Lời giới thiệu :
Rủi ro luôn có thể xảy ra bất cứ lúc nào, điều đó lại càng có thể dễ xảy
ra trong lĩnh vực kinh doanh. Chấp nhận rủi ro trong kinh doanh là quy luật tất
yếu của các thơng gia từ ngàn xa, đây là một quy luật song hành lợi nhuận
càng tăng thì rủi ro càng cao. Trong kinh tế thị trờng thì rủi ro trong kinh
doanh là không thể tránh khỏi, dới giác độ là một tổ chức kinh doanh, NHTM
cũng chịu sự tác động và chịu tác động của môi truờng chính yếu và môi trờng
thứ yếu. Mối quan hệ giữa hai môi trờng này xoay quanh trung tâm hạt nhân
Vận hội và thách thức đối với các tổ chức kinh tế hay còn gọi là rủi ro môi
trờng. Trong môi trờng cạnh tranh toàn cầu, xu hớng hợp nhất khu vực ngày
càng phát triển, các vận hội sẽ xuất hiện, là thời cơ cho các ngân hàng lớn
mạnh. Song bên cạnh đó cũng tồn tại song hành các nguy cơ rất lớn từ môi tr-
ờng kinh tế, xã hội, chính trị, pháp luật, cạnh tranh ảnh hởng to lớn đến hoạt
động kinh doanh của ngân hàng, mà đặc biệt là rủi ro trong hoạt động kinh
doanh ngân hàng có phản ứng dây truyền, lây lan và ngày càng có những biểu
hiện phức tạp. Rủi ro trong các hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói
chung và rủi ro tín dụng nói riêng là một phạm trù tiềm ẩn, nó có thể xảy ra
bất kỳ lúc nào và làm sai lệch, đảo lộn kết quả hoạt động kinh doanh ngân
hàng. Mà nh chúng ta đã biết ngân hàng có vai trò vô cùng quan trọng, sự sụp
đổ của ngân hàng sẽ ảnh hởng tiêu cực đến toàn bộ đời sống kinh tế chính trị
và xã hội của của nớc đó. Do vậy quản trị kinh doanh mà đặc biệt là quản trị
rủi ro kinh doanh ngân hàng đóng vai trò quan trọng và là mối quan tâm hàng
đầu của các nhà quản trị ngân hàng không chỉ diễn ra trên phơng diện lý
thuyết mà còn đợc áp dụng trong hoạt động thực tiễn của các ngân hàng thơng
mại. Trên thế giới lĩnh vực quản trị rủi ro ngân hàng đã đạt đợc đến trình độ
tiên tiến và hiện đại, còn ở VN nó mới trong giai đoạn phôi thai mặc dầu trong
những năm gần đây cùng với sự đổi mới của đất nớc, hệ thống NHVN đã thu
đợc những thành công đáng khích lệ.
Nhìn chung thì những rủi ro đặc thù trong kinh doanh NH bao gồm:
Rủi ro về lãi suất.
Rủi ro ngoại hối.
1
Rủi ro công nghệ và hoạt động.
Rủi ro tín dụng.
Rủi ro thanh khoản.
Rủi ro hoạt động ngoại bảng.
Rủi ro quốc gia.
Tuy nhiên gần đây trong hệ thống ngân hàng thơng mại VN đang tồn
tại một vấn đề rất khó khăn. Đó chính là rủi ro tín dụng mà cụ thể hơn là tình
trạng nợ quá hạn. Chính vì vậy ở đây em chỉ nghiên cứu, phân tích thực trạng
nợ quá hạn của hệ thống NHTM VN hiện nay để hiểu một cách sâu sắc thực
trạng này. Từ đó có thể đề ra một số biện pháp khắc phục nhằm làm cho hệ
thống NHTM VN hoạt động một cách lành mạnh và hiệu quả hơn, góp phần
tăng trởng và phát triển kinh tế trong điều kiện kinh tế hội nhập hiện nay.
Đề án này của em đợc viết trong điều kiện nhận thức của bản thân cha
đầy đủ và sâu sắc, tài liệu tham khảo cha phong phú nên không tránh khỏi
nhiều sai sót. Em rất mong có sự góp ý và sửa chữa của Thầy, Cô giáo, cùng
bạn bè. Em xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô giáo đã trang bị kiến thức
cho em, đặc biệt là Thầy giáo Đặng Ngọc Đức - Giáo viên trực tiếp hớng dẫn
em thực hiện đề án này.
2
Ch ơng I:
Lý luận chung về nợ quá hạn.
I- Lý luận chung về nợ quá hạn:
Hiệu quả hoạt động tín dụng là một chỉ tiêu tiến quyết đối với sự tồn tại
và phát triển trong hoạt động NH. Khi hoạt động ấy ở mức cao thì bản thân
những nội dung kinh tế và xã hội của nó sẽ tạo đà cho mọi hoạt động kinh
doanh của NH tiến triển ngày một tốt đẹp. Ngợc lại, hiệu quả của đồng vốn
đạt thấp sẽ dễ dàng đa ngân hàng đến thế bất ổn định và chậm phát triển. Điều
này ảnh hởng không nhỏ đến tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nớc.
Nói nh vậy để thấy rằng việc tăng cờng quản lý chất lợng tín dụng tại các
NHTM luôn là một yêu cầu bức thiết, là điều kiện sống còn cho bản thân mỗi
ngân hàng thơng mại, cho ngành ngân hàng và rộng hơn là cho toàn bộ nền
kinh tế.
Phải nhìn nhận rằng hoạt động kinh doanh ngân hàng là một hoạt động kinh tế
nhiều rủi ro so với nhiều lĩnh vực kinh tế khác. Quan điểm này hết sức đúng
đắn về cả mặt lý luận và thực tiễn.
+ Xét về mặt lý luận:
Với đặc điểm kinh doanh ngân hàng là một loại hình kinh doanh đặc biệt, sản
phẩm mà ngân hàng kinh doanh là một sản phẩm độc quyền tiền tệ và chỉ
kinh doanh loại sản phẩm này. Kinh doanh tín dụng ngân hàng chỉ bán giá
trị sử dụng tiền tệ và giá bán lãi suất quyền sử dụng tiền tệ đó, thờng rất
nhỏ so với giá trị khoản vay, nên những khoản thu đợc là tơng đối nhỏ so với
cái đã mất. Bởi vậy kinh doanh ngân hàng cho đến nay chủ yếu vẫn là kinh
doanh tín dụng và thờng gặp rất nhiều rủi ro.
+ Xét về mặt thực tiễn:
Quá khứ của những năm tháng qua đã chứng minh một cách hùng hồn hàng
loạt các vụ phá sản của NH trên thế giới. Một số quốc gia có nền kinh tế phát
triển nh Nhật Bản, Pháp, Anh... cũng có nhiều vấn đề mà điển hình là sự sụp
đổ của ngân hàng Baring, việc thất thoát của ngân hàng Daiwa... Hẳn chúng ta
3
vẫn cha quên cơn bão biển tín dụng trong những năm 1989-1990 làm cho
hàng loạt các hợp tác xã tín dụng bị sụp đổ, nền tài chính trong trạng thái bị
khủng hoảng, có nhiều ảnh hởng nghiêm trọng đến tình hình kinh tế xã hội
trong nớc. Phải chăng tơng lai cha có gì đảm bảo chắc chắn cho một quá trình
vận hành kinh tế thông suốt mà không gặp phải những cam go, điều này
khẳng định thêm kinh doanh ngân hàng là một loại kinh doanh có nhiều rủi
ro.
Hoạt động tín dụng bao gồm cả huy động vốn và cho vay vốn. Trong
cho vay bao gồm cả khâu cho vay, thu lãi thu vốn. Mong ớc lớn nhất của các
tổ chức tín dụng là thu về đợc vốn và lãi cho vay. Nhng trên thực tế thì đó
cũng chỉ là mong ớc vì luôn luôn phát sinh rủi ro. Đối với từng món vay thì rủi
ro là từ 0% đến 100%. Đối với một tổ chức tín dụng thì rủi ro cũng luôn luôn
lớn hơn 0%. Nếu nợ đáo hạn mà không thu đợc thì coi là nợ quá hạn. Vậy thực
chất của nợ quá hạn là gì ?
II- Khái niệm nợ quá hạn:
Nợ quá hạn trong kinh doanh của ngân hàng là hiện tợng mà khách
hàng không trả đợc nợ gốc vay cho ngân hàng vào ngày đến hạn trả tuy đã
cam kết trong khế ớc vay trớc đây.
Nợ quá hạn có liên quan chặt chẽ đến rủi ro kinh doanh chính vì vậy ta cần
tìm hiểu bản chất của rủi ro kinh doanh:
+ Rủi ro và kinh doanh là một cặp phạm trù, khi xuất hiện một công
việc kinh doanh thì cũng bắt đầu cũng xuất hiện rủi ro.
+ Rủi ro và kinh doanh là hai mặt đối lập nhau trong một thể thống nhất
của quá trình kinh doanh. Chúng luôn tồn tại và mâu thuẫn với nhau, chỉ khi
nào kinh doanh khống chế đợc rủi ro thì kinh doanh mới tồn tại và phát triển
đợc.
+ Trong quá trình kinh doanh rủi ro luôn phát sinh và tồn tại duới
nhiều hình thức làm ảnh hởng xấu đến quá trình kinh doanh.
+ Rủi ro trong kinh doanh có thể nhận thức đợc, dự đoán trớc đợc và có
thể khống chế đợc.
Nh vậy nợ quá hạn là một hiện tợng khó tránh khỏi trong quá trình kinh
doanh của ngân hàng. Tuy nhiên với các ngân hàng khác nhau thì nó phụ
4
thuộc vào nhận thức, vào dự đoán và hành động khống chế rủi ro của mỗi
ngân hàng.
III -Phân loại nợ quá hạn:
Có nhiều cách phân loại nợ quá hạn:
- Nếu chia theo khả năng thu hồi thì gồm:
Nợ quá hạn thông thờng: Đảm bảo đòi đủ 100%.
Nợ quá hạn khó đòi: Khả năng thu hồi không đủ và phải kéo dài.
Nợ quá hạn mất trắng.
- Nếu chia theo nguyên nhân:
Nợ quá hạn do mất khả kháng nh do thiên tai, do thay đổi cơ chế
chính sách, do khủng hoảng. Nguyên nhân không thuộc lỗi của bên cho vay
và ngời đi vay.
Nợ quá hạn do lỗi của ngời đi vay: Yếu kém về trình độ quản lý nh
yếu kém về trình độ quản lý, khả năng cạnh tranh hoặc cố tình không trả nợ...
Nợ quá hạn do lỗi của ngời cho vay: Thờng bao giờ cũng gắn với
lỗi của ngời vay do có sự thông đồng, đồng tình.
- Nếu chia theo thời gian:
Nợ quá hạn dới 180 ngày.
Nợ quá hạn từ 181 ngày trở lên đến 360 ngày.
Nợ quá hạn trên 360 ngày.
- Nếu chia theo biện pháp bảo đảm tiền vay
Nợ quá hạn có bảo lãnh của ngời hay bên thứ ba.
Nợ quá hạn còn vật t, hàng hoá tồn kho chờ bán và có tài sản hình
thành từ vốn vay.
Nợ quá hạn có tín chấp.
5
Nợ quá hạn có xác nhận của cấp chủ quản.
Nợ quá hạn có ngời thừa kế hợp pháp theo luật phải trả thay.
- Nếu chia theo khả năng thu hồi vốn:
Nợ quá hạn bình thờng: Là nợ quá hạn do định kỳ cho vay sai thực tế,
là nợ quá hạn có thời gian quá hạn dới 6 tháng kể từ sau ngày đến hạn trả nợ.
Nợ khê đọng: Là nợ quá hạn có thời gian quá hạn từ 6 tháng đến 12
tháng kể từ ngày sau ngày đến hạn trả nợ mà vẫn cha thu hồi đợc vốn vì đã
tiềm ẩn những rủi ro.
Nợ khó đòi: Là nợ quá hạn có thời gian quá hạn trên 12 tháng kể từ sau
ngày đến hạn trả nợ mà vẫn cha thu hồi đợc vốn vì đã nảy sinh những rủi ro
cha khắc phục đợc.
Nợ mất khả năng thu hồi vốn: Là nợ quá hạn không còn khả năng thu
hồi vốn sau khi đã phân tích các khả năng thu hồi vốn.
Nh vậy nợ quá hạn nói chung mới chỉ thể hiện đợc một phần về chất l-
ợng tín dụng mà cha nói rõ đến khả năng mất vốn của ngân hàng, chỉ có loại
nợ mất khả năng thu hồi vốn mới chỉ rõ phạm vi mất vốn của ngân hàng. Loại
nợ quá hạn bình thờng tức là loại nợ quá hạn dới 6 tháng là có thể chấp nhận
đợc trong điêù kiện tình hình kinh doanh ở nớc ta hiện nay. Bởi vì khi chuyển
đổi từ quan liêu bao cấp sang kinh doanh thì cũng phát sinh những yếu tố mới
ảnh hởng xấu đến quá trình kinh doanh mà ta cha phát hiện và nắm bắt đơc
kip thời. Đó là những yếu tố khách quan do thị trờng gây ra. Khi nền kinh tế
thị trờng dần dần đợc hình thành rõ nét và ổn định thì mới có thể khống chế và
giảm đợc các nợ quá hạn này. Các loại nợ quá hạn từ 6 tháng đến 12 tháng và
trên 12 tháng là những là những loại nợ đã tiềm ẩn những rủi ro đối với ngân
hàng. Loại nợ quá hạn sau cùng mới là loại nợ mà mất khả năng thu hồi vốn
của ngân hàng. Đối với loại nợ quá hạn này thì các ngân hàng đợc phép trích
từ quỹ dự trữ đặc biệt để bù đắp. Hiện nay quỹ đợc hình thành từ lợi nhuận sau
thuế 10% cho đến khi bằng vốn điều lệ của ngân hàng.
Ch ơng II:
6
Thực trạng và nguyên nhân nợ quá
hạn hiện nay Trong hệ thống NHTM
VN.
I Thực trạng nợ quá hạn trong các NHTM hiện nay
Nợ quá hạn là vấn đề của tất cả các ngân hàng trên Thế giới và cũng
làm đau đầu những nhà nghiên cứu trong lĩnh vực này. Bản thân nợ quá hạn là
hiện tợng tự nhiên, hợp với quy luật phát triển kinh tế gắn liền với rủi ro trong
hoạt động ngân hàng- Một hoạt động kinh tế quan trọng trong nền kinh tế thị
trờng. Song vấn đề trở nên nghiêm trọng khi mức độ nợ quá hạn hay tỷ lệ nợ
quá hạn trên tổng d nợ cho vay vợt quá ngỡng cho phép (Nhiều nhà kinh tế
thống nhất ngỡng an toàn này đối với một nền kinh tế là 3% - 5%). Vấn đề nợ
quá hạn hiện nay còn liên quan đến mối quan hệ giữa nhà nớc và hệ thống tài
chính, tức là sự can thiệp và khả năng kiểm soát đối với hệ thống ngân hàng
làm cho nợ quá hạn không còn mang tính chất thuần tuý kinh tế nh trớc đây.
Trên Thế giới, theo Washington Post ngày 30/3/98 tình trạng nợ khó
đòi của các nớc Đông và Đông Nam á rất căng thẳng, đe doạ làm tan rã nền
kinh tế toàn cầu. Nợ khó đòi của Thái Lan chiếm tới 30% tổng d nợ và cần tới
15 tỷ USD để tái tạo vốn cho các ngân hàng, con số tơng tự ở Hàn Quốc là
25% và 34 tỷ USD, ở Indonêxia là 70% và 20 tỷ USD. Số nợ không có hiệu
quả ở các ngân hàng Nhật bản lên tới con số khổng lồ 500 tỷ USD. Vào tháng
1/1997 nợ quá hạn của Nga lên tới 522.000 tỷ Rbl, còn ở Trung Quốc nợ khó
đòi chiếm khoảng 30% tổng tín dụng. Còn đối với VN thì đến cuối năm 1997
tỷ lệ nợ quá hạn lên tới 10% trong khi đó số liệu công bố cuối năm 1996 là
5,7%.
Một số đặc điểm về tình hình nợ quá hạn ở VN hiện nay:
+ Trong số nợ quá hạn hiện nay chủ yếu là phát sinh từ thời bao cấp.
Trớc đây cơ chế quản lý tín dụng mang hình thức cấp phát chứ không phải
kinh doanh nh hiện nay, nên đến nay phát sinh nợ quá hạn cũng là điều dễ
hiểu. Còn những món nợ mới phát sinh trong thời kỳ thời gian gần đây phần
7
lớn tập trung vào một số ít doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ, quản lý kém do
không theo kịp với sự chuyển đổi, đổi mới thích ứng với nền kinh tế thị trờng.
Tất nhiên cũng phải kể đến những món nợ quá hạn do khách hàng lừa đảo
hoặc cán bộ ngân hàng kém phẩm chất gây ra. Tuy nhiên số đó là rất ít so với
tổng số nợ quá hạn của ngân hàng và càng ít hơn nữa trong toàn bộ khối lợng
tín dụng của ngân hàng đã phát ra.
+ Hiện nay, nợ quá hạn là quá cao, hơn cả mức giới hạn cho phép là 5%
đang làm cho hoạt động tín dụng trong các NHTM thiếu lành mạnh, rủi ro
cao, gây ách tắc, ứ đọng vốn, đe doạ nền tài chính của cả hệ thống NHTM.
Hơn nũa hiện tợng nợ quá hạn trong các NHTM lại đang có xu hớng tăng lên.
Vấn đề quan trọng, đáng lo ngại đối với các NHTM hiện nay là chất lợng hoạt
động tín dụng, tình hình nợ quá hạn trở nên khá phổ biến, tỷ trọng nợ quá hạn
cao lại có xu hớng tăng lên. Theo báo cáo của các ngân hàng nhà nớc thì hầu
hết các NHTM đều có nợ quá hạn. Trong toàn hệ thống NHTM, chỉ tính riêng
nợ quá hạn khó đòi đã đạt tới con số hàng ngàn tỷ đồng. So với năm 1995, d
nợ quá hạn của các ngân hàng thơng mại quốc doanh tăng lên 1,18%, nhng do
d nợ tín dụng tăng nên xét về số tuyệt đối thì d nợ quá hạn của năm 1996 cao
hơn mức d nợ quá hạn của năm 1995 không phải là 1,18% mà lên tới 1,4%.
Điều này càng cho thấy mức độ thiệt hại có thể xảy ra càng lớn, bởi lẽ d nợ tín
dụng tăng chủ yếu nhờ vào nguồn huy động tăng, còn vốn tự có của các ngân
hàng thờng tăng lên với một tiến độ chậm chạp nên tỷ lệ rủi ro so với vốn tự
có cũng theo xu hớng tăng lên, làm lung lay nền tảng của các ngân hàng thơng
mại.
Bên cạnh đó d nợ quá hạn của hệ thống ngân hàng cổ phần thơng mại
cũng rất đáng quan tâm, tỷ lệ nợ quá hạn thờng ở mức trên 5% trên tổng d nợ,
ở nhiều ngân hàng tỷ lệ nợ quá hạn chiếm trên 20% d nợ, một con số không
có biện pháp ngăn ngừa kịp thời sẽ gây nên những hậu quả nghiêm trọng
không thể lờng trớc đợc.
+ Trong số nợ quá hạn trên một năm, nợ khó đòi, nợ không có khả
năng thu hồi chiếm tỷ trọng lớn.
Khi phân tích chất lợng tín dụng, điều làm cho ngời ta lo lắng không phải đơn
giản chỉ là sự chậm trễ, sai hẹn trong việc trả nợ của khách hàng dù sự chậm
trễ ấy có làm ảnh hởng đến kế hoạch sử dụng vốn của ngân hàng, mà cái
8
chính của sự lo lắng là khả năng thu hồi của nợ đó. Chính vì thế mà trong nợ
quá hạn, ngời ta còn chia ra nợ quá hạn trên một năm, nợ khó đòi, nợ không
có khả năng thu hồi... và theo trật tự này thì sự lo lắng cũng tăng theo gấp bội
còn niềm hy vọng thì giảm dần. Nh vậy mới thấy rằng hoạt động tín dụng quả
là không đơn giản chút nào.
Thực tế những năm gần đây cho thấy số nợ quá hạn trên một năm, nợ khó đòi
chiếm một tỷ trọng rất cao trong tổng số nợ quá hạn, thờng là trên 50%, ở một
số NHTM cổ phần tình hình còn đáng sợ hơn nhiều 80%, 90%, thậm trí còn
100%. Một con số làm kinh hoàng cho những ai hiểu về hoạt động ngân hàng.
Song không chỉ có vậy, nợ khó đòi không phải chỉ đơn giản là khó đòi, mà
trong số đó một tỷ lệ không nhỏ là nợ không có khả năng thu hồi, tức là d nợ
rủi ro 100%.
+ Rủi ro tiềm ẩn trong số d nợ không có vấn đề cũng rất cao:
Nếu tách hết số d quá hạn ra khỏi tổng d nợ, ta còn lại số d nợ bình thờng, hay
d nợ không có vấn đề gì lo ngại. Song ở một số ngân hàng, số d nợ này vẫn
buộc các nhà phân tích phải quan tâm, bởi trong số d nợ tởng chừng bình th-
ờng đó lại ẩn chứa rất nhiều vấn đề không bình thờng, không đúng quy chế,
luật pháp nh:
Số d nợ đó đã đợc gia hạn nhiều lần, thậm trí thời gian gia hạn còn
nhiều hơn kỳ hạn cho vay lần đầu.
Số d nợ đó đợc đảo nợ nhiều lần (Cho vay mới để thu hồi nợ cũ), có
nhiều trờng hợp kế toán đã không chuyển sang nợ quá hạn, lại chuyển vào
hạch toán trong hạn. Khách hàng sử dụng vốn vay của ngân hàng này để trả
nợ cho ngân hàng khác. Đây cũng là một hình thức đảo nợ nhng có sự tham
gia của nhiều ngân hàng.
Nhiều ngân hàng cùng cho vay một khách hàng với cùng một tài sản
thế
chấp mà hoàn toàn không hề hay biết.
Tình hình trên cho thấy, số d nợ phát sinh trong các trờng hợp đã nêu tuy
nằm trong tổng số d nợ bình thờng nhng xét về bản chất nó khó có khả năng
thu hồi ngay từ khi cho vay.
9
Trớc những khó khăn trong vấn đề nợ quá hạn trong hệ thống NHTM nh đã
nêu trên thì mặc dù các ngân hàng đã đề ra thực hiện một số giải pháp để
nhằm hạn chế, giảm thiểu và xử lý mức nợ quá hạn, nhng mức nợ quá hạn vẫn
ở mức cao và đang bế tắc trong khâu xử lý.
II- Nguyên nhân nợ quá hạn của hệ thống NHTM VN hiện nay:
Những nguyên nhân chủ yếu gây ra các khoản nợ quá hạn của VN trong thời
gian qua:
1 - Nhóm nguyên nhân khách quan:
- Do thiên tai bão lụt, hoả hoạn, chiến tranh... hay những biến động trên
thị trờng quốc tế, thị trờng giá cả, lãi suất, cung cầu... Làm cho những ngời đi
vay mất khả năng trả nợ.
Do thiên nhiên gây ra: Hầu nh năm nào ở nớc ta cũng xảy ra bão
lụt, ngoài ra còn có hạn hán, hoả hoạn làm cho một số địa phợng phải chịu
hậu quả khá nặng nề, do đó làm cho một số doanh nghiệp vay vốn của ngân
hàng bị thiệt hại và không có khả năng hoàn trả lại vốn cho ngân hàng. Nh
trong năm 2000 do cơn bão số 5 đã làm cho các ngành nông ng hải sản bị tổn
thất khá nặng nề, do hiệu ứng dây truyền cũng làm cho một số ngành, đơn vị,
cánhân liên quan nh thơng mại, cung ứng dịch vụ, công nghiệp chế biến...
cũng lâm vào tình trạng khó khăn, sản xuất kinh doanh bị đình trệ và không
trả nợ đợc ngân hàng kéo dài đến nay vẫn cha khắc phục đợc hết.
Do sự biến động của thị trờng, thị trờng có lúc biến động mạnh
về giá cả nh trong thời gian vừa qua giá cả cà phê giảm mạnh, làm cho một số
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu không kịp đối phó nên đã
bị thua lỗ nặng.
Do lãi suất biến động: Trong nền kinh tế thị trờng thì lãi suất luôn
biến động và sự biến động của lãi suất sẽ làm ảnh hởng không nhỏ đến công
tác tín dụng. Trong những năm gần đây nớc ta đã khống chế đợc tình trạng
lạm phát, nhng lãi suất lại giảm liên tục. Trong trờng hợp lãi suất cho vay
giảm nhng lãi suất tiền gửi vẫn giữ nguyên làm cho chênh lệch giữa đầu ra và
10
đầu vào giảm dẫn đến chi phí nguồn vốn lớn hơn chi phí sử dụng. Nh vậy hoạt
động tín dụng rõ ràng là không thể có hiệu quả đợc.
- Vai trò quản lý của nhà nớc: Quản lý của nhà nớc còn nhiều sơ hở,
tạo điều kiện cho một số doanh nghiệp hoặc cá nhân có những hành vi lừa
đảo, nhà nớc cho phép nhiều doanh nghiệp đợc sản xuất kinh doanh với
nhhiều chức năng, trình độ, năng lực quản lý, quy mô hoạt động là quá lớn so
với nguồn vốn tự có của NH. Do đó sẽ dẫn đến tình trạng vay vốn của NH
nhiều.
Đối với vai trò quản lý của ngân hàng nhà nớc, hiệu quả giám sát thanh
tra và xử lý sau thanh tra còn bị hạn chế, thiếu kiên quyết, không dứt điểm, do
đó không phát huy tác dụng trong việc củng cố sự phát triển của ngân hàng
thơng mại. Hoạt động ngân hàng là lĩnh vực rất nhạy cảm đối với những biến
động của tình hình kinh tế xã hội, đòi hỏi sự nhạy bén, thế nhng một số quy
chế quản lý của ngân hàng nhà nớc lại chậm đợc ban hành hoặc chậm đợc bổ
sung sửa đổi cho phù hợp với tình hình thực tế nh các quy chế về an toàn vốn,
về quỹ dự phòng bù đắp rủi ro, về thế chấp tài sản, về hớng dẫn sử lý vi phạm
trong lĩnh vực ngân hàng. Qua đó thấy đợc vai trò quản lý của ngân hàng nhà
nớc nhất là các chi nhánh bị lu mờ hay nói đúng hơn là cha đầy đủ, cha thờng
xuyên trong việc giám sát, kiểm tra, nhắc nhở đối với các ngân hàng thơng
mại.
- Do ngân hàng nhà nớc quy định thời hạn cho vay trung và dài hạn tối
đa chỉ có 3 năm: Thời hạn cho vay này chỉ phù hợp với tính chất nguồn vốn
của các ngân hàng thơng mại (chủ yếu là vốn ngắn hạn, có khi phải dùng một
bộ phận vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn). Song đối với ngời vay thì
không có một doanh nghiệp nào có khả năng trả nợ đầy đủ cho ngân hàng
trong thời gian 3 năm đối với các dự án vay trung và dài hạn. Ngay từ khi đặt
vấn đề vay ngân hàng, các doanh nghiệp hoàn toàn ý thức đợc vấn đề này, nh-
ng vì có sự khống chế tối đa về thời hạn của ngân hàng nhà nớc nên cả ngời
vay và ngời cho vay phải nhắm mắt ký hợp đồng, để rồi không có khả năng trả
nợ và thu nợ đúng hạn. Đây cũng là một nguyên nhân làm cho nợ quá hạn của
các ngân hàng thơng mại đềnh lên nhanh chóng.
- Do môi trờng kinh tế kinh doanh cha ổn định: Sự rủi ro trong kinh
doanh tiền tệ đã là rủi ro lớn nhất trong mọi hoạt động kinh doanh, nhng ở VN
11
thì rủi ro ngân hàng còn đợc nhân lên vì hoạt động của các ngân hàng đợc
thực hiện trong điều kiện hành lang pháp lý vừa thiếu vừa không ổn định lại
còn không đồng bộ, đôi khi lại không rõ ràng, hoặc có luật rồi mà không thực
hiện đợc nh vấn đề về xiết nợ, gán nợ, phát mại, cầm cố thế chấp, đất đai,
quyền sở hữu và quyền sử dụng. Do môi trờng pháp lý kinh doanh ngân hàng
cha đầy đủ, cha đồng bộ, thể hiện ở việc ban hành và hớng dẫn thực hiện các
quy định, thông t, hớng dẫn cha thống nhất giữa các ngành có liên quan, hiệu
lực của cơ quan hành pháp cha cao, cha nhất quán trong việc thực thi những
vấn đề có liên quan đến hoạt động ngân hàng do vậy dẫn đến tình trạng khi
thực hiện tại ngân hàng cơ sở có nhiều lúc bị vi phạm, lệch lạc. Nh vậy do
chính sách, thể lệ, chế độ tín dụng ngân hàng cha chặt chẽ, nên ảnh hởng
không nhỏ đến chất lợng tín dụng. Chẳng hạn do sự không thống nhất của một
số văn bản quy định chế độ tín dụng nên có món vay vợt 10% vốn tự có, và
chính những món vay nh vậy không hoàn trả đợc đã gây thiệt hại rất lớn cho
ngân hàng. Về cho vay doanh nghiệp nhà nớc không quy định rõ ràng nh thế
nào thì đợc phép cho vay tín chấp, nh thế nào thì phải có tài sản cầm cố, thế
chấp mới đợc vay, chính vì vậy khi xảy ra nợ quá hạn ở những doanh nghiệp
này rất khó xử lý. Việc quy định theo dõi kiểm tra sau khi vay cũng không cụ
thể, rõ ràng, do vậy những cán bộ tín dụng cha có kinh nghiệm rất khó theo
dõi việc sử dụng tiền vay của khách hàng, nên có một số trờng hợp đã bị một
số kẻ lừa đảo lợi dụng sơ hở về thể chế để chiếm dụng số tiền lớn. Việc cho
phép vay chồng chéo hoặc cho vay các doanh nghiệp ở xã trụ sở hoạt
động của ngân hàng trớc đây đã làm cho việc theo dõi quản lý tiền vay khó
khăn và rất dễ dẫn đến tình trạng nợ quá hạn ở những doanh nghiệp đó và gây
nên tổn thất...
Bên cạnh đó thì một số chủ trơng, chính sách của ngành ngân hàng lại
luôn bị thay đổi thậm chí trong một thời gian rất ngắn. Nhiều vấn đề thực tế đã
nảy sinh nhng lại cha đợc quy định bổ sung kịp thời, những quy định của nhà
nớc, của chính phủ thì ngân hàng nhà nớc chậm hớng dẫn để cho các NHTM
thực hiện.
Mặt khác các chính sách về ngân hàng cha đủ sức bảo vệ cho các ngân
hàng chống đỡ đợc với những sóng gió của thơng trờng nh các chính sách về
12
lãi suất, dự phòng rủi ro..., tỷ lệ dự phòng của những năm trớc quá thấp lại
trích từ lợi nhuận chứ không phải từ chi phí.
Đối với những doanh nghiệp và những nhà kinh doanh: Do sự thay đổi về môi
truờng pháp lý và chính sách của nhà nớc mà những ngời kinh doanh này
không lờng trớc đợc và không đợc hớng dẫn thực hiện một cách cụ thể cũng
góp phần làm cho khối lợng nợ quá hạn phình to ra. Các chính sách và cơ chế
quản lý vĩ mô của nhà nớc đang trong quá trình đổi mới và hoàn thiện nên th-
ờng có sự điều chỉnh, nhiều doanh nghiệp trong kế hoạch kinh doanh đã
không theo kịp nên có sự bị động, dự báo nhu cầu không sát dẫn đến phát
triển tràn lan và không đúng nhu cầu của thị trờng, do vậy sản xuất kinh doanh
không có hiệu quả. Hơn nữa việc ban hành một số chủ trơng, chính sách của
chính phủ do không dự đoán trớc đợc những khó khăn vớng mắc khi triển khai
thực hiện nên đã tạo ra những rủi ro không dự đoán trớc đợc ví dụ nh những
chỉ thị về đóng của rừng, chính sách xuất nhập khẩu, hàng tiêu dùng, những
quy định về quản lý sử dụng đất đai... do đó đã có không ít những doanh
nghiệp bị thua lỗ do không theo kịp với sự thay đổi của những chính sách
quản lý kinh tế mà hậu quả là NH cho vay phải gánh chịu. Đồng thời do sự
thay đổi về môi truờng pháp lý và chính sách của nhà nớc làm cho môi truờng
kinh tế cha ổn định do vậy làm cho sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn,
hàng hoá sản xuất ra không cạnh tranh nổi với thị trờng hàng ngoại nhập tràn
lan làm cho một số doanh nghiệp làm ăn bị thua lỗ, phá sản, làm đảo lộn
chính sách tín dụng của các ngân hàng, đây là nguyên nhân tác động mạnh mẽ
đến sự bất ổn mà hiện nay các ngân hàng thơng mại còn đang phải khắc phục
hậu quả.
- Do khách hàng: Năng lực quản lý kinh doanh của khách hàng còn bị
hạn chế Một số doanh nghiệp khi vay họ lập phơng án kinh doanh rất hiệu quả
nhng do không tính hết đợc những biến động của thị trờng nên đã bị thua lỗ.
Trong một số món vay trung và dài hạn để nhập máy móc thiết bị, do phân
tích dự án không chính xác dẫn đến máy móc nhập về không phát huy đợc tác
dụng gây thiệt hại lớn, không thể hoàn trả đợc tiền vay cho ngân hàng. Một
điều thấy rõ nữa là trình độ ngời quản lý là giám đốc hay kế toán trởng còn bị
hạn chế nhiều mặt nh học vấn, kiến thức và kinh nghiệm thực tế nên không có
năng lực kinh doanh dẫn đến doanh nghiệp luôn bị thua lỗ.
13
Trong khi đó năng lực tài chính kinh doanh của doanh nghiệp còn nhiều yếu
kém và hoạt động lại cha có hiệu quả. Trong điều kiện kinh tế thị trờng mở
cửa các thành phần kinh tế của VN phát triển mạnh nhng cha có những tập
đoàn kinh tế mạnh đủ vốn, đủ sức mạnh để chiếm lĩnh thị trờng hoạt động sản
xuất kinh doanh. Các mô hình tổng công ty 90,91 thì từng đơn vị thành viên
cũng tự đi lo vốn sản xuất kinh doanh cho mình. Kết quả khảo sát cho thấy
các doanh nghiệp nhà nớc chỉ có từ 5%-10% vốn để hoạt động, còn lại là vay
ngân hàng tới 90%-95% để sản xuất kinh doanh, đối với những doanh nghiệp
ngoài quốc doanh thì cũng vay NH tới 70%-80% vốn kinh doanh. Trong khi
đó thì cơ chế quản lý doanh nghiệp còn nhiều sơ hở và bất cập, năng lực quản
lý yếu kém, kinh nghiệm quản lý có những nơi có chỗ vừa thiếu lại yếu, công
nghệ thì lạc hậu, máy móc cũ, hàng hoá không đủ sức cạnh tranh, dẫn đến
hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp và đây cũng là gánh nặng trong môi truờng
đầu t của NH.
- Do môi trờng pháp lý cho kinh doanh tín dụng NH cha đầy đủ: Hiện
nay điều kiện cho vay lãi phải có tài sản thế chấp, trong khi đó chúng ta cha
có luật về sở hữu, nên không có cơ quan nào chịu cấp chứng th sở hữu tài sản
và quản lý quá trình dịch chuyển tài sản. Còn đối với doanh nghiệp nhà nớc.
Chỉ thị 178 ngày 29/2/1999 của chính phủ thông t 06 ngày 04/4/2000 của NH
nhà nớc là vẫn phải thế chấp, nhng đến nay văn bản hiệu lực đã gần 5 tháng
nhng cục quản lý vốn vẫn cha chịu xác nhận tài sản và cơ quan công chứng thì
cha có chủ trơng, do vậy vẫn còn ách tắc không có cơ quan nhận đăng ký tài
sản thế chấp.
Các quy định của pháp luật kế toán thống kê, kiểm toán cha đủ khả năng
và hiệu lực buộc các doanh nghiệp thực hiện chế độ kế toán, thống kê kiểm
toán chính xác và kịp thời, hiện nay mới thực hiện bắt buộc đối với các doanh
nghiệp nhà nớc. Trên thực tế có đến 50% khách hàng không thực hiện đúng
quy định của pháp luật về kế toán thống kê. Đối với ngân hàng thì số liệu và
những thông tin để làm căn cứ cho vay lại không đúng và đầy đủ, do vậy dẫn
đến rủi ro.
Tín dụng thơng mại (Mua bán chịu) đang trở thành phổ biến trong giao
dịch thơng mại nhng cha có các chế định về lu thông kỳ phiếu thơng mại nên
xảy ra tình trạng thiếu dụng vốn, công nợ dây da, lừa đảo, chốn thuế, sử dụng
14
vốn vay ngân hàng sai mục đích, gây khó khăn đối với các cơ quan chức năng
trong việc kiểm soát.
- Do khách hàng sử dụng vốn vay không đúng mục đích: Nhiều doanh
nghiệp sử dụng tiền vay ngân hàng quay vòng không đúng đối tợng kinh
doanh, không đúng với phơng án, mục đích khi xin vay nên đã không trả đợc
nợ đúng hạn, thậm trí do khách hàng sử dụng vốn vay ngắn hạn để đầu t vào
tài sản cố định hoặc kinh doanh bất động sản nên không trả đợc nợ đúng hạn.
- Do các doanh nghiệp chiếm dụng vốn lẫn nhau kể cả từ vốn vay của
ngân hàng, thậm trí còn lừa đảo. Có một số doanh nghiệp tuy đợc cấp giấy
phép hoạt động và đăng ký kinh doanh nhng thiếu vốn hoặc không có vốn
hoạt động, dẫn đến hiện tợng phổ biến là các doanh nghiệp cố tình chiếm
dụng vốn lẫn nhau, thậm trí còn lừa đảo rồi bỏ chốn làm cho doanh nghiệp
vay vốn ngân hàng không trả đợc nợ...Tình trạng chiếm dụng vốn trong xây
dựng cơ bản vẫn còn khá phổ biến, đã khiến cho một số đơn vị thi công xây
lắp hoặc một số doanh nghiệp vay vốn ngân hàng đầu t vaò các công trình đổi
dất lấy cơ sở hạ tầng, do thị trờng bất động sản đóng băng nên không có khả
năng trả nợ ngân hàng, dẫn đến nợ quá hạn.
- Do hiện nay pháp lệnh kế toán thống kê cha đủ hiệu lực, bắt buộc các
doanh nghiệp thực hiện chế độ thống kê chính xác kịp thời. Do các số liệu
quyết toán và báo cáo tài chính của doanh nghiệp cha thực hiện đợc chế độ
kiểm toán bắt buộc nên số liệu không phản ánh đựơc chính xác tình hình tài
chính doanh nghiệp khi xét duyệt cho vay, thậm trí họ còn cố tình đa số liệu
hoàn toàn ngợc với sự thật nh lỗ lại nói lãi. Những món cho vay đựơc xét trên
cơ sở thông tin sai lệch nh vậy sẽ gặp rủi ro và gây thiệt hại cho ngân hàng.
- Do nhiều doanh nghiệp nhà nớc không theo kịp với sự đổi mới, thờng
có thói quen chông chờ, dựa dẫm vào nhà nớc, vốn tự có thì rất ít nhng lại giao
nhiệm vụ sản xuất kinh doanh lớn, hơn nữa các nhận viên vẫn quen với phong
cách lao động trong thời kinh tế bao cấp nên họ không tính đến yếu tố hiệu
quả kinh tế. Khi đất nớc ta đang trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế kinh tế từ
chế độ quan liêu bao cấp sang kinh tế thị truờng nhng doanh nghiệp vẫn cha
quen với phơng thức sản xuất kinh doanh mới, dẫn đến hàng hoá đợc sản xuất
ra không đủ sức cạnh tranh do đó không tiêu thụ đợc. Trớc đây họ thờng đợc
nhà nớc cấp vốn trích từ quỹ ngân sách nhà nớc, do vậy cho dù họ hoạt động
15
có hiệu quả hay không thì cũng không quan trọng, nếu bị thua lỗ sẽ đợc nhà n-
ớc cấp phát để bù lỗ, nhng khi chuyển sang tự hạch toán kinh doanh, họ phải
vay ngân hàng thay cho việc cấp vốn của nhà nớc từ ngân sách, nhng đến khi
hoạt động kinh doanh thua lỗ thì họ vẫn có tâm lý trông mong vào sự trợ giúp
của nhà nớc nh khoanh nợ, xoá nợ, nói chung họ cha ý thức lo lắng, quan tâm
thực sự đến kết quả hoạt động kinh doanh của mình, và cuối cùng sự thiệt hại
đó vẫn là do nhà nớc chịu. Sự thua lỗ đó cũng đã kéo theo việc gây hại cho
ngân hàng.
2- Nhóm nguyên nhân chủ quan:
- Do bản thân ngân hàng: Kinh nghiệm và trình độ cán bộ tín dụng còn
bị hạn chế và bất cập, do đó không có khả năng phân tích thẩm định dự án,
nên nhiều khi cho vay mà không đánh giá đợc tính khả thi của dự án, hoặc do
không phân tích đợc các báo cáo tài chính một cách chính xác hay không
phân tích đầy đủ khả năng kinh doanh của lãnh đạo doanh nghiệp, không biết
năng lực thực sự của khách hàng do đó khi họ kinh doanh thua lỗ không thể
trả nợ đợc khách hàng là một tất yếu. Do lực lợng lao động trong hệ thống
ngân hàng hầu hết chuyển tiếp từ hệ thống ngân hàng thời bao cấp, số mới
tuyển dụng lại cha tích luỹ đợc nhiều kinh nghiệm, kiến thức về ngân hàng
trong cơ chế thị trờng. Do đó đôi khi cán bộ ngân hàng không bắt kịp mạch
phát triển của nền kinh tế, bỏ lỡ những cơ hội đầu t hoặc không đủ sức thẩm
định những dự án lớn phức tạp trong đầu t, do đó dễ dẫn đến rủi ro.
Kiến thức về thị trờng, xã hội của cán bộ tín dụng bị hạn chế cũng gây
cho món vay bị rủi ro vì trong nhiều trờng hợp khách hàng đã không nắm bắt
đợc nhu cầu thị hiếu của ngời tiêu dùng, không phân tích đợc cung cầu của thị
trờng dẫn đến mặt hàng kinh doanh đó bị ứ đọng, nếu cán bộ tín dụng là ngời
có kiến thức, có trình độ và kinh nghiệm, biết phân tích tình hình thị trờng giá
cả, cung cầu sẽ t vấn cho khách hàng, sẽ giúp cho khách hàng tránh đợc thiệt
hại trong kinh doanh và khi đó tiền vay của ngân hàng sẽ không bị rủi ro.
Việc chấp hành thể lệ, quy định tín dụng cha nghiêm túc. Còn một thực
tế nữa là việc đầu t của một số ngân hàng thơng mại cho các doanh nghiệp, cá
nhân vay vốn có nơi, có lúc vẫn còn mang tính chủ quan, thiếu sự quan tâm
khai thác và cung cấp kịp thời các thông tin về doanh nghiệp với trung tâm
thông tin tín dụng của ngân hàng nhà nớc để hạn chế rủi ro, nhiều nơi cha xem
16
xét kỹ hồ sơ, không điều tra kỹ khách hàng trong quá trình xét duyệt cho vay.
Thí dụ nh khách hàng đã vay nhiều ở ngân hàng, có d nợ quá hạn, nợ khoanh
đang bị kẹt mà vẫn đợc vay ở ngân hàng mới khác và rõ ràng nh vậy món vay
đó khó mà tránh đợc rủi ro. Bên cạnh đó đánh giá tài sản tín chấp lại không
chính xác, hồ sơ tài sản thế chấp không đợc lập và bảo quản đúng quy định,
nh vậy khi khách hàng không trả đợc nợ thì tài sản thế chấp có phát mại cũng
không thể hoàn trả đủ vốn cho ngân hàng hoặc tài sản thế chấp không đủ cơ sở
pháp lý để phát mại. Bên cạnh đó còn có trờng hợp cho vay để trả lãi tiền vay
hoặc cho vay đảo nợ nh cho vay và thu nợ một khách hàng cùng số tiền trong
một ngày hay cho vay để trả nợ ngân hàng, hoặc chuyển nợ quá hạn không kịp
thời ở một số món vay làm cho khách hàng không thấy rõ đợc trách nhiệm của
mình đối với món vay là phải tìm mọi cách để hoàn trả nợ cho ngân hàng.
Hạ thấp các tiêu chuẩn cho vay: Mặc dù biết rằng nếu cho vay thì sẽ có
nhiều rủi ro, nhiều điều khoản bất lợi và có sự vi phạm các nguyên tắc tín
dụng lành mạnh nhng do yếu thế khi giao dịch với các đối tợng có nhiều
quyền thế, chịu ảnh hởng thân quen hoặc tránh va chạm đến lợi ích cá nhân
nên một số lãnh đạo cũng nh cán bộ tín dụng của ngân hàng vẫn giải quyết
cho vay.
Chủ quan trong cho vay: Cho rằng đó là những khách hàng quen thuộc
nên không cần giám sát chặt chẽ, giải quyết cho vay chỉ dựa vao các thông tin
cung cấp qua trình bày thay cho những số liệu tài chính đáng tin cậy. Yên tâm
với tài sản thế chấp và thiếu sự giám sát chặt chẽ với những khoản vay, trong
khi tài sản thế chấp có thể bị đánh giá sai lệch về giá trị.
Cho vay u đãi trong nội bộ là quá nhiều, ngời đợc vay là các thành viên
trong ban quản trị, ban điều hành và th ờng là những khoản tiền lớn không
lành mạnh, thiếu công bằng.
Các ngân hàng thơng mại còn thiếu thông tin về tình hình tài chính,
mức độ rủi ro của khách hàng vay vốn, về năng lực quản lý đồng vốn vay của
họ nh thế nào, dẫn đến tình trạng không kiểm soát đợc chặt chẽ đồng vốn cho
vay, doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, không trả đ-
ợc nợ đúng hạn. Cho vay hoặc bảo lãnh với giá trị quá lớn đối với một số
doanh nghiệp mà vốn tự có của họ lại rất ít, trong những trờng hợp này rất dễ
17
xảy ra rủi ro lớn, vì một khi doanh nghiệp đó bị thua lỗ thì rất khó thu hồi lại
vốn cho ngân hàng.
Kiểm tra sau khi cho vay cha chặt chẽ. Thực tế thời gian qua có những
trờng hợp vay vốn ngắn hạn nhng lại sử dụng vào đầu t xây dựng cơ bản, thậm
chí còn dùng tiền vay đó để mua đất đai, nhà cửa, trong những trờng hợp này
khi đến hạn những món vay đó sẽ không thu hồi đợc, do đó sẽ xảy ra tình
trạng nợ quá hạn dây da kéo dài. Bên cạnh đó còn để khách hàng dùng tiền
vay sai mục đích, buôn bán lòng vòng, làm ăn kiểu chiếm đoạt, lừa đảo chiếm
dụng vốn của nhau dẫn đến gia tăng tỷ lệ nợ quá hạn ở một số ngân hàng
thơng mại hiện nay.
Kiểm tra, kiểm soát khách hàng cha thờng xuyên, kịp thời. Bên cạnh
công tác tôn trọng các quy trình tín dụng cần phải thờng xuyên tiến hành
kiểm tra, kiểm soát mới đảm bảo an toàn tín dụng. Tuy nhiên thời gian qua
việc làm này còn cha chủ động vì thờng chỉ khi nào có phát sinh vụ việc thì
lúc đó mới cử đoàn kiểm tra xuống. Do vậy chức năng ngăn ngừa là không
thực hiện đợc, mà kết quả của cuộc kiểm tra đó chỉ là để rút kinh nghiệm hoặc
là sửa chữa qua loa vì nó đã qua. Việc thanh tra kiểm tra nhằm nâng cao ý
thức trách nhiệm của đơn vị nhằm hạn chế thiệt hại trong công tác tín dụng là
cần thiết, nhng cũng cần tránh phiền hà vì có khi hết đoàn nọ đến đoàn kia nối
tiếp xuống đơn vị sẽ tạo ra sự căng thẳng và mệt mỏi cho đơn vị...
Ngay trong bản thân các ngân hàng thơng mại thiếu sự kiểm tra, kiểm
soát nội bộ tại chỗ đối với cán bộ thừa hành và cán bộ quản lý điều hành
nghiệp vụ tín dụng. Nhiều ngân hàng cha quan tâm đến hớng dẫn quy trình
nghiệp vụ tín dụng, chỉ đạo thực hiện quy trình cha nghiêm, kém hiệu lực và
còn nhiều sơ hở, thậm chí có những sai phạm.
Nói tóm lại, trình độ nhận thức và năng lực quản lý tín dụng của cán bộ
ngân hàng còn có những biểu hiện của sự yếu kém do đó đã dẫn đến rủi ro tín
dụng, nợ quá hạn ngày càng tăng.
18