Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Sinh lý Guyton: CHỨC NĂNG SINH SẢN VÀ CÁC HORMON NAM GIỚI ( VÀ CHỨC NĂNG CỦA TUYẾN TÙNG)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (690.69 KB, 28 trang )

Chương 81: CHỨC NĂNG SINH SẢN VÀ CÁC HORMON
NAM GIỚI ( VÀ CHỨC NĂNG CỦA TUYẾN TÙNG)
Chức năng sinh dục nam thể hiện qua 3 chức năng chính:
1. Sản sinh tinh trùng
2. Thực hiện các chức năng sinh dục nam
3. Điều hịa chức năng sinh sản thơng qua các hormon
Bên cạnh chức năng sinh sản, các hormon sinh dục nam cịn có tác dụng lên các đặc tính sinh
dục phụ, sự trao đổi chất qua màng tế bào, sự tăng trưởng và nhiều chức năng khác của cơ thể.

Giải phẫu, sinh lý cơ quan sinh dục nam
Hình 81-1A thể hiện các thành phần của cấu trức sinh dục nam, còn hình 81-1B mơ tả kĩ hơn về
cấu trúc của tinh hoàn và mào tinh hoàn. Tinh hoàn được cấu tạo bởi hơn 900 ống sinh tinh, mỗi
ống sinh tinh có thể dài tới 1,5 mét, là nơi sản sinh ra tinh trùng. Sau đó tinh trùng được đổ vào
mào tinh hồn – là một ống xoắn khác có chiều dài lên tới 6 mét. Mào tinh hoàn dẫn tinh trùng
vào ống dẫn tinh, Ống dẫn tinh giãn rộng ra thành túi tinh, nơi dự trữ tinh trùng trước khi đổ vào
tuyến tiền liệt.


Hình 81-1.A: Hệ sinh dục nam B. Cấu trúc tinh hoàn và mối quan hệ giữa tinh hoàn và mào tinh
hoàn( A: Nguồn: Bloom V, Fawcett DW: Textbook of Histology, 10th ed. Philadelphia: WB
Saunders, 1975. B, Nguồn: Guyton AC: Anatomy and Physiology. Philadelphia: Saunders
College Publishing, 1985.)
Hai túi tinh nằm ở 2 bên tuyến tiền liệt, dẫn tinh trùng vào tuyến tiền liệt và tận cùng ở bóng tinh,
Niệu quản là nơi cuối cùng dẫn tinh trùng từ tinh hoàn ra bên ngoài. Niệu quản được cung cấp
chất nhầy từ một lượng lớn tuyến niệu đạo nhỏ sắp xếp suốt chiều dài của niệu đạo, cũng như từ
tuyến hành niệu đạo ( tuyến Cowper) ở gốc niệu đạo.


Sự sinh tinh
Trong q trình hình thành phơi thai, các tế bào mần nguyên thủy di chuyển vào tinh hoàn và trở
thành các tinh nguyên bào, xếp thành 2 đến 3 lớp trên bề mặt bên trong vách ống sinh tinh ( mặt


cắt ngang ống sinh tinh được thể hiện trong hình 81-2A). Đến tuổi dậy thì, các tinh nguyên bào
trải qua quá trình phân bào và liên tục sinh trưởng phát triển để tạo thành tinh trùng như được thể
hiện trong hình 81-2B


Hình 81-2 A: Sơ đồ cắt ngang ống sinh tinh B: Các giai đoạn trưởng thành tinh trùng từ tinh
nguyên bào



Các giai đoan của quá trình sinh tinh
Sự sinh tinh xảy ra ở ống sinh tinh nhờ sự điều hòa của các hormon điều hòa sinh dục của tuyến
yên. Sự sinh tinh bắt đầu vào khoảng 13 tuổi và kéo dài trong suốt thời gian còn lại của cuộc đời
nhưng giảm đi rõ rệt khi về già.
Trong giai đoạn đầu tiên của quá trình sinh tinh, các tinh nguyên bào được bao quanh bởi các tế
bào Sertoli đến tận trung tâm ống sinh tinh. Các tế bào Sertoli rất lớn, tiết ra nhiều chất bao
quanh tinh nguyên bào tạo môi trường giúp tinh nguyên bào sinh trưởng và biệt hóa.

Quá trình phân bào
Các tinh nguyên bào vượt qua hàng rào tế bào Sertoli dần dần trưởng thành, lớn hơn, tao thành
tinh bào bậc 1 có kích thước lớn. ( Hình 81-3). Đến lượt các tinh bào bậc 1, chúng trải qua phân
bào giảm nhiễm để trở thành 2 tinh bào bậc 2. Sau đó vài ngày, các tinh bào bậc 2 cũng phân
chia trở thành các tinh trùng, và sau đó chúng biệt hóa trở thành các tinh trùng trưởng thành.
Trong quá trình phát triển từ tinh bào trở thành tinh trùng, 46 nhiễm sắc thể ( 23 cặp nhiễm sắc
thể) của tinh bào phân chia, 23 nhiễm sắc thể đi vào tinh trùng thứ nhất, 23 nhiễm sắc thể đi vào
tinh trùng thứ 2. Các gen trên nhiễm sắc thể cũng được phân chia để đảm bảo chỉ có một nửa đặc
tính di truyền của thai nhi được cung cấp bởi người cha, và một nửa còn lại đến từ trứng của
người mẹ. Toàn bộ thời gian của quá trình sinh tinh từ tinh nguyên bào đến tinh trùng mất
khoảng 74 ngày.


Nhiễm sắc thể giới tính
Trong mỗi tinh nguyên bào, một trong 23 cặp nhiễm sắc thể mang gen quy đinh giới tính của đứa
trẻ trong tương lai. Cặp nhiễm sắc thể này gồm 1 nhiễm sắc thể X, được gọi là nhiễm sắc thể nữ
giới, 1 nhiễm sắc thể Y, là nhiễm sắc thể nam giới. Trong quá trình phân bào, nhiễm sắc thể giới
tính Y đi về 1 tinh trùng và tinh trùng đó trở thành tinh trùng nam, và nhiễm sắc thể giới tính X
đi về một tinh trùng khác và tinh trùng đó được gọi là tinh trùng nữ. Giới tính của đứa trẻ trong
tương lai được quy đinh bởi loại tinh trùng được thụ tinh với trứng của người mẹ. Quá trình này
sẽ được mô tả kĩ hơn trong chương 83.

Cấu trúc tinh trùng
Ban đầu khi tinh trùng được hình thành, chúng vẫn mang đặc điểm cơ bản của tế bào biểu mơ,
sau đó chúng sẽ được biệt hóa và kéo dài ra để trở thành các tinh trùng trưởng thành. Như mô tả
trong hình 81-4, mỗi tinh trùng được chia thành phần đầu và phần đuôi. Phần đầu chứa nhân tế
bào cô đặc, được bao quanh bởi một lớp màng tế bào và một lớp nguyên sinh chất rất mỏng. Ở
2/3 trước ngoài của phần đầu là một mũ dày gọi là thể đỉnh được hình thành chủ yếu từ các bộ
máy Gongi. Thể đỉnh chứa các enzim giống các enzim được tìm thấy trong các lysosome của các
tế bào điển hình, như hyalurolydase ( có khả năng phân giải sợi proteoglycan của mô),


các enzim phân giải protein rất mạnh. Các enzim này đóng vai trị vơ cùng quan trọng trong sự
xâm nhập của tinh trùng vào trong trứng cũng như sự thụ tinh.
Phần đuôi tinh trùng, hay gọi là roi, cấu trúc gồm 3 thành phần chính: (1) khung xương trung tâm
được tạo thành từ 11 vi ống, được gọi chung là sợi trục ( cấu trúc của sợi trục tương tự như
nhung mao được tìm thấy trên bề mặt các tế bào khác như mô tả trong chương 2), (2) lớp màng
tế bào mỏng phủ quanh sợi trục, (3) tập hợp các ty thể xếp vòng quanh sợi trục ở phần gần của
đi ( hay gọi là thân tinh trùng).

Hình 81- 4: Cấu trúc tinh trùng người
Chuyển động qua lại của đuôi ( chuyển động của roi) giúp cho tinh trùng có khả năng vận động.
Nó là kết quả của sự trượt theo chiều dài một cách nhịp nhàng của ống trước và ống sau sợi trục.



Năng lượng cho quá trình này được cung cấp dưới dạng adenosine triphosphat do các ty thể nằm
ở thân tinh trùng sản xuất. Tinh trùng di chuyển trong môi trường lỏng thông thường với tốc độ 1
– 4 mm/s, cho phép chúng di chuyển được trong đường sinh dục của nữ để tìm đến trứng.

Hormone kích thích sinh tinh
Vai trị của các hormone sinh dục sẽ được đề cập chi tiết trong phần sau. Phần này chỉ nêu các
hormon ảnh hưởng chính tới q trình sinh tinh:
1. Testosteron: được sản xuất từ các tế bào Leydic nằm ở khoảng gian bào của tinh hồn

2.
3.
4.
5.

( xem hình 81 – 2), cần thiết cho sự phát triển và biệt hóa của các tế bào mầm tinh hồn,
bước đầu tiên trong sự hình thành tinh dịch.
LH ( Luteinizing hormone): do thùy trước tuyến yên tiết ra, kích thích tế bào Leydic sản
xuất Testosteron.
FSH ( Follicile Stimiulating hormone): cũng được tiết ra từ thùy trước tuyến yên, cần
thiết cho sự biệt hóa từ tiền tinh trùng thành tinh trùng.
Estrogen: do tế bào Sertoli tiết ra dưới tác dụng của FSH, cũng đóng vai trị quan trọng
trong quá trình sinh tinh.
GH ( Growth hormone): giống như tác dụng toàn thân khác, cần thiết cho sự trao đổi chất
qua màng tế bào ở tinh hoàn. GH đặc biệt quan trọng trong giai đoạn đầu biệt hóa tinh
nguyên bào, nếu thiếu ( như trong bệnh lùn tuyến n) thì sự sinh tinh sẽ suy giảm hoặc
thậm trí khơng sảy ra, dẫn đến vơ sinh.

Sự hồn thiện tinh trùng trong mào tinh hồn

Sau khi hình thành trong ống sinh tinh, tinh trùng phải mất một vài ngày để đi hết quãng
đường 6 mét của mào tinh hoàn. Tinh trùng lấy ra từ ống sinh tinh và phần đầu mào tinh chưa
có khả năng di chuyển cũng như chưa thể thụ tinh với trứng. Tuy nhiên, sau khi tinh trùng ở
trong mào tinh khoảng 18 đến 24 giờ, chúng đã có khả năng di động, mặc dù vẫn bị một số
enzim ức chế trong mào tinh ức chế khả năng di động cho đến sau khi xuất tinh.

Lưu trữ tinh trùng trong tinh hoàn
Hai tinh hoàn ở nam giới trưởng thành sản xuất khoảng 120ml tinh dịch mỗi ngày. Phần lớn
trong đó được lưu trữ trong mào tinh, một phần nhỏ khác nằm trong ống dẫn tinh. Chúng có
thể được lưu trữ mà vẫn duy trì được khả năng sinh sản trong ít nhất 1 tháng. Trong thời gian
này, chúng bị ức chế sâu, ở trong trạng thái không hoạt động do chịu sự chi phối của rất
nhiều hormone ức chế do dịch tiết của ống sản sinh ra. Ngược lại, ở trạng thái hoạt động tình
dục và xuất tinh với tần suất cao thì chúng được bảo lưu không quá vài ngày.
Sauk hi xuất tinh, tinh trùng trở nên di động và có khả năng thụ tinh với trứng, một q trình
gọi là “sự chín” Tế bào Sertoli và các tế bào biểu mơ mào tinh hồn tiết ra chất dịch dinh


dưỡng đặc biệt, xuất tinh cùng tinh trùng, chứa nhiều hormone ( bao gồm cả estrogen và
progesterone), enzyme, các chất dinh dưỡng cần thiết cho sự trưởng thành tinh trùng.

Sinh lý của tinh trùng trưởng thành
Ở trang thái di động bình thường, một tinh trùng khỏe mạnh có thể di chuyển nhờ roi trong
môi trường dịch thể với vận tốc 1 đến 4 mm/s. Hoạt động của chúng tốt hơn khi ở trong mơi
trường trung tính hoặc kiềm nhẹ, như trong tinh dịch xuất tinh; ngược lại, mơi trường mang
tính acid nhẹ khiến tinh trùng vận động kém đi, thậm trí mơi trường acid mạnh có thể khiến
chúng bị chết.
Hoạt động của tinh trùng tăng lên rõ rệt cùng với sự tăng nhiệt độ, nhưng nó khơng tỷ lệ
thuận với mức độ trao đổi chất, là nguyên nhân khiến đời sống của chúng khơng dài. Mặc dù
tinh trùng có thể tồn tại cả tháng trời ở trạng thái ức chế trong đường sinh dục nam, nhưng ở
trong đường sinh dục nữ, đời sống của chúng chỉ kéo dài 1 đến 2 ngày.


Chức năng của túi tinh
Mỗi túi tinh là một ống gấp khúc, chia ngăn, lót bởi lớp biểu mơ tiết nhầy, sản phẩm của
chúng rất giàu fructose, acid citric và nhiều loại chất dinh dưỡng khác, ngoài ra chúng cịn
chứa một lượng lớn prostaglandin và fibrinogen. Trong q trình mộng tinh hay xuất tinh,
ngay sau khi ống dẫn tinh phóng tinh trùng, túi tinh sẽ tống tinh trùng ra ống phóng tinh.
Hoạt động này được bổ sung một lượng lớn tinh dịch. Tinh dịch này có chứa nhiều fructose
và nhiều chất dinh dưỡng khác đảm bảo nuôi dưỡng tinh trùng từ lúc xuất tinh đến khi một
trong số chúng có thể thụ tinh với trứng.
Prostaglandin trợ giúp cho quá trình thụ tinh theo 2 cách: 1. Phản ứng với chất nhầy cổ tử
cung giúp tinh trùng dễ dàng xâm nhập vào tử cung, 2. Gây ra phản nhu động, tạo ra các nhu
động ngược chiều ở tử cung và vịi trứng, giúp tinh trùng nhanh chóng di chuyển về phía
buồng trứng ( một vài tinh trùng có thể đạt tới đầu trên của ống dẫn trứng trong vòng 5 phút)

Chức năng tuyến tiền liệt
Tuyến tiền liệt tiết ra một chất lỏng màu trắng sữa, mỏng, chứa calci, ion citrate, một enzyme
đông máu và tiền fibrinolysin. Trong mộng tinh, tất cả các nang của tuyến tiền liệt đồng loạt
co thắt cùng với sự co thắt của ống phóng tinh, làm tăng thể tích tinh dịch phóng ra. Tính
kiềm nhẹ trong dịch tiết tuyến tiền liệt góp phần đáng kể cho thành công của sự thụ tinh. Do
sự hiện diện của acid citric trong dịch tiết ống phóng tinh, cũng như sự chuyển hóa của tinh
trùng khiến mơi trường acid giúp ức chế tinh trùng. Hơn nữa dịch tiết âm đạo nữ giới cũng có
tính acid ( pH dịch âm đạo trong khoảng 3.5 đến 4). Tinh trùng không thể di chuyển tối ưu
cho đến khi pH của môi trường dịch xung quanh đạt 6.0 đến 6.5. Do đó, rất có thể dịch tuyến
tiền liệt có tính kiềm nhẹ giúp trung hịa bớt tính acid của các dịch khác khi xuất tinh, do đó
tăng khả năng vận động và khả năng thụ tinh của tinh trùng


Tinh dịch
Tinh dịch được tiết ra trong quá trình hoạt động sinh dục của nam giới, gồm dịch và tinh
trùng từ ống dẫn tinh ( khoảng 10%), dịch từ túi tinh ( khoảng 60 %), dịch từ tuyến tiền liệt

( khoảng 30 %) và một lượng nhỏ từ các tuyến khác, đặc biệt là tuyến hành niệu đạo. Như
vậy, phần lớn tinh dịch được tiết ra từ túi tinh, chúng được tiết ra cuối cùng và đóng vai trị
rửa sạch tinh trùng khỏi ống phóng tinh và niệu quản.
Độ pH trung bình của tinh dịch khoảng 7.5, trong đó dịch tuyến tiền liệt có tính hơi kiềm
giúp trung hịa bớt tính acid của các thành phần khác trong tinh dịch. Dịch tuyến tiền liệt làm
cho tinh dịch có màu trắng sữa, trong khi đó chất nhầy của túi tính khiến cho tinh dịch có
tính nhầy đồng nhất. Ngồi ra, enzyme đông máu trong dịch tuyến tiền liệt biến đổi
fibrinogen từ túi tinh thành khối fibrin giúp giữ tinh dịch ở những vùng sâu của âm đạo, chỗ
cổ tử cung. Khối fibrin này sau khoảng 15 đến 30 phút sẽ được các fibriolysin tạo thành từ
tiền fibriolysin trong tuyến tiền liệt phân giải. Trong khoảng 5 phút đầu sau xuất tinh, tinh
trùng vẫn ở trạng thái kém hoạt động. Nhưng sau khi khối ffibrin được phân giải thì chúng
trở nên di động rất mạnh.
Mặc dù tinh trùng có thể tồn tại khá lâu trong đường sinh dục nam, nhưng một khi đã xuất
tinh, chúng chỉ có thể sống được khoảng 24 đến 48 giờ ở nhiệt độ cơ thể người. Ở nhiệt độ
thấp hơn, chúng có thể tồn tại được một vài tuần, và dĩ nhiên, nếu bảo quản ở nhiệt độ dưới
âm 100 độ C, chúng thậm trí có thể sống tới hàng năm.

“Hoàn thiện” của tinh trùng là thụ tinh với trứng
Mặc dù tinh trùng được gọi là trưởng thành khi chúng ra khỏi mào tinh hoàn, hoạt động của
chúng vẫn bị kiểm soát bởi nhiều yếu tố ức chế do các tế bào biểu mô trong ống sinh dục. Do
đó khi mới được tống ra cùng tinh dịch, chúng chưa có khả năng thụ tinh cho trứng. Nhưng
sau khi tiếp xúc với các dịch tiết trong đường sinh dục nữ, nhiều biến đổi xáy ra, kích hoạt
tinh trùng thực hiện bước cuối cùng của thụ tinh. Tập hợp các giai đoạn này được gọi là sự
hoàn thiện tinh trùng, thường đòi hỏi 1 đến 10 giờ. Các sự kiện được xảy ra có thể được mơ
tả như sau:
1. Dịch trong tử cung và ống dẫn trứng ở nữ loại sạch các yếu tố ức chế tinh trùng.
2. Khi ở trong ống sinh dục nam, tinh trùng được tiếp xúc với nhiều túi chứa dịch, trong đó

có nhiều cholesterol được sản xuất từ ống sinh tinh. Cholesterol này liên tục bổ sung vào
màng tế bào bao quanh sợ trục, làm bền vững màng và ngăn chặn sự thoát ra của các

enzyme. Sau khi xuất tinh, tinh trùng lắng đọng trong âm đạo bơi khỏi túi cholesterol vào
khoang tử cung. Trong q trình đó chúng dần mất nhiều cholesterol trong vòng vài giờ,
điều này làm cho đầu tinh trùng ( thể đỉnh) trở nên yếu hơn nhiều.
3. Màng tinh trùng cũng tăng tính thấm với ion Calci, calci đi vào trong tinh trùng rất nhiều
làm thay đổi hoạt động của roi, khiến chúng vận động mạnh mẽ khác hẳn với chuyển
động lượn song yếu ớt trước đó. Hơn nữa, ion calci làm thay đổi tính thấm của màng tế


bào bao bọc thể đỉnh, khiến chúng sẵn sang giải phóng enzyme một cách nhanh chóng và
dễ dàng, giúp tinh trùng có thể xâm nhập qua lớp tế bào hạt, thậm trí là cả màng trong
suốt bao xung quanh trứng.
Như vậy, có rất nhiều biến đổi xảy ra trong giai đoạn hồn thiện tinh trùng mà nếu khơng
có chúng, tinh trùng không thể xâm nhập vào bên trong trứng cà thực hiện quá trình thụ
tinh.

Các enzyme thể đỉnh, “phản ứng thể đỉnh” và sự xâm nhập vào trứng.
Bên trong thể đỉnh chứa một lượng lớn enzyme hyalurolydase và các enzyme phân giải
protein. Hyalurolydase phân giải trùng hợp acid hyaluro – thành phần liên kết gian bào –
giữa các tế bào hạt. Các enzyme phân giải protein phá hủy protein trong các lớp mô tế bào
mà vẫn bảo tồn trứng.
Khi trứng được phóng vào ống dẫn trứng vẫn cịn mang nhiều lớp tế bào hạt. Trước khi tinh
trùng được thụ tinh với trứng, chúng còn phải vượt qua các lớp tế bào hạt, sau đó là lớp màng
trong suốt dày bao quanh trứng. Để làm được điều đó cần có sự giải phóng các enzyme trong
thể đỉnh. Người ta tin rằng enzyme hyalurolydase đóng vai trị đặc biệt quan trọng mở đường
giữa các tế bào hạt giúp tinh trùng tìm đến trứng.
Khi tinh trùng tìm được màng trong suốt, màng trước của nó sẽ gắn chặt lấy receptor đặc
hiệu trên màng trong suốt của trứng. Tiếp theo, toàn bộ thể đỉnh nhanh chóng hịa tan giải
phóng tồn bộ enzyme trong nó. Trong vài phút, các enzyme đó đã mở được một con đường
giúp đầu tinh trùng xuyên qua màng trong suốt vào bên trong trứng. Trong vòng 30 phút tiếp
theo, màng tế bào ở đầu tinh trùng cùng với màng tế bào của trứng hợp lại với nhau để tạo

thành một tế bào duy nhất. Cũng lúc này, bộ nhiễm sắc thể của trứng và tinh trùng hợp lại
thành một bộ gen hồn chỉnh mới, có sự đóng góp như nhau từ bố và mẹ. Đây là quá trình
thụ tinh, và sau đấy là sự phát triển của phôi sẽ được mô tả kĩ hơn trong chương 83.

Tại sao một trứng chỉ có thể thụ tinh với một tinh trùng?
Với rất nhiều tinh trùng tham gia quá trình thụ tinh, tại sao chỉ có 1 tinh trùng có thể đi vào
thụ tinh cùng trứng? Lý do chưa hoàn toàn được hiểu hết. Tuy nhiên chỉ vài phút sau khi tinh
trùng đầu tiên xâm nhập qua lớp màng sáng, các ion calci xâm nhập vào bên trong, tế bào
phát động phản ứn g vỏ đổ các chất đặc biệt vào xoang quanh noãn. Các hạt này thấm vào
màng trong suốt, ngăn chặn sự gắn vào của các tinh trùng khác, thậm trí còn khiến các tinh
trùng đang gắn vào phải rơi ra. Như vậy, gần như khơng thể có nhiều hơn một tinh trùng có
thể thụ tinh cùng trứng.

Sinh tinh bất thường và vơ sinh nam
Biểu mơ ống sinh tinh có thể bị phá hủy bởi nhiều nguyên nhân. Ví dụ, viêm tinh hồn hai
bên do quai bị có thể là ngun nhân gây vơ sinh ở một số nam giới. Ngồi ra, một số trẻ em


nam sinh ra với thối hóa biểu mơ ống sinh tinh do hẹp đường dẫn tinh hay bất thường
khác.Cuối cùng, một nguyên nhân của vô sinh nam, thường là tạm thời, là sự gia tăng nhiệt
độ quá mức ở tinh hoàn.

Ảnh hưởng của nhiệt độ lên sự sinh tinh
Sự tăng nhiệt độ có thể ngăn cản sự sinh tinh vì nó có thể tiêu diệt hầu hết các tế bào trong
ống sinh tinh ngoại trừ tinh nguyên bào. Đó là lý do tinh hồn được treo ở hai túi bìu bên
ngồi cơ thể mặc dù ở đó chỉ thấp hơn nhiệt độ cơ thể 2°C. Vào những ngày lạnh, phản xạ da
bìu kéo tinh hồn lại gần cơ thể để duy trì chênh lệch nhiệt độ 2°C này. Do đó bìu hoạt động
như một cơ chế làm mát cho tinh hồn ( làm mát có kiểm sốt), nếu khơng sự sinh tinh sẽ bị
suy giảm trong những ngày trời nóng.


Ẩn tinh hoàn
Ẩn tinh hoàn là chỉ sự thất bại của q trình di chuyển của tinh hồn từ ổ bụng xuống bìu
trong hoặc gần thời gian thai nhi sinh ra. Cùng với sự trưởng thành của thai nhi nam, tinh
hoàn có nguồn gốc từ mầm sinh dục trong ổ bụng. Tuy nhiên trong khoảng 3 tuần đến 1
tháng sau khi sinh, tinh hoàn di chuyển dọc theo các kênh ở bẹn xuốn bìu. Đơi khi q trình
này xảy ra khơng đầy đủ, kết quả là một hay thậm trí cả 2 tinh hoàn ở lại trong bụng, ở ống
bẹn hay ở bất kì vị trí nào khác trên đường di chuyển.
Một tinh hồn cịn sót lại trong ổ bụng qua thời gian sẽ mất đi khả năng sinh tinh trùng. Các
tế bào biểu mơ ống sinh tinh sẽ dần thối hóa chỉ để lại tổ chức kẽ của tinh hồn. Nó là một
minh chứng cho việc nhiệt độ cao trong ổ bụng là ngun nhân gây thối hóa tế bào ống sinh
tinh, do đó gây ra vơ sinh, mặc dù ảnh hưởng này là không chắc chắn. Dù vậy, việc chuyển
tinh hồn từ ổ bụng xuống bìu trước khi bắt đầu đời sống sinh dục của người trưởng thành có
thể thực hiện ở các nam giới có tinh hồn lạc chỗ.
Tinh hồn thai nhi tiết ra testosteron bình thường là ngun nhân kích thích tinh hồn di
chuyển từ bụng xuống bìu. Do đó, mơt phần, khơng phải tất cả, những trường hợp ẩn tinh
hoàn là do bất thường ở tinh hồn khơng tiết đủ testosterone. Phẫu thuật chuyển tinh hồn
xuống bìu ở những bệnh nhân như vậy là khơng có kết quả.

Tác động của số lượng tinh trùng lên khả năng sinh sản
Một lần xuất tinh bình thường nam giới tiết ra khoảng 3.5ml tinh dịch, và trong 1 ml tinh
dịch có chứa khoảng 120 triệu tinh trùng, ( thực ra là trong khoảng 35 triệu đến 200 triệu tinh
trùng). Điều đó có nghĩa là một lần xuất tinh sẽ giải phóng cỡ 400 triệu tinh trùng có mặt
trong vài milliliter tinh dịch. Khi số lượng tinh trùng trong mỗi milliliter giảm xuống dưới 20
triệu, người đó có thể bị vô sinh. Như vậy mặc dù chỉ cần một tinh trùng duy nhất cho sự thụ
tinh, do lý do nào đó chưa được biết rõ, xuất tinh lại cần một số lượng lớn tinh trùng như vậy.


Ảnh hưởng của hình thái học và di động tinh trùng lên khả năng sinh sản
Đôi khi một nam giới có số lượng tinh trùng bình thường nhưng vẫn bị vơ sinh. Khi tình
trạng này xảy ra, rất nhiều, thậm trí là một nửa số tinh trùng của người này có hình dạng bất

thường, có hai đầu, bất thường đầu hay bất thường thân như mơ tả trong hình 81-5. Trong
trường hợp khác, tinh trùng có thể có cấu trúc bình thường, nhưng do một nguyên nhân nào
đấy chưa biết, chúng ít di động hoặc hồn tồn khơng di động. Bất cứ khi nào mà một phần
tinh trùng có hình dạng bất thường hoặc khơng di động thì người đó có thể bị vơ sinh mặc dù
phần tinh trùng cịn lại hồn tồn bình thường.

TESTOSTERONE VÀ CÁC HORMONE SINH DỤC NAM KHÁC.
Sản xuất, bài tiết và hóa sinh các hormone sinh dục nam.


Sản xuất testosterone nhờ các tế bào Leydic ở khoảng kẽ của tinh hoàn. Tinh hoàn tiết ra
khá nhiều hormone sinh dục nam, được gọi chung là các androgen, bao gồm testosterone,
dihydrotestosterone, và androstenedione. Testosterone được tiết ra nhiều nhất ở tinh hồn, và
đó là lý do nó được gọi là hormone chính của tinh hồn, mặc dù ở mơ đích, chúng hầu hết
được chuyển hóa thành dihydrotestosterone, một dạng hoạt động hơn testosterone.
Testosterone được tiết ra bởi các tế bào Leydic nằm ở khoảng kẽ của các ống sinh tinh, chiếm
đến 20% khối lượng của tinh hoàn, như thể hiện trong hình 81-7. Tế bào Leydic gần như
khơng tồn tại trong suốt thời niên thiếu, do tinh hoàn hầu như khơng tiết testosterone trong
thời kì này, nhưng trong vài tháng đầu của cuộc đời và khi bắt đầu dậy thì, tinh hồn lúc đó
tiết ra một lượng lớn testosterone.
Testosterone cũng tang tiết một khi xuất hiện khối u ở khoảng kẽ. Cuối cùng, khi các tế bào
mầm tinh hoàn bị phá hủy bởi tia X hay nhiệt độ quá cao, thì các tế bào Leydic ít bị phá hủy
hơn, vẫn tiếp tục tiết testosterone.

Hình 81-7: Tế bào Leydic, sản xuất testosterone, nằng ở khoảng kẽ giữa các ống sinh tinh
Sự tiết androgen ở những nơi khác của cơ thể. Thuật ngữ androgen dùng để chỉ các
hormone steroid nam giới, gồm testosterone, cũng bao gồm các hormone sinh dục nam khác
được sản xuất ở các nơi khác của cơ thể, ngồi tinh hồn. Ví dụ, tuyến thượng thận tiết ra ít
nhất 5 hormone sinh dục nam, mặc dù tổng tác động phân hóa đặc tính nam giới trên tồn bộ



androgen của chúng là rất ít ( chỉ khoảng 5% ở nam giới trưởng thành), mà ngay cả ở phụ nữ
chúng cũng khơng gây thể hiện các đặc tính nam rõ rệt, ngoại trừ việc mọc lông mu và lông
nách.
Tuy nhiện, một khi có khối u ở các tế bào sản xuất androgen của tuyến thượng thận, lượng
androgen lúc này đủ để gây ra tất cả các đặc tính sinh dục phụ của nam giới, thậm trí ở nữ
giới. Những tác dụng này sẽ được mô tả trong hội chứng andrenogenital trong chương 78.
Hiếm khi tế bào mào phôi trong buồng trứng có thể phát triển thành khối u tiết quá nhiều
androgen, gọi là u quái. Các buồng trứng bình thường cũng tiết ra androgen, nhưng khơng
đáng kể.
Hóa sinh của androgen. Tất cả các androgen đều là các hợp chất steroid, như thể hiện cơng
thức trong hình 81-8 là testosterone và dihydrotestosterone. Cả ở tinh hoàn hay tuyến thượng
thận, androgen được tổng hợp từ cholesterone hay trực tiếp từ acetyl coenzyme A.

Hình 81-8: Testosterone và dihydrotestosterone
Chuyển hóa testosterone. Sau khi sinh ra ở tinh hoàn, 97% testosterone trở thành một trong
haui dạng, gắn lỏng lẻo với albumin, hoặc gắn một cách chặt chẽ hơn với beta globulin, được
gọi với cái tên protein vận chuyển hormone sinh dục và được lưu thông trong máu ở các mô
trong khoảng 30 phút đến 1 giờ. Trong khoảng thời gian đó, testosterone hoặc được vận
chuyển đến các mô thực hiện chức năng hoạt bị thối hóa thành các sản phẩm khơng hoạt
động và sau đó được thải ra ngồi.
Phần lớn testosterone đến mơ được tế bào chuyển thành dạng dihydrotestosterone, đặc biệt ở
trong tế bào tuyến tiền liệt và trong mơ sinh dục ngồi của thai nhi nam. Một số, khơng có


nghĩa là tất cả hoạt động của testosterone đều cần quá trình này. Các chức năng trong tế bào
của testosterone sẽ được nói đến sau trong chương này.
Thối hóa và bài tiết testosterone. Các testosterone nếu không được gắn vào mơ sẽ nhanh
chóng bị thối hóa, đặc biệt ở gan, thành dạng androsterone và dehydroepiandrosterone, đồng
thời liên hợp với glucuronidase hoặc sulfat. Những hợp chất này sẽ bị đào thải qua mật,

xuống ruột, hoặc qua nước tiểu.
Sản xuất estrogen ở nam giới. Bên cạnh testosterone thì một lượng nhỏ estrogen cũng được
sản xuất ở cơ thể nam giới ( bằng khoảng 1/5 lượng estrogen ở nữ giới không mang thai).
Một số lượng nhất định estrogen đã được tìm thấy ở nước tiểu của nam giới. Nguồn gốc của
estrogen này vẫn chưa được sáng tỏ, nhưng một số nguồn được biết đến là:
1. Nồng độ estrogen trong dịch ống sinh tinh của nam giới tương đối cao và có lẽ đóng vao

trị quan trọng trong sự sinh tinh. Estrogen này có lẽ là được tế bào Sertoli chuyển đổi
testosterone thành estradiol.
2. Lượng lớn hơn rất nhiều estrogen được sản xuất tai gan và các mô khác trong cơ thể, từ
testosterone và androstanediol, có thể chiếm đến 80% tổng estrogen ở nam giới.

CHỨC NĂNG CỦA TESTOSTERONE
Nói chung, testosterone có tác dụng phân biệt đặc trưng của cơ thể nam giới. Trong suốt q
trình bào thai,tinh hồn được kích thích bởi gonadotropin màng đệm nhau thai sinh ra 1 lượng
vừa phải testosterone trong suốt thời kì phát triển của thai nhi đến khoảng 10 tuần hoặc nhiều
hơn sau khi sinh; sau đó testosterone gần như không được sản xuất trong thời thơ ấu cho đến
khoảng 10-13 tuổi. Sau đó sự sản xuất testosterone tăng nhanh dưới sự kích thích của hormone
gonadotropin tiết ra ở thùy trước tuyến yên bắt đầu thời kỉ dậy thì và trong suốt phần lớn thời
gian cịn lại của cuộc sống, như hình 81-9, sau tuổi 50 suy giảm nhanh chóng và chỉ cịn 20-50%
ở tuổi 80.
Chức năng của testosterone trong quá trình phát triển thai nhi
Trong thời kì bào thai,testosterone bắt đầu được tiết ra bởi tinh hoàn vào khoảng tuần thứ 7. Ở
nam giới có gen trên NST giới tính Y (SRY) mã hóa một protein gọi là yếu tố quyết định tinh
hồn ( cịn gọi là protein SRY). Các protein SRY bắt đầu 1 chuỗi kích hoạt gen tạo ra các té bào
mầm rãnh sinh dục(genital rigde cells) của phơi biệt hóa thành các tế bào tiết ra testosterone và
cuối cùng trở thành tinh hoàn, trong khi NST nữ tạo ra protein biệt hóa tế bào này thành tế bào
tiết estrogen. Tiêm một lượng lớn hormone sinh dục nam cho động vật có thai gây ra sự phát
triển cơ quan sinh dục nam mặc dù thai nhi là nữ. Ngược lại, loại bỏ tinh hoàn ở giai đoạn đầu
hình thành thai nam gây ra sự phát triển của cơ quan sinh dục nữ. Như vậy, testosterone được tiết

ra đầu tiên ở các tế bào mầm rãnh sinh dục và sau đó là tinh hồn của thai nhi chịu trách nhiệm
trong sự phát triển các đặc điểm cơ thể nam giới, bao gồm cả sự hình thành dương vật và bìu chứ


khơng phải là âm vật và âm đạo. Nó cũng gây ra sự hình thành tuyến tiền liệt,túi tinh, ống dẫn
tinh và bộ phận sinh dục nam đồng thời ức chế sự hình thành cơ quan sinh dục nữ.

Hình 81-9: Các giai đoạn khác nhau của chức năng sinh dục nam, thể hiện qua nồng độ
testosterone trong huyết thanh( đường máu đỏ), và sự sản xuất tinh trùng ( đường màu xanh) ở
các lứa tuổi
Chức năng của testosteron trong nguyên nhân hạ tinh hồn. Các tinh hồn thường rơi xuống
bìu trong khoảng 2-3 tháng cuối của thai kì khi số lượng testosterone được tiết ra vừa đủ. Nếu 1
đứa trẻ được sinh ra với tinh hồn khơng được hạ xuống nhưng bất thường, testosterone thường
tác động để hạ tinh hoàn xuống theo cách thông thường nếu ống bẹn đủ rộng cho phép tinh hồn
vượt qua
Hormone gonadotropin, hormone kích thích các tế bào Leydig của tinh hoàn trẻ sơ sinh để sản
xuất testosterone, cũng có thể quyết định sự hạ tinh hồn. Vì vậy, sự hạ tinh hồn là do
testosterone kích thích, một lần nữa cho thấy testosterone là một hormone quan trọng cho sự phát
triển cơ quan sinh dục nam giới trong thời kì bào thai


Ảnh hưởng của testosterone trong sự phát triển các đặc điểm tình dục nguyên phát và thứ
phát ở người trưởng thành
Sau tuổi dậy thì, sự bài tiết testosterone tăng lên làm cho dương vật, bìu và tinh hồn tăng kích
thước khoảng 8 lần trước tuổi 20. Ngoài ra, testosterone cũng gây ra các đặc điểm sinh dục thứ
phát trong sự phát triển của nam giới, bắt đầu ở tuổi dậy thì và kết thúc lúc trưởng thành. Những
đặc tính sinh dục thứ phát, ngoài các cơ quan sinh dục, từ đó phân biệt được nam và nữ
Ảnh hưởng dến sự tăng trưởng của lơng tóc. Testosteron tác động đến sự tăng trưởng của lông
(1) trên xương mu,(2) dọc theo đường giữa bụng đôi khi đến rốn và trên rốn, (3) trên mặt,( 4) hay
gặp trên ngực, (5) các vùng khác ít gặp hơn, chẳng hạn lưng. Đó cũng là lí do lơng có mặt trên

hầu hết các phần của cơ thể và làm cho cơ thể sung mãn hơn
Chứng hói đầu ở đàn ông. Testosteron làm giảm sự sinh trưởng của tóc trên đỉnh đầu, một
người đàn ơng khơng có chức năng của tinh hồn sẽ khơng bị hói. Tuy nhiên người đàn ông
nhiều dương vật cũng không bao giờ bị hói vì chứng hói đầu là kết quả của 2 yếu tố: yếu tố di
truyền và số lượng hormone androgen. Khi một khối u androgenic phát triển lâu dài trên 1 người
phụ nữ có nền tảng di truyền đặc biệt cũng có thể bị hói như đàn ơng
Ảnh hưởng đến giọng nói. Testosteron tiết ra bởi tinh hồn hoặc được tiêm vào cơ thể gây phì
đại niêm mạc và phát triển thanh quản. Ảnh hưởng đó ban đầu khơng cân đối, hiện tượng “vỡ
giọng” dần thay đổi thành giọng nói nam tính điển hình.
Testosteron làm tăng độ dày của da và có thể góp phần phát triển mụn. Testosteron làm tăng độ
dày da trên toàn cơ thể và độ chắc của các mô dưới da. Testosteron cũng làm tăng tiết các tuyến
bã của cơ thể, đặc biệt là tuyến bã nhờn của khn mặt bài tiết q mức có thể gây ra mụn trứng
cá. Do vậy, mụn là một trong những đặc điểm thường thấy ở tuổi thanh niên nam khi cơ thể bắt
đầu tăng sản xuất testosteron. Sau một thời gan tiết testosteron( có thể vài năm), da thường thích
nghi với những biến đổi do testosterone và mụn trứng cá sẽ mất đi.
Testosteron làm tăng lượng protein và phát triển cơ. Một trong các đặc điểm quan trọng nhất
ở cơ thể nam giới là sự phát triển cơ bắp sau tuổi dậy thì, cao hơn khoảng 50% khối lượng cơ
bắp nhiều hơn so với ở nữ. Sự tăng khối lượng cơ bắp luôn kết hợp với tăng protein không tạo
cơ. Nhiều thay đổi ở da là do lắng đọng các protein trong da và những thay đổi giọng nói cũng là
kết quả 1 phần chức năng protein anabolic của testosteron. Do những ảnh hưởng to lớn mà
testosterone và các androgen khác có trên hệ thống cơ, androgen tổng hợp được sử dụng rộng rãi
để các vận động viên cải thiện hệ thống cơ bắp của họ. Thực tế thì điều này bị phản đối quyết liệt
do tác hại của việc dư thừa androgen, như đã đề cập ở chương 85 liên quan đến sinh lý học thể
thao. Testosteron và androgen tổng hợp đôi khi cũng được sự dụng ở tuổi già như một “hormone
thanh niên” để cải thiện sức mạnh và sức sống, nhưng kết quả còn nhiều nghi vấn.
Testosterone trong sự phát triển cấu trúc xương và hàm lượng canxi trong xương. Sau khi
tăng mạnh lưu hành testosterone ở tuổi dậy thì ( hoặc sau khi tiêm testosterone kéo dài) xương


dày và đặc thêm đáng kể các muổi canxi. Như vậy, testosteron làm tăng số lượng cấu trúc xương

và căn nguyên lắng đọng canxi. Sự phát triển xương được cho là kết quả của protein chức năng
đồng hóa chung của testosterone cùng với sự lắng đọng các muối canxi phản ứng với sụ tăng
protein. Testosteron tác dụng trên xương chậu đến (1) thu hẹp khung chậu,(2) làm dài khung
chậu, (3) hình ống thay vì hình hình bầu dục ngang như của nữ,(4) tăng sức mạnh và độ chịu lực
của khung chậu. Trong trường hợp thiếu testosterone, xương chậu nam phát triển tương tự như
của nữ. Bởi vì khả năng làm tăng kích thước và số lượng của xương, đơi khi nó được sử dụng để
điều trị lỗng xương cho những người đàn ông lớn tuổi.Khi một số lượng lớn testosterone ( hoặc
một androgen khác) được tiết ra bất thường ở trẻ đang phát triển, tỉ lệ tăng trưởng của xương
tăng lên rõ rệt, tạo nên sự bứt phá về chiều cao của cơ thể. Tuy nhiên, testosterone cũng là
nguyên do các đĩa sinh trưởng của xương liên hết với thân xương. Do đó, mặc dù tốc độ tăng
trưởng nhanh chóng, sự lien kết này của các đĩa sinh trưởng ngăn cản sự tăng chiều cao của
người đàn ông đã trưởng thành và testosteron không được tiết ra tất cả. Ngay cả ở những người
đàn ơng bình thường, chiều cao cuối cùng không đạt được như những người đàn ông bị hoạn
Testosteron làm tăng chuyển hóa cơ sở. Tiêm một lượng lớn testosterone có thể làm tăng tỉ lệ
trao đổi chất cơ bản khoảng 15%. Ngoài ra, ngay cả số lượng testosterone tiết ra bình thường
trong thời kì thanh niên và thời gian đầu của tuổi trưởng thành làm tăng tỉ lệ trao đổi chất 5-10%
so với khi tinh hồn khơng hoạt động. Tỉ lệ trao đổi chất này có thể là kết quả gián tiếp của tác
động testosterone trên quá trình đồng hóa protein, cùng với sự gia tăng của các protein-enzym
đặc biệt- tăng các hoạt động của tất các tế bào.
Testosteron trong tăng số lượng hồng cầu. Khi số lượng thông thường testosterone được tiêm
vào 1 người bị thiến, số lượng các tế bào hồng cầu mõi milimet khối máu tăng 15-20%. Như vậy,
một người đàn ơng trung bình có khoảng 700.000 tế bào hồng cầu mỗi milimet khối hơn so với
một người phụ nữ bình thường. Mặc dù có sự liên quan chặt chẽ của testosteron và tăng
hematocrit, testosterone không trực tiếp làm tăng nồng độ erythropoietin hoặc có ảnh hưởng trực
tiếp đến sự sản xuất hồng cầu. Ảnh hưởng của testosterone đến tăng sản xuất tế bào hồng cầu có
thể góp phần gián tiếp do tăng tỷ lệ trao đổi chất sau khi tiêm testosterone
Ảnh hưởng trên cân bằng nước và điện giải. Như đã đề cập ở chương 78, nhiều hormone
steroid có thể làm tăng tái hấp thu ở ống lượn xa của thận, Testosteron cũng có tác dụng như vậy,
nhưng chỉ 1 mức độ thấp hơn so với corticoid khoáng ở tuyến thượng thận. Mặc dù vậy, sau tuổi
dậy thì, máu và thể tích ngoại bào của nam giới lien quan đến trọng lượng cơ thể tăng đáng kể,

khoảng 5-10%

CƠ CHẾ TÁC ĐỘNG NỘI BÀO CỦA TESTOSTERONE.
Hầu hết tác động của testosterone đến từ việc tăng tổng hợp protein ở tế bào đích. Tác động này
đã được nghiên cứu rộng rái ở tuyến tiền liệt, đó là bộ phận cơ thể chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ
testosterone. Ở tuyến này, testosterone xâm nhập vào tế bào trong vịng vài phút sau khi tiết. Sau
đó nó thường chuyển thành dihydrotestosterone, dưới tác dụng của enzyme 5 – α – reductase, sau


đó nó sẽ gắn với protein thụ thể trong tế bào chất. Phức hợp này sẽ đi đến nhân tế bào, ở đó nó sẽ
liên kết với protein của nhân và khởi phát quá trình phiên mã từ DNA đến RNA. Trong vịng 30
phút, RNA polymerase sẽ được kích hoạt, nồng độ RNA tăng lên liên tục ở tế bào tuyến tiền liệt,
dẫn đến sự gia tăng của protein trong tế bào. Sau vài ngày, số lượng DNA ở tuyến tiền liệt cũng
tăng lên, đồng nghĩa với việc tăng lên số lượng tế bào tuyến.
Testosteron kích thích tăng sản xuất protein ở hầu hết các mô trong cơ thể, đặc biệt là ở các mô
cơ quan chịu trách nhiệm cho sự phát triển đặc tính sinh dục nam nguyên phát hoặc thứ phát.
Các nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng, các testosterone cũng như các hormone steroid khác, cũng
có thể gây ra các hiệu ứng nongenomic, tức là không cần tác động vào hệ gen làm tăng tổng hợp
protein. Tuy nhiên, các vai trò sinh lý của tác động nongenomic này của testosterone vẫn chưa
được chứng minh.

KIỂM SOÁT CHỨC NĂNG TÌNH DỤC NAM GIỚI BẰNG CÁC
HORMONE VÙNG DƯỚI ĐỒI VÀ THÙY TRƯỚC TUYẾN N.
Việc kiểm sốt chức năng tình dục nam giới hay nữ giới đều bắt đầu từ việc tiết GnRH
( gonadotropin releasing hormone) từ vùng dưới đồi ( Hình 81-10). Hormon này kích thích tuyến
n tiết ra 2 gonadotropic hormone khác là LH ( luteinizing hormone) và FSH ( folicle
stimuilating hormone). LH cần thiết cho sự tiết testosterone của tinh hồn, cịn FSH kích thích sự
sinh tinh.

GnRh và vai trị của nó trong kích thích hình thành LH và FSH

GnRH là một peptid gồm 10 acid amine, được tiết ra từ tế bào thần kinh ở nhân arcuate ở vùng
dưới đồi. Các tận cùng thần kinh kết thúc ở xám, nơi chúng tiết GnRH vào đám rối sơ cấp hệ cửu
tuyến yên. GnRH sau đó được vận chuyển trong tuyến yên kích thích sự tiết 2 hormon LH và
FSH.
Cứ mỗi 1 đến 3 giờ thì GnRH lại được tiết ra liên tục trong vài phút. Lượng hormone tiết ra phụ
thuộc vào 1. Số chu kì tiết hormone trong 1 thời gian 2. Lượng hormone tiết ra trong mỗi chu kì.
Sự tiết LH của tuyến n cũng có tính chu kì, sự tăng hay giảm nồng độ LH thay đổi nhịp nhàng
với sự thay đổi nồng độ GnRH. Trái lại, nồng độ FSH thay đổi khá ít mỗi khi có sự tăng hay
giảm nồng độ GnRH, đáp ứng với sự thay đổi dài hạn trong vài giờ của GnRH. Do mối quan hệ
chặt chẽ của nồng độ GnRH và LH mà GnRH còn thường gọi với cái tên hormone tiết LH.

LH và FSH
Cả LH và FSH đều được tiế ra bởi cùng một loại tế bào gọi là gonadotropes ở thùy trước tuyến
n. Nếu khơng có GnRh tiết ra từ vùng dưới đồi, các gonadotropes hầu như không tiết LH hay
FSH.


LH và FSH là các glycoprotein. Chúng phát huy tác dụng của mình tại tuyến đích ở tinh hồn
bằng cách kích hoạt chất dẫn truyền tin thứ hai là cAMP, từ đó kích hoạt hệ thống enzyme đặc
biệt tron tế bào đích tương ứng.
Ảnh hưởng của LH lên sự tiết testosterone. Testosteron được tiết ra bởi các tế bào Leydic
trong khoảng kẽ của tinh hồn, nhưng chỉ khi có sự kích thích của LH. Hơn nữa lượng
testosterone được tiết ra gần như tỷ lệ thuận với nồng độ LH.
Các tế bào Leydic được tìm thấy ở tinh hồn đứa trẻ trong vòng vài tuần sau khi sinh và gần như
biến mất trong khoảng 10 năm sau đó. Tuy nhiên nếu tiêm LH tinh khiết vào tinh hoàn một đứa
trẻ ở bất kì độ tuổi nào hoặc với sự tiết LH của tuyến yên vào tuổi dậy thì sẽ khiến các tế bào kẽ
tưởng chừng như các tế bào xơ sợi bình thường của tinh hồn trờ thành các tế bào Leydic điển
hình có chức năng.
Ức chế tiết LH và FSH bởi ức chế ngược từ nồng độ testosterone. Testosterone được tiết ra
dưới sự kích thích của LH cũng đồng thời có thể ức chế thùy trước tuyến yên tiết ra LH ( xem

hình 81-10). Nhưng đa số sự ức chế này đến từ việc testosterone ức chế lên vùng dưới đồi ngăn
cản việc tiết GnRH. Kết quả của việc này là sự giảm tương ứng cả LH và FSH, kết quả là giảm
sự tiết testosterone ở tinh hồn. Do đó, bất cứ khi nào nồng độ testosterone quá cao sẽ kích hoạt
q trình điều hịa ngược này, tác động thơng qua hoạt động của thùy trước tuyến yên và vùng
dưới đồi, khiến nồng độ testosterone trở về mức bình thường. Ngược lại nếu nồng độ
testosterone trở nên quá ít, sẽ kích thích vùng dưới đồi sản xuất GnRH, kích thích thùy trước
tuyến yên sản xuất LH và FSH, làm tinh hoàn gia tăng tổng hợp testosterone.



Hình 81-10: Cơ chế ức chế ngược của testosterone lên trục dưới đồi, tuyến yên
Ảnh hưởng FSH và testosterone lên quá trình sinh tinh
FSH gắn với thụ thể tương ứng của nó trên tế bào Sertoli ở ống sinh tinh, là nguyên nhân giúp tế
bào Sertoli phát triển, kích thích chúng sản xuất các chất sinh tinh khác. Đồng thời testosterone
( và dihydrotestosterone) khuyếch tán từ tế bào Leydic vào ống sinh tinh cũng tác động mạnh mẽ
lên sự sinh tinh. Như vậy, cả FSH và testosterone đều có vai trò quan trọng trong sự sinh tinh.
Vai trò của ức chế ngược lên hoạt động của ống sinh tinh. Khi ống sinh tinh không sản xuất
tinh trùng, lượng FSH được tăng lên một cách đáng kể. Ngược lại khi tổng hợp tinh trùng quá
nhanh, tuyến yên sẽ giảm tổng hợp FSH. Nguyên nhân của phản hồi âm tính này được cho là của
một hormone khác do tế bào Sertolin tiết ra, là hormone Inhibin ( hình 81-10). Hormone này ảnh
hưởng trực tiếp và mạnh mẽ lên tuyến yên ức chế sản xuất FSH.
Inhibin là một glycoprotein, giống LH và FSH, có trọng lượng phân tử trong khoảng 10.000 đến
30.000 Da. Nó có thể được phân lập từ ni cấy tế bào Sertoli. Tác động ức chế mạnh của nó lên
tuyến yên là một cơ chế quan trọng trong kiểm soát sự sinh tinh, bên cạnh tác động ức chế ngược
âm tính của testosterone lên tuyến yên.
HCG ( human chorionic godonatropin) tiết ra từ nhau thai kích thích tinh hồn sản xuất
testosterone.
Trong quá trình mang thai, HCG do rau thai tiết ra lưu hành ở cả cơ thể mẹ và thai. Hormone này
có cùng tác dụng lên các cơ quan sinh dục của cơ thể như LH. Trong quá trình mang thai, nếu
thai nhi là nam, hCG của nhau thai kích thích tinh hồn tiết testosterone, Testosterone kích thích

hình thành các cơ quan sinh dục nam như đã nói trước đó. Chúng tôi sẽ thảo luận về chức năng
của hCG trong quá trình mang thai nhiều hơn trong chương 83.
Tuổi dậy thì và cơ chế khởi phát.
Khởi đầu tuổi dậy thì như thế nào từ lâu đã là một điều bí ẩn, nhưng nó đã được xác định là do
vùng dưới đồi khơng sản xuất một lượng GnRH thích hợp. Một trong những lý do của điều này
là, trong suốt thời thơ ấu, sự tiết ra dù là nhỏ nhất của hormone sinh dục cũng gây ức chế tiết
GnRH. Tuy nhiên, vì lý do gì chưa rõ, sự tiết GnRH trong tuổi dậy thì lại phá vỡ được sự ức chế
trước đó, và bắt đầu đời sống tình dục ở người trưởng thành.
Đời sống sinh dục của nam giới và thời kì mãn kinh nam. Sau tuổi dậy thì, hormone
gonadotropic vẫn được sản xuất trong suốt cuộc đời còn lại, và sự sinh tinh vẫn còn tiếp tục cho
đến lúc chết. Tuy nhiên, hầu hết đàn ông sẽ suy giảm từ từ chức năng sinh dục của họ vào những
năm 50 hay 60 của cuộc đời. Sự suy giảm này có sự khác biệt đáng kể ở những người vẫn còn
khả năng cương dương ở tuổi 80 hay 90.


Sự suy giảm chức năng sinh dục này được cho là do sự suy giảm sản xuất testosterone, như thể
hiện trong hình 81-9. Sự suy giảm chức năng sinh dục nam được gọi là mãn kinh nam. Đôi khi
mãn kinh nam cũng đi kèm với các triệu chứng như cơn nóng bừng, nghẹt thở, rối loạn tâm lý
cảm xúc giống thời kì mãn kinh ở nữ giới. Nhưng triệu chứng này có thể khắc phục nhờ
testosterone tổng hợp, hoặc thậm trí là estrogen dùng để điều trị triệu chứng mãn kinh ở nữ.

Chức năng sinh dục nam bất thường
Tuyến tiền liệt và bất thường của nó.
Tuyến tiền liệt vẫn cịn tương đối nhỏ trong suốt thời thơ ấu, và phát triển ở tuổi dậy thì dưới sự
kích thích của testosterone. Kích thước tuyến gần như ổn định trong thời gian từ năm 20 tuổi đến
50 tuổi. Sau đó ở một số nam giới nó trở nên thu nhỏ lại, cùng với sự suy giảm số lượng
testosterone. U xơ tuyến tiền liệt có thể xảy ra bên trong tuyến ở nhiều người đàn ơng lớn tuổi,
có thể gây tắc nghẽn niệu quản. Sự phì đại này khơng phải do testosterone, thay vào đó là sự tăng
sinh quá mức của tế bào tuyến.
Ung thư tiền liệt tuyến lại là một trường hợp khác dẫn đến sự tử vong của 2 đến 3 % nam giới.

Một khi xảy ra ung thư tuyến tiền liệt, các tế bào ung thư sẽ được kích thích phát triển nhanh
chóng nhờ testosterone, và sẽ bị ức chế nếu cắt cả 2 tinh hồn khiến testosterone khơng được tiết
ra. Ung thư tuyến tiền liệt cũng có thể bị ức chế bởi estrogen. Ngay cả một ung thư tuyến tiền liệt
di căn hầu hết các xương cũng có thể điều trị thành cơng nhờ cắt 2 tinh hồn, bằng liệu phát
estrogen, hoặc cả hai cách. Sau khi điều trị, ổ di căn giảm kích thước và hồi phục một phần cấu
trúc xương. Điều này khơng triệt tiêu tồn bộ ung thư, nhưng có thể làm chậm sự phát triển của
nó, đồng thời giảm đau xương nghiêm trọng một cách đáng kể.
Thiểu năng sinh dục nam
Khi tinh hoàn của thai nhi mất chức năng thì khơng có bất kể đặc tính sinh dục nam nào được
hình thành, thay vào đó thai sẽ phát triển các đặc tính sinh dục của nữ. Lý giải cho điều này là
đặc tính sinh dục của thai là việc hình thành cơ quan sinh dục nữ nếu khơng có hormone sinh
dục, bất kể thai nhi đó mang bộ NST là nam hay nữ. Nếu có sự xuất hiện testosterone thì đặc
điểm sinh dục nữ sẽ bị thay thế và thể hiện ra đặc tính sinh dục nam.
Nếu một đứa trẻ nam bị mất tinh hoàn của mình trước tuổi dậy thì, như trường hợp các thái giám,
thì người đó sẽ có cơ quan sinh dục nam giống trẻ con và các đặc tính sinh dục nhi tính khác
trong suốt cuộc đời. Chiều cao một thái giám trưởng thành cao hơn so với người bình thường do
đầu trên xương chậm kết nối, mặc dù xương của họ khá mỏng và cơ bắp cũng không rắn chắc
như những đàn ơng bình thường. Giọng nói giống trẻ con, và khơng có hói tóc trên đầu, sự phân
bố lơng nam tính trưởng thành trên mặt và những nơi khác cũng không xảy ra.
Nếu một người đàn ông mất tinh hồn của mình sau tuổi dậy thì, thì một số đặc tính sinh dục thứ
phát của người đó có thể quay trở lại trạng thái nhi tính, một số khác vẫn giữ được như một nam


giới trưởng thành. Các cơ quan sinh dục thối hóa nhẹ, tuy nhiên không đến mức giống trẻ con,
phát âm chỉ hơi cao một chút. Tuy nhiên sẽ mất sự phát triển lơng nam tính, giảm độ dày xương,
và giảm cơ dương vật.
Cũng ở nam giới bị thiến, ham muốn tình dục suy giảm nhưng khơng biến mất. dựa trên các hoạt
động tình dục đã thực hiện trước đó. Cương dương vẫn có thể xảy ra, mặc dù khó hơn trước,
nhưng rất khó để xuất tinh được như trước, chủ yếu do cơ quan sinh tinh đã thối hóa, và sự mất
khả năng sản xuất testosterone theo mong muốn.

Một số trường hợp thiểu năng tinh dục do vùng dưới đồi hạn chế tiết ra GnRH do nguyên nhân di
truyền. Tình trạng này thường gắn với suy giảm đồng thời khả năng nuôi dưỡng ở trung tâm
vùng dưới đồi, thường gặp ở những người béo phì ăn q nhiều. Do đó báo phì cũng đi kèm với
tình trạng thiểu năng sinh dục. Một bệnh nhân gặp tình trạng này được mơ tả trong hình 81-11.
Tình trạng này được gọi là hội chứng adiposogenital, hộ chứng Frưhlich hay tình trạng suy tinh
hồn do vùng dưới đồi.


×