Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

TIỂU LUẬN LỊCH SỬ ĐẢNG 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.78 KB, 16 trang )

Đại học Quốc gia Hà Nội
Trường Đại học Công Nghệ

Bài Tiểu Luận
Môn: Lịch sử Đảng

Sinh viên thực hiện: Phan Văn Cơ
Mã sinh viên: 19020235
Lớp: 2021II_HIS1001_4


Mục Lục:


Câu 1: Bối cảnh, nội dung của đường lối đổi mới của Đảng tại Đại hội VI
của Đảng (năm 1986). Ý nghĩa của nó đối với đất nước ta ?
Trả lời:
Thơng tin Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VI của Đảng:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng được diễn ra từ ngày 15
đến ngày 18/12/1986 tại Thủ đơ Hà Nội. Trước đó, Đại hội được họp trù bị từ
ngày 5 đến 14/12/1986. Tham dự đại hội gồm 1129 đại biểu thay mặt cho hơn 2
triệu Đảng viên trên cả nước, trong số đó có 925 đại biểu của 40 tỉnh, thành, đặc
khu; 172 đại biểu các đảng bộ trực thuộc Trung ương; 153 đại biểu nữ; 115 đại
biểu các dân tộc thiểu số; 50 đại biểu là Anh hùng lực lượng vũ trang và Anh
hùng lao động; 72 đại biểu là công nhân trực tiếp sản xuất và đến dự Đại hội là
32 đoàn đoàn đại biểu quốc tế. Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 124 uỷ
viên chính thức, 49 một uỷ viên dự khuyết. Trong đại hội, bộ chính trị sẽ bầu ra
13 uỷ viên chính thức và 1 uỷ viên dự khuyết. Kết quả của Đại hội là Đồng chí
Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam. Các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ
được giao nhiệm vụ Cố vấn cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng.


Bối cảnh của Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI:
Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng là Đại hội kế thừa và quyết tâm
đổi mới ở nước ta. Trong mấy năm qua, thời kỳ kế hoạch năm năm 1981-1985,
Việt Nam đã không thực hiện được mục tiêu đề ra là cơ bản ổn định tình hình
kinh tế - xã hội ổn định đời sống nhân dân. Số người bị thiếu đói tăng, bội chi
lớn. Sai lầm về tổng điều chỉnh giá, lương, tiền cuối năm 1985 đã đưa nền kinh
tế của đất nước ta đến những khó khăn mới. Ở đây, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
đưa ra ý kiến tranh luận chính xoay quanh 3 vấn đề chính: Cơ cấu sản xuất, Cải
tạo Xã hội Chủ nghĩa và Cơ chế quản lí kinh tế. Đại hội đã tìm và đưa ra các
ngun nhân chính của cuộc khủng hoảng, đó là: Chủ quan, nóng vội trong con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội, áp dụng mơ hình xây dựng chủ nghĩa xã hội bao
cấp và công nghiệp hóa theo lối giản đơn - tập trung vào cơng nghiệp nặng.
Khi đã xác định được vấn đề và những ngun nhân cơ bản, tình hình đất nước,
Đảng phải tích cực chuẩn bị và tiến hành Đại hội lần thứ VI theo yêu cầu đổi
mới mạnh mẽ, phải nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng thực
trạng của đất nước. Từ đó xác định đúng mục tiêu và nhiệm vụ của cách mạng
trong chặng đường trước mắt, đề ra chủ trương, chính sách đúng để xoay
chuyển tình thế, đưa đất nước vượt qua khó khăn, tiến lên phía trước.
Dựa trên bối cảnh đó, Đại hội đại biểu lần thứ VI của Đảng đã được diễn ra
và bao gồm các nội dung cũng như nội dung của đường lối đổi mới như
sau:


Trước hết, Đại hội đã thảo luận và thông qua Nghị quyết về các văn kiện
như: Báo cáo chính trị; Phương hướng, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội 5
năm 1986 - 1990; Báo cáo về bổ sung điều lệ Đảng.
Trích lời Đại hội nhận định: "Năm năm qua là một đoạn đường đầy thử
thách đối với Đảng và nhân dân ta. Cách mạng nước ta diễn ra trong bối cảnh
quốc tế và trong nước có những thuận lợi cơ bản, nhưng cũng có nhiều khó
khăn phức tạp. Thực hiện những nhiệm vụ và mục tiêu do Đại hội lần thứ V của

Đảng đề ra, nhân dân ta anh dũng phấn đấu, khắc phục khó khăn, vượt qua trở
ngại, đã đạt được những thành tựu quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội, giành những thắng lợi to lớn trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc
và làm nghĩa vụ quốc tế". Bên cạnh khẳng định thành tích đã đạt được, Đại hội
cũng nhận rõ: "Tình hình kinh tế - xã hội đang có những khó khăn gay gắt: Sản
xuất tăng chậm; hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp; phân phối, lưu thơng có
nhiều rối ren; những mất cân đối lớn trong nền kinh tế chậm được thu hẹp, có
mặt gay gắt hơn; quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chậm được củng cố; đời
sống nhân dân lao động cịn nhiều khó khăn; hiện tượng tiêu cực xảy ra ở nhiều
nơi, và có nơi nghiêm trọng. Nhìn chung, chúng ta chưa thực hiện được mục
tiêu tổng quát do Đại hội lần thứ V đề ra là cơ bản ổn định tình hình kinh tế xã hội, ổn định đời sống nhân dân".
Về bản báo cáo chính trị: Nêu ra 4 bài học kinh nghiệm lớn.
Một là, trong tồn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng
"Lấy dân làm gốc", xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân
lao động.
Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động
theo quy luật khách quan.
Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại
trong điều kiện mới.
Bốn là, phải chăm lo xây dựng đảng ngang tầm với một đảng cầm quyền
lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Báo cáo xác định nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát trong 5 năm còn lại
của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục
xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh cơng nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa trong chặng đường tiếp theo.
Đại hội giao cho Ban Chấp hành Trung ương khoá VI chỉ đạo thực hiện thành
công những nhiệm vụ đề ra trong Báo cáo chính trị, mà quan trọng là:
1. Xây dựng và tổ chức thực hiện ba chương trình về lương thực - thực
phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu...



2. Thực hiện nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa một cách thường xuyên
với những hình thức và bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp
với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, thúc đẩy sự phát triển của lực
lượng sản xuất…
3. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.
4. Giải quyết cho được những vấn đề cấp bách về phân phối, lưu thông.
5. Xây dựng và tổ chức thực hiện một cách thiết thực và có hiệu quả các
chính sách xã hội.
6. Tăng cường khả năng quốc phòng và an ninh của đất nước.
7. Tăng cường hoạt động trên lĩnh vực đối ngoại.
8. Phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, nâng cao hiệu
lực quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
9. Xây dựng Đảng thật sự ngang tầm một đảng cầm quyền có trọng trách
lãnh đạo toàn dân thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược.
10. Nâng cao hiệu lực chỉ đạo và điều hành của bộ máy đảng và nhà
nước.
Ban Chấp hành Trung ương phải chỉ đạo tiến hành trong toàn Đảng và toàn xã
hội "Cuộc vận động làm trong sạch và nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức
đảng; làm trong sạch và nâng cao hiệu lực quản lý của bộ máy nhà nước; đẩy lùi
và xoá bỏ các hiện tượng tiêu cực, làm lành mạnh các quan hệ xã hội và thực
hiện công bằng xã hội".
Về mục tiêu kinh tế - xã hội:
Đề ra mục tiêu cụ thể cho những năm còn lại của chặng đường đầu tiên.
Một là, sản xuất đủ tiêu dùng và tích luỹ.
Hai là, bước đầu tạo ra cơ cấu kinh tế hợp lý nhằm phát triển sản xuất.
Ba là, xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Bốn là, tạo chuyển biến tốt về mặt xã hội.
Năm là, bảo đảm nhu cầu củng cố quốc phòng và an ninh.

Về đổi mới kinh tế:
Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế là một yêu cầu bức thiết, một bộ phận cấu
thành quan trọng nhất trong toàn bộ hoạt động trên lĩnh vực kinh tế của Đảng.


Bao gồm: xoá bỏ kinh tế bao cấp, thực hiện cơ cấu kinh tế nhiều thành phần; đổi
mới về cơ chế quản lý kinh tế: cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch toán
kinh doanh xã hội chủ nghĩa và đổi mới về nội dung và cách thức công nghiệp
hoá cụ thể là sản xuất lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
Về đổi mới chính trị:
Đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng, đổi mới quản lý và
điều hành của nhà nước cho phù hợp với cơ cấu và cơ chế kinh tế mới; đổi mới
về quan hệ hợp tác quốc tế theo hướng mở, kêu gọi hợp tác và đầu tư nước
ngoài.
Ý nghĩa:
Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức Đại hội tồn quốc lần thứ VI có ý nghĩa
lịch sử trọng đại, đánh dấu một bước ngoặt trong sự nghiệp quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta, đã góp phần tìm ra con đường để giải quyết cuộc khủng
hoảng về kinh tế xã hội trong đất nước, thể hiện quan điểm đổi mới toàn diện
đất nước, đặt nền tảng cho việc tìm ra con đường thích hợp đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam. Đại hội thể hiện sự kết tinh trí tuệ của tồn Đảng, tồn dân và
cũng thể hiện tinh thần trách nhiệm cao của Đảng trước đất nước và trước dân
tộc. Sau ĐH, Đảng đã lãnh đạo triển khai thực hiện đường lối đổi mới toàn diện,
từng bước tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển, đưa cách mạng nước ta từng
bước đạt được những thành tựu rất quan trọng. Những chủ trương, chính sách
mới đã gợi mở, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, giải phóng năng
lực sản xuất của xã hội để mở đường cho phát triển sản xuất.
Câu hỏi 2: Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với sự ra đời của Đảng đầu năm
1930.
Trả lời:

Trước yêu cầu cấp thiết giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, với
nhiệt huyết cứu nước, với nhãn quan chính trị sắc bén, vượt lên trên hạn chế của
các bậc yêu nước đương thời, năm 1911, Nguyễn Tất Thành quyết định ra đi tìm
đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Qua trải nghiệm thực tế qua nhiều nước,
Người đã nhận thức được rằng một cách rạch rịi: “dù màu da có khác nhau, trên
đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột”,
từ đó xác định rõ kẻ thù và lực lượng đồng minh của nhân dân các dân tộc bị
áp bức.
Năm 1917, thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga đã tác động mạnh
mẽ tới nhận thức của Nguyễn Tất Thành-đây là cuộc “cách mạng đến nơi”.


Người từ nước Anh trở lại nước Pháp và tham gia các hoạt động chính trị hướng
về tìm hiểu con đường Cách mạng Tháng Mười Nga, về V.I.Lênin.
Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng Xã hội Pháp, một chính
đảng tiến bộ nhất lúc đó ở Pháp. Tháng 6-1919, tại Hội nghị của các nước thắng
trận trong Chiến tranh thế giới thứ nhất họp ở Versailles, (Vécxây, Pháp) , Tổng
thống Mỹ Wooderow Wilson (Uynxơn) tuyên bố bảo đảm về quyền dân tộc tự
quyết cho các nước thuộc địa. Nguyễn Tất Thành lấy tên là Nguyễn Ái Quốc
thay mặt Hội những người An Nam yêu nước ở Pháp gửi tới Hội nghị bản Yêu
sách của nhân dân An Nam (gồm tám điểm đòi quyền tự do cho nhân dân Việt
Nam) ngày 18-6-1919. Nhó nười Việt Nam tiêu biểu cho tinh thần yêu nước ở
Pháp, gồm: Phan Chu Trinh, Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế
Truyền và Nguyễn Ái Quốc. Những u sách đó dù khơng được Hội nghị đáp
ứng, nhưng sự kiện này đã tạo nên tiếng vang lớn trong dư luận quốc tế và
Nguyễn Ái Quốc càng hiểu rõ hơn bản chất của đế quốc, thực dân.
Tháng 7-1920, Người đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về
vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin đăng trên báo L'Humanité
(Nhân đạo), số ra ngày 16 và 17-7-1920. Những luận điểm của V.I.Lênin về vấn
đề dân tộc và thuộc địa đã giải đáp những vấn đề cơ bản và chỉ dẫn hướng phát

triển của sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc. Lý luận của V.I.Lênin và lập
trường đúng đắn của Quốc tế Cộng sản về cách mạng giải phóng các dân tộc
thuộc địa là cơ sở để Nguyễn Ái Quốc xác định thái độ ủng hộ việc gia nhập
Quốc tế Cộng sản tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp (12-1920) tại
thành phố Tua (Tour). Tại Đại hội này, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành
Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản do V.I.Lênin thành lập).
Ngay sau đó, Nguyễn Ái Quốc cùng với những người vừa bỏ phiếu tán
thành Quốc tế Cộng sản đã tuyên bố thành lập Phân bộ Pháp của Quốc tế Cộng
sản-tức là Đảng Cộng sản Pháp. Với sự kiện này, Nguyễn Ái Quốc trở thành
một trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp và là người cộng sản
đầu tiên của Việt Nam, đánh dấu bước chuyển biến quyết định trong tư tưởng và
lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc. Trong những năm 1919-1921 Bộ
trưởng Bộ thuộc địa Pháp Albert Sarraut (An be xa rô) nhiều lần gặp Nguyễn Ái
Quốc mua chuộc và đe dọa. Ngày 30-6-1923, Nguyễn Ái Quốc tới Liên Xô và
làm việc tại Quốc tế Cộng sản ở Mátxcơva, tham gia nhiều hoạt động, đặc biệt
là dự và đọc tham luận tại Đại hội V Quốc tế Cộng sản (17-6 - 8-7-1924), làm
việc trực tiếp ở Ban Phương Đông của Quốc tế Cộng sản.


Ngay sau đó, Nguyễn Ái Quốc cùng với những người vừa bỏ phiếu tán
thành Quốc tế Cộng sản đã tuyên bố thành lập Phân bộ Pháp của Quốc tế Cộng
sản-tức là Đảng Cộng sản Pháp. Với sự kiện này, Nguyễn Ái Quốc trở thành
một trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp và là người cộng sản
đầu tiên của Việt Nam, đánh dấu bước chuyển biến quyết định trong tư tưởng và
lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc. Trong những năm 1919-1921 Bộ
trưởng Bộ thuộc địa Pháp Albert Sarraut (An be xa rô) nhiều lần gặp Nguyễn Ái
Quốc mua chuộc và đe dọa. Ngày 30-6-1923, Nguyễn Ái Quốc tới Liên Xô và
làm việc tại Quốc tế Cộng sản ở Mátxcơva, tham gia nhiều hoạt động, đặc biệt
là dự và đọc tham luận tại Đại hội V Quốc tế Cộng sản (17-6 - 8-7-1924), làm
việc trực tiếp ở Ban Phương Đông của Quốc tế Cộng sản.

Sau khi xác định được con đường cách mạng đúng đắn, Nguyễn Ái Quốc
tiếp tục khảo sát, tìm hiểu để hồn thiện nhận thức về đường lối cách mạng vơ
sản, đồng thời tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về Việt Nam.
Chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của Đảng
Về tư tưởng : Từ giữa năm 1921, tại Pháp, cùng một số nhà cách mạng
của các nước thuộc địa khác, Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập Hội liên hiệp
thuộc địa, sau đó sáng lập tờ báo Le Paria (Người cùng khổ). Người viết nhiều
bài trên các báo Nhân đạo, Đời sống cơng nhân, Tạp chí Cộng sản, Tập san
Thư tín quốc tế,...
Năm 1922, Ban Nghiên cứu thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp được
thành lập, Nguyễn Ái Quốc được cử làm Trưởng Tiểu ban Nghiên cứu về Đông
Dương. Vừa nghiên cứu lý luận, vừa tham gia hoạt động thực tiễn trong phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế, dưới nhiều phương thức phong phú,
Nguyễn Ái Quốc tích cực tố cáo, lên án bản chất áp bức, bóc lột, nơ dịch của
chủ nghĩa thực dân đối với nhân dân các nước thuộc địa và kêu gọi, thức tỉnh
nhân dân bị áp bức đấu tranh giải phóng. Người chỉ rõ bản chất của chủ nghĩa
thực dân, xác định chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa,
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới. Đồng thời, Người
tiến hành tuyên truyền tư tưởng về con đường cách mạng vô sản, con đường
cách mạng theo lý luận Mác-Lênin, xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa những
người cộng sản và nhân dân lao động Pháp với các nước thuộc địa và phụ thuộc.
Năm 1927, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Đảng muốn vững phải có chủ
nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy”.


Đảng mà khơng có chủ nghĩa cũng giống như người khơng có trí khơn, tàu
khơng có bàn chỉ nam. Phải truyền bá tư tưởng vô sản, lý luận Mác-Lênin vào
phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
Về chính trị: Xuất phát từ thực tiễn cách mạng thế giới và đặc điểm của
phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, kế thừa và phát triển quan

điểm của V.I.Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc, Nguyễn Ái Quốc đưa ra
những luận điểm quan trọng về cách mạng giải phóng dân tộc. Người khẳng
định rằng, con đường cách mạng của các dân tộc bị áp bức là giải phóng giai
cấp, giải phóng dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của
chủ nghĩa cộng sản. Đường lối chính trị của Đảng cách mạng phải hướng tới
giành độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho đồng bào, hướng tới xây dựng
nhà nước mang lại quyền và lợi ích cho nhân dân.
Nguyễn Ái Quốc xác định cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc
địa là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới; giữa cách mạng giải phóng
dân tộc ở các nước thuộc địa với cách mạng vơ sản ở “chính quốc” có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau, nhưng cách mạng giải phóng dân tộc ở
nước thuộc địa khơng phụ thuộc vào cách mạng vơ sản ở “chính quốc” mà có
thể thành cơng trước cách mạng vơ sản ở “chính quốc”, góp phần tích cực thúc
đẩy cách mạng vơ sản ở “chính quốc”.
Đối với các dân tộc thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ: trong nước nông
nghiệp lạc hậu, nông dân là lực lượng đông đảo nhất, bị đế quốc, phong kiến áp
bức, bóc lột nặng nề, vì vậy phải thu phục và lôi cuốn được nông dân, phải xây
dựng khối liên minh công nông làm động lực cách mạng: “công nông là gốc của
cách mệnh; cịn học trị nhà bn nhỏ, điền chủ nhỏ... là bầu bạn cách mệnh của
công nông”. Do vậy, Người xác định rằng, cách mạng “là việc chung của cả dân
chúng chứ không phải là việc của một hai người”.
Về vấn đề Đảng Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Cách mạng
trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng,
ngồi thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vơ sản giai cấp mọi nơi. Đảng có
vững cách mệnh mới thành cơng, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới
chạy.
Phong trào “Vơ sản hóa” do Kỳ bộ Bắc Kỳ Hội Việt Nam Cách mạng
thanh niên phát động từ ngày 29-9-1928 đã góp phần truyền bá tư tưởng vô sản,
rèn luyện cán bộ và xây dựng phát triển tổ chức của công nhân.
Về tổ chức: Sau khi lựa chọn con đường cứu nước-con đường cách mạng



vô sản-cho dân tộc Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc thực hiện “lộ trình” “đi vào
quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự
do độc lập”. Vì vậy, sau một thời gian hoạt động ở Liên Xơ để tìm hiểu, khảo
sát thực tế về cách mạng vô sản, tháng 11-1924, Người đến Quảng Châu (Trung
Quốc)-nơi có đơng người Việt Nam u nước hoạt động-để xúc tiến các công
việc tổ chức thành lập đảng cộng sản. Tháng 2-1925, Người lựa chọn một số
thanh niên tích cực trong Tâm tâm xã, lập ra nhóm Cộng sản đoàn.
Tháng 6-1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh
niên tại Quảng Châu (Trung Quốc), nịng cốt là Cộng sản đồn. Hội đã cơng bố
chương trình, điều lệ của Hội, mục đích: để làm cách mệnh dân tộc (đập tan bọn
Pháp và giành độc lập cho xứ sở) rồi sau đó làm cách mạng thế giới (lật đổ chủ
nghĩa đế quốc và thực hiện chủ nghĩa cộng sản). Hệ thống tổ cức của Hội gồm 5
cấp: trung ương bộ, kỳ bộ, tỉnh bộ hay thành bộ, huyện bộ và chi bộ. Tổng bộ là
cơ quan lãnh đạo cao nhất giữa hai kỳ đại hội. Trụ sở đặt tại Quảng Châu.
Sau khi thành lập, Hội tổ chức các lớp huấn luyện chính trị do Nguyễn Ái
Quốc trực tiếp phụ trách, phái người về nước vận động, lựa chọn và đưa một số
thanh niên tích cực sang Quảng Châu để đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị.
Từ giữa năm 1925 đến tháng 4-1927, Hội đã tổ chức được trên 10 lớp huấn
luyện tại nhà số 13 và 13 B đường Văn Minh, Quảng Châu (nay là nhà số 248
và 250). Sau khi được đào tạo, các hội viên được cử về nước xây dựng và phát
triển phong trào cách mạng theo khuynh hướng vô sản. Trong số học viên được
đào tạo ở Quảng Châu, có nhiều đồng chí được cử đi học trường Đại học Cộng
sản phương Đơng (Liên Xơ) và trường Qn chính Hồng Phố (Trung Quốc).
Sau sự biến chính trị ở Quảng Châu (4-1927), Nguyễn Ái Quốc trở lại
Mátxcơva và sau đó được Quốc tế Cộng sản cử đi công tác ở nhiều nước Châu
Âu. Năm 1928, Người trở về Châu Á và hoạt động ở Xiêm (tức Thái Lan).
Các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc trong các lớp đào tạo, bồi dưỡng cho
những người Việt Nam yêu nước tại Quảng Châu, được Hội Liên hiệp các dân

tộc bị áp bức ở Á Đông xuất bản thành cuốn Đường Cách mệnh. Đây là cuốn
sách chính trị đầu tiên của cách mạng Việt Nam, trong đó tầm quan trọng của lý
luận cách mạng được đặt ở vị trí hàng đầu đối với cuộc vận động cách mạng và
đối với đảng cách mạng tiên phong. Đường Cách mệnh xác định rõ con đường,
mục tiêu, lực lượng và phương pháp đấu tranh của cách mạng. Tác phẩm thể
hiện tư tưởng nổi bật của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc dựa trên cơ sở vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào đặc điểm của Việt Nam. Những điều kiện về tư


tưởng, lý luận, chính trị và tổ chức để thành lập Đảng đã được thể hiện rõ trong
tác phẩm.
Ở trong nước, từ đầu năm 1926, Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên đã
bắt đầu phát triển cơ sở ở trong nước, đến đầu năm 1927 các kỳ bộ được thành
lập. Hội còn chú trọng xây dựng cơ sở trong Việt kiều ở Xiêm (Thái Lan). Hội
Việt Nam Cách mạng thanh niên chưa phải là chính đảng cộng sản, nhưng
chương trình hành động đã thể hiện quan điểm, lập trường của giai cấp công
nhân, là tổ chức tiền thân dẫn tới ra đời các tổ chức cộng sản ở Việt Nam. Hội là
tổ chức trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam và cũng là sự
chuẩn bị quan trọng về tổ chức để tiến tới thành lập chính đảng của giai cấp
công nhân ở Việt Nam. Những hoạt động của Hội có ảnh hưởng và thúc đẩy
mạnh mẽ sự chuyển biến của phong trào công nhân, phong trào yêu nước Việt
Nam những năm 1928-1929 theo xu hướng cách mạng vơ sản. Đó là tổ chức
tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ý nghĩa của sự kiện Đảng ra đời đối với cách mạng Việt Nam?
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã chấm dứt sự khủng hoảng bế tắc về
dường lối cứu nước, đưa cách mạng Việt Nam sang một bước ngoặt lịch sử vĩ
đại: cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận khăng khít của cách mạng vơ
sản thế giới. Đó là kết quả của sự vận động phát triển và thống nhất của phong
trào cách mạng trong cả nước, sự chuẩn bị tích cực, sáng tạo, bản lĩnh của lãnh
tụ Nguyễn Ái Quốc, sự đoàn kết, nhất trí của những chiến sĩ cách mạng tiên

phong vì lợi ích của giai cấp và dân tộc.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với phong trào công nhân và phong
trào yêu nước Việt Nam. Đó cũng là kết quả của sự phát triển cao và thống nhất
của phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam được soi sáng bởi
chủ nghĩa Mác-Lênin. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Chủ nghĩa MácLênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới
viêch thành lập Đảng, “Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan
trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta
đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng”.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên được
thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng đã khẳng định lần đầu tiên cách mạng
Việt Nam có một bản cương lĩnh chính trị phản ánh được quy luật khách quan
của xã hội Việt Nam, đáp ứng những nhu cầu cơ bản và cấp bách của xã hội
Việt Nam, phù hợp với xu thế của thời đại, định hướng chiến lược đúng đắn cho


tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam. Đường lối đó là kết quả của sự
vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam một cách
đúng đắn, sáng tạo và có phát triển trong điều kiện lịch sử mới.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh chính trị đầu tiên
đã khẳng định sự lựa chọn con đường cách mạng cho dân tộc Việt Nam-con
đường cách mạng vô sản. Con đường duy nhất đúng giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp và giải phóng con người. Sự lựa chọn con đường cách mạng vô
sản phù hợp với nội dung và xu thế của thời đại mới được mở ra từ Cách mạng
Tháng Mười Nga vĩ đại: “Đối với nước ta, khơng cịn con đường nào khác để có
độc lập dân tộc thật sự và tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Cần nhấn mạnh rằng
đây là sự lựa chọn của chính lịch sử, sự lựa chọn đã dứt khoát từ năm 1930 với
sự ra đời của Đảng ta”.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử phát
triển của dân tộc Việt Nam, trở thành nhân tố hàng đầu quyết định đưa cách

mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Câu 3: Để góp phần hiện thực hóa khát vọng xây dựng một nước Việt Nam
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các
cường quốc năm châu như mong ước của Bác Hồ, là một sinh viên, bạn cần
làm gì để góp sức mình vào việc thực hiện mục tiêu đó?
Trả lời:
Nước Việt Nam dân chủ cộng hịa là một nước độc lập, trải qua hàng
nghìn năm dựng nước và giữ nước, bảo vệ tồn vẹn lãnh thổ ln là một trong
những mục tiêu hàng đầu được Đảng và nhà nước ta chú trọng và thực hiện.
Tuy nhiên, cũng với xu thế hội nhập và phát triển chung của thế giới, cùng sự
phát triển của hệ thống nhà nước XHCN thì cơng cuộc xây dựng một nước Việt
Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, dân chủ, văn minh, sánh vai với
các cường quốc năm châu luôn là khát vọng của Bác Hồ mong muốn thế hệ trẻ
nói chung và tầng lớp học sinh, sinh viên nói riêng cần khắc ghi và thực hiện.
Đó vừa là nghĩa vụ vừa là niềm tự hào của thế hệ trẻ Việt Nam ngày nay.
Đất nước Việt Nam vốn là một đất nước nhỏ bé nằm ở phía Đơng Nam
châu Á, một đất nước nhỏ bé đúng nghĩa cả về diện tích lẫn về dân số, tuy nhiên
nói về tinh thần dân tộc qua hàng ngàn năm nay thì quả là một đất nước có bề
dày lịch sử hào hùng và một tinh thần u nước mà ít có dân tộc nào trên thế
giới sánh bằng. Đất nước Việt Nam trải qua hàng ngàn năm dựng nước của các
vị vua Hùng, rồi trải qua quá trình xây dựng một đất nước độc lập trên nền tảng
là thuộc địa, chịu ách thống trị khác nghiệt của các tầng đế chế của Anh, Pháp,
Mĩ,… Trải qua dòng dã hàng trăm năm chiến tranh giữ nước, phải đổ bao nhiêu
máu, phải dùng bao nhiêu mạng người để đổi lấy tự do độc lập ngày hôm nay.


Máu thấm vào đất, linh hồn những người ngã xuống thấm đãm vào tình yêu
nước của cả dân tộc Việt Nam, mỗi nhịp đập trái tim người Việt luôn khắc khoải
một tình yêu mãnh liệt với quê hương, đất nước. Trong q trình dựng nước và
giữ nước khơng ít lần cha ông đã khẳng định quyền tự do dân chủ, quyên độc

lập dân tộc qua từng bức chiếu thư, qua từng áng văn thơ trở thành bất tử. Xưa
kia, trong bài thơ thần "Nam Quốc Sơn Hà", vốn được coi là bản tuyên ngôn
độc lập thứ nhất của nhân dân ta, Lý Thường Kiệt đã khẳng định nền độc lập
của dân tộc về lãnh thổ, chủ quyền, song mới chủ yếu dựa nhiều vào yếu tố tâm
linh là "thiên thư"- sách trời. Đến thế kỉ XV, Nguyễn Trãi tiếp tục bổ sung
những yếu tố để làm nên một quốc gia độc lập. Nguyễn Trãi tự hào khẳng định
đất nước ta có nền văn hiến lâu đời. Văn hiến vốn là những giá trị tinh thần
được tạo nên qua các thời đại. Điều ấy chứng tỏ đất nước ta có một bề dày về
lịch sử và trầm tích văn hóa. Khơng dừng lại ở đó, một nhà nước tự chủ là một
nhà nước có chủ quyền riêng, lãnh thổ riêng: "Núi sông bờ cõi đã chia". Ở điểm
này, Nguyễn Trãi đã gặp gỡ với Lí Thường Kiệt: "Nam quốc sơn hà Nam đế cư/
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư". Vì chủ quyền, lãnh thổ riêng, cho nên phong
tục phương Nam cũng không thể giống phương Bắc. Phong tục là những thói
quen, tập quán lâu đời trong đời sống sinh hoạt, ăn sâu vào cách sống, cách nghĩ
của mỗi người dân, làm nên bản sắc của một dân tộc. Không chỉ thế, tác giả còn
đặt ngang hàng các triều đại của ta với các triều đại phong kiến bên Trung Quốc
như một cách ngầm khẳng định vị thế ngang hàng, không hề thua kém của dân
tộc ta. Nguyễn Trãi cũng vô cùng đề cao yếu tố con người, cụ thể là "hào kiệt
đời nào cũng có".
Đến thế kỉ XX, nước Việt Nam bước vào giai đoạn thực hiện hóa những
lời khẳng định trên và dùng xương máu để đổi lấy độc lập dân tộc. Dưới sự lãnh
đạo tài tình của người cha dân tộc Nguyễn Ái Quốc ( Bác Hồ) đi theo con
đường chủ nghĩa xã hội, Việt Nam được sự ủng hộ và giúp đỡ về mọi mặt của
nhiều quốc gia XHCN trên thế giới như Liên Xô, CuBa,… đã từng bước giành
được độc lập và thiết lập một đất nước Việt Nam có lãnh thổ độc lập, có chủ
quyền riêng và có tiếng nói dân tộc riêng, Bác Hồ từng nói:
“ Các Vua Hùng đã có cơng dựng nước
Bác cháu ta phải cũng nhau giữ lấy nước”
Đúng vậy, được sống tự do trong một quốc gia độc lập, dân chủ đó là một
niềm tự hào cũng như hạnh phúc đối với người dân của mỗi dân tộc, một cuộc

sống hịa bình khơng súng đạn chiến tranh, khơng chết chóc, tang thương. Qua
câu nói của Bác, ta nhận ra ý muốn của Người, để đất nước được giữ gìn tồn
vẹn, ngoài nhiệm vụ chống chiến tranh, chống thù trong, giặc ngồi thì chúng ta
cần xây dụng đất nước giàu mạnh, dân chủ, văn minh, có thê sánh vai với các
cường quốc năm châu thì lúc đó đất nước mới được giữ gìn và nhiệm vụ đó
khơng là nhiệm vụ của ai khác mà là của ‘Bác cháu ta”
Ngày nay, trong giai đoạn hội nhập và phát triển, chúng ta tự hào Việt
Nam là một trong những quốc gia có sự phát triển mạnh trong tất cả các lĩnh


vực kinh tế, Việt Nam đã trở thành tâm điểm chú ý của tồn cầu với vị trí uy tín
cao trong năm 2020. Việt Nam được thế giới đánh giá là “ngôi sao sáng của
châu Á”, được xếp vào top 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất thế giới.
Chúng ta đã bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an tồn xã hội, giữ vững ổn định
chính trị - xã hội, mơi trường hịa bình, trở thành điểm thu hút đầu tư và du lịch
hấp dẫn của thế giới. Quan hệ đối ngoại ngày càng được mở rộng, có quan hệ
ngoại giao với hầu hết các nước trên thế giới, quan hệ ngày càng đi vào chiều
sâu, ổn định, từng bước xử lý ổn thỏa các vấn đề phát sinh. Coi trọng phát triển
quan hệ với các nước láng giềng, bạn bè truyền thống và các đối tác chiến lược,
tồn diện. Việt Nam đã chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu
rộng, trở thành bạn, đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm
trong cộng đồng quốc tế, góp phần nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên
trường quốc tế. Việt Nam đã tham gia có hiệu quả vào các định chế khu vực,
toàn cầu, nhất là các FTA thế hệ mới và đóng góp tích cực ở hầu hết các tổ
chức, diễn đàn quốc tế quan trọng, đảm nhiệm thành công nhiều trọng trách, đã
ghi đậm dấu ấn về sự chủ động, tích cực trong vai trị Chủ tịch ASEAN 2020 và
Ủy viên khơng thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 20202021.
Đất nước Việt nam đã có những thành quả nhất định trong công cuộc giữ
nước, khẳng định được vị thế trên trường quốc tế. Đó là sự nỗ lực khơng ngừng
nghỉ của tồn Đảng, Tồn qn, Bộ máy chính trị cũng như sự đồn kết đồng

lịng của tồn dân tộc Việt Nam. Mỗi tầng lớp, mỗi thành phần dân tộc đều có
những đóng góp và nhiệm vụ riêng, đặc biệt là tầng lớp thanh niên Việt Nam nói
chung và bộ phận sinh viên nói riêng đã và đang có những thành tích to lớn
trong cơng cuộc chung của dân tộc. Trong cơng cuộc đổi mới, cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn đánh giá rất cao vai trị của
sinh viên trong cơng cuộc góp phần xây dựng, phát huy truyền thống anh hùng
của dân tộc, đồng thời vận động thế hệ thanh niên là sinh viên tham gia vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Để xấy dựng đất nước giàu mạnh ngoài
gắn liền với tinh thần yêu nước thì mỗi chúng ta cần hướng về cội nguồn, ông
bà, cha mẹ, tổ tiên, q hương của mình và khi đi xa ln hướng về quê hương,
tổ quốc. Là người con Việt nam thì phải có tình thương u đối với đồng bào,
giống nịi, dân tộc, phải cảm thông sâu sắc nỗi đau của đồng bào, dân tộc, mong
muốn đồng bào mình được sống ấm no, hạnh phúc. Bản thân mỗi người ln có
lịng tự hào về con người, quê hương, đất nước, anh hùng hào kiệt, danh nhân
văn hố, về non sơng gấm vóc, những sản vật phong phú. Cần cù và sáng tạo
trong lao động để xây dựng và phát triển nền văn hoá dân tộc và xây dựng đất
nước ngày càng giàu đẹp.
Trong bất kì thời đại hịa bình hay chiến tranh thì chúng ta ln phải xây
dựng, ý thức củng cố, vững mạnh hơn nữa về Đoàn kết dân tộc, về kiên cường
bất khuất chống giặc ngoại xâm để bảo vệ chủ quyền, nền độc lập, không chịu


làm nơ lệ.Ngày nay khi đất nước đã hịa bình lặp lại, chúng ta được sống trong
môi trường tốt hơn, mọi thứ đầy đủ và sung túc. Càng như vậy chúng ta càng
phải thấm nhuần, biết ơn những người đã hi sinh đi trước để Bảo vệ Tổ quốc
mang lại cuộc sống bình yên. Để cảm ơn những vị cha, anh, chị đã hi sinh thì
chúng ta phải sống ý nghĩa và phải gia sức bảo vệ Tổ quốc.
Mỗi chúng ta để làm tốt điều này thì phải coi đây là một nghĩa vụ thiêng
liêng cao quý của mỗi công dân. Từ đó chúng ta sẽ ý thức được Trách nhiệm
của thanh niên, học sinh hiện nay là: Tích cực học tập, rèn luyện thân thể, giữ

gìn vệ sinh, bảo vệ sức khoẻ. Trung thành với Tổ quốc, với chế độ xã hội chủ
nghĩa, Cảnh giác trước âm mưu chia rẽ, xuyên tạc của các thế lực thù địch; phê
phán, đấu tranh với những thái độ, việc làm gây tổn hại đến an ninh quốc gia,
xâm phạm chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Tích cực tham gia các
hoạt động an ninh, quốc phòng ở địa phương; tham gia hoạt động đền ơn đáp
nghĩa… Tham gia đăng kí tham gia huấn luyện nghĩa vụ quân sự khi đến tuổi;
sẵn sàng lên đường làm nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc. Vận động bạn bè, người thân
thực hiện tốt nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc.
Riêng bản thân em, là một sinh viên cũng là một đoàn viên thanh niên,
em tự hào vì được học tập và rèn luyện trong môi trường đại học văn minh hiện
đại, dân chủ và giàu mạnh, được tiếp thu và tìm hiểu về KHKT hiện đại, tiên
tiến, bản than em xác định được rõ vai trò và trách nhiệm của bản than trong sự
nghiệp xây dựng đất nước dân giàu, nước ,mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn
minh, để sánh vai với các cường quốc năm châu như lời bác Hồ mong muốn.
Bản thâ em xin hứa sẽ chăm chỉ, sáng tạo, học tập, lao động, có mục đích, động
cơ học tập đúng đắn, học tập để mai sau xây dựng đất nước, hiểu học tập tốt là
yêu nước. Quan tâm đến đời sống chính trị- xã hội của địa phương, đất nước,
đồng thời Thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của
Nhà nước; đồng thời vận động mọi người xung quanh cùng thực hiện theo đúng
quy định của pháp luật. Tích cực rèn luyện đạo đức, tác phong; lối sống trong
sáng, lành mạnh, tránh xa các tệ nạn xã hội; biết đấu tranh chống các biểu hiện
của lối sống lai căng, thực dụng, xa rời các giá trị văn hố- đạo đức truyền
thống của dân tộc. Tích cực tham gia góp phần xây dựng quê hương bằng những
việc làm thiết thực, phù hợp khả năng như: tham gia bảo vệ mơi trường, phịng
chống tệ nạn xã hội, xố đói giảm nghèo, chống tiêu cực, tham nhũng, tham gia
những hoạt động mang tính xã hội như hiến máu tình nguyện, làm tình nguyện
viên… Phê phán, đấu tranh với những hành vi đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân
tộc, tuân thủ và chấp hành Luật pháp của nhà nước ban hành.
Sinh viên Việt nam xác định được vai trị đi đầu trong cơng cuộc xây dựng
và phát triển đất nước theo hướng XHCN, quyết tâm học tập và rèn luyện bản

thân, trau dồi kiến thức và rèn luyện đạo đức, nâng cao tinh thần học học và
khám phá xã hội. Phát huy tinh thần yêu nước trên tất cả các phương diện, bảo


vệ đất nước và giữ gìn tồn vẹn lãnh thổ. Xây dựng đất nước giàu đẹp, dân chủ
và văn minh…



×