Đại học Công Nghệ
Đại học Quốc Gia Hà Nội
Khoa Công Nghệ Thơng Tin
Tiểu luận Lịch sử Đảng
Họ tên: Hồng Khắc Lâm
Mã Sinh Viên: 19020345
Giảng viên: Nguyễn Văn Chung
Đề bài
Câu 1: Trình bày hồn cảnh ra đời của Đảng. Nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng.Ý nghĩa sự ra đời của Đảng đầu năm 1930 đối với cách mạng Việt Nam
Câu 7: Thuận lợi và khó khăn của nước ta sau cách mạng Tháng Tám năm 1945 là gì.
Trong những năm 1945 - 1946, Đảng ta đã xử lý những khó khăn về thù trong giặc ngoài
như thế nào?Bài học rút ra từ sự lãnh đạo, chỉ đạo, giải quyết những khó khăn trong giai
đoạn này đối với việc xử lý và giải quyết những khó khăn của đất nước trong tình hình
hiện nay ,nhất là trong bối cảnh tác động của đại dịch COVID-19 đối với kinh tế - xã hội
của đất nước?
Câu 8: Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) đã đi vào lịch sử dân tộc như
một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về chủ nghĩa anh hùng
cách mạng và trí tuệ con người, sự kiện có tầm thời đại sâu sắc. Thắng lợi đó có nhiều
nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân quan trọng là chủ nghĩa u nước sâu sắc, khát
vọng khơng có gì q hơn độc lập, tự do. Bằng hiểu biết và thực tế lịch sử, em hãy lý
giải, phân tích nguồn sức mạnh to lớn đó đối với thắng lợi của dân tộc Việt Nam trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Trong giai đoạn đất nước đổi mới, hội nhập quốc
tế hiện nay, chúng ta cần phải làm gì để huy động, phát huy chủ nghĩa yêu nước cho mục
tiêu xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước
Câu 1: Trình bày hồn cảnh ra đời của Đảng. Nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Ý nghĩa sự ra đời của Đảng đầu năm 1930 đối với cách mạng Việt Nam.
1) Hoàn cảnh ra đời của Đảng
1.1) Hoàn cảnh quốc tế cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã chuyển từ tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc
quyền (đế quốc chủ nghĩa). Các nước tư bản tăng cường bóc lột nhân dân lao động trong
nước và thực hiện xâm lược và áp bức nhân dân ở các nước thuộc địa. Điều này dẫn đến mâu
thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt, phong trào giải
phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.
Vào giữa thế kỷ XIX, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển mạnh, đặt ra
yêu cầu bức thiết là phải có hệ thống lý luận khoa học dẫn đường cho các cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa đế quốc. Dẫn đến sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa Mác – Lênin. Chủ
nghĩa Mác – Lênin là nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Năm 1917, Cách mạng tháng Mười Nga giành được thắng lợi. Chủ nghĩa Mác – Lênin từ
lý luận trở thành hiện thực, mở đầu một thời đại mới. Thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng
Mười Nga cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước và cũng là
động lực thúc đẩy sự ra đời của các đảng cộng sản ở nhiều nước trên thế giới.
Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) được thành lập (3/1919) đã thúc đẩy sự phát triển mạnh
mẽ của phong trào cộng sản và phong trào công nhân quốc tế. Đối với Việt Nam, Quốc tế
Cộng sản có vai trị truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.2) Hoàn cảnh trong nước
Tháng 8/1958, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam và từng bước thiết lập bộ máy thống
trị, biến nước ta từ một quốc gia phong kiến thành “một xứ thuộc địa, dân ta là vong quốc nơ,
Tổ quốc ta bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù hung ác”.
Về chính trị, áp đặt chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực đối nội, đối ngoại của
chính quyền nhà Nguyễn. Chia Việt Nam thành 3 kỳ, thực hiện ở mỗi kỳ chế độ cai trị riêng.
Cấu kết với địa chủ trong bóc lột kinh tế và áp bức chính trị đối với nhân dân Việt Nam.
Về kinh tế, tiến hành cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; đầu tư khai thác tài nguyên.
Xây dựng một số cơ sở công nghiệp, hệ thống giao thơng, bến cảng phục vụ cho chính sách
khai thác thuộc địa của Pháp. Nền kinh tế Việt Nam bị lệ thuộc vào tư bản Pháp, bị kìm hãm
trong vịng lạc hậu.
Về văn hóa, thực dân Pháp thực hiện chính sách văn hóa, giáo dục thực dân; dung túng,
duy trì thủ tục lạc hậu…
Dưới tác động của chính sách cái trị và chính sách kinh tế, văn hóa, giáo dục thực dân
Pháp, xã hội Việt Nam diễn ra quá trình phân hóa giai cấp. Đặc biệt là sự ra đời của giai cấp
công nhân và tư sản Việt Nam. Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc này đều
mang thân phận người dân mất nước, ở những mức độ khác nhau đều bị thực dân Pháp áp
bức, bóc lột. Tính chất xã hội Việt Nam từ xã hội phong kiến thuần túy chuyển biến thành xã
hội thuộc địa, nửa phong kiến. Hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam: mâu thuẫn giữa
dân tộc Việt Nam và đế quốc Pháp, mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân và địa chủ phong kiến.
Trước mẫu thuẫn ngày càng lớn, các phong trào yêu nước dành tự do dân tộc ngày càng
nổ ra mạnh mẽ nhưng đều thất bại. Mặc dù bị thất bại, nhưng sự phát triển mạnh mẽ của
phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX có ý nghĩa rất quan trọng. Đây là sự
tiếp nối truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Chứng tỏ con đường cứu
nước theo hệ tư tưởng phong kiến và tư sản đã bế tắc, tạo cơ sở xã hội thuận lợi cho việc tiếp
nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm cách mạng Hồ Chí Minh. Là một trong 3 nhân tố
dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nguyễn Ái Quốc tìm đường cứu nước và chuẩn bị các điều kiện về chính trị, tư tưởng và
tổ chức cho việc thành lập Đảng
Các cuộc nổi dậy diễn ra ngày càng mạnh mẽ phát triển từ phát thành tự giá.
Có 3 tổ chức cộng sản ở Việt Nam, tuy thấm nhuần lý luận cách mạng nhưng sức mạnh
còn bị phân tán cần được thống nhất thành 1 Đảng.
2) Nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Cuối năm 1929, trước tình hình cần thiết và cấp bách phải thành lập môt đảng cộng sản
thống nhất, chấm dứt sự chia rẽ trong phong trào cộng sản Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc từ
Xiêm về Hương Cảng, Trung Quốc, chủ động triệu tập, chủ trì Hội nghị hợp nhất Đảng. Với
sự tham gia của 1 đại biểu của Quốc tế Cộng sản, 2 đại biểu của Đông Dương Cộng sản
Đảng, 2 đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng. Ngày 03/02/1930, Hội nghị đi tới nhất trí tán
thành việc hợp nhất hai tổ chức Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng
thành một đảng duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam; thông qua Chánh cương vắn
tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng. Các văn kiện này
hợp thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng gồm có
- Phương thức chiến lược của Cách mạng Việt Nam là: “làm tư sản dân quyền cách mạng
và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”
- Nhiệm vụ cụ thể của cách mạng tư sản dân quyền cà thổ địa cách mạng là:
Về chính trị: đánh đổ đế quốc Pháp và phong kiến tay sai; làm cho nước Việt Nam hồn
tồn độc lập; lập chính phủ cơng nơng binh, tổ chức quân đội công nông.
Về kinh tế: tịch thu sản nghiệp lớn của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp giao cho Chính
phủ cơng nơng binh; tịch thu toàn bộ ruộng đất của bọn đế quốc chủ nghĩa làm của công và
chia cho dân cày nghèo; mở mang công nghiệp, nông nghiệp, miễn thuế cho dân cày nghèo
Về văn hóa – xã hội: dân chúng được tự do tổ chức; nam nữ bình quyền,…; phổ thơng
giáo dục theo cơng nơng hóa.
- Lực lượng cách mạng: Tập hợp đại bộ phận giai cấp công nhân, nông dân, phải dựa vào
dân cày nghèo, lãnh đạo nông dân làm cách mạng ruộng đất. Hết sức liên lạc với tiểu tư sản,
trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt… để kéo họ vào phe vô sản giai cấp. Phú nông,
trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít
lâu mới làm cho họ trung lập. Bộ phận nào ra mặt phản cách mạng thì phải lật đổ.
- Lãnh đạo cách mạng: Giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đảng
là đội tiên phong của giai cấp vô sản, phải thu phục được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm
cho gia cấp mình lãnh đạo được dân chúng.
- Quan hệ giữa Cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới: Cách mạng
Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, phải thực hành liên lạc với các dân tộc bị
áp bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp. Trong khi liên lạc với các
giai cấp, phải cẩn thận, không khi nào nhượng bộ một chút lợi ích gì của cơng nơng mà đi
vào con đường thảo hiệp.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của đảng là một cương lĩnh giải phóng dân tộc đúng đắn và
sáng tạo, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới, đáp ứng yêu cầu khách quan của lịch
sử, nhuần nhuyễn quan điểm giai cấp, thấm đượm tinh thần dân tộc. Tiến hành cách mạng tư
sản dân quyền và cách mạng ruộng đất để đi tời xã hội cộng sản là tư tưởng cốt lõi của
Cương lĩnh này.
3) Ý nghĩa sự ra đời của Đảng đầu năm 1930 đối với cách mạng Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của quá trình đấu tranh dân tộc và đấu
tranh giai cấp ở Việt Nam trong thời đại mới, là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
Sự ra đời của Đảng đã chấm dứt tình trạng khủng hoảng về lãnh đạo cách mạng.
Đảng ra đời làm cho cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận khăng khít của cách
mạng thế giới
Sự ra đời của Đảng là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính chất quyết định cho những
bước phát triển nhảy vọt trong tiến trình lịch sử tiến hóa của dân tộc Việt Nam.
Câu 7: Thuận lợi và khó khăn của nước ta sau cách mạng Tháng Tám năm 1945 là gì. Trong
những năm 1945 - 1946, Đảng ta đã xử lý những khó khăn về thù trong giặc ngồi như
thế nào? Bài học rút ra từ sự lãnh đạo, chỉ đạo, giải quyết những khó khăn trong giai đoạn
này đối với việc xử lý và giải quyết những khó khăn của đất nước trong tình hình hiện
nay, nhất là trong bối cảnh tác động của đại dịch COVID-19 đối với kinh tế - xã hội của
đất nước?
Hoàn cảnh Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám 1945
Thuận lợi cơ bản:
- Trên thế giới, sau thắng lợi của cuộc chiến tranh thế giới thứ 2, hệ thống xã hội chủ
nghĩa được hình thành. Phong trào cách mạng giải phóng dân tộc có điều kiện phát triển .
- Trong nước, chính quyền nhân dân được thành lập, có hệ thống từ Trung ương đến cơ
sở, có sự lãnh đạo khéo léo của Đảng, của Hồ Chí Minh. Nhân dân lao động làm chủ vận
mệnh của đất nước. Lực lượng vũ trang nhân dân được tăng cường. Toàn dân tin tưởng và
ủng hộ Việt Minh, ủng hộ Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hịa do Hồ Chí Minh làm
Chủ tịch.
Khó khăn nghiêm trọng:
- Hậu quả do chế độ cũ để lại như nạn đói, nạn dốt rất nặng nề, ngân quỹ quốc gia trống
rỗng. Kinh nghiệm quản lý đất nước cảu cán bộ các cấp còn non yếu. Nền độc lập của quốc
gia chưa được quốc gia nào trên thế giới công nhận.
- Với danh nghĩa Đồng minh đến tước giới khí của phát xít Nhật, quân đội các nước đế
quốc ồ ạt kéo vào chiếm đóng nước ta và khuyến khích bọn Việt gian chống phá chính
quyền cách mạng nhắm xóa bỏ nền độc lập và chia cắt đất nước ta. Nghiêm trọng nhất là
quân Anh, Pháp đồng lõa với nhau nổ súng chiếm Sài Gịn, hịng tách Nam Bộ ra khỏi Việt
Nam.
“Giặc đói, giặt dốt và giặc ngoại xâm” là những hiểm họa đối với chế độ mới. Vận mệnh
dân tộc đang trong thế “Ngàn cân treo sợi tóc”. Tổ quốc lâm nguy.
Trong những năm 1945 – 1946, trước những khó khăn mà chính quyền non trẻ mới thành
lập phải đối mặt, Đảng ta đã đề ra những chủ trương xây dựng và bảo vệ chính quyền giúp
đưa đất nước ta ra khỏi giai đoạn khủng hoảng.
Ngày 25/11/1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc.
Nội dung cơ bản của Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc:
Về chỉ đạo chiến lược, cách mạng Việt Nam vẫn là cách mạng giải phóng dân tộc. Khẩu
hiệu: “Dân tộc trên hết. Tổ quốc trên hết”.
Về xác định kẻ thù: Đảng đã chỉ rõ “kẻ thù chính của chúng ta lúc này là thực dân Pháp
xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng”. Vì vậy, phải lập Mặt trận dân tộc
thống nhất chống thực dân Pháp; mở rộng Mặt trận Việt Minh; thống nhất Mặt trận Việt –
Miên - Lào…
Về phương hướng, nhiệm vụ, Đảng nêu rõ 4 nhiệm vụ chủ yếu và cấp bách: củng cố chính
quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân.
Về ngoại giao, Đảng chủ trương kiên trì thực hiện nguyên tắc thêm bạn, bớt thù. Thực hiện
khẩu hiệu “Hoa-Việt thân thiện” với quân Tưởng Giới Thạch và “Độc lập về chính trị, nhân
nhượng về kinh tế” với Pháp
Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” Là cương lĩnh hành động; phản ánh quy luật của lịch sử
dân tộc: dựng nước đi đôi với giữ nước; phản ánh quy luật của đấu tranh cách mạng: xây
dựng chế độ mới gắn liền với bảo vệ chế độ mới.
Với những chủ trương đúng đắn, kịp thời, linh hoạt, sáng tạo, Đảng ta dần đưa đất nước
thốt khỏi những khó khăn buổi đầu xây dựng đất nước, qua đó đạt được những kết quả về
mọi mặt giúp bình ổn lại đất nước trong thời thế khó khăn.
Về chính trị - xã hội: Đã xây dựng được nền móng cho chế độ xã hội mới. Hiến pháp được
ban hành. Bộ máy chính quyền từ Trung Ương đến địa phương được thiết lập và tăng cường.
Các đoàn thể nhân dân được xây dựng và mở rộng.
Về kinh tế, văn hóa: đã phát động phong trào tăng gia sản xuất, cứu đói, xóa bỏ nhiều thứ
thuế vơ lý, giảm tô, xây dựng ngân quỹ quốc gia.Các lĩnh vực sản xuất được phục hồi. Nạn
đói được đẩy lùi. Các trường học được mở lại và tổ chức khai giảng đón năm học mới. Xóa
bỏ được nhiều tệ nạn xã hội và tập tục lạc hậu. Phong trào Bình dân học vụ được thực hiện
sơi nổi.
Về bảo vệ chính quyền cách mạng: Đảng đã kịp thời lãnh đạo nhân dân Nam Bộ đứng lên
kháng chiến và phong trào Nam tiến để chi viện cho miền Nam. Đảng và Chính phủ đã thực
hiện sách lược nhân nhượng với bè lũ quân Tưởng và tay sai – nhường 70 ghế trong Quốc
Hội cho bọn Việt Cách để tập trung toàn bộ lực lượng chống Pháp ở miền Nam.
Bằng những đáng giá đúng đắn của Đảng trước tình hình đất nước sau Cách mạng tháng
Tám để kịp thời đề ra chủ trương kháng chiến kiến quốc và phát huy được khối đại đoàn kết
dân tộc, chúng ta đã bảo vệ được nền độc lập của đất nước, giữ vững chính quyền cách mạng,
xây dựng được những nền móng đầu tiên cơ bản cho một chế độ mới, chế độ Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa. Chuẩn bị được những điều kiện cần thiết, trực tiếp cho cuộc kháng chiến toàn
quốc chống lại thực dân Pháp sau đó.
Những chủ trương đường lối của Đảng và Chính phủ khơng chỉ đưa đất nước bước qua giai
đoạn khủng hoảng “Thù trong giặc ngồi” trước mắt mà cịn đề lại nhiều bài học kinh
nghiệm sâu sắc cho thế hệ sau này. Đó là: phải biết phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc
dựa vào dân để xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng. Triệt để lợi dụng mâu thuẫn
trong nội bộ kẻ thù, chĩa mũi nhọn vào kẻ thù chính, coi sự nhân nhượng có nguyên tắc với
kẻ thù cũng là một biện pháp đấu tranh cách mạng cần thiết trong hoàn cảnh cụ thể. Tận dụng
khả năng hịa hỗn để xây dựng lực lượng, củng cố chính quyền nhân dân, đồng thời đề cao
cảnh giác, sẵn sàng ứng phó với khả năng chiến tranh lan ra cả nước khi kẻ thù bội ước.
Mặc dù những những bài học được đúc kết từ những năm 1945 – 1946, nhưng giá trị và
kinh nghiệm vẫn còn mãi đến tận bây giờ, nhất là khi đất nước đang đứng trước những khó
khăn hiện nay như chủ quyền biển Đơng, các lực lượng chống phá Đảng và Chính phủ đương
thời, … Đặc biết đất nước còn đang trong tình trạng dịch bệnh COVID đang hồnh hành ảnh
hưởng đến nhiều mặt của đất nước.
Từ ngày 23/1/2020, bệnh nhân đầu tiên mắc COVID xuất hiện tại Việt Nam, tính đến
nay, số lượng bệnh nhân cũng như chủng loại virus ngày càng gia tăng kéo theo tình hình
dịch bệnh ở nước ta ngày càng phức tạp. Tình hình dịch bệnh nhanh chóng gây ảnh hưởng
đến nhiều mặt của đất nước. Đặc biệt là đối với nền kinh tế - xã hội trong năm 2020 đã bị tác
động mạnh mẽ của đại dịch. COVID-19 tác động lên mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội,
ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế, hoạt động thương mại, lao động, việc làm và thu
nhập của người lao động. Tuy nhiên, đứng trước cú sốc này, Nhà nước nhanh chóng thực
hiện các giải pháp mạnh, trước hết là để hạn chế sự lây lan của dịch bệnh, sau đó là để phát
triển kinh tế. Các giải pháp đã chứng tỏ thành công bước đầu khi khống chế được dịch bệnh,
không để lây lan trong cộng đồng trong thời gian dài và các hoạt động phát triển kinh tế - xã
hội, nhất là hoạt động du lịch cũng đang bắt đầu trên con đường khởi sắc trở lại trước khi
dịch bệnh bùng phát lần nữa.Với bước đầu là cái giải pháp phòng chống và hạn chế dịch
bệnh ngăn sự lây lan như giãn cách xã hội ở các vùng đang có số lượng bệnh nhân lớn, thực
hiện biện pháp 5K, cho học sinh - sinh viên học online hoặc kết thúc học kỳ sớm để hạn chế
tiếp xúc đơng người,… Chúng ta đã cơ bản kiểm sốt được dịch bệnh để có thể khơi phục
nền kinh tế - xã hội. Bằng các giải pháp như yêu cầu cơ cấu lại nền kinh tế gắn với chuyển
đổi mô hình tăng trưởng; hồn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo; thực hiện chuyển đổi số nền kinh tế đang
trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Trong khi tình hình dịch COVID-19 đang diễn biến ngày
một phức tạp và nguy hiểm ở các nước trên thế giới, nhờ các giải pháp mà Đảng và Chính
phủ đề ra đúng đắn, kịp thời, cấp bách mà đất nước đã bình ổn sau đại dịch COVID-19 và
thúc đẩy pháp triển kinh tế và ổn định xã hội.
Trong thời đại hiện nay, tuy không phải cùng lúc đấu tranh với nhiều loại giặc như giặc
đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm như năm 1945 – 1946, nhưng chúng ta vẫn phải đối mặt với
nhiều mối nguy và khó khăn cho đất nước. Trước những mỗi nguy và khó khăn mà đất nước
ta phải đối mặt thì những bài học kinh nghiệm ơng cha ta để lại vẫn cịn giá trị sâu sắc áp
dụng vào cho tình hình đất nước hiện nay. Nhất là bài học về phát huy sức mạnh khối đại
đồn kết dân tộc. Đây chính là nguồn sức mạnh to lớn xuyên suốt giúp đất nước ta vượt qua
biết bao khó khăn trong suốt bề dày lịch sử đất nước ta từ buổi đầu dựng nước đến thời kỳ
kháng chiến giữ nước và đến thời đại bây giờ.
Câu 8: Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) đã đi vào lịch sử dân tộc như một
trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về chủ nghĩa anh hùng cách
mạng và trí tuệ con người, sự kiện có tầm thời đại sâu sắc. Thắng lợi đó có nhiều nguyên
nhân, trong đó có nguyên nhân quan trọng là chủ nghĩa yêu nước sâu sắc, khát vọng
không có gì q hơn độc lập, tự do. Bằng hiểu biết và thực tế lịch sử, em hãy lý giải,
phân tích nguồn sức mạnh to lớn đó đối với thắng lợi của dân tộc Việt Nam trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Trong giai đoạn đất nước đổi mới, hội nhập quốc tế
hiện nay, chúng ta cần phải làm gì để huy động, phát huy chủ nghĩa yêu nước cho mục
tiêu xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước.
Cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ (1954-1975) là một cuộc kháng chiến lâu dài đánh
đổi biết bao xương máu của ông cha ta để dành lại nên độc lập dân tộc cho đất nước Việt
Nam ta, đây là một mốc son chói lọi của lịch sử Việt Nam, một biểu tượng sáng ngời về chủ
nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, sự kiện có tầm thời đại sâu sắc. Nói về thắng
lợi của dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, Bác Hồ đã khẳng định: “Trong
sự nghiệp thiêng liêng chống Mỹ, cứu nước, trải qua mn nghìn gian khổ hy sinh, nhân dân
ta đã lập nên những chiến công vô cùng oanh liệt. Dân tộc ta có thể tự hào là một dân tộc anh
hùng, trước hết là do toàn dân ta đoàn kết một lòng, quyết đánh và quyết thắng giặc Mỹ xâm
lược”. Thắng lợi này có nhiều nguyên nhân cấu thành, trong đó có hai nguyên nhân quan
trọng là tinh thần yêu nước và khát vọng tự do của nhân dân ta.
Trước hết, tinh thần yêu nước nồng nàn của con người Việt Nam được hun đúc qua mấy
ngàn năm lịch sử, được thử thách thời thế. Với điều kiện địa lý thuận lợi, đất nước ta luôn là
con mồi béo bở trước những thế lực ngoại xâm. Tuy thuận lợi là thế, nhưng thiên nhiên đôi
khi cũng rất khắc nghiệt với mảnh đất hình chữ S này. Nhưng đối diện với “thiên nhiên và
địch họa” ấy đã tôi luyện cho người dân đất Việt tinh thần đồn kết, lịng u nước, ý chí
quật cường, sự mưu trí, sáng tạo của người dân đất Việt trong quá trình chế ngự thiên nhiên
và chống chọi với giặc ngoại xâm.
Sức mạnh của khối Đại đoàn kết toàn dân tộc đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh
nhìn nhận: “Dân ta có một lịng nồng nàn u nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta.
Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành một
làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm
tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. Nhận thức được sức mạnh và tầm quan trọng của tinh
thần yêu nước của nhân dân, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, Đảng ta, đứng đầu là Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã phát triển chủ nghĩa yêu nước, tinh thần yêu nước lên một tầm cao mới
- chủ nghĩa anh hùng cách mạng: đó là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa yêu nước với
tinh thần cách mạng triệt để của giai cấp công nhân. Nêu cao khẩu hiệu “Nước Việt Nam là
một, dân tộc Việt Nam là một!”, “Khơng có gì q hơn độc lập, tự do!”, “Quyết chiến, quyết
thắng giặc Mỹ xâm lược!”... lớp lớp người Việt Nam bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước đầy khó khăn gian khổ nhưng với tinh thần yêu nước nồng nàn và khí thế cách
mạng sục sôi.
Không chỉ dừng lại ở tinh thần yêu nước, ý chí tự do, khát vọng độc lập đất nước cũng là
khát vọng bao đời của người Việt ta. Trải dài chiều dài của lịch sử Việt Nam, chúng ta đã
phải đấu tranh với biết bao thế lực ngoại xâm từ Hán, Đường, Tống, Nguyên từ phía Bắc đến
các nước đế quốc như Pháp, Nhật, Mỹ bằng ý chí độc lập tự do, nhân dân ta đã không chịu
khất phục, không chịu khiếp làm nô lệ mà đứng lên đấu tranh giành lại hịa bình, dành lại tự
do độc lập dân tộc. Đó chính là sức mạnh to lớn, là động lực tạo nên sức mạnh đồn kết
mn dân đưa đất nước vượt qua biết bao cuộc chiến tranh xâm lược của kẻ thù. Nhất là cuộc
chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ. Sau Hiệp định Genève 1954, Mỹ đã nhanh chân thế
chỗ thực dân Pháp xâm lược Việt Nam và phát động cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam
kéo dài với quy mơ lớn, tính chất ác liệt nhất trong lịch sử Mỹ. Chính phủ Mỹ đã huy động
vào cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam một khối lượng bom đạn, vật chất kỹ thuật chưa
từng có trên một địa bàn tương đối hẹp, đã sử dụng mọi loại vũ khí hiện đại nhất trừ bom
nguyên tử, đã thi thố mọi chiến lược, chiến thuật, thủ đoạn, cả chính trị, quân sự, ngoại giao,
đã dùng mọi thủ đoạn chiến tranh, kể cả sử dụng vũ khí chất độc hóa học. Các chiến lược gia,
các tướng lĩnh bậc nhất của Mỹ đều đã được Nhà Trắng và Lầu Năm Góc huy động vào cuộc
đấu trí trong chiến tranh Việt Nam. Tất cả với một mục tiêu biến Việt Nam thành thuộc địa
của Mỹ.
Ngoài miền Bắc, trong điều kiện mới, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được thành lập để tăng
cường củng cố khối thống nhất nhân dân, thực hiện nhiệm vụ vừa xây dựng, bảo vệ xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc, vừa thực hiện nghĩa vụ hậu phương lớn chi viện cho chiến trường
miền Nam. Trong quá trình hoạt động, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã thực sự phát huy được
sức mạnh mới của toàn dân, của cả dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ miền Bắc,
đồng thời phát huy vai trò quyết định của hậu phương chiến lược đối với cơng cuộc giải
phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Tại miền Nam, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước diễn ra vô cùng ác liệt. Từ phong
trào đấu tranh cách mạng của quân và dân miền Nam Thành đồng, Mặt trận dân tộc giải
phóng miền Nam Việt Nam được thành lập với chủ trương đoàn kết tất cả các tầng lớp nhân
dân, các giai cấp, các dân tộc, các đảng phái, đồn thể, tơn giáo và thân sỹ u nước, khơng
phân biệt xu hướng chính trị, đấu tranh đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và tập đoàn tay
sai, thực hiện độc lập, dân chủ, hịa bình, trung lập, tiến tới hịa bình thống nhất nước nhà.
Những khẩu hiệu đấu tranh đòi tự do, dân chủ, cải thiện dân sinh, hịa bình trung lập.. là
những mục tiêu phù hợp thực sự thu hút các tầng lớp trí thức, học sinh, sinh viên, tín đồ các
tôn giáo, ngoại kiều, tư sản dân tộc, lớp dưới trong bộ máy quân đội và chính quyền Việt
Nam cộng hòa... vào cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược. Đó thực sự là một sáng tạo
của đường lối đại đoàn kết toàn dân.
Bằng sự kết hợp nhuẫn nhuyễn giữa tinh thần yêu nước nồng nàn, ý chí tự do mãnh liệt của
nhân dân và đường lối tập hợp, đoàn kết toàn dân đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta đã tạo nên
sức mạnh to lớn, góp phần quyết định vào thắng lợi lịch sử của toàn dân tộc ta trước siêu
cường hàng đầu thế giới. Một lần nữa khẳng định cho sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân
khi đương đầu với các thế lực thù địch ngoại xâm. Việc phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết
tồn dân khơng chỉ là bài học lớn đối với thắng lợi của cuộc kháng chiến trước đây, mà nó
vẫn cịn ngun giá trị trong cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc sau này.
Đất nước đang tiến hành đổi mới và hội nhập sâu rộng trong bối cảnh tồn cầu hóa. Hơn
bao giờ hết, lịng u nước, tinh thần yêu nước của mỗi người gắn liền với trách nhiệm và
nghĩa vụ của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
"dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Càng khó khăn, thử thách, truyền
thống yêu nước, tinh thần yêu nước của mỗi người dân Việt Nam được hun đúc từ bao đời,
trở thành sức mạnh Việt Nam, biểu tượng Việt Nam càng được tiếp tục khơi dậy mạnh mẽ,
tỏa sáng trên tinh thần: “Yêu nước thì việc gì có lợi cho nhân dân, dù khó mấy cũng phải ra
sức làm cho kỳ được. Điều gì có hại cho nhân dân, dù khó mấy cũng phải ra sức trừ cho kỳ
hết”, để luôn chủ động, quyết tâm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Bước vào thời kỳ hội nhập quốc tế, hội nhập toàn cầu hiện nay, chúng ta – mỗi người dân
Việt Nam càng cần phải phát huy tinh thần yêu nước nồng nàn, nhận thức rõ quyền và nghĩa
vụ của mỗi công dân trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước để đưa đất nước có thế
sánh vai với các cường quốc năm châu trên thế giới. Ngày nay, giới trẻ đóng vai trị rất lớn
trong cơng cuộc hội nhập của đất nước ra. Đây chính là lực lượng chính có vai trò hết sức
quan trọng trong việc tiếp thu, sáng tạo, đổi mới trong mọi lĩnh vực của kinh tế - xã hội. Bởi
lẽ đó, việc nâng cao cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống cho mọi người
đặc biệt là thế hệ trẻ trở nên vơ cùng quan trọng. việc giáo dục lịng u nước phải thầm
nhuần yêu cầu “cốt nhất là phải dạy cho học trò biết yêu nước, thương nòi. Phải dạy cho họ
có chí tự lập, tự cường, quyết khơng chịu thua kém ai, quyết không chịu làm nô lệ” để mỗi
người trở thành người cơng dân có tài và có đức, kiên định và tiếp tục sự nghiệp cách mạng
của cha anh, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam hội nhập và phát triển bền vững trong xu thế toàn cầu hố và hội nhập quốc tế. Khơng
chỉ nhận thức rõ được tinh thần yêu nước, ý chí tự do của thế hệ đi trước để lại, chúng ta phải
luôn sáng tạo, thông minh, trung thành với Đảng, với nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa,
ln tỉnh táo, cảnh giác trước những thế lực chống phá, phản động. Trong 2 năm 2020 -2021,
những hình ảnh, những tấm gương của đội ngũ y, bác sĩ, chiến sĩ quân đội trong cuộc chiến
chống dịch bệnh, sự chung tay góp sức của cả hệ thống chính trị và mỗi người dân cả nước
trong cuộc chiến chống "giặc dịch COVID - 19" để "không để một ai bị bỏ lại phía sau"
chính là biểu hiện sinh động nhất của tinh thần yêu nước, sẵn sàng bảo vệ tổ quốc của thế hệ
hiện nay. Đó chính là tinh thần u nước nồng nàn khơng ngại khó khăn gian khổ của dân tộc
ta, đó cũng chính là nguồn động lực to lớn trong nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ đất nước.