Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

Luận văn thạc sỹ thực hiện chính sách bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện bắc trà my, tỉnh quảng nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (357.28 KB, 84 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong q trình hội nhập quốc tế, việc giữ gìn bản sắc dân tộc để “hội
nhập mà khơng bị hịa tan” là một yêu cầu để khẳng định và phát triển đất
nước. Theo đó, văn hố có một đóng góp quan trọng. Văn hố và giá trị của
nó len lỏi trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong mọi hoạt động của
con người, mỗi cá nhân, mỗi tập thể, trong giá trị của từng sản phẩm.
Đồng thời, văn hố khơng chỉ là hệ tri thức, hệ giá trị hay hệ thống
những chuẩn mực mà còn là hệ thức sống của con người. Sự khác nhau giữa
các yếu tố, đặc điểm của các nền văn hoá khác nhau là sự đa dạng và là kết
quả của hoạt động tương tác giữa con người với môi trường sống, nhu cầu
sống. Cho nên, việc nhận định các yếu tố, đặc điểm đó là tiến bộ hay khơng
tiến bộ phụ thuộc nhiều vào chính mơi trường sống và nhận thức của những
người bản địa, cũng như nhận thức của những người nhìn nhận và đánh giá
về nền văn hố đó.
Một quốc gia có nhiều tộc người khác nhau, việc xác định một nền văn
hoá chung với đặc điểm thống nhất và đa dạng là một điều tất yếu. Nền văn
hoá Việt Nam được cấu thành từ những yếu tố văn hoá của 54 dân tộc. Dù
những yếu tố văn hoá của dân tộc Kinh chiếm đa số, song, 53 dân tộc thiểu số
đều góp phần tạo nên bản sắc dân tộc vừa độc đáo, vừa đa dạng trong sự
thống nhất của nền văn hoá Việt Nam. Điều này được nhận định và trở thành
định hướng trong chiến lược phát triển văn hoá của Việt Nam. “Kế thừa và
phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong
nước” là đường lối và mục tiêu của chính sách văn hố được Đảng Cộng sản
Việt Nam khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991. Mục tiêu này tiếp tục được khẳng định
trong đề án “Bảo tồn, phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số Việt Nam đến
1


năm 2020”[23]. Để hiện thực hoá mục tiêu này, Đảng và Nhà nước ta đưa ra


nhiều chủ trương, chính sách. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân chủ quan và
khách quan khác nhau, văn hoá của các dân tộc thiểu số phải đối mặt với
nhiều khó khăn. Cho nên, việc xây dựng, ban hành và thực hiện chính các
chính sách cần có sự thay đổi nhất định để phù hợp hơn với nhu cầu cuộc
sống, với điều kiện kinh tế - xã hội.
Đối với tỉnh Quảng Nam nói chung và huyện Bắc Trà My nói riêng,
địa phương có nhiều dân tộc thiểu số cư trú với những đặc trưng văn hoá
riêng, có quy mơ dân số khơng q lớn, điều kiện về dân trí, giao thơng, mơi
trường,... có nhiều khó khăn, hạn chế; bởi vậy, khi những tác động khách
quan từ bên ngồi, những giá trị văn hố truyền thống của các dân tộc dễ bị
tổn thương. Do vậy, việc bảo tồn, phát huy giá trị nền tảng văn hóa truyền
thống của các dân tộc cần phải có những phương hướng, giải pháp đủ mạnh
và phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh. Cho nên, việc bảo tồn và phát triển giá
trị văn hoá truyền thống của các dân tộc được xác định là nhiệm vụ quan
trọng và được các cấp uỷ Đảng, Chính quyền đặc biệt quan tâm. Từ định
hướng của Đảng đến những văn bản, chính sách của Nhà nước đã được địa
phương vận dụng linh hoạt trong điều kiện của mình.
Riêng với huyện Bắc Trà My, với hơn 50% dân số là người dân tộc
thiểu số, đời sống văn hoá tinh thần của người dân cũng đang chịu những tác
động mạnh mẽ từ sự phát triển kinh tế - xã hội, từ yếu tố văn hoá ngoại lai,...
Nhiều giá trị văn hoá truyền thống đặc trưng của các dân tộc đã và đang có
nguy cơ mai một. Điều này có nhiều nguyên nhân tác động đến. Do đó, việc
xem xét, đánh giá những chủ trương, chính sách bảo tồn và phát triển các giá
trị văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số đã có cịn phù hợp hay cần
có sự điều chỉnh là rất cần thiết trong bối cảnh đổi mới. Để góp phần vào đó,
việc đánh giá từ những trường hợp cụ thể là cơ sở quan trọng.
2


Chính vì vậy, đề tài “Thực hiện chính sách bảo tồn, phát triển văn

hóa các dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam”
có ý nghĩa và cần thiết. Trong phạm vi luận văn cao học chun ngành Chính
sách cơng, đề tài sẽ có đóng góp nhất định về mặt lý luận và thực tiễn, góp
phần tích cực và có hiệu quả thiết thực đối với địa phương.
2. Tình hình nghiên cứu về đề tài
2.1. Nghiên cứu chung về những nguyên tắc, những yêu cầu cơ bản và
thực tiễn bảo tồn, phát huy giá trị văn hoá của các dân tộc thiểu số
Phạm Minh Hạc “Phát triển văn hố giữ gìn và phát huy bản sắc dân
tộc kết hợp với tinh hoa nhân loại” do Nxb Văn hoá dân tộc ấn hành năm
1996 tại Hà Nội [9]. Cuốn sách đã nêu ra một số khái niệm về văn hóa, văn
minh; đánh giá vai trị của văn hóa, văn minh và tác phong cơng nghiệp;
khẳng định vai trị của văn hóa trong việc giáo dục con người Việt Nam; đồng
thời, nêu rõ sự cần thiết phải giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và
vai trị của văn hóa trong cuộc đấu tranh chống "diễn biến hịa bình".
Trên cơ sở những quan niệm về di sản văn hố, tác giả Hồng Vinh của
sách “Một số vấn đề về bảo tồn và phát triển di sản văn hóa dân tộc” do Nxb
Chính trị quốc gia ấn hành năm 1997 tại Hà Nội [33] đã đưa ra một hệ thống
lý luận về di sản văn hoá, đồng thời bước đầu vận dụng vào việc nghiên cứu
văn hoá Việt Nam để bảo tồn và phát triển di sản văn hóa dân tộc.
Đặng Thị Tuyết trong “Bảo tồn và phát huy di sản văn hoá ở Việt
Nam” (đăng trên Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam số 4/2015) đã phân tích
thực trạng bảo tồn và phát huy di sản văn hóa ở Việt Nam theo những nhận
định về thành tựu và hạn chế trong những năm trước. Qua đó, tác giả đưa ra
các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng bảo tồn và phát huy di sản văn hóa ở
Việt Nam hiện nay.
3


Tuy vậy, các cơng trình trên mới chỉ nghiên cứu các cơ sở chung cho
việc định hướng bảo tồn và phát huy, phát triển di sản văn hóa dân tộc Việt

Nam, nên chưa tập trung đi sâu nghiên cứu trường hợp về một tộc người cụ
thể của một vùng đất.
2.2. Những nghiên cứu về bảo tồn và phát triển văn hoá dân tộc thiểu số
Nhiều bài viết của các tác giả được in trong “Giữ gìn và bảo vệ bản sắc văn
hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam” do Nxb Văn hoá dân tộc ấn hành
năm 1996 tại Hà Nội[17]. Một số bài viết này đã phân tích các giá trị văn hóa
đặc sắc của các tộc người trên lãnh thổ Việt Nam. Qua đó, việc bảo tồn, phát
triển văn hoá các DTTS được nhấn mạnh là nhiệm vụ cấp thiết, có ý nghĩa
chiến lược cần phải tiếp tục thực hiện thường xun và lâu dài.
Trong cơng trình “Bảo tồn, làm giàu và phát huy các giá trị văn hoá
truyền thống Việt Nam trong đổi mới và hội nhập” do Nxb Chính trị quốc gia
ấn hành năm 2010 tại Hà Nội[22], tác giả Ngô Đức Thịnh đã chỉ ra những giá
trị tiêu biểu mang đặc sắc riêng của văn hố truyền thống Việt Nam. Trên cơ
sở đó, những giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị tiêu biểu trong
điều kiện CNH,HĐH của đất nước được đề xuất.
Mặc dù các tài liệu nghiên cứu này đã nhấn mạnh nhiệm vụ cấp thiết
có ý nghĩa chiến lược, chỉ ra một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy các
giá trị tiêu biểu của văn hóa truyền thống Việt Nam nói chung và văn hóa các
DTTS nói riêng. Nên nó có giá trị tham khảo hữu ích ở góc độ dân tộc học,
tuy nhiên việc tiếp cận các nghiên cứu này dưới góc nhìn chính sách cơng
cịn chưa rõ nét.
2.3. Những nghiên cứu về văn hoá dân tộc thiểu số ở tỉnh Quảng
Nam, huyện Bắc Trà My
- Bên cạnh đó, cuốn “Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người” của
tác giả Nguyễn Từ Chi (2003), Nhà xuất bản Văn hóa Thơng tin Hà Nội ấn
4


hành lấy đối tượng nghiên cứu là văn hóa và tộc người ở Việt Nam. Dưới góc
nhìn văn hóa, bằng cách tiếp cận nhiều chiều, với những cách lý giải khác

nhau, tác giả giúp người đọc hiểu thêm về những sự kiện, hiện tượng dân tộc
học của Việt Nam. Cuốn sách có thể được coi như là một trong những tác
phẩm có cách tiếp cận sâu sắc và tỉ mỉ các vấn đề tộc người từ nhiều góc độ.
- Cuốn “Văn hóa, văn hóa tộc người và văn hóa Việt Nam” (2006) và
“Bảo tồn, làm giàu và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam
trong đổi mới và hội nhập” (2010) của tác giả Ngô Đức Thịnh có thể xem là
một đóng góp quan trọng đối với sự nghiệp nghiên cứu và phát triển văn hóa
Việt Nam trong thời kỳ CNH,HĐH.
- Trên cơ sở dựa vào lý luận phương pháp luận duy vật biện chứng của
chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cuốn “Văn hóa các dân tộc
Việt Nam thống nhất mà đa dạng” của tác giả Nông Quốc Chấn, Huỳnh Khái
Vinh (xuất bản năm 2002, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia) là sự tiếp cận có
hệ thống của các nhà nghiên cứu trên nhiều góc độ: văn hóa, lịch sử và dân
tộc học nhằm hướng tới sự tương tác biện chứng giữa sự thống nhất và đa
dạng của văn hóa Việt Nam
- Bài viết “Một số vấn đề bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa
của các dân tộc hiện nay” của tác giả Nguyễn Văn Huy được đăng trên Tạp
chí Cộng Sản số 20 năm 2003 đề cập khá chi tiết và cụ thể công tác bảo tồn
phát huy bản sắc văn hóa của các dân tộc ở nước ta thời gian qua
- Bài viết “ Văn hóa làng các dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Nam” của
Tác giả Nguyển Tri Hùng đăng trên trang baotang.quangnam.gov.vn nêu rõ
phát triển kinh tế - xã hội gắn với bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá
làng, các tập quán pháp tốt đẹp của các tộc người miền núi ở Quảng Nam
trong thời kỳ hiện đại là một vấn đề cần bàn luận thêm.
5


Bên cạnh đó, cịn có nhiều cơng trình nghiên cứu văn hóa tộc người và
văn hóa Việt Nam, văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam. Những
nghiên cứu trên góp phần cung cấp cơ sở lý thuyết, thực tiễn trong q trình

thực hiện chính sách bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống Việt
Nam trong quá trình Đổi mới và hội nhập. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu
chính sách thì việc nghiên cứu, phân tích, đề ra những giải pháp chính sách
nhằm hồn thiện, bổ sung, trong đó bao gồm các nhóm giải pháp mang tính
đặc thù của từng địa phương là yêu cầu quan trọng trong q trình đưa chính
sách vào thực tiễn. Ở mỗi cơng trình nghiên cứu cũng đã đề cập đến hoạt
động thực thi chính sách ở mỗi vùng, miền, địa phương khác nhau; do đó,
đây cũng chính là nguồn tài liệu hữu ích giúp tác giả tìm hiểu và nghiên cứu
ở nhiều góc độ lý luận và thực tiễn khác nhau. Qua đó, có sự kế thừa, tổng
hợp, phát triển các nội dung về chính sách và thực hiện chính sách bảo tồn và
phát triển văn hóa DTTS gắn với đặc điểm và tình hình phát triển kinh tế - xã
hội riêng trên địa bàn huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam.
Nhìn chung, về cơ bản các cơng trình nghiên cứu trên có liên quan đến
đề tài, chúng có giá trị tham khảo hữu ích nhất định ở nhiều góc độ văn hóa
học, dân tộc học... Tuy nhiên, qua các cơng trình này cũng cho thấy ít có
nghiên cứu nào đề cập sâu về văn hóa các tộc người thiểu số của trường hợp
huyện Bắc Trà My (Quảng Nam) nhất là dưới góc nhìn thực hiện chính sách
cơng. Nên đề tài luận văn nghiên cứu không bị trùng lặp.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ hiệu quả, tác động của chính sách và nhận diện
những vấn đề cấp bách trong bảo tồn và phát huy, tiến hành đề xuất một số
giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách bảo tồn và phát triển bản
6


sắc văn hóa các dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng
Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa làm rõ thêm cơ sở lý luận về thực hiện chính sách bảo

tồn và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số.
- Phân tích thực trạng bảo tồn văn hóa các dân tộc thiểu số tại huyện
Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam; đánh giá tình hình thực hiện chính sách bảo
tồn và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số tại huyện Bắc Trà My, tỉnh
Quảng Nam trong thời gian qua.
- Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách bảo tồn và
phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số ở huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thực hiện chính sách bảo tồn và
phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Bắc Trà My, tỉnh
Quảng Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung nghiên cứu:
Đó là nghiên cứu việc thực hiện chính sách bảo tồn, phát triển văn hóa
các DTTS.
- Phạm vi khơng gian nghiên cứu:
- Phạm vi thời gian nghiên cứu: từ năm 2015 đến nay
Thời điểm nghiên cứu được tác giả chọn mốc từ năm 2015 đến nay là
vì: Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật di sản văn hóa chính thức vẫn
cịn hiệu lực. Thời gian này, tỉnh Quảng Nam đã tập trung nhiều nguồn lực để
7


thực hiện có hiệu quả việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống,
đặc biệt là văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số, thực hiện đạt mục tiêu
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XX, XXI đã đề ra.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở tiếp cận phương pháp luận chủ nghĩa Mác Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh và khoa học chính sách cơng để nghiên cứu

thực hiện chính sách bảo tồn, phát triển giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số
trên địa bàn huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập nguồn tài liệu thứ cấp: Tập hợp và phân tích
các nguồn tư liệu: Văn kiện, Nghị quyết, Quyết định của Đảng, Nhà nước,
Bộ, Ngành ở Trung ương và địa phương; các cơng trình nghiên cứu, sách báo,
các báo cáo, tài liệu thống kê của Ban, ngành, đoàn thể; tổ chức, cá nhân liên
quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến vấn đề bảo tồn và phát triển các giá trị văn
hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam nói chung, vùng dân tộc thiểu
sổ huyện Bắc Trà My tỉnh Quảng Nam nói riêng.
- Phương pháp xử lý số liệu: Các thông tin tài liệu sơ cấp được hệ
thống hóa, phân loại, tổng hợp, xử lý theo từng nội dung, hoạt động có liên
quan đến đề tài.
- Phương pháp phân tích, thống kê: trên cơ sở số liệu thứ cấp, đề tài sử
dụng phương pháp này để mô tả, đánh giá, so sánh về thực trạng kết quả, hiệu
quả, tác động chính sách và một số yếu tố ảnh hưởng đến bảo tồn, phát triển
văn hoá các dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Bắc Trà My.
- Phân tích tổng hợp: Là một trong những thành tố quan trọng trong
quy trình xem xét hệ thống, đánh giá có tính đại diện về hiệu quả của các
chính sách đối với việc bảo tồn và phát triển văn hoá.
8


Việc kết hợp hiệu quả các phương pháp nghiên cứu sẽ tạo được hiệu
quả tốt hơn. Nhìn chung các phương pháp được sử dụng đều có tác dụng tích
cực vào kết quả của luận văn. Trong đó, các phương pháp bao trùm là phân
tích, so sánh, tổng hợp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Trên cơ sở lý thuyết về thực hiện chính sách cơng, luận văn góp phần

hệ thống hóa làm rõ hơn cơ sở lý luận về thực hiện chính sách bảo tồn, phát
triển giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số. Đồng thời, đề xuất một số quan
điểm về thực hiện chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu
số.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Thơng qua việc nghiên cứu thực trạng thực hiện chính sách bảo tồn và
phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số ở huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam
thời gian qua, luận văn cung cấp một số luận cứ khoa học thực tiễn nhằm đưa
ra đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách bảo tồn và
phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số ở huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam
hiện nay. Qua đó, kết quả luận văn góp phần tham mưu cấp ủy Đảng và chính
quyền địa phương dưới góc nhìn chính sách cơng trong công tác quản lý nhà
nước lĩnh vực bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số trên địa bàn
huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn được kết cấu thành 3 chương cụ thể, đó là:
Chương 1: Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách bảo tồn và phát triển
văn hóa các dân tộc thiểu số;
9


Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách bảo tồn và phát triển văn
hóa các dân tộc thiểu số ở huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam;
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách bảo tồn
và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số ở huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng
Nam giai đoạn hiện nay.

10



CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
BẢO TỔN VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HĨA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ

1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm “Văn hố các dân tộc thiểu số”
Văn hóa ở nghĩa hẹp, là sự phản ánh những hoạt động tinh thần (từ
quan niệm tư tưởng và giá trị, ý thức về giá trị, định hướng giá trị...) của con
người cùng các giá trị mà hoạt động đó tạo ra.
Ở nghĩa rộng, văn hóa là tổng hịa mọi sản phẩm của đời sống vật chất
và tinh thần do con người sáng tạo nên, cùng với việc sử dụng công cụ tư
duy, tư tưởng, phương thức biểu đạt, mơ hình hành động và phương thức, thái
độ ứng xử của cộng đồng dân tộc trong việc chế ngự thiên nhiên và tổ chức
xã hội, hình thành nhân cách con người. Nói cách khác, văn hóa là tất cả
những gì khơng phải từ thiên nhiên, mà là từ hoạt động con người, là tất cả
những gì con người sáng tạo nên nhằm phục vụ đời sống cộng đồng và phát
triển xã hội. Văn hóa là sự hoạt động nhận thức của con người và cách thức
tổ chức hành động thực tiễn đối với môi trường xung quanh nhằm cải biến tự
nhiên và phát triển xã hội. Với ý nghĩa đó, văn hóa theo Hồ Chí Minh, đó là:
"Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, lồi người mới sáng tạo và
phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn
học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các
phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn
hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu
hiện của nó mà lồi người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời
sống và địi hỏi của sự sinh tồn. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó là
văn hố"[15;tr.431].
11



Ông F.Mayor, Cựu Tổng giám đốc UNESCO đã định nghĩa: “Văn hóa
là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại.
Qua các thế kỷ hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống giá trị,
các truyền thống và các thị hiếu - những yếu tố xác định các đặc tính riêng
của mỗi dân tộc”[32]. Định nghĩa này nhấn mạnh vào hoạt động sáng tạo của
các cộng đồng người gắn liền với tiến trình phát triển có tính lịch sử của mỗi
cộng đồng tạo nên những giá trị vừa có tính nhân văn phổ qt, vừa có tính
đặc thù - bản sắc riêng mỗi cộng đồng dân tộc (nhấn mạnh việc giữ gìn tính
đa dạng của văn hóa); đồng thời khuyến cáo nguy cơ tổn thương của các nền
văn hóa trong làn sóng tồn cầu hóa, vì hệ lụy của cách thức phát triển kinh tế
không tôn trọng yếu tố văn hóa. Ngày 3/11/2002, Đại hội đồng UNESCO đã
ra tuyên bố tồn cầu về Đa dạng văn hố: "Văn hố nên được xem là một tập
hợp các điểm nổi bật về mặt tinh thần và vật chất, tri thức và tình cảm của
một xã hội hay một nhóm xã hội, và ngồi văn chương và nghệ thuật thì văn
hố cịn bao gồm lối sống, cách thức cùng chung sống, thế hệ các giá trị,
truyền thống và tín ngưỡng". Theo giới nghiên cứu văn hoá, nhận định này là
phù hợp với quan điểm cách tiếp cận của Hồ Chí Minh vào năm 1943 về
phạm vi rộng lớn của văn hoá.
Như vậy, văn hóa tác động vào các cấp độ, các q trình, đó là: cải tạo
vật chất; cải tạo cơ cấu xã hội; và cải tạo tâm lý con người, tâm lý xã hội.
Từ cơ sở nêu trên, có thể hiểu: Văn hóa là sản phẩm của xã hội lồi
người được tạo ra trong quá trình lao động sản xuất, là tổng thể hệ thống
những chuẩn mực, giá trị cùng với ý thức và khả năng sáng tạo mang ý nghĩa
lịch sử - xã hội của cộng đồng người nhất định để thỏa mãn nhu cầu cuộc
sống nhằm thích ứng sự tồn tại và phát triển.
Trong văn hóa gồm có văn hóa vật chất (văn hóa vật thể) và văn hóa
tinh thần (văn hóa phi vật thể).
12



Với văn hóa vật chất, đó là các sản phẩm vật chất do con người tạo ra,
là dạng thức văn hóa vật thể hữu hình nhằm phục vụ nhu cầu vật chất của con
người. Chẳng hạn như: công cụ lao động, sản xuất; kiến trúc nhà ở; trang
phục; ẩm thực...
Với văn hóa tinh thần, đó là các sản phẩm tinh thần do con người tạo
ra, là dạng thức văn hóa phi vật thể nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh thần của con
người. Chẳng hạn như: ngôn ngữ; kho tang tri thức dân gian; phong tục tập
quán; lối tư duy, suy nghĩ, hành vi ứng xử; tôn giáo; lễ hội; văn chương, hội
họa, âm nhạc, vũ điệu…
Đối với thuật ngữ dân tộc thường được hiểu theo hai nghĩa:
Ở nghĩa rộng, dân tộc (nation) là hình thái phát triển cao nhất của tộc
người, xuất hiện trong xã hội TBCN và XHCN. Dân tộc đặc trưng bởi tính
cộng đồng chặt chẽ và bền vững về kinh tế, ngôn ngữ, lãnh thổ, các đặc điểm
về văn hóa và ý thức tự giác tộc người.
Ở nghĩa hẹp, dân tộc (ethnie) được hiểu là dùng để chỉ những tộc
người, là hình thái đặc thù của một tập đồn người, xuất hiện trong q trình
phát triển của tự nhiên và xã hội, được phân biệt bởi 3 đặc trưng cơ bản là
ngơn ngữ, văn hố và ý thức tự giác về cộng đồng, mang tính bền vững qua
hàng nghìn năm lịch sử. Chẳng hạn là các tộc người: Kinh, Tày, Thái,
Nùng,... với tư cách là những cộng đồng dân tộc anh em tự nguyện gắn kết
nhau lại thành cộng đồng dân tộc Việt Nam thống nhất trong sự nghiệp dựng
nước và cứu nước. Với nghiên cứu của đề tài luận văn tiếp cận dân tộc chủ
yếu ở nghĩa hẹp.
Dân tộc thiểu số là khái niệm dùng để chỉ những dân tộc có số dân ít
hơn so với dân tộc đa số trên phạm vi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam (theo Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14 tháng 01 năm
2011 của Chính phủ về Công tác dân tộc).
13



Từ một số ý nghĩa trên: Văn hóa dân tộc được hiểu là hệ thống hữu cơ
những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra, được tích luy
trong hoạt động thực tiễn lịch sử của cộng đồng dân tộc nhất định, nó mang
ý nghĩa lịch sử - xã hội và thể hiện bản sắc của cộng đồng dân tộc đó để thỏa
mãn nhu cầu cuộc sống nhằm thích ứng sự tồn tại và phát triển.
Trong văn hóa dân tộc cũng gồm có văn hóa vật chất (văn hóa vật thể)
và văn hóa tinh thần (văn hóa phi vật thể) của cộng đồng dân tộc. Song về
bản sắc của nó, văn hóa dân tộc chẳng những là sự thể hiện ở tinh thần, bản
lĩnh, cốt cách và linh hồn của một dân tộc, mà nó cịn thể hiện ở đặc trưng
riêng có của một dân tộc này là dấu hiệu để phân biệt so với một dân tộc
khác. Hay nói cách khác, mỗi dân tộc đều có đường nét bản sắc văn hóa độc
đáo, tạo nên cách thức để hiện thực hóa thế giới quan và nhân sinh quan của
cộng đồng dân tộc trong thực tiễn đời sống xã hội. nét bản sắc văn hóa dân
tộc được thể hiện qua các đặc trưng về lối sống, tư duy, lý tưởng thẩm mỹ…
Như vậy, có thể xem văn hóa dân tộc là tổng thể các tính cách, các
phẩm chất đặc trưng thuộc sức mạnh tiềm tàng và sự sáng tạo của một dân
tộc trong lịch sử, mà qua đó giúp cho cộng đồng dân tộc đó tồn tại, duy trì và
phát triển. Với ý nghĩa đó, văn hóa dân tộc là yếu tố mang đậm sức mạnh tinh
thần dân tộc, là chỗ dựa giúp cho cộng đồng dân tộc đó vượt qua những khó
khăn và hiểm nguy, những thử thách và trở ngại trong tiến trình lịch sử xã hội
vì dân tộc hịa bình và phát triển.
Đối với nước ta, hiện nay có 54 thành phần dân tộc (54 tộc người).
Trong đó, 87% là dân tộc Kinh (chiếm đa số); và 13% thuộc về 53 dân tộc
còn lại được gọi là các dân tộc thiểu số.
Tuy quy mô dân số của 53 dân tộc thiểu số ở nước ta có số lượng
khơng lớn, song cùng với q trình lịch sử hình thành, tồn tại và phát triển đã
kiểm định: mỗi một tộc người đều có phong văn hóa truyền thống với bảng
14



giá trị cốt lõi mang tính bản sắc được hình thành ổn định, bền vững theo
chiều dài lịch sử gắn với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể về lịch sử tự nhiên, kinh
tế, chính trị, xã hội của riêng mình. Với nền tảng đó mà tạo nên diện mạo văn
hóa các dân tộc, trong đó có văn hóa các dân tộc thiểu số.
Ở nước ta với một nền văn hóa thống nhất mà đa dạng, thì văn hóa các
dân tộc thiểu số: vừa có các đặc trưng cơ bản của văn hóa Việt Nam tiêu
biểu, với “tinh thần cần cù, lao động sáng tạo, có lịng u nước nồng nàn, ý
chí tự cường dân tộc, tính cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng - nước,
có tinh thần đồn kết, có lịng nhân ái bao dung, trọng nghĩa tình đạo lý, tế
nhị trong ứng xử, giản dị trong lối sống…”; vừa có các đặc trưng mang sắc
thái văn hóa riêng, độc đáo do đặc thù về điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh lịch
sử của mỗi dân tộc thiểu số. Chính q trình lịch sử hình thành, phát triển
trên các mặt đời sống của từng tộc người là cơ sở khẳng định sự tồn tại và
xác định vị trí của thành phần dân tộc đó trong một lãnh thổ quốc gia. Văn
hóa các dân tộc thiểu số đã tạo nên diện mạo đặc trưng tính đa dạng văn hóa
vùng miền, thể hiện sự đa dạng phong phú nền văn hóa của quốc gia.
Như vậy, có thể hiểu: Văn hóa các dân tộc thiểu số là hệ thống hữu cơ
những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra, được tích luy
trong hoạt động thực tiễn lịch sử nhất định của cộng đồng các dân tộc thiểu
số (các tộc người), nó mang ý nghĩa lịch sử - xã hội và thể hiện bản sắc riêng
có của các dân tộc thiểu số để thỏa mãn nhu cầu cuộc sống nhằm thích ứng
sự tồn tại và phát triển, góp phần làm phong phú và đa dạng nền văn hóa
của cả cộng đồng dân tộc quốc gia.
Khái quát lại, vấn đề cơ bản là văn hóa chỉ có thể tồn tại, duy trì và
phát triển khi và chỉ khi chứa đựng và thể hiện rõ bản sắc dân tộc vốn đã
được sáng tạo và tích lũy trong lịch sử dân tộc. Mỗi thành phần dân tộc (tộc
người) trong quá trình hình thành phương thức hoạt động sinh sống nhằm
15



ứng phó trước hồn cảnh, nên vừa tiếp thu, tiếp biến các giá trị để nâng cao
tinh thần tự chủ, tự lực tự cường… mà tạo nên các tố chất đặc trưng riêng có
của từng thành phần dân tộc hay cịn gọi là bản sắc văn hóa tộc người. Chính
văn hóa các dân tộc thể hiện ở thế giới quan và nhân sinh quan, ở lối sống, tư
duy, lý tưởng thẩm mỹ… Chúng được biểu hiện cụ thể bằng các giá trị văn
hóa vật thể (đặc trưng cơng cụ lao động - sản xuất; truyền thống về kiến trúc
nhà ở, trang phục, ẩm thực…) và các giá trị văn hóa phi vật thể (ngôn ngữ và
tri thức bản địa, phong tục tập quán, nghệ thuật dân gian, lễ hội, tín ngưỡng,
tôn giáo). Dưới sự tác động của sự biến đổi kinh tế - xã hội và môi trường tự
nhiên, các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể ln được bồi đắp để thích
ứng tồn tại và phát triển. Đó cũng chính là sự phản ánh về tính kế thừa tiếp
nối của lịch sử dân tộc và cũng là sự biểu hiện một cách cụ thể về tính đa
dạng, phong phú của văn hóa dân tộc trong thực tiễn đời sống hội đang diễn
ra.
1.1.2. Khái niệm “Chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa các dân
tộc thiểu số”
Về khái niệm bảo tồn văn hóa: người ta thường gắn khái niệm này với
các đối tượng cụ thể, đó là: bảo tồn văn hóa vật thể và bảo tồn văn hóa phi
vật thể; bảo tồn di sản văn hóa; bảo tồn văn hóa truyền thống, bảo tồn văn
hóa nơng thôn… Theo quan niệm của các nhà bảo tồn, bảo tàng trong lĩnh
vực di sản văn hóa, bảo tồn văn hóa là các nỗ lực để bảo vệ, gìn giữ sản phẩm
văn hóa và khơng gian tồn tại của nó theo dạng thức vốn có. Nghĩa là, những
sản phẩm của quá khứ nên được bảo vệ một cách nguyên vẹn như nó vốn có,
cố gắng phục hồi nguyên gốc các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể cũng
như cố gắng cách ly di sản khỏi môi trường xã hội đương đại. Tuy nhiên, vấn
đề đặt ra là văn hóa, đặc biệt là văn hóa phi vật thể ln gắn bó với đời sống
con người, với mơi trường xã hội trong sự vận động của nó. Do đó, quan
16



niệm này thiên về bảo tồn nguyên vẹn, dễ làm khơ cứng các sản phẩm văn
hóa.
Một cách tiếp cận khác về bảo tồn văn hóa theo quan niệm của các đại
biểu Alfrey, Putnam, Ashworth và P.J. Larkham, xem di sản văn hóa như một
ngành cơng nghiệp và cần quản lý di sản tương tự với cách thức quản lý của
một ngành cơng nghiệp văn hóa với những logic quản lý đặc biệt, phù hợp
với tính đặc thù của các di sản. Hoặc các nhà nghiên cứu Anh, Mỹ: Boniface,
Fowler, Prentice…, quan tâm di sản văn hóa là để phát triển du lịch, để khẳng
định tính đa dạng trong sáng tạo của con người... Về cơ bản, quan niệm theo
trường phái này dựa trên cơ sở mỗi di sản cần phải được thực hiện nhiệm vụ
lịch sử của mình ở một thời gian và không gian cụ thể. Khi di sản ấy tồn tại ở
thời gian và không gian hiện tại, thì cần phát huy giá trị văn hóa - xã hội phù
hợp với xã hội hiện nay và phải loại bỏ đi những gì khơng phù hợp với xã hội
ấy. Tuy nhiên, với lập luận của quan niệm này dễ rơi vào khuynh hướng thả
nổi. Vì nếu ta sử dụng hệ giá trị hôm nay làm thước đo cho sự thay đổi các
sản phẩm văn hóa truyền thống thì sẽ đẩy nhanh q trình làm biến dạng các
tiêu chí và chuẩn mực vốn đã được định hình từ lâu. Các sản phẩm văn hóa
truyền thống tuy mang đậm nét đặc thù nhưng khi đặt trong hệ quy chiếu mới
nếu không được điều chỉnh thì sẽ khó có cơ hội tồn tại lâu dài.
Với cả hai nhóm quan niệm nêu trên đều xuất phát từ cách hiểu máy
móc, siêu hình, thiếu cái nhìn biện chứng về khái niệm bảo tồn văn hóa. Do
vậy, cần có cách hiểu đầy đủ và đúng nghĩa: đặt hoạt động bảo tồn văn hóa là
gìn giữ, lưu lại những giá trị văn hóa trong mối quan hệ với phát huy – phát
triển, mà không trở thành lực cản đối với sự phát triển xã hội; thay vào đó là
trong một chừng mực nhất định, bảo tồn là cơ sở cho sự phát triển văn hóa
theo đúng hướng. Từ ý nghĩa này, có thể xem: Bảo tồn văn hóa là khái niệm
dùng để chỉ những nỗ lực hoạt động của con người nhằm lưu giữ, kế thừa
17



những gì được xem là giá trị văn hóa truyền thống đã, đang và còn tiếp tục
tạo nên năng lực nội sinh, là động lực cho sự phát triển văn hóa – xã hội
hiện tại và tương lai của mỗi quốc gia, dân tộc.
Về khái niệm phát triển văn hóa: Trong nhận thức chung, phát triển là
bao gồm sự giàu có về vật chất được đo bằng sự tăng trưởng GDP/người hay
thu nhập thực, và nó cũng bao gồm sự biến đổi trong các chỉ số xã hội phản
ánh chất lượng sống của con người, cũng như các chỉ số phản ánh chất lượng
mơi trường... Tuy nhiên, văn hóa lại là trung tâm của sự phát triển.
Nên thuật ngữ phát triển văn hóa cần được quan niệm dưới góc nhìn
của sự phát triển bền vững. Phát triển văn hóa là cần đặt văn hóa trong trạng
thái động, lấy đời sống văn hoá cùng với sự vận hành của giá trị văn hóa làm
đối tượng, hướng đến mục tiêu cao nhất là phát triển con người. Vì thế, phát
triển văn hóa cần được hiểu đó là những hoạt động nội tại giải quyết các cặp
đối xứng: kế thừa và giao lưu, truyền thống và hiện đại, bảo tồn và phát huy,
giữ gìn bản sắc và hội nhập quốc tế v.v… Nói cách khác, phát triển văn hóa
theo hướng bền vững là sự phát triển cân đối giữa kế thừa và giao lưu, truyền
thống và hiện đại, bảo tồn và phát huy, giữ gìn bản sắc và hội nhập quốc tế.
Quá trình phát triển văn hóa trong mối quan hệ với bảo tồn văn hóa thì
cũng đồng nghĩa với q trình kép hoạt động, bao gồm: vừa có mặt hoạt động
kế thừa các giá trị văn hóa truyền thống phù hợp với hiện thực khách quan;
vừa có mặt hoạt động đào thải đối với yếu tố văn hóa lỗi thời, lạc hậu, không
phù hợp với hiện thực khách quan nhằm đáp ứng yêu cầu của sự phát triển xã
hội. Phát triển văn hóa là sự vận động tất yếu khách quan của lĩnh vực văn
hóa, nó có khả năng làm biến đổi văn hóa truyền thống, chuyển hóa sang một
hệ thống khác theo quy luật của tiếp xúc và tiếp biến văn hóa để thích ứng
các điều kiện, mơi trường lịch sử - xã hội nhất định nhằm đáp ứng yêu cầu
phát triển xã hội đương đại. Tuy nhiên, sẽ là cái giá rất đắt một khi quan niệm
18



sai lầm xem phát triển văn hóa là sự triệt tiêu bảo tồn văn hóa; và ngược lại.
Như vậy, trong mối quan hệ bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc, thì
bảo tồn văn hóa dân tộc giữ vai trò của yếu tố ổn định, là cơ sở kế thừa các
giá trị bản sắc để thúc đẩy phát triển văn hóa dân tộc bền vững; cịn phát triển
văn hóa dân tộc là ở trạng thái động, lấy đời sống văn hoá cùng với sự vận
hành của giá trị văn hóa làm đối tượng, hướng đến mục tiêu cao nhất là phát
triển con người.
Chính sách cơng: Ở góc nhìn khoa học chính trị, chính sách theo
Michael G.Roskin[34], đó là sự tập hợp của nhiều biện pháp, công cụ mà một
chủ thể quyền lực dùng để thực hiện nhằm định hướng xã hội theo mục tiêu
chính trị của chủ thể quyền lực.
Cịn theo cách tiếp cận khoa học chính sách, chính sách cơng theo Kraft
và Furlong[2], đó là một q trình mà chính quyền hành động hay khơng
hành động nhằm đáp lại một vấn đề cơng cộng. Cũng ở góc nhìn này, chính
sách cơng theo cách diễn đạt của Wiliam N. Dunn, đó là một tập hợp về sự
lựa chọn liên quan với nhau (bao hàm cả các quyết định không hành động) do
các cơ quan nhà nước hoặc giới chức nhà nước thơng qua.
Chính sách với những tác động có tính hướng đích bằng chương trình
hành động để đạt các mục tiêu đã xác định.
Như vậy, tiếp cận theo nghiên cứu của ngành chính sách cơng: chính
sách được hiểu là một tập hợp các quyết định do nhà nước ban hành theo
thẩm quyền cùng với việc lựa chọn các giải pháp, công cụ để giải quyết vấn
đề thực tiễn xã hội theo mục tiêu xác định. Hay nói cách khác, chính sách
cơng là chương trình hành động được nhà nước ban hành theo thẩm quyền
để giải quyết vấn đề thực tiễn xã hội theo mục tiêu đã xác định.
Về chính sách văn hóa, năm 1967 tại Hội nghị bàn trịn các chuyên gia
văn hóa tổ chức ở Monaco đã xác định: Chính sách văn hóa là một tổng thể
19



những thực hành xã hội hữu thức được suy tính kỹ về sự can thiệp hay không
can thiệp của Nhà nước vào các hoạt động văn hóa bằng cách sử dụng tối ưu
tất cả nguồn vật chất và nhân lực để đáp ứng nhu cầu văn hóa của nhân dân.
Ở góc nhìn nghiên cứu của ngành chính sách cơng, chính sách bảo tồn
và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số được hiểu là một tập hợp các
quyết định do nhà nước ban hành theo thẩm quyền cùng với việc lựa chọn
các giải pháp, công cụ để giải quyết những vấn đề văn hóa các dân tộc thiểu
số đặt ra trong thực tiễn xã hội nhằm quản lý và định hướng bảo tồn và phát
triển văn hóa các dân tộc thiểu số bền vững theo mục tiêu xác định.
1.1.3. Khái niệm “Thực hiện chính sách bảo tồn và phát triển văn hố
các dân tộc thiểu số”
Việc thực hiện chính sách là một tất yếu khách quan để đạt mục tiêu đề
ra theo yêu cầu quản lý của nhà nước. Thực hiện chính sách[13;tr.112] là
bước chuyển các ý đồ của chính sách thành hiện thực thơng qua các hoạt
động có tổ chức của cơ quan nhà nước để đạt mục tiêu đã xác định.
Do đó, thực hiện chính sách được hiểu là việc tổ chức hoạt động của các
chủ thể tham gia vào quá trình triển khai chương trình hành động bằng các
công cụ, giải pháp đã xác lập trong các quyết định pháp lý nhằm hiện thực
hóa mục tiêu của nhà nước để cải thiện và phát triển xã hội.
Như vậy, thực hiện chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa các dân
tộc thiểu số được hiểu là việc tổ chức hoạt động của các chủ thể tham gia
vào quá trình triển khai chương trình hành động về lĩnh vực văn hóa các dân
tộc thiểu số bằng các công cụ, giải pháp đã xác lập trong các quyết định
pháp lý nhằm hiện thực hóa mục tiêu xác định của nhà nước về bảo tồn và
phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số theo hướng bền vững.
Chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số phải được
triển khai trong thực tiễn đời sống xã hội. Một chính sách tốt/ xấu chỉ có thể
20



xác định khi trải qua thực tiễn khách quan xã hội; và chúng được phán xét
tích cực khi nhận được ý chí, nguyện vọng và sự đồng thuận xã hội của nhân
dân.
1.2. Quy trình thực hiện chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa
các dân tộc thiểu số
1.2.1. Xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách bảo tồn và phát triển
văn hóa các dân tộc thiểu số
Việc xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách bảo tồn và phát triển văn
hóa các dân tộc thiểu số là căn cứ định hướng để các cơ quan nhà nước chủ
động tiến hành các hoạt động đưa chính sách này đi vào đời sống thực tiễn xã
hội. Kế hoạch triển khai thực hiện chính sách về lĩnh vực văn hóa u cầu
phải cụ thể, chi tiết và rõ ràng.
- Kế hoạch về chương trình tổ chức, điều hành đối với cơ quan, tổ chức
tham gia, đội ngũ cán bộ đối với chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa các
DTTS, thường là gồm có: Bảng phân cơng nhiệm vụ của từng cơ quan: cơ
quan chủ trì đầu mối, cơ quan thực hiện, các bên phối hợp thực hiện chính
sách này; Bảng phần hành nhiệm vụ, công việc gắn với trách nhiệm của từng
cơ quan, của cán bộ quản lý và công chức, viên chức thực hiện; Cơ chế tác
động giữa các cấp trong thực hiện chính sách này.
Yêu cầu của việc xây dựng kế hoạch về chương trình tổ chức, điều hành
chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số địi hỏi là phải
tránh tình trạng chồng chéo hay trùng lặp nhiệm vụ hoặc tình trạng bỏ sót
nhiệm vụ.
- Kế hoạch về các nguồn lực thực hiện chính sách bảo tồn và phát triển
văn hóa các DTTS: Dự kiến quy mô, chất lượng và cơ cấu đội ngũ nhân sự
theo yêu cầu thực hiện chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa; Dự kiến tài
chính ngân sách, trang thiết bị, cơ sở vật chất, phương tiện, kỹ thuật,... Yêu
21



cầu việc dự kiến kế hoạch bố trí phải đủ nguồn lực để các chủ thể chính sách
triển khai kế hoạch hành động có tính khả thi.
- Xác định khung tiến độ phân kỳ thời gian hoàn thành các nhiệm vụ cụ
thể để đạt đến mục tiêu cuối cùng của chính sách bảo tồn và phát triển văn
hóa: thời gian của bước tuyên truyền phổ biến; thời gian tổ chức triển khai
thực hiện chính sách và duy trì, điều chỉnh chính sách này; thời gian sơ kết và
tổng kết đánh giá chính sách. Việc dự kiến thời gian các nhóm nhiệm vụ phải
thực hiện gắn với các mục tiêu cụ thể phải hoàn thành; và phải phù hợp với
đề án/ chương trình hành động của chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa.
- Dự kiến kế hoạch kiểm tra giám sát tiến độ thực thi chính sách này ở
từng phần công việc theo thời gian đã xác định. Dự kiến cả về các phương
pháp sử dụng và hình thức kiểm tra giám sát thực hiện chính sách bảo tồn và
phát triển văn hóa.
- Xây dựng quy chế thực hiện chính sách bảo tồn và phát triển văn
hóa: quy chế về tổ chức hoạt động điều hành chính sách này; quy chế làm
việc của các cơ quan nhà nước quản lý điều hành chính sách bảo tồn và phát
triển văn hóa; quy chế về khen thưởng, kỷ luật trong thực hiện chính sách...
Việc xét duyệt kế hoạch chương trình thực hiện chính sách bảo tồn và
phát triển văn hóa do thẩm quyền của người lãnh đạo cùng cấp quyết định.
Sau khi kế hoạch thực hiện chính sách này được duyệt sẽ có giá trị pháp lý
cùng hiệu lực thi hành.
1.2.2. Tổ chức tuyên truyền phổ biến thực hiện chính sách bảo tồn và
phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số
Bước này phải được triển khai ngay sau khi kế hoạch chương trình thực
hiện chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa được duyệt, yêu cầu các chủ thể
của chính sách này là cơ quan truyền thơng báo chí, các cơ quan nhà
22



nước, và đội ngũ cán bộ phải triển khai kịp thời nhiệm vụ tuyên truyền phổ
biến chính sách theo kế hoạch chương trình được duyệt. Đối tượng của cơng
tác tun truyền phổ biến chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa là tồn thể
các cộng đồng dân cư và nhân dân để họ được biết và ý thức tự giác chấp
hành và tham gia thực hiện chính sách này.
1.2.3. Phân cơng, phối hợp thực hiện chính sách bảo tồn và phát triển
văn hóa các dân tộc thiểu số
Bước phân cơng, phối hợp thực hiện các nhiệm vụ chính sách này tiến
hành theo chương trình kế hoạch hành động được duyệt nhưng cần đảm bảo
sự phân công – phân nhiệm rõ ràng của các cơ quan và các hoạt động phải có
sự tương tác đồng bộ để đảm bảo các mục tiêu chính sách.
Các chủ thể tham gia thực hiện chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa
các dân tộc thiểu số khơng chỉ có các cơ quan nhà nước, các tổ chức trong hệ
thống chính trị và đội ngũ nhân sự là cán bộ, công chức, viên chức, mà cịn
phải coi trọng chủ thể trung tâm của chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa
là mọi người dân của tất cả các thành phần dân tộc. Theo đó, việc cần thiết
trong thực hiện chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa là phải xác lập một
cơ chế phối hợp giữa các chủ thể tham gia.
Việc tổ chức phân cơng và phối hợp để thực hiện chính sách bảo tồn và
phát triển văn hóa phải theo kế hoạch chương trình thực hiện chính sách được
duyệt, phải gắn kết làm rõ vai trò trách nhiệm cơ quan, cá nhân chủ trì/ điều
phối, vai trị trách nhiệm cơ quan, cá nhân tham gia là thành viên chính; vai
trị trách nhiệm cơ quan, cá nhân là thành viên phối hợp thực hiện (tránh tình
trạng chung chung, khơng cụ thể rõ ràng xảy ra).
1.2.4. Duy trì và điều chỉnh chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa
các dân tộc thiểu số
23


Việc duy trì chính sách này cần đảm bảo các điều kiện cần: (1) Hệ thống

các cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực bảo tồn và phát triển văn hóa có
đầy đủ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn tương ứng; có đủ khả năng tổ chức
điều hành và triển khai tính khả thi chương trình hành động ở lĩnh vực này;
(2) Các nguồn lực vốn ngân sách, cơ sở vật chất, phương tiện và kỹ thuật
phải được phân bổ đủ để đảm bảo phục vụ chính sách bảo tồn và phát triển
văn hóa, đặc biệt là bên cạnh lực lượng cán bộ, cơng chức, viên chức thì cần
hình thành mạng lưới cộng tác viên rộng khắp để thực hiện chính sách này;
(3) Có cơ chế, quy chế cụ thể về phân công - phối hợp thực hiện chính sách
này.
Sự duy trì ổn định, thuận lợi đối với chính sách bảo tồn và phát triển văn
hóa các dân tộc thiểu số hay không là tùy thuộc vào mức độ đồng thuận trong
phối hợp giữa các chủ thể, đó là: (1) Các cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm
quyền trong tổ chức điều hành thực hiện chính sách bảo tồn và phát triển văn
hóa cần tạo lập mơi trường ổn định để thuận lợi cho q trình thực hiện chính
sách này; (2) Chủ thể là người dân ở tất cả các thành phần dân tộc là người
chấp hành chính sách này, họ cần tự giác, tích cực tham gia vào q trình
chính sách này. Nếu việc tiến hành những hoạt động này có tính đồng bộ thì
việc duy trì chính sách này là thuận lợi.
Việc điều chỉnh chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa trong quá trình
thực hiện là nhiệm vụ cần thiết và rất quan trọng khi diễn biến của tác động
chính sách khơng thuận chiều. Những cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành chính sách này cũng là cơ quan có thẩm quyền điều chỉnh chính sách.
Quyền điều chỉnh chính sách cần tập trung đổi mới cơ chế, sáng kiến biện
pháp phù hợp thực hiện để đáp ứng mục tiêu kỳ vọng của chính sách bảo tồn
và phát triển văn hóa (chứ không nên/ không được làm phá vỡ mục tiêu ban
đầu chính sách này).
24


1.2.5. Theo dõi, kiểm tra và đôn đốc thực hiện chính sách bảo tồn và

phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số
Nhiệm vụ theo dõi, kiểm tra và đôn đốc thực hiện chính sách bảo tồn và
phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số do cơ quan Nhà nước cùng đội ngũ
nhân sự có thẩm quyền tiến hành thơng qua việc sử dụng các cơng cụ, hình
thức, phương pháp để giúp định hướng cho các chủ thể chính sách bảo tồn và
phát triển văn hóa tăng cường ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ thực hiện theo
sự phân công nhiệm vụ.
Tất cả mọi hoạt động liên quan đến việc triển khai chính sách thì đều
cần phải tiến hành theo dõi, kiểm tra và đơn đốc để q trình thực thi chính
sách bảo tồn và phát triển văn hóa được định hướng đúng và đảm bảo, cũng
như góp phần sử dụng các nguồn lực đạt hiệu quả. Thông qua sự chú trọng
các hoạt động theo dõi, kiểm tra và đơn đốc để kịp thời phịng ngừa và ngăn
chặn các ý đồ tiêu cực, hành vi vi phạm quy định trong thực hiện chính sách
bảo tồn và phát triển văn hóa.
1.2.6. Cơng tác sơ kết, tổng kết đánh giá việc thực hiện chính sách
bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số
Công tác sơ kết, tổng kết và đánh giá việc thực hiện chính sách này được
tiến hành bởi các cơ quan nhà nước có chức năng và các cá nhân có thẩm
quyền trong suốt thời gian duy trì chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa
các dân tộc thiểu số. Q trình đó, có thể đánh giá từng phần nội dung, nhóm
nhiệm vụ theo tiến độ đặt ra hoặc đánh giá tổng hợp kết quả thực hiện chính
sách này sau khi kết thúc chính sách; có thể đánh giá giữa kỳ và cuối kỳ so
với mục tiêu chính sách dân số yêu cầu theo tiến độ.
Việc tiến hành sơ - tổng kết để tập trung: (1) Đánh giá công tác chỉ đạo
và điều hành quá trình thực hiện chính sách dân số, phải căn cứ vào kế hoạch
chương trình được duyệt, căn cứ vào hiệu lực của các văn bản quy
25



×