Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Tài liệu Báo cáo "Quan niệm về pháp luật kinh tế trong cơ chế thị trường " pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.13 KB, 8 trang )



nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học số 1/2004 9





TS. Trần NGọc Dũng *
1. t vn
Trong nn kinh t th trng, cỏc nh
kinh doanh thuc nhiu thnh phn cú cỏc
quan h kinh t, thng mi rt cht ch v
khng khớt vi nhau. H u mun xõy
dng lũng tin, duy trỡ cỏc mi quan h kinh
t vi cỏc i tỏc mt cỏch lõu di nhm
m bo cho hot ng kinh doanh, thng
mi ca h c n nh v phỏt trin. Tuy
vy, ụi khi, vỡ nhiu lớ do ch quan v
khỏch quan khỏc nhau, cỏc mi quan h kinh
t, thng mi gia cỏc nh kinh doanh cng
cú nhng bt ng v mõu thun, dn n
cỏc tranh chp trong vic thc hin cỏc cam
kt kinh t. Vn t ra l phi cú phng
thc gii quyt tranh chp kinh t mt cỏch
nhanh gn, ớt tn kộm v thi gian, ti chớnh
v sc lc cho hot ng kinh t, thng
mi ca cỏc doanh nghip khụng b nh
hng bt li.
Phng thc gii quyt tranh chp kinh


t theo th tc trng ti v theo th tc t
phỏp ó c nhiu hc gi nghiờn cu trong
mt s cụng trỡnh. Nhng phng thc gii
quyt tranh chp kinh t bng thng lng,
ho gii (cú ho gii viờn) cũn cha c
nghiờn cu mt cỏch y v cú h thng.
Tuy vy, khụng nờn b qua hoc xem
nh kh nng gii quyt cỏc tranh chp kinh
t bng phng thc thng lng, ho gii,
bi vỡ cỏc phng thc ny cú nhng u
im nht nh v trong thc t cng ó
c cỏc nh kinh doanh s dng mt cỏch
cú hiu qu, em li li ớch cho cỏc bờn.
iu 7 Phỏp lnh hp ng kinh t
(1989) quy nh: Cỏc tranh chp phỏt sinh
khi thc hin hp ng kinh t c gii
quyt bng cỏch t thng lng gia cỏc
bờn vi nhau hoc a ra Trng ti kinh t.
iu 24 Lut u t nc ngoi ti Vit
Nam (1996) quy nh: Cỏc tranh chp gia
cỏc bờn tham gia hp ng hp tỏc kinh
doanh hoc gia cỏc bờn liờn doanh cng
nh cỏc tranh chp gia cỏc doanh nghip
cú vn u t nc ngoi, cỏc bờn tham gia
hp ng hp tỏc kinh doanh vi cỏc doanh
nghip Vit Nam trc ht phi c gii
quyt thụng qua thng lng, ho gii.
iu 239 Lut thng mi (1997) quy nh:
1) Tranh chp thng mi trc ht phi
c gii quyt thụng qua thng lng

gia cỏc bờn; 2) Cỏc bờn tranh chp cú th
tho thun chn mt c quan, t chc hoc
cỏ nhõn lm trung gian ho gii.
Tuy vy, cỏc vn bn phỏp lut hin
hnh u khụng cp cỏc vn nh bn
cht, mc ớch, nguyờn tc, ni dung, th
tc ca phng thc gii quyt cỏc tranh
chp kinh t bng thng lng, ho gii.
Chỳng tụi mun nờu ra mt s quan
* Trng i hc lut H Ni


nghiªn cøu - trao ®æi
10

T¹p chÝ luËt häc sè 1/2004

điểm cá nhân về các vấn đề nêu trên nhằm
gợi mở cho việc nghiên cứu tiếp theo đầy đủ
hơn, sâu sắc hơn về phương thức giải quyết
tranh chấp kinh tế, thương mại có nhiều ưu
điểm này.
2. Bản chất của việc thương lượng, hoà
giải trong giải quyết tranh chấp kinh tế
Xét về bản chất, thương lượng và hoà
giải trong việc giải quyết các tranh chấp kinh
tế là hai phương thức giải quyết tranh chấp
kinh tế khác nhau. Chúng có những điểm
chung đều là những hình thức giải quyết
tranh chấp ngoài tố tụng, phi chính phủ. Chủ

thể tham gia vào việc giải quyết các tranh
chấp kinh tế, thương mại ở đây không phải
là những cơ quan do nhà nước lập ra mà
chính là các nhà kinh doanh. Thủ tục thương
lượng, hoà giải cũng không phải được tiến
hành bởi những cơ quan tài phán như trọng
tài thương mại, toà kinh tế. Mặt khác, các kết
quả mà phương thức thương lượng, hoà giải
đạt được cũng không có tính cưỡng chế và
không được thực hiện bằng cơ quan chuyên
nghiệp (thi hành án).
Thương lượng là phương thức giải quyết
tranh chấp kinh tế bằng cách các bên có
tranh chấp gặp nhau, nêu ra các quan điểm,
yêu cầu của mình và thông qua việc đàm
phán, trao đổi trực tiếp để tìm ra cách giải
quyết vụ tranh chấp mà các bên đều có thể
chấp nhận được. PGS.TS. Trần Đình Hảo
cho rằng: “Đặc điểm cơ bản của thương
lượng là các bên cùng nhau trình bày, phát
biểu quan điểm, chính kiến, bàn bạc, tìm các
biện pháp thích hợp và đi đến thống nhất
thoả thuận để tự giải quyết bất đồng”.
(1)

Hoà giải là phương thức các bên có
tranh chấp kinh tế, thương mại chấp nhận
hay lựa chọn hoà giải viên (người thứ ba
làm trung gian) để giúp đỡ, hỗ trợ các bên
tìm ra giải pháp thích hợp trong quá trình

đàm phán giải quyết tranh chấp kinh tế. Kết
quả của việc hoà giải là một phương thức
giải quyết vụ tranh chấp mà các bên đều có
thể chấp nhận được.
3. Mục đích của việc giải quyết tranh
chấp kinh tế bằng phương thức thương
lượng, hoà giải
a. Giải quyết tranh chấp kinh tế một
cách nhanh gọn, ít tốn kém
Đối với các nhà kinh doanh, thời gian là
tiền bạc. Việc giải quyết các tranh chấp kéo
dài sẽ làm cho họ không có điều kiện chú
tâm vào các hoạt động kinh doanh, thương
mại và có thể bỏ lỡ các cơ hội kinh doanh,
dẫn đến các thua thiệt về kinh tế. Phương
thức giải quyết tranh chấp kinh tế theo thủ
tục trọng tài và thủ tục tư pháp đòi hỏi phải
mất khá nhiều thời gian do các bên cũng như
cơ quan trọng tài hoặc toà án phải thực hiện
rất nhiều công đoạn do luật định như lập bộ
hồ sơ và đơn gửi trọng tài hoặc toà án; nộp
các khoản phí và lệ phí; chọn trọng tài viên;
khai những điều có liên quan đến vụ tranh
chấp; điều tra, thu thập thêm tài liệu, chứng
cứ; mở phiên xét xử ở nhiều cấp
Còn đối với việc giải quyết tranh chấp
kinh tế bằng phương thức thương lượng, hoà
giải thì có thể giản tiện được hầu hết các
công việc nói trên. Việc các bên gặp nhau để
đàm phán, thương lượng có thể được tiến

hành nhanh gọn, đơn giản, không qua nhiều


nghiªn cøu - trao ®æi
T¹p chÝ luËt häc sè 1/2004
11
cấp bậc, tầng nấc và không phải tuân thủ
thời hạn nào.
Ngoài ra, nếu các bên yêu cầu các cơ
quan tài phán giải quyết các tranh chấp kinh
tế, thương mại thì phải trả những khoản phí
và lệ phí khá lớn. Trong khi đó, nếu các bên
tự thương lượng trực tiếp với nhau hoặc hoà
giải (có hoà giải viên) thì mức chi phí vật
chất mà các bên bỏ ra là không đáng kể,
tránh những thiệt thòi, bất lợi về mặt kinh tế
cho các bên.
b. Các bên tranh chấp có thể tập trung
vào vấn đề chính của việc giải quyết tranh
chấp, tránh được những vấn đề thuộc về thủ
tục, hình thức
Nếu việc giải quyết tranh chấp kinh tế
được tiến hành ở các trung tâm trọng tài
hoặc toà án, thủ tục thường rất rườm rà,
phức tạp, theo đúng trình tự các bước. Nhiều
khi, vì những lí do không quan trọng mà làm
cho vụ việc phải kéo dài, đôi khi không giải
quyết được vấn đề cơ bản, cốt lõi của sự
tranh chấp. Khi vụ tranh chấp kinh tế được
giải quyết theo phương thức thương lượng,

hoà giải, các bên có thể tập trung ngay vào
vấn đề cơ bản, cốt lõi của sự tranh chấp.
(2)


c. Bảo vệ được uy tín, vị thế của các nhà
kinh doanh
Trong hoạt động kinh doanh, thương
mại, việc các nhà kinh doanh tạo được một
“thương hiệu”, uy tín và một vị thế trong
giới kinh doanh là hết sức quan trọng. Do
vậy, việc phải đưa nhau ra cơ quan trọng tài
hoặc toà án để kiện nhau hoặc hầu kiện là
một việc mà các nhà kinh doanh không
muốn, vì điều đó, theo tâm lí của người
phương Đông, làm ảnh hưởng bất lợi cho uy
tín nghề nghiệp và vị thế của các nhà kinh
doanh.
Nếu vụ tranh chấp kinh tế, thương mại
được giải quyết bằng thủ tục thương lượng,
hoà giải thì đó là một việc “xử lí kín”, sẽ
không ai biết gì về vụ tranh chấp này ngoài
các bên có tranh chấp và hoà giải viên. Như
vậy, uy tín nghề nghiệp, vị thế và danh dự
của các bên sẽ được giữ vững, mối quan hệ
kinh tế, thương mại với các đối tác khác sẽ
được củng cố và ngày càng phát triển.
d. Tiếp tục duy trì được các mối quan hệ
kinh tế, thương mại giữa các bên
Khi các bên có tranh chấp kinh tế đưa

nhau ra cơ quan trọng tài hoặc toà án để yêu
cầu các cơ quan này ra các phán quyết về
việc giải quyết tranh chấp thì sẽ có bên
“được” và bên “thua”. Điều đó gây ra tâm lí
không thoải mái đối với các bên, nhất là bên
“bị thua”. Vì vậy, việc tiếp tục duy trì các
mối quan hệ kinh tế, thương mại giữa các
bên sẽ bị ảnh hưởng xấu. Qua đó, hoạt động
kinh tế, thương mại giữa các bên sẽ chịu
nhiều ảnh hưởng bất lợi. Còn nếu các bên
giải quyết tranh chấp kinh tế bằng phương
thức thương lượng, hoà giải thì sẽ không có
ai “được”, không có ai “bị thua”, các bên
đều bình đẳng với nhau và các mối quan hệ
kinh tế, thương mại giữa họ sẽ được tiếp tục
duy trì, củng cố và phát triển.
4. Nguyên tắc của việc giải quyết tranh
chấp kinh tế theo phương thức thương
lượng, hoà giải
Chúng tôi cho rằng việc giải quyết tranh
chấp kinh tế, thương mại theo phương thức


nghiªn cøu - trao ®æi
12

T¹p chÝ luËt häc sè 1/2004

thương lượng, hoà giải cần phải tuân theo
những nguyên tắc sau:

a. Các bên đều bình đẳng và tự do ý chí
Khi các bên chọn phương thức thương
lượng, hoà giải để giải quyết tranh chấp kinh
tế có nghĩa là các bên tự nguyện tìm đến
nhau để chủ động giải quyết các tranh chấp
hoặc bất đồng. Các bên có quyền đưa ra các
các cơ sở pháp lí và dẫn chứng thực tiễn để
chứng minh cho các quyền và nghĩa vụ của
mình. Các bên cũng thương lượng, cân nhắc
điều hơn lẽ thiệt để tìm ra cách giải quyết
tranh chấp hợp tình, hợp lí mà các bên đều
có thể chấp nhận được. Với phương thức giải
quyết tranh chấp như vậy thì có thể nói là
không có “bên được”, “bên thua” mà các bên
đều bình đẳng với nhau, đều bình đẳng trước
pháp luật.
Việc các bên nêu ra quan điểm và đề
xuất phương hướng, biện pháp giải quyết
tranh chấp cũng hoàn toàn là sự tự do ý chí,
không ai có quyền bắt ép hoặc cưỡng bức ý
chí của bất kì bên nào.
b. Thái độ của các bên phải thẳng thắn,
trung thực
Để cho việc giải quyết tranh chấp kinh tế
theo phương thức thương lượng, hoà giải đạt
được kết quả mong muốn, các bên phải
thương lượng, hoà giải với thái độ thẳng
thắn và trung thực. Không bên nào được có
biểu hiện gian dối, lừa đảo, vòng vo, vị kỉ,
cố chấp Những lời nói, hành vi có những

tính chất trên của một bên hoặc của các bên
(nếu có) sẽ làm cho việc thương lượng, hoà
giải các tranh chấp kinh tế không đạt được
những kết quả mong muốn, làm cho các
tranh chấp ngày càng thêm nghiêm trọng và
sẽ chỉ có thể giải quyết được bằng thủ tục
trọng tài hoặc thủ tục tư pháp.
c. Quan điểm của các bên là tôn trọng
các tập quán thương mại, thông cảm, tương
trợ lẫn nhau
Các tập quán thương mại (trong nước
cũng như quốc tế) đã tồn tại từ lâu đời. Tuy
đó là luật bất thành văn nhưng chúng vẫn có
tác dụng rất quan trọng trong quá trình thực
hiện các hoạt động kinh doanh, thương mại.
Khi các bên đã chọn phương thức thương
lượng, hoà giải để giải quyết các tranh chấp
kinh tế giữa họ với nhau thì các bên cần tôn
trọng các tập quán thương mại vốn có và
thông cảm, tương trợ lẫn nhau. Các bên cần
nhận rõ những khó khăn của nhau, giúp đỡ,
tương trợ lẫn nhau trong quá trình thực hiện
hợp đồng. Bên nào có nhiều thuận lợi hơn
cần giúp đỡ, hỗ trợ bên kia khắc phục những
điều kiện bất lợi hoặc thiệt hại, chứ không
nên nhất thiết cứ đòi hỏi quyền lợi của mình
theo đúng như các quy định của pháp luật
hiện hành.
d. Kết quả thương lượng, hoà giải phải
cụ thể, rõ ràng, dễ thực hiện

Khi các bên đã ngồi lại được với nhau để
giải quyết tranh chấp kinh tế theo phương
thức thương lượng, hoà giải thì kết quả
thương lượng, hoà giải cần phải cụ thể, rõ
ràng chứ không thể chỉ là những thoả thuận
chung chung, mập mờ, có tính nguyên tắc.
Có như vậy thì các bên mới dễ thực hiện, dễ
giám sát nhau trong việc thực hiện các thoả
thuận, mới không phát sinh ra các mâu thuẫn
và tranh chấp mới giữa các bên.


nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học số 1/2004
13
. Kt qu thng lng, ho gii khụng
c trỏi phỏp lut
Kt qu thng lng, ho gii cú th
linh ng, mm mi, khụng cng nhc,
mỏy múc nh vic gii quyt tranh chp
theo phng thc trng ti hoc t phỏp
nhng khụng th trỏi phỏp lut. Bi vỡ, nu
nh vy thỡ quyn v li ớch hp phỏp ca
ngi khỏc, ca Nh nc, ca xó hi s b
vi phm. Cỏc bờn ch cú th thụng cm,
tng tr, nhng nhn, giỳp , h tr ln
nhau trong phm vi cho phộp ch khụng th
tu tin khụng m xa n cỏc quy nh
ca phỏp lut hin hnh v vn ang cú
tranh chp.

e. Cỏc bờn tụn trng v t giỏc thi hnh
kt qu thng lng, ho gii
Kt qu thng lng, ho gii t c
l do cỏc bờn t tho thun vi nhau nờn nú
bo m quyn li ca cỏc bờn. Kt qu ny
khụng phi c hỡnh thnh t phỏn quyt
ca cỏc c quan ti phỏn. Do ú, cỏc bờn cn
phi tụn trng cỏc kt qu tho thun ó t
c v cn t nguyn, t giỏc thi hnh kt
qu thng lng, ho gii. Nu mt bờn
hoc cỏc bờn khụng tụn trng kt qu thng
lng, ho gii, khụng t giỏc thc hin cỏc
kt qu ny thỡ tranh chp kinh t, thng
mi khụng th c gii quyt mt cỏch
nhanh gn v n tho.
f. Cỏc bờn bo m gi gỡn bớ mt nhng
ti liu, chng c, quan im a ra trong quỏ
trỡnh thng lng, ho gii tranh chp kinh t
u im ca phng thc gii quyt
tranh chp kinh t bng thng lng, ho
gii l x lớ kớn v vic cú tranh chp
gi gỡn uy tớn ngh nghip, v th trong
thng trng ca cỏc bờn. ng thi, vic
gii quyt tranh chp kinh t õy l mm
mng v linh hot ch khụng cng nhc,
mỏy múc theo ỳng cỏc quy nh ca phỏp
lut hin hnh nhm gii quyt tranh chp
mt cỏch nhanh gn, cú hiu qu. Vỡ vy,
cỏc bờn cng nh ho gii viờn cú ngha v,
trỏch nhim gi gỡn bớ mt nhng ti liu,

chng c, quan im do cỏc bờn a ra trong
quỏ trỡnh thng lng, ho gii tranh chp
kinh t; khụng c cụng khai hoỏ cỏc ti
liu, chng c, quan im ú hoc s dng
cỏc quan im, xut ca cỏc bờn trong
phng thc gii quyt tranh chp bng th
tc trng ti hoc th tc t phỏp sau ny.
(3)
5. Ni dung ca vic gii quyt tranh
chp kinh t, thng mi bng thng
lng, ho gii
Ni dung ca vic gii quyt tranh chp
kinh t, thng mi theo phng thc
thng lng, ho gii l nhng cụng vic
c th m cỏc bờn cn phi lm rừ v tin
hnh nhm gii quyt tranh chp gia cỏc
bờn mt cỏch thit thc v cú hiu qu. Ni
dung ca vic gii quyt tranh chp kinh t,
thng mi bng thng lng, ho gii bao
gm nhng cụng vic nh sau:
a. Xỏc nh rừ cỏc quyn v ngha v
ca mi bờn
Cỏc bờn phi xỏc nh rừ cỏc quyn v
ngha v ca mi bờn trờn c s cam kt
hoc hp ng ó c kớ kt. Cỏc quyn v
ngha v ca cỏc bờn cú c xỏc nh rừ thỡ
cỏc bờn mi cú cn c thng lng, tho
thun vi nhau, mi gii quyt c tranh



nghiªn cøu - trao ®æi
14

T¹p chÝ luËt häc sè 1/2004

chấp một cách cụ thể và thiết thực.
b. Xác định trách nhiệm cụ thể đối với
các bên
Sau khi đã xác định rõ các quyền và
nghĩa vụ của mỗi bên, các bên cần xác định
trách nhiệm cụ thể mà mỗi bên phải thực
hiện để làm cho tranh chấp kinh tế được giải
quyết. Trách nhiệm này có thể không đồng
nhất với các quyền và nghĩa vụ cụ thể của
mỗi bên theo hợp đồng đã kí kết hoặc theo
pháp luật hiện hành mà có thể khác đi (trong
phạm vi có thể) theo nguyên tắc là các bên
thông cảm và tương trợ lẫn nhau trong việc
giải quyết tranh chấp.
c. Xác định những biện pháp tiếp theo
nếu một bên hoặc các bên không thi hành
nghiêm chỉnh kết quả thương lượng, hoà giải
Khi đã chọn phương thức thương lượng,
hoà giải để giải quyết các tranh chấp kinh tế,
nói chung các bên thường muốn giải quyết
vụ tranh chấp một cách nhanh gọn, ít tốn
kém về thời gian, tiền bạc. Tuy vậy, các bên
vẫn cần lường trước những khả năng có thể
xảy ra để tránh bị động và giải quyết tranh
chấp kinh tế một cách dứt điểm, có hiệu quả.

Ví dụ, trong biên bản ghi nhận sự thoả thuận
của các bên cần ghi rằng: Nếu một bên hoặc
các bên không thi hành nghiêm túc kết quả
thương lượng, hoà giải đã đạt được thì một
bên hoặc các bên cần tiến hành các công
việc cần thiết để đưa vụ tranh chấp ra cơ
quan trọng tài hoặc toà án yêu cầu giải quyết
dứt điểm.
6. Thủ tục giải quyết tranh chấp kinh tế
theo phương thức thương lượng, hoà giải
Thủ tục giải quyết tranh chấp kinh tế
theo phương thức thương lượng, hoà giải là
trình tự những bước công việc mà các bên
cần phải tiến hành để giải quyết tranh chấp
kinh tế, thương mại. Thủ tục này bao gồm
những bước như sau:
a. Các bên nêu vấn đề và nguyện vọng
giải quyết tranh chấp bằng thương lượng
hoặc hoà giải
Khi một hoặc các bên phát hiện thấy có
tranh chấp kinh tế, thương mại thì một bên
hoặc các bên phải liên hệ ngay với bên kia,
thông báo cho bên kia biết quan điểm và ý
định giải quyết tranh chấp bằng thủ tục
thương lượng hoặc hoà giải. Nếu bên kia
chấp nhận phương thức giải quyết tranh chấp
bằng thương lượng, hoà giải thì tranh chấp
sẽ được giải quyết theo phương thức thương
lượng hoặc hoà giải. Nếu một bên không
chấp nhận phương thức giải quyết tranh chấp

bằng thương lượng, hoà giải thì vụ việc sẽ
được đưa ra giải quyết tại cơ quan trọng tài
hoặc toà án.
b. Các bên chọn hoà giải viên
Nếu các bên chọn phương thức thương
lượng để giải quyết tranh chấp kinh tế thì
họ sẽ trực tiếp gặp nhau để đàm phán,
thương lượng, tìm ra một phương án thoả
đáng cho việc giải quyết tranh chấp. Nếu
các bên chọn phương thức hoà giải để giải
quyết tranh chấp kinh tế thì có thể tiến hành
một trong những phương án sau: 1) Các bên
cùng chọn một hoà giải viên; 2) Mỗi bên
chọn cho mình một hoà giải viên; 3) Mỗi
bên chọn cho mình một hoà giải viên; sau
đó, các hoà giải viên này thống nhất chọn ra
một hoà giải viên đứng đầu nhóm hoà giải.


nghiªn cøu - trao ®æi
T¹p chÝ luËt häc sè 1/2004
15
Mỗi phương án này đều có điểm ưu việt
riêng của nó.
c. Thương lượng, hoà giải trực tiếp
Thương lượng, hoà giải trực tiếp là
phương thức thương lượng, hoà giải mà các
bên có trụ sở ở gần nhau trực tiếp gặp gỡ
nhau để thương lượng, đàm phán về việc giải
quyết tranh chấp kinh tế. Trong thủ tục

thương lượng, hoà giải trực tiếp hầu như
không có nhiều thư từ, công văn giữa các
bên, tốn ít thời gian, công sức của các bên,
việc giải quyết tranh chấp linh động và
nhanh gọn.
d. Thương lượng, hoà giải gián tiếp
Trong trường hợp các bên có trụ sở ở xa
nhau, khó có thể gặp mặt nhau để thương
lượng, hoà giải trực tiếp, họ có thể tiến hành
việc thương lượng, hoà giải gián tiếp bằng
cách gửi cho nhau và cho hoà giải viên các
công văn, tài liệu, thư từ thể hiện quan điểm,
ý kiến, nguyện vọng giải quyết tranh chấp
của mình. Hoà giải viên sẽ thông báo cho
các bên về những vấn đề liên quan hoặc hỗ
trợ cho việc hoà giải và nêu ra những gợi ý,
khuyến nghị cần thiết. Nếu các bên không tự
tìm ra được cách thức giải quyết tranh chấp
có hiệu quả thì hoà giải viên có thể đưa ra
một số phương án giải quyết tranh chấp thích
hợp để các bên lựa chọn.
đ. Ghi nhận kết quả thương lượng, hoà giải
Kết quả việc giải quyết tranh chấp kinh
tế bằng thủ tục hoà giải, thương lượng phải
được ghi thành một biên bản, có kí tên, đóng
dấu của đại diện có thẩm quyền của các bên.
Cần chú ý rằng biên bản ghi nhận kết quả
thương lượng, hoà giải không phải là một
văn bản có tính cưỡng chế như một phán
quyết của trọng tài thương mại hoặc như một

bản án của toà kinh tế.
7. Những đề xuất, kiến nghị
Qua nghiên cứu, tác giả xin nêu ra một
số đề xuất, kiến nghị về việc giải quyết tranh
chấp kinh tế, thương mại bằng phương thức
thương lượng, thoả thuận như sau:
a. Cần tham khảo các quy định của nước
ngoài và quốc tế về giải quyết tranh chấp
kinh tế bằng thương lượng, hoà giải
Về mặt lí luận, việc giải quyết tranh chấp
kinh tế bằng phương thức thương lượng, hoà
giải ở Việt Nam còn khá mới mẻ, tuy rằng
trong thực tiễn từ xưa tới nay, các nhà kinh
doanh cũng đã áp dụng những phương thức
này. Trên thế giới, việc giải quyết tranh chấp
thương mại bằng phương thức thương lượng,
hoà giải đã được nghiên cứu và áp dụng từ
khá lâu. Ngày 4/12/1980 Đại hội đồng Liên
hợp quốc đã thông qua Nghị quyết số 35/52
ban hành Quy tắc hoà giải của Uỷ ban của
Liên hợp quốc về Luật thương mại quốc tế
(gồm 20 điều); Năm 1988, Phòng thương
mại quốc tế ở London cũng đã đưa ra Quy
tắc hoà giải lựa chọn ICC; Năm 1987, Trung
tâm hoà giải Bắc Kinh (Trung Quốc) cũng
đã được thành lập và ban hành một quy trình
hoà giải ngắn gọn, linh hoạt. Các giáo sư Mĩ
cũng đã đưa ra quy trình hoà giải Folberg-
Taylor gồm bảy bước Đây là những kinh
nghiệm rất đáng để chúng ta tham khảo khi

xây dựng hệ thống pháp luật về phương thức
giải quyết tranh chấp kinh tế bằng thương


nghiªn cøu - trao ®æi
16

T¹p chÝ luËt häc sè 1/2004

lượng, hoà giải ở nước ta.
b. Xây dựng và ban hành Pháp lệnh giải
quyết tranh chấp kinh tế bằng thương lượng,
hoà giải
Nhà nước ta đã xây dựng và ban hành
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
kinh tế (1994), Pháp lệnh trọng tài thương
mại (2003) để giải quyết các tranh chấp
kinh tế trong tố tụng thì cũng cần xây
dựng và ban hành Pháp lệnh giải quyết
tranh chấp kinh tế bằng thương lượng, hoà
giải, để tạo điều kiện thuận lợi cho việc
giải quyết các tranh chấp kinh tế ngoài tố
tụng. Đây là văn bản pháp lí rất cần thiết
và quan trọng nhằm hoàn thiện hệ thống
văn bản pháp luật về giải quyết các tranh
chấp kinh tế, thương mại.
c. Thành lập các trung tâm hoà giải các
tranh chấp kinh tế; định ra các tiêu chuẩn
đối với hoà giải viên và tuyển chọn các hoà
giải viên

Trên thế giới đã có nhiều trung tâm hoà
giải các tranh chấp kinh tế, thương mại
được xây dựng và hoạt động có hiệu quả.
Chúng ta cũng đang tiến hành việc hội nhập
kinh tế khu vực và quốc tế, tham khảo, học
tập các kinh nghiệm tốt của thế giới trong
nhiều lĩnh vực. Việc xây dựng các trung
tâm hoà giải tranh chấp kinh tế ở Việt Nam
là rất cần thiết và hợp quy luật, đáp ứng yêu
cầu bức xúc của các nhà kinh doanh hiện
nay. Các hoà giải viên cần phải thoả mãn
các tiêu chuẩn như có trình độ cao đẳng, đại
học về pháp lí, kinh tế hoặc kĩ thuật; nhiệt
tình, trung thực; có nghệ thuật thuyết phục,
định hướng hành động cho người khác; có
trình độ ngoại ngữ cần thiết
d. Biên soạn, phát hành tài liệu về các vụ
tranh chấp kinh tế đã được giải quyết bằng
thương lượng, hoà giải
Việc biên soạn, phát hành tài liệu về các
vụ tranh chấp kinh tế đã được giải quyết bằng
phương thức thương lượng, hoà giải là rất cần
thiết để các nhà hoạch định chính sách, các
nhà làm luật, những người làm công tác giảng
dạy, đào tạo cũng như các nhà kinh doanh
tham khảo trong việc giải quyết những vấn đề
về hoặc liên quan tới việc giải quyết tranh
chấp kinh tế bằng thương lượng, hoà giải.
đ. Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về giải
quyết tranh chấp kinh tế bằng thương lượng,

hoà giải cho các cán bộ của doanh nghiệp
và cho các hoà giải viên
Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền,
Phòng thương mại và công nghiệp Việt
Nam, các nhà kinh doanh phải tích cực tổ
chức việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về
giải quyết tranh chấp kinh tế bằng thương
lượng, hoà giải cho những người có liên
quan để bảo đảm cho hệ thống các văn bản
pháp luật về giải quyết tranh chấp bằng
thương lượng, hoà giải được thực hiện một
cách nghiêm túc, đạt được hiệu quả thiết
thực, góp phần làm cho hoạt động kinh tế,
thương mại của nước ta đạt được những kết
quả ngày càng to lớn./.

(1).Xem: Trần Đình Hảo, "Hoà giải, thương lượng
trong việc giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế",
Tạp chí nhà nước và pháp luật, số 1/2000, tr. 30.
(2).Xem: Dương Thanh Mai - Hoàng Đức Thắng,
"Hoà giải trong giải quyết tranh chấp kinh tế", Dự án
VIE- 94/003, H. 1994.
(3).Xem: Điều 6 Quy tắc hoà giải lựa chọn ICC; Điều
14 Quy tắc hoà giải của UNCITRAL.

×