những gười có độ dài CKKN khơng đổi. Tỉ lệ thất bạ
phương pháp tránh thai này, dựa trên kết quả từ những trường hợp có thai ngồi ý muốn, có thể đến mức 20-25% mỗi năm
3

Hormone ức chế sự thụ tinh- thuốc ngừa thai:

Đã từ lâu ta đã phát hiện ra rằng cung cấp (administration) estrogen hoặc progesteron, nếu với một lượng thích hợp trong
CKKN, có thể ức chế rụng trứng. Lý do là sự cung cấp thích hợp một trong 2 hormone có thể ngăn chặn đỉnh LH giai đo
rụng trứng được tiết ra bởi thùy trước tuyến yên, là một yếu tố qua trọng cho việc trứng rụng.

Lý do vì sao việc cung cấp estrogen hoặc progesterone lại ngăn chặn tạo đỉnh lH giai đoạn tiền rụng trứng vẫn chưa được
Tuy nhiên, trên thí nghiệm gợi ý rằng ngày trước khi có đỉnh LH, có sự giảm đột ngột nồng độ estrogen được iết ra từ nan
và đó có thể là một tín hiệu quan trọng tạo ra một feedback sau đó lên thùy trước tuyến yên và gây ra đỉnh LH. Sự cung cấ
hormone giới tính (estrogen hoặc progesterone) có thể ngăn chặn việc giảm nồng độ hormone buồng trứng do đó khơng cị
hiệu kích hoạt rụng trứng.

Sự thách thức trong việc tìm ra phương pháp ức chế rụng trứng thông qua hormone (The challenge in devising methods fo
hormonal suppression of ovulation) đã được phát triển từ sự kết hợp thích hợp giữa estrogen và progestin làm ức chế rụng
nhưng không ra các tác dụng không mong muốn. Ví dụ, q nhiều 1 trong 2 hormone có thể gây ra chảy máu bất thường t

CKKN. Tuy nhiên, sử dụng một số progestin nhân tạo để thay thế progesterone, đặc biệt là 19-norsteroids, cùng với một l
estrogen thường ngăn chặn rụng trứng và gần như không ảnh hưởng đến CKKN. Do đó, hầu như tất cả thuốc tránh thai nh
khiển khả năng thụ tinh bao gồm một số sự kết hợp giữa estrogen ngoại sinh và progesterone ngoại sinh. Lý do chính chún
dụng các hormone nhân tạo là vì các hormone được tổng hợp ngồi tự nhiên cũng hầu như bị phân hủy hoàn toàn ở gan tr
thời gian ngắn sau khi chúng đi từ ống sinh dục vào hệ tĩnh mạch cửa. Tuy nhiên, nhiều hormone nhân tạo có thể có khuyn


kháng lại sự phân hủy ở gan, vì thế nên dùng thuốc dạng uống.

2 loại hormone estrogen nhân tạo hay được dùng nhất là estradiol và mestranol, còn các progesterone nhân tạo hay dùng l
norethindrone, norethynodrel, ethynodiol, and norgestrel. Thuốc thường được bắt đầu sử dụng vào giai đoạn sớm của CKK
tiếp tục dùng sau thời điểm trứng rụng trên tính tốn xảy ra. Nếu qn thuốc, đợi xảy ra hành kinh xong và bắt đầu một ch
thuốc mới.

Tỉ lệ thất bại của phương pháp tránh thai này, dựa trên kết quả từ những trường hợp có thai ngồi ý muốn, khoảng 8-9% m
4

Một số nguyên nhân dẫn đến vô sinh ở phụ nữ:

Khoảng 5-10% phụ nữ bị vô sinh. Đơi khi, khơng thể tìm được ngun nhân gây vơ sinh trên thực thể, khi đó chúng ta phả
nhận rằng nguyên nhân vô sinh là do chức năng sinh lý sinh sản hoặc do sự phát triển bất thường của gen của nỗn.

Ngun nhân phổ biến dẫn đến vơ sinh ở phụ nữ là do khơng thể rụng trứng. Có thể là hậu quả của sự bài tiết thiếu các ho
điều hòa tuyến sinh dục, hơn nữa những trường hợp có sự kích thích hormone q mức thường khơng thích hợp để gây ra
trứng, hoặc có thể là hậu quả từ buồng trứng bất thường nên trứng không thể rụng được. Ví dụ, buồng trứng có vỏ bọc dày
ngồi làm cho sụ rụng trứng khó có thể diễn ra.

Bời vì tỉ lệ CKKN không rụng trứng gặp nhiều ở những phụ nữ vô sinh, một số phương pháp đặc biệt được sử dụng để xá
chu kì nào có trứng rụng. Những phương pháp này dựa trên sự tác động của progesterone lên cơ thể, vì sự tăng bài tiết
progesterone thường xảy ra vào nửa sau của CKKN. Khi khơng có sự tăng bài tiết progesterone, chu kì đó được coi là khô

rụng trứng.

Một trong những test này là đơn giản chỉ phân tích sự tăng đột ngột của pregnanediol, sản phẩm phân hủy của progesteron
nửa sau của CKKN. Nếu không có chất này, tức là sự rụng trứng đã thất bại. Một test phổ biến khác là theo dõi thân nhiệt
phụ nữ trong suốt CKKN. Sự bài tiếtprogesteron trong nửa sau CKKN làm thân nhiệt tăng lên khoảng 0,5 độ C; thân nhiệ
lên đột ngột vào lúc sự rụng trứng xảy ra. Hình 82-14 minh họa sự theo dõi thân nhiệt trong CKKN.

Không rụng trứng do nguyên nhân bài tiết thiếu hormone điều hòa tuyến sinh dục từ tuyến yên đơi khi có thể điều trị bằng
cấp hormone điều hịa tuyến sinh dục từ nhau thai người vào một thời điểm thích hợp (được nói đến ở Chương 83); hormo
được chiết xuất từ rau thai người. Hormone này, mặc dù được tiết ra từ rau thai, nhưng có tác dụng gần giống như LH và d
kích thích mạnh mẽ buồng trứng. Tuy nhiên, nếu dùng quá liều hormone này có thể làm cho nhiều nang tửng cùng phát tri
một lúc, điều này tạo ra những trường hợp sinh đôi, sinh ba,… Có thể kích thích nhiều đến mức có 8 bào thai (hầu hết đều
đến lúc sinh ra) cùng phát triển trong bụng người mẹ được điều trị vô sinh bằng phương pháp này.

Một trong những nguyên nhân thường gặp nhất dẫn đến vô sinh ở phụ nữ là lạc nội mạc tử cung, tình trạng mơ nội mạc gầ
như nội mạc tử cung được phát triển và thậm chí hành kinh trong hố chậu vùng xung quanh tử cung, vòi Fallope và buồng
Lạc nội mạc tử cung gây xơ hóa những vùng trong hố chậu, và sự xơ hóa thường xảy ra xung quanh buồng trứng làm cho
không thể rụng vào ổ bụng (ovum cannot be released into the abdominal cavity). Thường thường, lạc nội mạc tử cung bít
Fallope, hoặc tại nơi kết thúc xơ hóa hoặc bất kì nơi nào có sự xơ hóa lan đến.

Một nguyên nhân khác nữa gây ra vô sinh ở phụ nữ là salphingitis- nhiễm trùng vịi Fallope; gây ra xơ hóa vịi Fallope, do
tắc nghẽn lòng ống. Trước kia, hầu hết các nhiễm tùng là do hậu quả của gonococcal infection, nhưng với những tiến bộ tr


học, tình trạng này hiện đã giảm ở phụ nữ vơ sinh.

Cịn một ngun nhân khác gây vơ sinh ở phụ nữ là sự bất thường của dịch nhầy cổ tử cung. Bình thường khi rụng trứng,
hormone estrogen khiến cho cổ tử cung tiết ra chất nhầy với tính chất đặc biệt có thể giúp cho tinh trùng di chuyển nhanh
vào trong tử cung và hướng dẫn tinh trùng đi hướng lên trên vào tử cung qua lớp chất nhầy này. Sự bất thường của cổ tử c
những nhiễm trùng nhẹ, hoặc rối loạn sự kích thích hormone lên cổ tử cung có thể làm cho cổ tử cung tiết ra dịch nhầy và

quánh ngăn cản sự thụ tinh diễn ra./.



×