Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

TIỂU LUẬN LỊCH SỬ ĐẢNG 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (472.42 KB, 26 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ

ĐỀ TÀI: VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC ĐỐI VỚI
SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG ĐẦU NĂM 1930. Ý NGHĨA CỦA
SỰ KIỆN ĐẢNG RA ĐỜI ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT
NAM

Giảng viên hướng dẫn : TS.Nguyễn Văn Chung
Sinh viên thực hiện
: Nguyễn Tấn Dũng
Lớp
: K64-AT
MSSV
: 19021590


TÓM TẮT
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. SƠ LƯỢC VỀ TIỂU SỬ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC
2. NGUYỄN ÁI QUỐC VÀ QUÁ TRÌNH RA ĐI TÌM ĐƯỢC CỨU NƯỚC
- HOẠT ĐỘNG CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC Ở HẢI NGOẠI (1911-1919)
- NGUYỄN ÁI QUỐC VÀ VIỆC TRUYỀN BÁ CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ NƯỚC
(1919-1925)

PHẦN II: NGUYỄN ÁI QUỐC VÀ SỰ THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
(3/2/1930)

1. TÌNH HÌNH TRONG NƯỚC VÀ QUỐC TẾ (1925-1930) VÀ NHỮNG HOẠT ĐỘNG CỦA

NGUYỄN ÁI QUỐC


2. VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC ĐỐI VỚI SỰ THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM (3/2/1930)

PHẦN III: Ý NGHĨA CỦA SỰ KIỆN ĐẢNG RA ĐỜI ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT
NAM
PHẦN IV: KẾT LUẬN

PHẦN I: MỞ ĐẦU

1. SƠ LƯỢC VỀ TIỂU SỬ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC
Chủ tịch Hồ Chí Minh (lúc nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, khi đi học là Nguyễn Tất
Thành, trong nhiều năm hoạt động cách mạng lấy tên là Nguyễn Ái Quốc và nhiều bí
danh, bút danh khác) sinh ngày 19/5/1890 ở xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ
An, mất ngày 2/9/1969 tại Hà Nội.
Người sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, lớn lên ở một địa phương có
truyền thống yêu nước, anh dũng chống giặc ngoại xâm. Sống trong hồn cảnh đất
nước chìm dưới ách đơ hộ của thực dân Pháp, thời niên thiếu và thanh niên của
Người đã chứng kiến nỗi khổ cực của đồng bào và những phong trào đấu tranh chống
thực dân, Người sớm có chí đuổi thực dân, giành độc lập cho đất nước, đem lại tự do,
hạnh phúc cho đồng bào. Với tình cảm u nước thương dân vơ hạn, năm 1911 Người
đã rời Tổ quốc đi sang phương Tây để tìm con đường giải phóng dân tộc.


2. NGUYỄN ÁI QUỐC VÀ QUÁ TRÌNH RA ĐI TÌM ĐƯỢC CỨU NƯỚC
- HOẠT ĐỘNG CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC Ở HẢI NGOẠI (1911-1919)
Ngày 5/6/1911 – Bác Hồ với tên gọi Nguyễn Tất Thành đã rời bến cảng Nhà
Rồng đi sang các nước phương tây tìm đường cứu nước.
Giữa tháng 12/1912, Nguyễn Tất Thành tới nước Mỹ, Người dành một phần
thời gian để lao động kiếm sống, còn phần lớn thời gian dành cho học tập,
nghiên cứu Cách mạng tư sản Mỹ năm 1776. Khi thăm pho tượng Thần Tự Do,

Bác không để ý đến ánh hào quang trên đầu tượng mà chỉ xúc động trước
cảnh những nô lệ đen dưới chân tượng. Cuối năm 1913, Nguyễn Tất thành từ
Mỹ sang Anh.Năm 1917, Người từ Anh trở lại Pháp. Một thời gian sau, Người
tham gia Đảng Xã hội Pháp.Trong thời gian đó Người đã đi nhiều nơi phân biệt
rõ bạn và thù. Năm1919, Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc.
18/6/1919, Các nước Đế quốc thắng trận họp hội nghị Vecxai để chia lại thị
trường thế giới. Nguyễn Ái Quốc thay mặt những người Việt Nam yêu nước
sống ở Pháp đã đưa tới hội nghị bản yêu sách 8 điểm đòi chính phủ Pháp phải
thừa nhận các quyền tự do dân chủ, quyền bình đẳng và quyền tự quyết của
dân tộc Việt Nam. Những u sách nói trên khơng được chấp nhận nhưng địn
tấn cơng trực diện đầu tiên đó của nhà cách mạng trẻ tuổi vào bọn Đế quốc đã
có tiếng vang lớn đối với Nhân dân Việt Nam, Nhân dân Pháp và Nhân dân các
thuộc địa của Pháp.
Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Luận cương của Lenin về các vấn đề
dân tộc vài thuộc địa. Từ đó, Người hồn tồn tin theo Lenin, dứt khốt đứng
về Quốc tế thứ ba.
Tháng 12/1920, Bác tham dự Đại hội lần thứ 18 Đảng xã hội Pháp tại Tours (từ
25 đến 30 tháng 12 năm 1920) và bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế
thứ ba và lập ra Đảng Cộng sản Pháp và trở thành một trong những sáng lập
viên của Đảng Cộng sản Pháp, tách khỏi Đảng Xã hội. Điều này đánh dấu bước
ngoặt trong hoạt động của Nguyễn Ái Quốc, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ
nghĩa Mác-Lenin và theo cịn đường Cách mạng vơ sản. Giải quyết được cuộc
khủng hoảng về đường lối giải phóng dân tộc.
-

NGUYỄN ÁI QUỐC VÀ VIỆC TRUYỀN BÁ CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ NƯỚC
(1919-1925)
Đây là giai đoạn Nguyễn Aí Quốc trực tiếp chuẩn bị về chính trị và tổ chức cho
việc thành lập đảng cộng sản Việt Nam.
Sự chuẩn bị về chính trị: Nguyễn Quốc đã hình thành những quan điểm

chính trị để làm cơ sở cho cương lĩnh của Đảng sau này và những quan điểm
đó thể hiện qua các bài bài báo, qua các bản án chế độ thực dân Pháp và qua
những bài giảng ở Quảng Châu, Trung Quốc.
Cụ thể trong thời gian này ỡ Pháp, Nguyễn Aí Quốc thay mặt những người Việt
Nam yêu nước sống ở Pháp đã đưa tới hội nghị Vecxai bản yêu sách đòi chính
phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do dân chủ , quyền bình đẳng và quyền
tự quyết của dân tộc Việt Nam .Tuy khơng được chấp nhận nhưng địn tấn
cơng trực diện đầu tiên đó của nhà cách mạng trẻ tuổi vào bọn trùm đế quốc


đã có tiến vang lớn đối với nhân dân Việt Nam , nhân dân Pháp, và nhân dân
các thuộc địa Pháp Một bài học lớn được rút ra : “ Chỉ có giải phóng giai cấp vơ
sản thì mới giải phóng được dân tộc , cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là
sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới.
Tháng 07-1920 Nguyễn Aí Quốc đọc bản luận cương của LêNin về các vấn đề
dân tộc và thuộc địa, khẳng định lập trường kiên quyết ủng hộ phong trào giải
phóng dân tộc ở các nước phương Đơng của Quốc tế Cộng sản. Từ đó ông
hoàn toàn tin theo Lênin đứng về quốc tế thứ ba.
Tại đại hội của Đảng xã hội Pháp họp ở “Tua”, (12-1920), Nguyễn Aí Quốc bỏ
phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế thứ ba và lập ra Đảng cộng sản Pháp. Sự
kiện Nguyễn Aí Quốc tham gia Đảng cộng sản Pháp – và là người cộng sản Việt
Nam đầu tiên đánh dấu bước ngoặt trong hoạt động của ông, từ chủ nghĩa yêu
nước đến chủ nghĩa Mác- LêNin và đi theo con đường CMVS. Sự kiện đó đánh
dấu bước mở đường giải quyết cuộc khủng hoảng về đường lối giải phóng dân
tộc Việt Nam.
Năm 1921, được sự giúp đỡ của đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn Aí Quốc cùng
cùng một số người yêu nước của thuộc địa Pháp sáng lập ra hội liên hiệp các
dân tộc thuộc địa ở Paris để đoàn kết các lực lượng cách mạng chống chủ
nghĩa thực dân, thơng qua tổ chức đó đem chủ nghĩa Mác- LêNin đến các dân
tộc thuộc địa

Tờ báo người cùng khổ do ông làm chủ nhiệm kiêm chủ bút đã vạch trần chính
sách đàn áp, bóc lột dã man của chủ nghĩa đế quốc nói chung và của đế quốc
Pháp nói riêng, thức tỉnh các dân tộc bị áp bức nổi dậy đấu tranh tự giải phóng.
Nguyễn Quốc cịn viết nhiều bài cho các báo nhân Đạo (của Đảng Cộng sản
Pháp), Đời sống cơng nhân (của Tổng Liên đồn lao động Pháp) vv…và cuốn
sách nổi tiếng Bản án chế độ thực dân Pháp
Tháng 06- 1923 Nguyễn Aí Quốc rời nước Pháp sang Liên Xô dự hội nghị lớn
Quốc tế nông dân và được bầu vào Ban chấp hành. Sau đó Nguyễn Quốc ở
lại Liên Xơ một thời gian, vừa làm việc, vừa nghiên cứu học tập, làm việc Tháng
06- 1923 Nguyễn Aí Quốc rời nước Pháp sang Liên Xô dự hội nghị lớn Quốc tế
nông dân và được bầu vào Ban chấp hành. ở Quốc Tế Cộng sản, viết bài cho
báo Sự Thật, Tạp chí Thư tín Quốc tế Tại Đại hội Quốc Tế Cộng sản lần thứ V,
ơng trình bày lập trường quan điểm của mình về vị trí, chiến lược của cách
mạng các nước thuộc địa, về mối quan hệ giữa phong trào công nhân ở các
nước đế quốc với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa, về vai trò và
sức mạnh to của giai cấp công nhân ở các nước thuộc địa
Những nội dung của sự chuẩn bị về chính trị:
+Nguyễn Aí Quốc xác định chỉ có CMVS mới là cuộc cách mạng triệt để nhất
bởi vì cuộc CM này vì lợi ích của đa số quần chúng, Nguyễn Aí Quốc đã dùng
phương pháp so sánh lịch sử để nhận thức bản chất các cuộc CMTS Mỹ, Pháp,
và CMVS Nga, làm cơ sở cho việc xác định con đường cứu nước đúng. Khi trình
bày những sự kiện cơ bản của cách mạng Mỹ (1776), cách mạng Pháp ( 1789),
và cuộc CMTM Nga , Nguyễn Aí Quốc rút ra kết luận khái quát : “ Cách mệnh


Pháp cũng như cách mệnh Mỹ ,nghĩa lã cách mệnh tư bản , cách mệnh không
đến nơi , tiếng là cộng hồ và dân chủ , kỳ thực trong thì nó tước lực cơng
nơng , ngoia2 thì nó áp bức thuộc địa “, còn “ cách mệnh Nga đã đuổi được vua
, tư bản , địa chủ rồi , lại ra sức cho công, nông các nước và dân bị áp bức các
thuộc địa làm cách mệnh để đập đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa và và tư bản

trong thế giới
+ Nguyễn Aí Quốc nêu rõ những mục tiêu và con đường đi lên của CMVN là đi
lên CNXH nhưng để tiến tới mục tiêu đó thì CMVN phải trải qua hai giai đoạn:
• CMTSDQ kiểu mới
• CMXHCN
+Nguyễn Quốc nêu rõ lực lượng của CMVN, đó là cơng nông, công nông là
gốc của cách mạng, điền chủ nhỏ, nhà buôn nhỏ là bầu bạn của CM.
+Phương pháp cách mạng, nêu rõ muốn cho CM thành công phải sử dụng bạo
lực CM quần chúng nhưng vấn đề trước hết là phải tỗ chức giác ngộ quần
chúng đấu tranh, sau đó là khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.
+Đồn kết quốc tế: Nguyễn Aí Quốc nêu rõ CMVS ở các nước thuộc địa phải là
bộ phận của CMTG nhưng CMVS ở các nước thuộc địa phải chủ động giành
thắng lợi chứ khơng thể trơng chờ ở CMVSTG.
+Vai trị lãnh đạo của Đảng: Nguyễn Aí Quốc khẳng định CM muốn giành thắng
lợi thì trước hết phải có sự lãnh đạo của Đảng để trong nước thì vận động, tổ
chức quần chúng đứng lên đấu tranh, cịn bên ngồi thì liên lạc với giai cấp
VSTG để liên kết hành động Những hoạt động của Nguyễn Quốc có ảnh
hưởng hết sức mạnh mẽ và sâu rộng đối với nhân dân trong nước, trước hết là
những tiểu tư sản trí thức yêu nước, tiến bộ , nhờ đọc các sách báo tiến bộ đó
mà hiểu rõ hơn bản chất của chủ nghĩa đế quốc nói chung và chủ nghĩa thực
dân Pháp nói riêng hiểu được cách mạng tháng Mười Nga và đã hướng về chủ
nghĩa Mác- LêNin .Những quan điểm cơ bản về chiến lược và sách lược cách
mạng giải phóng thuộc địa trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vơ
sản mà Nguyễn Quốc đã tiếp nhận được dưới ánh sáng của Chủ Nghĩa MácLêNin và đã có cơng truyền bá vào nước ta từ sau chiến tranh là một bước
chuẩn bị quan trọng về chính trị và tư tưởng cho sự thành lập chính Đảng vơ
sản ở nước ta trong giai đoạn tiếp theo.

PHẦN II: NGUYỄN ÁI QUỐC VÀ SỰ THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
(3/2/1930)
1. TÌNH HÌNH TRONG NƯỚC VÀ QUỐC TẾ (1925-1930) VÀ NHỮNG HOẠT ĐỘNG CỦA


NGUYỄN ÁI QUỐC
Tháng 6-1925: Người thành lập “Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên” và cho xuất
bản tuần báo “Thanh niên” làm cơ quan ngôn luận của Hội.
Tháng 7-1925: Nguyễn Ái Quốc cùng một số nhà cách mạng Quốc tế, lập ra “Hội
các dân tộc bị áp bức ở Á Đơng”, có quan hệ chặt chẽ với Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên.
Tại Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc đã mở nhiều lớp huấn luyện ngắn ngày để đào
tạo, bồi dưỡng cách mạng.


Những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc tại các lớp huấn luyện ở Quảng Châu sau đó
đã được xuất bản thành sách “Đường Kách Mệnh.
Từ năm 1928: Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã xây dựng được cơ sở của
mình ở khắp nơi. Hoạt động của Hội góp phần truyền bá tư tưởng Mác- Lênin,
thúc đẩy phong trào cách mạng Việt Nam theo xu thế cách mạng vô sản. Sự ra đời
và hoạt động của Hội Việt Nam cách mạng là bước chuẩn bị chu đáo về chính trị,
tổ chức và đội ngũ cán bộ cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam sau này.
Giữa năm 1927-1930: Nguyễn Ái Quốc đã từ Xiêm (Thái Lan) về Trung Quốc, với
danh nghĩa đại diện Quốc tế Cộng sản triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng
sản, thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam.
2. VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC ĐỐI VỚI SỰ THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM (3/2/1930)
Cuối thế kỷ XIX, sau khi bình định xong Việt Nam, thực dân Pháp bắt tay thực thi
các chính sách thực dân hà khắc, biến nước ta từ một nước phong kiến độc lập trở
thành một nước thuộc địa nửa phong kiến.
Sự thống trị tàn bạo của thực dân Pháp đã làm cho mâu thuẫn dân tộc diễn ra hết
sức gay gắt, hàng loạt phong trào yêu nước theo các khuynh hướng khác nhau liên
tiếp nổ ra nhằm giải quyết mâu thuẫn chủ yếu đó. Tiêu biểu là phong trào Cần
Vương do vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết khởi xướng; phong trào Đông Du của

Phan Bội Châu; phong trào cải cách của Phan Chu Trinh, khởi nghĩa Yên Thế do
Hoàng Hoa Thám lãnh đạo...Các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc tuy diễn ra
quyết liệt, song cuối cùng đều bị thất bại, vì thiếu một đường lối cứu nước đúng
đắn, thiếu một tổ chức lãnh đạo có khả năng tập hợp sức mạnh của tồn dân tộc.
Trong bối cảnh đó, tháng 6-1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã
rời Tổ quốc ra đi tìm con đường cứu nước giải phóng dân tộc. Năm 1920 Nguyễn
Tất Thành- Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác- Lê nin; đây không chỉ là
bước ngoặt đối với cuộc đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc, mà còn là
bước ngoặt của cách mạng Việt Nam. Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê nin đã soi rọi
cho Nguyễn Ái Quốc: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc thì trước hết phải có
“Đảng cách mệnh” để “trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngồi thì liên lạc
với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi”. Từ nhận thức đó Nguyễn Ái Quốc
ra sức chuẩn bị mọi mặt cho việc thành lập một chính đảng vơ sản ở Việt Nam,
Người từng bước truyền bá có hệ thống chủ nghĩa Mác-Lê nin vào trong nước,
đưa phong trào cơng nhân chuyển dần từ trình độ tự phát lên tự giác; đưa phong
trào yêu nước chuyển dần sang lập trường cộng sản.
Tháng 3-1929, Chi bộ Cộng sản đầu tiên được thành lập ở số nhà 5D, Hàm Long,
Hà Nội, gồm có Trần Văn Cung, Trịnh Đình Cửu, Ngơ Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Đỗ
Ngọc Du, Nguyễn Phong Sắc, Nguyễn Văn Tuân và Dương Hạc Đính. Ngày 1-5-1929,
tại Đại hội toàn quốc của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Hương Cảng,
đoàn đại biểu Bắc Kỳ đưa ra đề nghị thành lập Đảng Cộng sản. Đề nghị dó khơng
được chấp nhận, trở về nước, ngày 17-6-1929, những đảng viên trong Chi bộ Cộng
sản 5D Hàm Long đã tuyên bố thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng. Ngày 25-71929 An Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở Nam Kỳ. Tháng 9-1929 Đông
Dương Cộng sản Liên đoàn được thành lập ở Trung Kỳ. Chỉ trong một thời gian
ngắn ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản được tuyên bố thành lập. Điều đó


phản ánh xu thế tất yếu của phong trào đấu tranh cách mạng ở Việt Nam.Song sự
tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia có nguy cơ
dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách mạng là cần có một Đảng thống

nhất lãnh đạo. Nguyễn Ái Quốc, người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc của dân tộc Việt
Nam, người duy nhất có đủ năng lực và uy tín đáp ứng yêu cầu đó của lịch sử:
thống nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam.
Từ ngày 3 đến 7-2-1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức Cộng sản họp tại Cửu Long
(Hương Cảng, Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Tham gia
Hội nghị có các đồng chí Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh (đại biểu DDCSD);
NguyễnThiệu, Châu Văn Liêm (đại biểu (ANCSĐ). Đại biểu ĐDCSLĐ không đến kịp.
Hội nghị nhất trí thành lập đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam,
thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ
vắn tắt của Đảng. Ngày 3 tháng 2 năm 1930 trở thành Ngày thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam mang tầm vóc lịch sử như là Đại
hội thành lập Đảng. Đảng được thành lập là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp và
đấu tranh dân tộc ở nước ta trong những năm đầu thế kỷ XX; là sản phẩm cuả sự
kết hợp chủ nghĩa Mác-Lê nin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước;
là kết quả của quá trình lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử và là kết quả
của quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của một tập thể
chiến sĩ cách mạng, đứng đầu là đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Đó là một mốc lớn
đánh dấu bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam, chấm dứt cuộc
khủng hoảng về đường lối cứu nước kéo dài mấy chục năm. Trong Chánh cương
vắn tắt, Sách lược vắn tắt do đồng chí Nguyễn Ái Quốc khởi thảo, được Hội nghị
thành lập Đảng thông qua đã xác định cách mạng Việt Nam phải tiến hành cách
mạng giải phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội là con đường cách mạng duy nhất đúng để thực hiện mục tiêu giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Sự ra đời của
Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh, đường lối cách mạng đúng đắn chứng tỏ
giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng. Sự ra
đời của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí
Minh, người sáng lập và rèn luyện Đảng ta.


PHẦN III: Ý NGHĨA CỦA SỰ KIỆN ĐẢNG RA ĐỜI ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT
NAM
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã mở ra thời kì mới cho
cách mạng Việt Nam - thời kì đấu tranh giành độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ra đời, đã xác định được những nội dung cơ bản nhất của
con đường cách mạng Việt Nam; đáp ứng được những nhu cầu bức thiết của lịch sử và trở
thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết thống nhất các tổ chức cộng sản, các lực lượng cách
mạng và toàn thể dân tộc.
Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt vô cùng quan trọng của lịch
sử cách mạng Việt Nam, quyết định sự phát triển của dân tộc, chấm dứt sự khủng hoảng
về đường lối và tổ chức lãnh đạo của phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX. Đó là
kết quả của sự vận động, phát triển và thống nhất phong trào cách mạng trong cả nước;


sự chuẩn bị công phu về mọi mặt của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và sự đồn kết nhất trí của
những chiến sỹ tiên phong vì lợi ích của giai cấp, của dân tộc.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là thành quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam; chứng tỏ giai cấp công nhân Việt
Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương cách mạng Việt Nam là một bộ
phận của phong trào cách mạng thế giới, đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách
mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại làm nên những thắng
lợi vẻ vang; đồng thời đóng góp tích cực vào sự nghiệp đấu tranh vì hịa bình, độc lập dân
tộc và tiến bộ của nhân loại trên thế giới.

PHẦN IV: KẾT LUẬN
Tìm hiểu sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời trong bối cảnh trong nước và quốc tế
như trên mới thấy hết được những ý nghĩa to lớn của sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam,
đồng thời cũng thấy được sự vĩ đại của Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh trong việc thành lập
Đảng. Sự vĩ đại ấy là ở chỗ Người đã sớm đặt cách mạng Việt Nam vào quỹ đạo của cuộc

cách mạng vô sản; ở chỗ Người đã để lại cho Đảng ta, dân tộc ta một hệ thống quan điểm
về Đảng Cộng sản Việt Nam có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn, giúp chúng ta củng cố
niềm tin vững chắc vào sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của Đảng

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ


ĐỀ TÀI: HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA ĐẢNG. NỘI DUNG
CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG. Ý
NGHĨA SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG
VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn : TS.Nguyễn Văn Chung
Sinh viên thực hiện
: Nguyễn Tấn Dũng
Lớp
: K64-AT
MSSV
: 19021590

TĨM TẮT
PHẦN I: HỒN CẢNH LỊCH SỬ VÀ SỰ THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM


1. HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
2. HỘI NGHỊ HỢP NHẤT THÁNG 2/1930

PHẦN II: CƯƠNG LĨNH ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

1. CƯƠNG LĨNH ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG ĐƯỢC THỂ HIỆN THƠNG QUA CHÍNH CƯƠNG
VẮN TẮT CỦA ĐẢNG
2. CƯƠNG LĨNH ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG ĐƯỢC THỂ HIỆN QUA SÁCH LƯỢC VẮN TẮT
CỦA ĐẢNG

PHẦN III: Ý NGHĨA SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG ĐẦU NĂM 1930 ĐỐI VỚI CÁCH
MẠNG VIỆT NAM
PHẦN IV: KẾT LUẬN

PHẦN I: HOÀN CẢNH LỊCH SỬ VÀ SỰ THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM
1. HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM


Vào đầu năm 1929, trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng Việt
Nam, Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội khơng cịn đủ sức lãnh đạo.
Trong khi đó, số lượng cộng sản đồn trong Thanh niên cách mạng đồng chí hội
ngày thêm nhiều. Cần phải thành lập một đảng cộng sản để lãnh đạo phong trào,
đó là một yêu cầu khách quan và đã có những tiền đề nhất định.
Tháng 3 năm 1929, những cộng sản đồn trong Kỳ bộ thanh niên cách mạng đồng
chí hội Bắc Kỳ gồm các đồng chí: Trần Văn Cung, Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức
Cảnh, Ngơ Gia Tự, Đỗ Ngọc Du, Nguyễn Phong Sắc, Nguyễn Văn Tuân, Dương Hạc
Đính đã họp tại số nhà 5Đ Hàm Long, Hà Nội, quyết định thành lập chi bộ cộng sản
và chủ trương tiến tới thành lập Đảng Cộng sản thay thế Việt Nam thanh niên cách
mạng đồng chí hội để lãnh đạo cách mạng.
Ngày 1 tháng 5 năm 1929, tại Đại hội lần thứ nhất của Việt Nam thanh niên cách
mạng đồng chí hội, kiến nghị của đoàn đại biểu Kỳ bộ Bắc Kỳ về việc giải tán Hội
nghị để thành lập Đảng cộng sản khơng được chấp nhận. Đồn đại biểu Bắc Kỳ rút
khỏi Đại hội về nước, ra lời kêu gọi công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân
ủng hộ chủ trương thành lập Đảng cộng sản.

Ngày 17 tháng 6 năm 1929, những đảng viên trong chi bộ 5Đ Hàm Long đã họp tại
số nhà 316 phố Khâm Thiên, Hà Nội, tuyên bố thành lập Đông Dương cộng sản
đảng, cử ra ban chấp hành trung ương lâm thời, thông qua Tuyên ngôn và quyết
định xuất bản báo Búa liềm, xúc tiến việc xây dựng tổ chức đảng và các đoàn thể
quần chúng.
Sau khi Đại hội toàn quốc của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội bế
mạc, 6 uỷ viên mới được bầu vào Tổng bộ là Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Thiệu, Châu
Văn Liêm, Nguyễn Sỹ Sách, Lê Hồng Sơn, Phạm Văn Đồng đã họp bàn việc thành
lập Đảng Cộng sản, cử ra ban trù bị gồm các đồng chí lãnh đạo Tổng bộ nói trên.
Thực hiện chủ trương này, những cộng sản đồn cịn lại trong Việt Nam thanh niên
cách mạng đồng chí hội đã hình thành các chi bộ cộng sản. Ngoài hai chi bộ cộng
sản ở Trung Kỳ và Nam Kỳ cịn có chi bộ cộng sản người Việt Nam ở Thái Lan và
một chi bộ ở Hồng Kông (Trung Quốc).
Thượng tuần tháng 8 năm 1929, An Nam cộng sản đảng được thành lập tại căn
phòng số 1, lầu 2 “Phong cảnh khách lâu” ở đường Bồnác Philippin Sài Gòn. Hội
nghị này đã cử ra Ban lâm thời chỉ đạo của Đảng, gồm các đồng chí Châu Văn Liêm
(tức Việt), Nguyễn Thiệu, Trần Não, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Nguyễn Sĩ Sách do
đồng chí Châu Văn Liêm làm bí thư.
Sau Đơng Dương cộng sản đảng và An Nam cộng sản đảng, các đảng viên Tân Việt
cách mạng đảng chịu ảnh hưởng của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội
đã tiến hành Đại hội thành lập Đơng Dương cộng sản liên đồn vào ngày 1 tháng 1
năm 1930, gồm các đồng chí Trần Hữu Chương, Nguyễn Khoa Văn (tức Hải Triều),
Nguyễn Xuân Thanh, Trần Đại Quả, Ngơ Đức Đề, Ngơ Đình Mãn, Lê Tiềm, Lê Tốn.
Đại hội chưa kết thúc thì các đại biểu đã bị chính quyền Pháp bắt. Do vậy, Đơng
Dương cộng sản liên đồn ra đời những chưa có Ban chấp hành trung ương.


Đông Dương cộng sản đảng và An Nam cộng sản đảng sau khi ra đời đã có sự tranh
giành ảnh hưởng, tranh giành quần chúng và cơng kích lẫn nhau. Đây là những
mâu thuẫn trong quá trình phát triển và đi lên của phong trào cộng sản Việt Nam.

Tình hình ấy phản ánh sự ấu trĩ va khuynh hướng biệt phái, tiểu tư sản trong
phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
Những người cộng sản và những người yêu nước chân chính đều nhận thấy cần
phải sớm khắc phục tình trạng trên, thành lập một đảng cộng sản thống nhất để
lãnh đạo cách mạng Việt Nam

2. HỘI NGHỊ HỢP NHẤT THÁNG 2/1930
Được sự uỷ nhiệm của quốc tế cộng sản, mùa thu năm 1929, đồng chí Nguyễn ái
Quốc từ Thái Lan trở lại Hương Cảng chuẩn bị thực hiện nhiệm vụ “hợp nhất các
phần tử cộng sản chân chính lại” để thành lập một đảng duy nhất. Từ ngày 3 đến
7/2/1930, hội nghị hợp nhất được tiến hành tại nhà một cơng nhân ở xóm thợ
đường Cửu Long gần Hương Cảng (Trung Quốc). Tham dự hội nghị có các đồng chí
Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh, đại biểu của Đông Dương cộng sản đảng;
Nguyễn Thiệu và Châu Văn Liêm, đại biểu của An nam cộng sản đảng. Hội nghị tiến
hành dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, đại biểu của Quốc tế cộng sản.
Sau 5 ngày làm việc khẩn trương, các đại biểu đã hoàn tồn nhất trí tán thành ý
kiến của đồng chí Nguyễn Ái Quốc và thống nhất các tổ chức cộng sản thành một
Đảng duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị đã thơng qua Chính
cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng cộng sản Việt Nam do
đồng chí Nguyễn Ái Quốc dự thảo. Hội nghị cịn thơng qua Lời kêu gọi của đồng chí
Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế cộng sản và Đảng cộng sản Việt Nam gửi đến
quần chúng công, nơng, binh, đồng bào và đồng chí trong cả nước nhân dịp thành
lập Đảng.
Ngày 24 tháng 2 năm 1930, hai đồng chí Châu Văn Liêm, Nguyễn Thiệu thay mặt
quốc tế, các đồng chí Phan Hữu Lầu, Hồng Quốc Việt thay mặt Ban chấp hành
trung ương lâm thời cung với đồng chí Ngơ Gia Tự, Bí thư lâm thời chấp uỷ của
Đảng bộ Nam Kỳ đã họp và quyết định chấp nhận Đơng Dương cộng sản liên đồn
gia nhập Đảng cộng sản Việt Nam.
Như vậy, chỉ nửa tháng sau, kể từ ngày Hội nghị hợp nhất bế mạc, ba tổ chức cộng
sản ở Đơng Dương đã hồn tồn thống nhất trong một đảng duy nhất - Đảng cộng

sản Việt Nam.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam tháng 2 năm 1930 có ý nghĩa
như Đại hội thành lập Đảng. Hội nghị đã vạch ra một đường lối cách mạng và
đường lối xây dựng Đảng đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với điều kiện một nước
thuộc địa nửa phong kiến. Đường lối đúng đắn đó là điều kiện quan trọng nhất để
ba tổ chức cộng sản nhanh chóng thống nhất ý chí và hành động, gánh vác sứ
mệnh lịch sử giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội.


Đảng cộng sản Việt Nam ra đời với đường lối chiến lược đúng đắn là sự cổ vũ to
lớn cho phong trào cách mạng đang ở thời kỳ sôi sục. Đường lối của Đảng được
công bố trở thành tiếng kèn tập hợp lực lượng quần chúng, chuẩn bị cho cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc.
Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Lời kêu gọi được Hội nghị hợp nhất
thông qua là Cương lĩnh đầu tiên của Đảng.

PHẦN II: CƯƠNG LĨNH ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1. CƯƠNG LĨNH ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG ĐƯỢC THỂ HIỆN THÔNG QUA CHÍNH CƯƠNG

VẮN TẮT CỦA ĐẢNG
Chính cương vắn tắt của Đảng nhận định rằng Việt Nam là một xứ thuộc địa, nửa
phong kiến, cơng nghiệp khơng phát triển “vì tư bản Pháp hết sức ngăn trở sức
sinh sản, lại làm cho công nghệ bản xứ không thể nào mở mang được”.
Kinh tế nông nghiệp chiếm ưu thế, “nông nghệ ngày một tập trung đã phát sinh ra
lắm khủng hoảng, nông dân thất nghiệp nhiều”. Tình hình đó đưa đến mâu thuẫn
ngày càng kịch liệt giữa một bên là dân tộc ta trong đó có Cơng nhân, nơng dân và
tồn thể dân tộc với một bên là đế quốc Pháp và tay sai của chúng. Đánh giá hai
giai cấp tư sản và địa chỉ là những đối tượng cần xoá bỏ, Đảng ta đã có sự phân
biệt: “Tư bản bản xứ khơng có thể lực gì, ta khơng nên nói cho họ đi về phe đế
quốc được, chỉ có bọn đại địa chủ mới có thể lực và đứng hẳn về phe đế quốc chủ

nghĩa”. Muốn giải quyết mâu thuẫn đó, nhân dân Việt Nam phải làm “tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Đây là một thể
loại cách mạng vô sản ở các nước thuộc địa mà sinh thời Mác, Lênin và ngay cả
Quốc tế cộng sản cũng chưa nói đến. Sau này, Đảng ta hoàn chỉnh tên gọi của thể
loại cách mạng này là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã
hội.
Mục tiêu chủ yếu lúc này là đánh đổ ách thống trị của đế quốc xâm lược và tay sai
của chúng, giành độc lập dân tộc và dân chủ cho nhân dân. Mục đích cuối cùng là
xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Cộng sản ở Việt Nam.
Theo tư tưởng của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thì cuộc cách mạng tư sản dân quyền
và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản bao gồm hai cuộc vận động là cuộc
vận động giải phóng dân tộc và cuộc vận động xây dựng đất nước độc lập tự do
hạnh phúc, phần lớn coi giai đoạn cách mạng là giải phóng dân tộc và giải phóng
giai cấp, giải phóng xã hội. Hai cuộc vận động này liên quan mật thiết với nhau,
ảnh hưởng và thúc đẩy lẫn nhau, cuộc vận động trước thành công tạo điều kiện
cho cuộc vận động sau giành thắng lợi. Vì vậy, giữa hai giai đoạn cách mạng này:
giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội khơng có bức tường nào ngăn
cách, khơng phải tiến hành một cuộc cách mạng chính trị lần thứ hai để giải quyết
vấn đề chính quyền như cách mạng Nga và cách mạng Trung Quốc.


Điều đó chứng tỏ rằng, ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã nắm vững nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Mác-Lênin, vận dụng sáng tạo kinh nghiệm cách mạng thế giới, thấu
suốt con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam, nhận rõ mối quan hệ
biện chứng giữa cách mạng dân tộc dân chủ với cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng là giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội.
Nhiệm vụ cách mạng mà Cương lĩnh vạch ra là “đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp,
bọn phong kiến, làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập”, “Tổ chức ra
quân đội công nông”, “Thu hết sản nghiệp lớn của tư bản đế quốc”, “Thu hết

ruộng đất của bọn đế quốc chủ nghĩa làm của công cách mạng đem chia cho dân
cày nghèo”, “miễn thuế cho dân nghèo”, “đem mọi quyền tự do cho dân chúng”,
“thực hiện ngày làm 8 giờ”, “mở mang công nghiệp và nông nghiệp”, “thực hành
giáo dục tồn dân”, “thực hiện nam nữ bình quyền” v.v..
Các nhiệm vụ đó bao hàm cả nội dung dân tộc dân chủ và nội dung xã hội chủ
nghĩa. Song nổi bật nhất là nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai của chúng (đại địa
chủ, đại tư sản phản cách mạng và vua quan phong kiến) giành độc lập, tự do, dân
chủ cho toàn dân tộc.
Về lực lượng cách mạng, Cương lĩnh của Đảng chủ trương đoàn kết tất cả các giai
cấp cách mạng, các lực lượng tiến bộ và cá nhân yêu nước, tập trung lực lượng
đánh đổ kẻ thù chủ yếu của dân tộc là chủ nghĩa đế quốc Pháp và tay sai, mở
đường cho cách mạng phát triển đến thắng lợi hoàn toàn.
Về vấn đề ruộng đất, “xương sống của cách mạng thuộc địa”, Đảng chủ trường tiến
hành từng bước với những nội dung thích hợp với từng thời kỳ cách mạng. ở giai
đoạn giải phóng dân tộc thì quốc hữu hố tồn bộ đồn điền và đất đai của đế quốc
và địa chủ phản cách mạng Việt Nam để chia cho nông dân nghèo, “hết sức lãnh
đạo cho dân cày nghèo làm thổ đại cách mạng, đánh trúc bọn đại địa chủ và phong
kiến”. Đối với chủ nghĩa tư bản thì “thu hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận
tải, ngân hàng vv.) của tư bản đế quốc Pháp để giao cho chính phủ công nông binh.
Đối với các tầng lớp “phú nông, trung tiểu địa chủ và tư sản Việt Nam chưa rõ mặt
phản cách mạng, thì sử dụng, ít nhữnữa là làm cho họ trung lập”. Sau khi cách
mạng giải phóng dân tộc giành thắng lợi, chính quyền đã về tay cơng nông, Đảng
sẽ lãnh đạo tiến hành những cải cách nhằm “sửa đổi lại những bất công và phân
phối lợi nhuận giữa những nhà tư sản và những người vô sản một cách công bằng
hơn”.
2. CƯƠNG LĨNH ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG ĐƯỢC THỂ HIỆN QUA SÁCH LƯỢC VẮN TẮT

CỦA ĐẢNG
Trong khi khẳng định “công nông là gốc cách mạng”, Sách lược vắn tắt của Đảng
vạch rõ “phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nơng (Thanh niên, Tân

Việt, phái Nguyễn An Ninh v.v.) để lôi kéo họ về phe vô sản giai cấp”.
Về nguyên tắc liên minh, Sách lược vắn tắt đã viết: “Trong khi liên lạc tạm thời với
các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng bộ một chút lợi ích gì của
cơng nông đi vào đường lối thoả hiệp”.


Cương lĩnh khẳng định cách mạng Việt Nam phải tiến hành bằng “bạo lực cách
mạng của quần chúng, để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến”, rồi
“dựng ra chính phủ cơng nơng binh” chứ khơng phải bằng con đường cải lương.
Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, đứng trong
mặt trận cách mạng của các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân thế giới mà
đội quân tiên phong của mặt trận này là Liên Xô. Sách lược vắn tắt ghi rõ: “Trong
khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước Việt Nam độc lập, lại phải đồng thời tuyên
truyền vừa thực hành liên lạc với giai cấp bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế
giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp”.
Cương lĩnh đầu tiên cũng khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam
là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng “thu phục cho
được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân
chúng”, “phải thu phục cho được đại đa số dân cày và phải dựa vững vào hạng dân
cày nghèo, phải hết sức lãnh đạo cho dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng, đánh
trúc bọn đại đại chủ, phong kiến”, đồng thời phải liên minh với các giai cấp cách
mạng và tầng lớp yêu nước khác, đoàn kết họ, tổ chức họ đấu tranh cho giải phóng
dân tộc và “để đi tới” chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.

PHẦN III: Ý NGHĨA SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG ĐẦU NĂM 1930 ĐỐI VỚI CÁCH
MẠNG VIỆT NAM

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh
giai cấp, là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam và hệ tư tưởng
Mác-Lênin đối với cách mạng Việt Nam. Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kiện

lịch sử trọng đại, một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam,
đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta.
Sự ra đời của Đảng là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam, là sự kiện gắn liền với tên tuổi của
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và việc ngay từ khi ra đời, Đảng đã có Cương
lĩnh chính trị xác định đúng đắn con đường cách mạng là giải phóng dân tộc theo phương
hướng cách mạng vơ sản, chính là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra đời đã nắm
được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam; giải quyết được tình trạng khủng
hoảng về đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra đầu thế kỷ XX, mở
ra con đường và phương hướng phát triển mới cho đất nước Việt Nam. Chính đường lối
này là cơ sở đảm bảo cho sự tập hợp lực lượng và sự đoàn kết, thống nhất của toàn dân
tộc cùng chung tư tưởng và hành động để tiến hành cuộc cách mạng vĩ đại giành những
thắng lợi to lớn sau này. Đây cũng là điều kiện cơ bản quyết định phương hướng phát
triển, bước đi của cách mạng Việt Nam trong suốt 87 năm qua.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương cách mạng Việt Nam là một bộ
phận của phong trào cách mạng thế giới, đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách


mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại làm nên những thắng
lợi vẻ vang. Đồng thời cách mạng Việt Nam cũng góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu
tranh chung của Nhân dân thế giới vì hồ bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.

PHẦN IV: KẾT LUẬN

Đảng cộng sản Việt Nam ra đời ở một nước thuộc địa, giai cấp cơng nhân chỉ chiếm 1,2%
dân số, đã có cương lĩnh cách mạng đúng đắn ngay từ đầu. Điều đó chứng minh rằng
Đảng đã nắm vững bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, giải quyết
đúng đắn mối quan hệ giữa yếu tố dân tộc và yếu tố giai cấp, sớm kết hợp yếu tố giai cấp
với yếu tố dân tộc một cách sáng tạo; gắn chủ nghĩa u nước chân chính với chủ nghĩa

quốc tế vơ sản, phát huy được truyền thống yêu nước, đánh giá đúng vị trí của từng giai
cấp cách mạng, đồn kết được các lực lượng yêu nước, nhờ đó mà Đảng đã nắm được
quyền lãnh đạo cách mạng.
Cương lĩnh đầu tiên là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết MácLênin, đường lối của Quốc tế cộng sản và kinh nghiệm cách mạng thế giới vào hoàn cảnh
cụ thể nước ta, là sự thể hiện tập trung tư tưởng cơ bản của đồng chí Nguyễn Ái Quốc về
cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước thuộc địa nửa phong
kiến.
Tuy nhiên, tại Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng tháng 10 năm 1930 đã phê phán
những “sai lầm” của Hội nghị hợp nhất và quyết định “thủ tiêu Chính cương vắn tắt, Sách
lược vắn tắt và Điều lệ của Đảng, thơng qua Luận cương chính trị theo tinh thần chỉ thị
của Quốc tế cộng sản, đổi tên đảng là Đảng cộng sản Đơng Dương.
Sở dĩ có vấn đề chưa thống nhất giữa cương lĩnh đầu tiên do Hội nghị thành lập Đảng vạch
ra với Luận cương chính trị và các văn kiện của Hội nghị trung ương Đảng tháng 10 năm
1930 là không chỉ do kết hợp hay tách rời yếu tố giai cấp với yếu tố dân tộc, mà cịn do xác
nhận đúng hay chưa đúng vị trí của mỗi yếu tố đó trong điều kiện cụ thể nước ta. đồng chí
Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, đánh giá đúng hơn và đầy đủ
hơn yếu tố dân tộc trong cách mạng Việt Nam.
Tuy bị phê phán nhưng thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh sự đúng đắn, sáng
tạo của cương lĩnh đầu tiên.
Sau 30 năm đấu tranh và thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết
“Cương lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân dân ta... Vì vậy,
Đảng ta đã đoàn kết được những lực lượng cách mạng to lớn chung quanh giai cấp mình.
Cịn các đảng phái của các giai cấp khác thì hoặc bị phá sản, hoặc bị cơ lập. Do đó, quyền
lãnh đạo của Đảng ta - Đảng của giai cấp công nhân không ngừng được sự củng cố và tăng
cường”.
Đường lối chiến lược và sách lược cách mạng của Đảng được thể hiện trong Chính cương
vắn tắt, Sách lược vắn tắt là phù hợp với yêu cầu của toàn Đảng và toàn dân. Cương lĩnh
đầu tiên trở thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết các lực lượng và lãnh đạo phong trào cách
mạng từ khi Đảng được thành lập.
Thực tiễn cách mạng nước ta ngày càng khẳng định sự đúng đắn và sáng tạo của những tư

tưởng chiến lược và sách lược trên đây của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Đại hội đại biểu
tồn quốc lần thứ VII của Đảng đã khẳng định: “lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động” của toàn Đảng, toàn
quân, toàn dân ta trong giai đoạn hiện nay.


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ


ĐỀ TÀI: SỨC MẠNH CỦA CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC
SÂU SẮC, KHÁT VỌNG KHƠNG CĨ GÌ Q HƠN
ĐỘC LẬP, TỰ DO VÀ PHÁT TRIỂN CHỦ NGHĨA YÊU
NƯỚC

Giảng viên hướng dẫn : TS.Nguyễn Văn Chung
Sinh viên thực hiện
: Nguyễn Tấn Dũng
Lớp
: K64-AT
MSSV
: 19021590

TÓM TẮT
PHẦN I: CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC
1. KHÁI QUÁT CHUNG


2. VAI TRÒ CỦA CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC ĐỐI VỚI THẮNG LỢI CỦA DÂN TỘC TRONG


CUỐC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ

PHẦN II: HUY ĐỘNG, PHÁT HUY CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC CHO MỤC TIÊU XÂY
DỰNG, BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC
PHẦN IV: KẾT LUẬN

PHẦN I: CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC
1. KHÁI QUÁT CHUNG


Trong hệ giá trị truyền thống dân tộc Việt Nam, yêu nước là giá trị nổi bật và cơ
bản nhất, là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ
nước của dân tộc. Đối với người Việt Nam, yêu nước là tình cảm thiêng liêng, là cái
chi phối và là thước đo đạo lý làm người, bao gồm nhân phẩm, danh dự, lẽ sống,
nghĩa vụ, lương tâm và hạnh phúc của con người. Giá trị đó được hình thành và
phát triển trong suốt chiều sâu lịch sử dựng nước và giữ nước, được kết tinh, lưu
truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Yêu nước của người Việt Nam không chỉ là
phẩm chất tinh thần luôn được hun đúc thành truyền thống và hơn thế trở thành
chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, thành sức mạnh tinh thần, “năng lực nội sinh” luôn
thường trực trong lịng dân tộc, là nguồn lực khơng bao giờ cạn, bảo đảm cho sự
trường tồn của đất nước qua mọi biến thiên của lịch sử. Nói về yêu nước truyền
thống, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá: “Dân ta có một lịng nồng nàn u nước.
Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm
lăng, thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to
lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và
lũ cướp nước. Lịch sử ta có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu
nước của dân ta”.
Tuy nhiên, cũng cần nhận thức rõ yêu nước truyền thống chỉ là năng lực nội sinh,
tiềm tàng trong lòng dân tộc. Để yêu nước truyền thống phát huy được vai trị to
lớn của nó thì phải đặt trong bối cảnh của thời đại, phù hợp với xu thế phát triển

tất yếu của lịch sử. Thực tiễn lịch sử dân tộc cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 đã minh
chứng, sự thất bại của các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp xâm lược
chính là do gắn với ý thức hệ phong kiến, tư sản hoặc tiểu tư sản, là những ý thức
hệ đã lỗi thời khi mà thời đại mới đã được mở ra từ Cách mạng Tháng Mười Nga
năm 1917. Vì thế để nhận thức đầy đủ, sâu sắc về sức mạnh của truyền thống yêu
nước Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cần tiếp cận yêu
nước với tính cách là giá trị truyền thống được kế thừa, có sự phát triển nhảy vọt
về chất trong thời đại mới, gắn liền với vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó là u nước dựa chắc trên lập trường,
lợi ích của giai cấp cơng nhân, thống nhất với lợi ích cơ bản của nhân dân lao động
và của cả dân tộc, được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt nền móng và cùng với Đảng ta
khơi dậy, phát huy trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam
Chủ nghĩa yêu nước ở Việt Nam được bắt nguồn từ những tình cảm bình dị, đơn
sơ của mỗi người dân. Tình cảm đó, mới đầu, chỉ là sự quan tâm đến những người
thân yêu ruột thịt, rồi đến xóm làng, sau đó phát triển cao thành tình u Tổ quốc.
Tình u đất nước khơng phải là tình cảm bẩm sinh, mà là sản phẩm của sự phát
triển lịch sử, gắn liền với một đất nước nhất định.
2. VAI TRÒ CỦA CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC ĐỐI VỚI THẮNG LỢI CỦA DÂN TỘC TRONG
CUỐC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đã trở thành hệ tư tưởng chủ đạo, giữ vai trò định
hướng và chi phối tồn bộ q trình dựng nước và giữ nước của dân tộc ta qua các
thời kỳ. Hơn nữa, chủ nghĩa u nước cịn trở thành giá trị văn hóa mang tính phổ
biến và được xã hội hóa sâu rộng trong mọi tầng lớp nhân dân, được các thế hệ
người Việt Nam xác định như một trong những tiêu chí, giá trị cao nhất quy định


phương châm sống và hành động của mình. Từ đó, tạo thành động lực tinh thần to
lớn, thúc đẩy những hành động tích cực vì đất nước của con người và cộng đồng
người Việt Nam.
Từ cách tiếp cận trên, giúp chúng ta lý giải, nhận thức đầy đủ, sâu sắc sức mạnh

truyền thống yêu nước Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên
các mặt chủ yếu:
Một là, truyền thống yêu nước Việt Nam là nhân tố cơ bản, tạo nên sức mạnh
chính trị-tinh thần, thực chất là sức mạnh nhân tố con người trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước.
Yêu nước của người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là yêu
nước truyền thống, song đã được nâng lên tầm cao mới, do được tiếp thêm sinh
lực và được định hướng bởi mục tiêu lý tưởng của giai cấp cơng nhân. Vì vậy, u
nước đã được phát huy đến mức cao nhất, thể hiện ở tinh thần, ý chí: “Khơng có
gì q hơn độc lập, tự do”, “Dù có đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành cho
được độc lập”, “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”;
bằng hành động cách mạng qua các phong trào: “Thanh niên ba sẵn sàng”, “Phụ
nữ ba đảm đang”, “Tay cày, tay súng”, “Tay búa, tay súng”; “Thóc khơng thiếu một
cân, quân không thiếu một người”, “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước...”. Yêu nước
đó đã trở thành nhân tố cơ bản tạo nên sức mạnh chính trị-tinh thần, thực chất là
sức mạnh nhân tố con người, đã giúp toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vượt qua
mọi gian khổ, hy sinh trong suốt quá trình kháng chiến lâu dài, gian khổ, kết thúc
bằng cuộc Tổng tiến công nổi dậy mùa Xuân 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí
Minh lịch sử, đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc đến đích
thắng lợi cuối cùng. Nghị quyết Ðại hội lần thứ IV (12-1976) của Ðảng đã khẳng
định: “Ðó là thắng lợi của cuộc chiến đấu đầy gian khổ, hy sinh, ngoan cường và
bền bỉ, anh dũng và thông minh, của nhân dân và quân đội cả nước, đặc biệt là các
đảng bộ miền Nam, các cán bộ và chiến sĩ công tác ở miền Nam và hàng chục triệu
đồng bào yêu nước chiến đấu trên tuyến đầu Tổ quốc đã luôn nêu cao tấm gương
kiên cường, bất khuất hơn 30 năm dưới ách quân xâm lược. Ðó là thắng lợi của xã
hội chủ nghĩa ở miền Bắc, thắng lợi của đồng bào miền Bắc vừa tự xây dựng, vừa
chiến đấu để bảo vệ hậu phương lớn của cả nước, đồng thời động viên ngày càng
nhiều sức người, sức của để đánh Mỹ, cứu nước ở tiền tuyến lớn miền Nam, một
lịng một dạ vì miền Nam ruột thịt”.(3) Maicơn Mắc Lia, nhà sử học người Mỹ,
trong cuốn “Việt Nam-cuộc chiến tranh mười nghìn ngày” đã nhận xét: “Lịch sử

phải đánh giá họ (người Việt Nam-miền Nam cũng như miền Bắc) cao nhất về sức
chiến đấu ngoan cường và dũng cảm của con người”.
Hai là, truyền thống yêu nước Việt Nam là cơ sở cơ bản để xây dựng và phát
huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước.
Yêu nước của người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thể
hiện khát vọng lớn lao và lợi ích cơ bản, chính đáng của tuyệt đại đa số người Việt
Nam là độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc. Đó chính là “mẫu số chung” để Đảng ta
hoạch định đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,


thực hiện xây dựng, phát huy khối đại đoàn kết tồn dân tộc, hình thành “thế trận
lịng dân” vững chắc; động viên, tập hợp được đông đảo và rộng rãi nhất mọi tầng
lớp nhân dân cống hiến sức người, sức của, tạo nên sức mạnh vô địch của chiến
tranh nhân dân trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Nói về điều này, Đại
tướng Văn Tiến Dũng trong một cuộc trả lời phỏng vấn các nhà báo và học giả
phương Tây, đã nhấn mạnh: “Một lần nữa tơi muốn nói rõ rằng nguồn gốc mọi
thắng lợi của chúng tôi là sức mạnh của cả một dân tộc vùng lên làm chủ đất nước,
làm chủ vận mệnh của mình trong thời đại ngày nay. Và Ban lãnh đạo chúng tôi
biết khai thác, biết phát huy tất cả những sức mạnh đó để chiến thắng”.
Ba là, truyền thống yêu nước Việt Nam là một nhân tố tạo cơ sở thực hiện kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, góp phần tạo sức mạnh tổng
hợp trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Giá trị yêu nước truyền thống Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước được nâng lên tầm cao mới, là giá trị mang tính cơng lý được cả nhân loại
tiến bộ thừa nhận. Đó là yêu nước vì quyền tự do, độc lập, tự quyết của dân tộc;
u nước vì quyền sống, quyền được hưởng hịa bình, hạnh phúc của con người…
Do đó, nó là sự nghiệp chính nghĩa. Tính chính nghĩa và cơng lý chính ấy chính là cơ
sở để vận động các lực lượng quốc tế u chuộng hịa bình ủng hộ cuộc kháng
chiến vì nền độc lập của Việt Nam. Trong Thư gửi Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ (101945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “nhân dân Việt Nam chỉ địi hỏi nền

độc lập hồn tồn và vì sự tơn trọng sự thực và công lý”.
Thực tiễn cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, để thực hiện kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp để đánh Mỹ và thắng
Mỹ, Đảng ta đã ln dựa chắc vào u nước chân chính của người Việt Nam với
những giá trị bền vững của công lý để tăng cường đồn kết quốc tế, hình thành
nên một mặt trận rộng lớn của nhân dân thế giới đồn kết, ủng hộ sự nghiệp chính
nghĩa của nhân dân Việt Nam. Vì thế có thể khẳng định, thắng lợi của cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước chính là hiện thân của cơng lý, là biểu tượng sáng ngời
của chính nghĩa thắng phi nghĩa, của văn minh thắng bạo tàn, của hịa bình độc lập
dân tộc thắng chủ nghĩa thực dân, bắt nguồn từ yêu nước truyền thống Việt Nam
được phát triển lên tầm cao mới và phát huy cao độ trong thời đại Hồ Chí Minh.
Bốn là, yêu nước truyền thống Việt Nam là một nhân tố phát huy sự sáng tạo
trong hoạch định và thực hành Chiến tranh nhân dân giành thắng lợi của cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Ngay từ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954), yêu nước truyền
thống đã giữ vai trò là một căn cứ để hoạch định và thực hành đường lối chiến
tranh nhân dân của Đảng. Đến cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, càng thể
hiện rõ, đó là: Chiến tranh toàn dân, toàn diện; sử dụng bạo lực tổng hợp, bao
gồm lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân; tiến hành
khởi nghĩa từng phần, phát triển thành chiến tranh cách mạng; kết hợp đấu tranh
quân sự với đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao; kết hợp khởi nghĩa của
quần chúng với chiến tranh cách mạng, nổi dậy và tiến công, tiến công và nổi dậy;


đánh địch trên cả ba vùng chiến lược: Rừng núi, nông thôn, đồng bằng và thành
thị; đánh địch bằng ba mũi giáp cơng: Qn sự, chính trị, binh vận; kết hợp ba thứ
quân: Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích; kết hợp chiến tranh
du kích với chiến tranh chính quy; kết hợp đánh lớn, đánh vừa, đánh nhỏ; thực
hiện làm chủ để tiêu diệt địch, tiêu diệt địch để làm chủ; nắm vững phương châm
chiến lược đánh lâu dài, đồng thời biết tạo thời cơ mở những cuộc tiến công chiến

lược làm thay đổi cục diện chiến tranh, tiến lên thực hiện tổng tiến công và nổi dậy
đè bẹp quân địch giành thắng lợi cuối cùng. Đường lối và phương pháp thực hành
chiến tranh nhân dân của Đảng đã được chứng minh bằng thực tiễn thực hành
chiến tranh chống Mỹ, cứu nước, kết thúc bằng Đại thắng mùa Xuân 1975, đỉnh
cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

PHẦN II: HUY ĐỘNG, PHÁT HUY CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC CHO MỤC TIÊU XÂY
DỰNG, BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC
Kỷ niệm 45 năm thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trong bối cảnh tinh
thần yêu nước của dân ta được khơi dậy, phát huy mạnh mẽ nhằm chiến thắng đại dịch
Covid-19, đặt ra vấn đề, để yêu nước truyền thống Việt Nam phát huy được sức mạnh to
lớn của nó đối với sự nghiệp cách mạng, chúng ta cần phải luôn đổi mới, bổ sung, phát
triển làm phong phú nội hàm, nâng “tầm” yêu nước truyền thống Việt Nam, gắn với yêu
cầu ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Phát huy chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, địi hỏi chúng ta phải có hệ thống giải pháp mang tính đồng bộ và khoa
học; trong đó, trước hết cần quan tâm nhận thức và giải quyết một số vấn đề cơ bản, như:
Trước tiên chúng ta cần rèn luyện về đạo đức, lối sống
Bác Hồ có nói: “Chữ nhân nghĩa là người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu
bạn, nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng hơn nữa là cả lồi người. Nhân là phải có lịng
bác ái yêu nước yêu đồng bào, yêu bộ đội của mình. Nó bao gồm đủ cả. Kể từ lịng hiếu để
và tình bằng hữu, lịng cung kính và sự huệ ái, lịng hiếu khách và tình đồng đội, đồng chí
cho đến tình đồng bào và nghĩa đồng loại với đức hiếu sinh và đạo hiếu hịa. Thích Ca, Giê
Su, Khổng Tử đến Mác - Lênin đều có chỗ giống nhau. Thương nước, thương dân, thương
người, thương nhân loại là có sự nhất qn gắn liền nhau, theo lơ gích của tình cảm… Các
vị ấy đều lo cứu khổ, cứu nạn, cứu nguy, đều thương lành ghét dữ, đều muốn làm nảy nở
điều thiện, đẩy lùi điều ác, không phải chỉ trong một phạm vi quốc gia mà cả trên phạm vi
toàn nhân loại”. Có thể chúng ta khơng thể hồn tồn thực hiện được như vậy vì nó q
cao cả, vĩ đại nhưng chí ít chúng ta phải là một người biết hiếu thảo với cha mẹ, kính u
thầy cơ, hịa thuận với anh chị em, chân thành với bè bạn và chan hịa với bà con xóm

giềng, có lịng nhân ái với đồng bào của mình, phải biết chia sẻ, giúp đỡ những mảnh đời
khó khăn, những người có số phận rủi ro (tất nhiên là trong phạm vi khả năng của mình).
Ngồi ra chúng ta cịn phải là một người sống có ngun tắc, biết giữ chữ "Tín", phải ln
nói đi đơi với làm, sống phải có lý tưởng, đạo đức; phải biết kết hợp hài hoà truyền thống
tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hóa của nhân loại. Phải có một phong cách sống giản


dị, khiêm tốn, chừng mực, điều độ, ngăn nắp, vệ sinh; phải biết yêu lao động, quý thời
gian. Phải đối với bản thân thì nghiêm khắc nhưng đối với mọi người thì chan hịa, khoan
dung.
Và cũng cần nói rằng vấn đề "Đạo đức" là vấn đề mà ta cần tu dưỡng suốt đời, bởi vì cái ác
ln ẩn nấp trong mỗi con người, như Bác Hồ từng nói: "Học cái tốt thì khó,ví như người
ta leo núi, phải vất vả, khó nhọc mới lên đến đỉnh. Học cái xấu thì dễ, như ở trên đỉnh núi
trượt chân một cái là nhào xuống vực sâu" cho nên chúng ta không được xao nhãng việc
tu dưỡng, mà phải rèn luyện suốt đời, bền bỉ. Đặc biệt trong thời kỳ hịa bình, khi cuộc
sống tốt hơn nhưng sự cạnh tranh cũng khốc liệt hơn, nếu khơng ý thức được thì rất dễ bị
tha hóa. Do đó việc tu dưỡng đạo đức phải gắn với hoạt động thực tiễn, trên tinh thần tự
giác, tự nguyện, dựa vào lương tâm và trách nhiệm của mỗi người. Chỉ có như vậy thì việc
tu dưỡng đạo đức mới có kết quả trong mọi mơi trường, mọi mối quan hệ, mọi địa bàn,
mọi hoàn cảnh.
Thứ hai là chúng ta phải ra sức học tập văn hoá, khoa học kĩ thuật, rèn luyện kĩ năng,
phát triển năng lực
Học phải đi đôi với hành, lý luận và thực tiễn phải phù hợp với nhau; học tập phải kết hợp
với lao động, coi trọng việc tự học, học ở mọi lúc, mọi nơi, và ở mọi người. Nhưng điều
quan trọng nhất là phải có nhận thức đúng đắn về việc học, phải xác định "Học" là nhằm
trang bị, nâng cao kiến thức cho mình, để phục vụ cho cơng việc của bản thân chứ khơng
phải học vì những lý do tiêu cực nào đó, như Bác từng nói:
"Chúng ta phải học, phải cố gắng học nhiều. Khơng chịu khó học thì khơng tiến bộ được.
Khơng tiến bộ là thối bộ. Xã hội càng đi tới, cơng việc càng nhiều, máy móc càng tinh
xảo. Mình khơng chịu học thì lạc hậu, mà lạc hậu là bị đào thải, tự mình đào thải mình".

Quan điểm trên mặc dù được Bác đưa ra từ mấy chục năm trước nhưng tới ngày nay vẫn
còn nguyên giá trị. Đúng! Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật như hôm nay chúng ta
phải luôn học, phải luôn không ngừng cập nhật, nâng cao kiến thức, không ngừng rèn
luyện kỹ năng, phát triển năng lực của mình đặc biệt là ở trong lĩnh vực chuyên môn của
bản thân, nếu khơng ta sẽ nhanh chóng trở nên lạc hậu, sẽ tự mình đào thải mình.
Và cũng như vấn đề "Đạo đức", vấn đề "Học" cũng là suốt đời, chúng ta phải ln có tinh
thần hiếu học, cầu tiến thì mới theo kịp thời đại, mới phục vụ tốt cho cơng tác chun
mơn của mình, mới có thể tạo ra cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho bản thân, cho gia đình
và góp phần phát triển đất nước, đó cũng là một cách thể hiện lòng yêu nước vậy!
Tuy nhiên, không chỉ học về kiến thức mà chúng ta còn phải học về truyền thống hào hùng
của dân tộc, học về cách đối nhân xử thế, học những điều hay lẽ phải... Có như thế thì
chúng ta mới ngày càng trở nên tốt hơn, hồn thiện hơn và có ích hơn.
Thứ ba là chúng ta phải có ý thức rèn luyện sức khỏe:
Việc tu dưỡng Đạo đức là rèn luyện về cái "Tâm", việc học tập văn hóa kiến thức là trao
dồi về cái "Tầm". Bác Hồ nói: "Có tài mà khơng có đức là người vơ dụng, có đức mà khơng
có tài thì làm việc gì cũng khó" Tuy nhiên dù có tài, có đức mà khơng có sức khỏe cũng sẽ
là người vơ dụng. Vì sao? Vì dù chúng ta có "Tâm", có "Tầm" mà khơng có sức khỏe thì làm
sao cống hiến, làm sao tạo ra lợi ích cho bản thân, gia đình; làm sao giúp Đất nước phát
triển. Cho nên theo tôi việc rèn luyện sức khỏe cũng có một vai trị rất quan trọng. Bác Hồ


từng nói: "Tập thể dục thể thao để giữ gìn, tăng cường sức khỏe, phục vụ cách mạng,
phục vụ nhân dân được nhiều hơn". Chúng ta nên học tập điều này ở Bác, chúng ta cần
thường xuyên rèn luyện sức khỏe để có sự dẻo dai về thể lực, sáng suốt về tinh thần; để
làm việc, học tập có năng suất cao hơn, để cuộc sống tốt đẹp hơn. Ngoài việc bản thân
luôn rèn luyện thể thao, chúng ta cũng cần khuyến khích, vận động người thân, bạn bè, có
thể cả những người xung quanh cùng tích cực rèn luyện thể thao để mọi người cùng có
sức khỏe tốt hơn
Và cuối cùng:
Có thể nói ba yếu tố "Đạo đức", "Kiến thức", "Sức khỏe" mà tôi tạm gọi là "Tâm", "Tầm" và

"Lực" chính là ba yếu tố then chốt để tạo thành một con người hoàn chỉnh, một con
người của thời đại Hồ Chí Minh. Ba yếu tố này như ba chân của cái Kiềng mà thiếu một
trong bất kỳ yếu tố nào thì con người cũng khó gọi là hồn thiện. Bản thân tơi thuộc thế
hệ trẻ, tơi biết mình còn nhiều khiếm khuyết về đạo đức, lối sống; còn hạn hẹp, nông cạn
về tri thức và thể lực cũng không thể gọi là tốt nhưng tôi luôn rèn luyện và phấn đấu về ba
yếu tố này để từng bước khắc phục, từng bước hoàn thiện bàn thân để hướng đến sự
"Chân, Thiện, Mỹ"; để ngày càng có thể làm việc hiệu quả hơn, chuyên nghiệp hơn, năng
suất cao hơn, từ đó có thể đem lại nhiều hơn lợi ích về vật chất cũng như về tinh thần cho
bản thân, gia đình và cao hơn nữa là có thể đóng góp một phần cơng sức cho sự phát
triển của Đất nước và đó cũng chính là cách tơi bày tỏ lịng u nước của mình. Và tơi
cũng hy vọng mỗi con người Việt Nam đều luôn cố gắng rèn luyện, phấn đấu về "Đạo
đức", "Kiến thức", "Sức khỏe"; nếu mỗi người ln khơng ngừng hồn thiện mình, chúng
ta sẽ có được những thế hệ người Việt Nam có đạo đức trong sáng, có kiến thức vững
chắc, có sức khỏe dẻo dai, từ đó mỗi người đều có thể đóng góp tốt hơn, hiệu quả hơn
cho gia đình, cho đất nước bởi vì "nhiều giọt nước sẽ tạo thành biển cả, nhiều cái cây sẽ
tạo thành khu rừng". Nếu được như vậy, cùng với sự lãnh đạo sáng suốt, đúng đắn của
Đảng cộng sản Việt Nam, chúng ta chắc chắn có thể hồn thành sự nghiệp "Cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa", chắc chắn có thể phát triển Việt Nam thành một đất nước phát triển,
tiến tới thực hiện mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh".

PHẦN IV: KẾT LUẬN
Phát huy chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước chính là nhằm khơi dậy và phát huy tinh thần và nghị lực, trí tuệ và tài năng
của mỗi người và toàn thể cộng đồng để tập trung phát triển kinh tế, xây dựng đất nước
ngày càng giàu mạnh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc thân yêu và thành quả cách mạng, gắn
độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ và giữ
gìn bản sắc văn hóa dân tộc, nâng cao uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Yêu nước đã trở thành tình cảm, tư tưởng thường xuyên trong mỗi con người Việt Nam,
được nâng lên thành chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Nhưng, chủ nghĩa yêu nước cần được
thường xuyên khơi dậy, bồi đắp và phát huy để trở thành bệ đỡ và sức mạnh tinh thần

của các tầng lớp nhân dân, nhất là trong thế hệ trẻ nước nhà, nhằm đáp ứng yêu cầu ngày
càng cao của thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, từ đó, tạo đà
vững chắc cho dân tộc ta cất cánh vươn lên sánh vai cùng các “cường quốc năm châu”
trong thời kỳ hội nhập toàn cầu


×