Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Tài liệu TIỂU LUẬN: XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA NƯỚC TA HIỆN NAY DƯỚI ÁNH SÁNG TƯ TƯỞNG PHÁT TRIỂN XÃ HỘI CỦA PH.ĂNGGHEN docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (867.81 KB, 102 trang )






TIỂU LUẬN:
XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA NƯỚC
TA HIỆN NAY DƯỚI ÁNH SÁNG TƯ
TƯỞNG PHÁT TRIỂN XÃ HỘI CỦA
PH.ĂNGGHEN











Trong hệ thống lý luận của cỏc nhà sỏng lập chủ nghĩa Mỏc, tư tưởng phát triển xó
hội của Ph.Ăngghen là hết sức độc đáo, không chỉ thể hiện một cách đặc sắc quan
điểm duy vật về lịch sử, mà cũn chỉ ra sự vận động của những quy luật khách quan
chi phối đời sống xó hội và con đường nhận thức chúng một cách đúng đắn. Theo tư
tưởng này, lịch sử xó hội trong tính tổng thể của nó bao giờ cũng phát triển theo
hướng là kết quả hợp thành của các xu hướng vận động hiện tồn theo nguyên tắc
hỡnh bỡnh hành lực. Dưới ánh sáng tư tưởng phát triển xó hội của Ph.Ăngghen, xu
hướng phát triển chung của đời sống kinh tế – xó hội nước ta hiện nay chính là hướng
hợp thành của sự hợp lực giữa hai xu hướng phát triển cơ bản là định hướng xó hội
chủ nghĩa và khuynh hướng tự phát tư bản chủ nghĩa, trong đó định hướng xó hội chủ


nghĩa đóng vai trũ chi phối, chủ đạo.

Sự hiện thực hóa những tư tưởng vĩ đại của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, từ Cách
mạng tháng Mười Nga, đó làm thay đổi toàn bộ lịch sử thế giới và đưa nhân loại bước
vào thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xó hội. Trong hệ thống lý luận
hoàn bị của cỏc ông, tư tưởng phát triển xó hội của Ph.Ăngghen là hết sức độc đáo,
không chỉ thể hiện một cách đặc sắc quan điểm duy vật về lịch sử, mà cũn chỉ ra sự
vận động của những quy luật khách quan chi phối đời sống xó hội và con đường đúng
đắn để nhận thức chúng.
Đối với các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, lịch sử chẳng qua chỉ là sự hoạt động của
con người đang theo đuổi những mục đích nhất định. Nhưng mục đích của con người,
về thực chất, chỉ là những hỡnh ảnh cụ thể phản ỏnh những lợi ớch thiết thõn của họ.
Như thế, chính sự hoạt động nhằm thực hiện các lợi ích của bản thân mà con người đó
làm ra lịch sử. Tuy nhiờn, trong đời sống xó hội, con người, một mặt, với tư cách một



cá nhân riêng lẻ, bao giờ cũng có nguyện vọng, ham muốn riêng là tạo ra những lợi
ích riêng; nhưng mặt khác, mỗi con người bao giờ cũng là thành viên của một cộng
đồng xó hội nhất định, do đó, họ vừa là sản phẩm của hoàn cảnh lịch sử chung của
cộng đồng, vừa buộc phải tồn tại một cách hũa hợp, thớch nghi với cộng đồng mà bản
thân họ là một thành viên. Đúng là, con người chỉ là con người trong quan hệ xó hội.
Ngoài đời sống xó hội, con người không cũn là con người nữa. Như thế, con người
vừa là chủ thể làm ra lịch sử lại vừa là sản phẩm của lịch sử.
Con người làm ra lịch sử, nhưng tiến trỡnh lịch sử xó hội khụng phải là sản phẩm chủ
quan của những ý chớ cỏ nhõn riờng lẻ, mà luụn tuõn theo những quy luật khỏch quan
vốn cú của chớnh lịch sử. Ph.Ăngghen khẳng định: “Con người làm ra lịch sử của
mỡnh – vụ luận là lịch sử này diễn ra như thế nào – bằng cách là mỗi người theo đuổi
những mục đích riêng, mong muốn một cách có ý thức, và chớnh kết quả chung của
vụ số những ý muốn tỏc động theo nhiều hướng khác nhau đó và của những ảnh

hưởng muôn vẻ của những ý muốn đó vào thế giới bên ngoài đó tạo nờn lịch sử”(2).
ễng chỉ rừ, trong lịch sử xó hội, nhõn tố hoạt động hoàn toàn chỉ là những con người
có ý thức, hành động có suy nghĩ hay có nhiệt tỡnh và theo đuổi những mục đích nhất
định, cho nên không có gỡ diễn ra mà lại khụng cú ý định tự giác, không có mục đích
mong muốn Thế nhưng, theo ông, xét một cách tổng thể, ít khi người ta thực hiện
được điều mà người ta mong muốn; trong phần lớn các trường hợp, những mục đích
mà người ta mong muốn thường xung đột và mâu thuẫn với nhau. Vỡ thế, những
xung đột của vô số những nguyện vọng và hành động riêng biệt đó tạo ra trong lĩnh
vực lịch sử một tỡnh trạng hoàn toàn giống tỡnh trạng ngự trị trong giới tự nhiờn
khụng cú ý thức. Những mục đích của hành động là những mục đích mong muốn;
song kết quả thực tế của những hành động đó lại hoàn toàn không phải là những kết
quả mong muốn, hoặc có thể khi kết quả đó, lúc đầu, hỡnh như cũng phù hợp với mục
đích mong muốn thỡ cuối cựng, lại dẫn tới những hậu quả hoàn toàn khỏc những hậu
quả mà người ta mong muốn(3).
Như vậy, theo Ph.Ăngghen, do mỗi người theo đuổi những mục đích riêng của mỡnh




đó dẫn đến chỗ là, nhiều khi, chính hoạt động của họ lại xung đột với nhau và cản trở
nhau trong việc thực hiện những mục đích riêng tư. Như thế, một mặt, nó cản trở nhau
trong việc thực hiện mục đích của cá nhân mỡnh; mặt khác, nú tạo ra một “trỡnh trạng
hỗn loạn vụ ý thức như những lực lượng mù quáng trong tự nhiên” và như thế, ở cỏi
bề ngoài, ta luụn cú cảm giỏc “ngẫu nhiờn hỡnh như cũng chi phối cả những sự kiện
lịch sử”. Tuy nhiên, từ sự phân tích sâu sắc này, Ph.Ăngghen đó khẳng định: “Ở đâu
mà sự ngẫu nhiên hỡnh như tác động ở ngoài mặt thỡ ở đấy, tính ngẫu nhiên ấy luôn
luôn bị chi phối bởi những quy luật nội tại bị che đậy; và vấn đề chỉ là phát hiện ra
những quy luật đó”(4).
Như vậy, do hoạt động nhằm thực hiện những lợi ích của mỡnh, con người đó làm ra
lịch sử. Nhưng, tiến trỡnh lịch sử ấy lại là sự tương tác biện chứng giữa hoạt động chủ

quan của mỗi cá nhân riêng lẻ và những mối quan hệ xó hội khỏch quan của chớnh
họ, cộng đồng họ tạo ra một cách có ý thức hay không có ý thức. Dĩ nhiên, nếu chỉ
đơn thuần như thế thỡ ta cú thể hỡnh dung lịch sử thường vận động một cách hỗn loạn
và luôn bị các lực lượng ngẫu nhiên dẫn dắt. Thực ra thỡ khụng phải như vậy. Tiến
trỡnh lịch sử xó hội luụn diễn ra một cỏch tất yếu và cũng luụn được dẫn dắt bởi
những quy luật khách quan vốn có của nó. Như vậy, những xu thế tất yếu khách quan
của sự vận động lịch sử đó hỡnh thành và diễn ra như thế nào?
Về điều này, Ph.Ăngghen đó chỉ ra một cỏch sõu sắc: “ lịch sử diễn ra theo cỏch mà
kết quả cuối cựng luụn luụn thu được từ những xung đột của nhiều ý chớ riờng biệt,
hơn nữa, mỗi ý chớ trong số đó trở thành cái như nó hiện có lại chính là nhờ rất nhiều
điều kiện sống đặc biệt. Như vậy, có một số vô tận những lực giao nhau, một nhóm vô
tận những hỡnh bỡnh hành, và vỡ sự đan chéo này mà xuất hiện một hợp lực - sự kiện
lịch sử. Kết quả này lại có thể coi là sản phẩm của một lực tác động như một chỉnh
thể, một cỏch vụ ý thức và vụ ý chớ. Chớnh vỡ cỏi mà một người này muốn thỡ lại
gặp phải tỏc động chống lại của bất kỳ người nào khác, và kết quả cuối cùng là xuất
hiện một cái mà chẳng ai mong muốn. Như vậy, lịch sử, như nó đó diễn ra từ trước
đến nay, diễn ra giống như một quá trỡnh lịch sử tự nhiờn và về thực chất phục tựng



cũng những qui luật vận động như nhau. Nhưng từ một tỡnh huống là ý chớ của
những con người riêng biệt, mà mỗi người trong số họ mong muốn cái mà cấu tạo cơ
thể và những hoàn cảnh bên ngoài, xét tới cùng, là hoàn cảnh kinh tế (hoặc là hoàn
cảnh cá nhân của chính người đó, hoặc hoàn cảnh xó hội chung) lụi cuốn, và những ý
chớ này khụng đạt được cái mà chúng muốn, nhưng hũa nhập thành một cỏi trung
bỡnh, thành một hợp chung, - vỡ thế vẫn khụng thể kết luận rằng những ý chớ ấy
bằng khụng. Ngược lại, mỗi ý chí đều tham gia vào hợp lực và do đó đều nằm trong
hợp lực đó ”(5).
Như vậy, sự phát triển của toàn bộ lịch sử nói chung, của từng giai đoạn lịch sử nói
riêng, theo Ph.Ăngghen, không phát triển theo nguyện vọng riêng của một nhóm xó

hội nào, càng khụng phỏt triển theo nguyện vọng riờng tư của một cá nhân nào, mà
trong tính tổng thể của mỡnh, lịch sử (hay xó hội) bao giờ cũng phỏt triển theo hướng
là kết quả hợp thành của các xu hướng vận động hiện tồn theo nguyên tắc hỡnh bỡnh
hành lực. Trong đó, mọi xu hướng vận động khác nhau đều góp phần tạo nên xu
hướng vận động chung của lịch sử. Tất nhiên, những xu hướng vận động mạnh mẽ có
ảnh hưởng sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xó hội và bao giờ cũng trở
thành “đầu tàu”, thành động lực quyết định xu hướng phát triển chung của toàn xó hội
tại thời điểm lịch sử nhất định. Chính xu hướng vận động này tạo ra sự định hướng
phát triển chung của toàn bộ đời sống - kinh tế xó hội.
Rừ ràng, theo sự phõn tớch của Ph.Ăngghen, ta thấy, từ chỗ là động lực quyết định sự
hoạt động của từng cá nhân riêng lẻ, lợi ích trở thành động lực thúc đẩy sự hoạt động
của các nhóm, các tập đoàn, các cộng đồng xó hội, tạo nờn cỏc xu hướng vận động
chung của một xó hội nhất định. Như vậy, để nhận diện những xu hướng vận động
khác nhau của một xó hội nhất định, và qua đó, nhận thức đúng xu hướng vận động
chung của toàn xó hội tại một thời điểm lịch sử nhất định, ta phải bắt đầu bằng việc
xem xét các quan hệ kinh tế hiện thực để trên cơ sở đó, thấy được các quan hệ lợi ích
cụ thể. Đúng như Ph.Ăngghen khẳng định, “chúng ta tự làm nên lịch sử của chúng ta,
nhưng, thứ nhất, chúng ta làm ra lịch sử với những tiền đề và những điều kiện rất xác




định. Trong số những tiền đề đó và những điều kiện ấy thỡ những tiền đề và điều kiện
kinh tế giữ, rốt cục giữ vai trũ quyết định”(6).
Ta thấy, quan điểm duy vật về lịch sử đó được Ph.Ăngghen thể hiện một cách nhất
quán và sinh động trong quá trỡnh phõn tớch về tiến trỡnh vận động của lịch sử xó
hội loài người. Đặc biệt, trong Về vấn đề nhà ở, Ph.Ăngghen cũn vạch ra một cỏch
thuyết phục rằng, những quan hệ kinh tế của một xó hội nhất định nào đó biểu hiện
trước hết dưới hỡnh thức lợi ớch. Như thế, các quan hệ kinh tế được biểu hiện bằng
các quan hệ lợi ích nhất định và đến lượt nó, các quan hệ lợi ích lại trở thành động lực

trực tiếp thúc đẩy xó hội vận động và phát triển theo những xu hướng hiện thực.
Vận dụng những tư tưởng của Ph.Ăngghen về phát triển xó hội để xem xét thực trạng
đời sống kinh tế - xó hội nước ta hiện nay, từ đó nhận diện chính xác những xu hướng
phát triển chủ yếu của xó hội ta trong điều kiện hội nhập và phát triển kinh tế thị
trường định hướng xó hội chủ nghĩa và trờn cơ sở đó, tăng cường, thúc đẩy xu hướng
phát triển đúng như ta mong muốn, khắc phục, điều chỉnh những xu hướng vận động
lệch lạc xa rời định hướng xó hội chủ nghĩa, cú thể núi, là một yờu cầu cấp bỏch đối
với nước ta hiện nay.
Thực trạng hoạt động của các thành phần kinh tế nước ta hiện nay, như Báo cáo
Chính trị tại Đại hội lần thứ X của Đảng đó chỉ rừ, trờn cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn
dân, tập thể, tư nhân), hỡnh thành nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế
tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước,
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế này có các quan hệ lợi ích
riêng và tạo nên những hệ thống lợi ích khác nhau, do đó, đương nhiên có những động
lực riêng thúc đẩy và lôi kéo đời sống kinh tế - xó hội nước ta vận động và phát triển
theo những xu hướng khác nhau, có khi hỗ trợ nhau nhưng cũng có khi đối lập, lấn ỏt
nhau. Trờn thực tế, cỏc quan hệ kinh tế cụ thể bao giờ cũng biểu hiện về mặt xó hội
bằng cỏc lực lượng xó hội nhất định. Như thế, cùng với kinh tế, trong thời điểm hiện
nay, xó hội ta cũng đang tiềm tàng khả năng vận động theo những xu hướng khác
nhau.



Để góp phần tích cực, chủ động điều chỉnh và định hướng cho sự phát triển chung của
toàn xó hội, chỳng ta cần xem xột cỏc thành phần kinh tế đang hoạt động trong nền
kinh tế thị trường theo định hướng xó hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay để trên cơ sở
đó, nhận biết những xu hướng vận động cũng như vị trí, vai trũ và tỏc động của chúng
đến sự phát triển chung của đời sống kinh tế - xó hội đất nước.
Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế đó tồn tại và phỏt triển mấy chục năm qua,
hiện tại chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế quốc dân. Thành phần kinh tế này đó và

đang phát huy vai trũ chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là
công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mụ toàn bộ nền kinh tế. Mặc dự, hiện
tại, nú cũn gặp một số khó khăn trong bước chuyển đổi, nhưng với qui mô lớn và lợi
thế nhiều mặt, chắc chắn sẽ sớm thiết lập được vai trũ chủ đạo của mỡnh. Đây là thành
phần kinh tế đặt dưới sự điều hành trực tiếp của nhà nước và vỡ thế, sẽ phỏt triển theo
xu hướng mà ta mong muốn, nghĩa là theo đúng định hướng xó hội chủ nghĩa.
Kinh tế tập thể được xây dựng và hỡnh thành trờn cơ sở giải thể cấu trúc hợp tác xó
kiểu cũ để “phát triển mạnh hơn các loại hỡnh kinh tế tập thể đa dạng về hỡnh thức sở
hữu và hỡnh thức tổ chức sản xuất kinh doanh, trước hết là các hợp tác xó kiểu mới,
cỏc hợp tỏc xó mà thành viờn tham gia gồm cả thể nhõn và phỏp nhõn”. Hiện tại, sự
phỏt triển của nú vừa chịu tỏc động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế thị trường, vừa
được sự hỗ trợ tích cực và có hiệu quả của nhà nước. Vỡ thế, xu hướng vận động của
nó rất đa dạng. Để chi phối và điều chỉnh xu hướng vận động của chúng, nhà nước
cần có chính sách khuyến khích, bảo trợ và tạo điều kiện cho thành phần kinh tế này
phát triển một cách tốt nhất. Từ đó, nhà nước sẽ tác động và điều tiết ở tầm vĩ mô để
từng bước thiết lập sự định hướng của mỡnh đối với thành phần kinh tế này. Như vậy,
kinh tế tập thể cùng kinh tế nhà nước “ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của
nền kinh tế quốc dân”.
Kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân) là thành phần kinh tế không thuần
nhất, khác nhau về bản chất, hỡnh thức, quy mụ và trỡnh độ. Mặc dù mới xuất hiện
cùng với quá trỡnh đổi mới, nhưng với tính năng động, nhậy bén và dễ thích ứng




trong điều kiện kinh tế thị trường, kinh tế tư nhân đó trở thành một lực lượng đông
đảo, mạnh mẽ và góp phần quan trọng tạo nên sức sống sôi động của nền kinh tế nước
ta thời gian qua. Do đặc trưng riêng, kinh tế tư nhân một khi không có sự điều chỉnh
tích cực của nhà nước thỡ xu hướng phát triển tự nhiên, tất yếu của nó sẽ vươn tới
phát triển tư bản chủ nghĩa. V.I.Lênin đó từng chỉ rừ, nền tiểu sản xuất, tiểu tư hữu

chính là thế lực tự phát phát triển tư bản chủ nghĩa. Rừ ràng, kinh tế tư nhân, về xu
hướng tự nhiên thỡ chủ nghĩa tư bản là tương lai của nó.
Kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là những thành phần kinh
tế mới xuất hiện cùng công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế. Nhà nước chủ trương
khuyến khích, ưu tiên, tạo điều kiện và tạo môi trường thuận lợi nhất để chúng phát
triển mạnh mẽ ở nước ta. Các thành phần kinh tế này vận hành theo qui luật kinh tế
thị trường và bản thân chúng là những nhân tố tư bản chủ nghĩa trong lũng nền kinh tế
của chỳng ta. Xu hướng vận động tự nhiên của chúng là phát triển tư bản chủ nghĩa,
dù cho nhà nước có điều tiết và kiểm soát như thế nào. Tuy nhiên, do hoạt động trong
môi trường kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa, nờn sự phỏt triển của
chỳng cũng cú những đặc thù. Trên thực tế, chính các thành phần kinh tế này đang tạo
ra những động lực mới cho sự hội nhập và tăng trưởng của nền kinh tế đất nước. Hơn
nữa, sự phát triển mạnh mẽ và thành công của các thành phần kinh tế này cũn đem lại
cho chúng ta những kinh nghiệm, những bài học quan trọng để quản lý và lónh đạo
quá trỡnh hội nhập kinh tế quốc tế. Chớnh vỡ vậy, nhà nước vừa khuyến khích, ưu
đói, tạo điều kiện để các thành phần này phát triển mạnh mẽ, vừa điều chỉnh, tạo cơ
hội để chúng thực sự góp phần xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần của chúng ta
phát triển bền vững.
Như vậy, cùng với sự tồn tại và phát triển của nhiều hỡnh thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế khỏc nhau, đời sống kinh tế - xó hội nước ta cũng đang phát triển theo
những xu hướng khác nhau. Dĩ nhiên, với xuất phát điểm hết sức thấp của nền kinh tế
nước ta thỡ, mọi thành phần kinh tế đang lôi kéo sự vận động của nền kinh tế đất
nước đều đang thực sự thúc đẩy kinh tế - xó hội nước ta vận động theo các xu hướng



phát triển tiến lên. Chính sự tăng trưởng nhanh và ổn định của kinh tế nước ta trong
hai mươi năm đổi mới vừa qua đó khẳng định điều này.
Vỡ thế, cú thể núi, cỏc thành phần kinh tế đang tồn tại và phát triển trong nền kinh tế
của chúng ta hiện nay đều có vị trí và vai trũ quan trọng nhất định. Về xu hướng phát

triển, các thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể sẽ từng bước hợp lực tạo nên
xu hướng phát triển đúng theo định hướng xó hội chủ nghĩa; cũn kinh tế tư nhân, kinh
tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, về xu hướng tự nhiên, là phát
triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. Như vậy, để thực hiện thành công định hướng
xó hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế thị trường của chúng ta hiện nay không có con
đường nào khác là phải chủ động và tích cực phát triển mạnh kinh tế nhà nước và
kinh tế tập thể. Đặc biệt, chúng ta phải sớm có chiến lược phát triển và các giải pháp
triệt để, những bước đi thích hợp nhằm xây dựng kinh tế nhà nước trở thành động lực
cơ bản và thực sự đóng vai trũ chủ đạo, chi phối nền kinh tế quốc dân.
Rừ ràng, theo nguyờn tắc tổng hợp lực, cú thể hỡnh dung đời sống kinh tế - xó hội
nước ta đang phát triển theo hai xu hướng chính với hai lực kéo cơ bản là định hướng
xó hội chủ nghĩa và khuynh hướng tự phát tư bản chủ nghĩa. Định hướng xó hội chủ
nghĩa là xu hướng mà chúng ta mong muốn và hiện đang chiếm ưu thế cả về kinh tế
và xó hội, nguồn lực và tỷ trọng, tiềm năng và cơ hội; cũn xu hướng tự phát tư bản
chủ nghĩa mới manh nha hỡnh thành và dự cũn nhỏ lẻ, rời rạc, bị chia cắt, nhưng sự
phát triển của nó hiện cũng có rất nhiều thuận lợi, nhất là nó rất phù hợp với sự phát
triển tự nhiên của cơ chế thị trường. Hai lực kéo của thời kỳ quá độ này, mặc dù đều
thúc đẩy xó hội ta phỏt triển, nhưng bản thân chúng lại luôn mâu thuẫn, lấn át, đấu
tranh với nhau một cách gay gắt và chính vỡ vậy, chỳng tạo nờn mõu thuẫn cơ bản
của xó hội ta trong giai đoạn quá độ hiện nay.
Với tư cách là mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xó hội, chỳng thực
sự tạo nờn động lực phát triển chung của toàn xó hội ta. Điều này có nghĩa là, trong
thời điểm hiện nay, việc duy trỡ mõu thuẫn cơ bản này chính là duy trỡ động lực nội
tại cho sự phát triển kinh tế - xó hội. Muốn duy trỡ mõu thuẫn cơ bản này, chúng ta




cần có cơ chế, chính sách phù hợp để kích thích các cá nhân, các nhóm xó hội tớch
cực hoạt động thực hiện các lợi ích của mỡnh. Bởi lẽ, các lợi ích kinh tế đang thực sự

trở thành những động lực trực tiếp thúc đẩy sự phát triển và tăng trưởng nền kinh tế
đất nước.
Cú thể núi, xó hội ta đang phát triển với hai lực kéo luôn mâu thuẫn, đấu tranh với
nhau và đương nhiên, sự mâu thuẫn và đấu tranh này nằm trong khuôn khổ điều tiết vĩ
mô của sự định hướng hướng xó hội chủ nghĩa. Và, đến một giai đoạn nhất định, khi
cả hai xu hướng phát triển đạt tới trỡnh độ phát triển cao nhất của chúng, nghĩa là đến
độ chín muồi cả về kinh tế, văn hóa, xó hội và con người, thỡ hai xu hướng này sẽ
chuyển hóa, hũa nhập để đưa toàn bộ xó hội ta bước vào một giai đoạn phát triển mới,
hơn hẳn về chất - đó phải chăng, chính là giai đoạn đầu của chủ nghĩa xó hội ở Việt
Nam.
Đương nhiên, để xó hội ta thực sự phỏt triển theo đúng định hướng xó hội chủ nghĩa
thỡ, trờn cơ sở nhận thức sâu sắc hai xu hướng phát triển cơ bản nêu trên, Nhà nước
với vai trũ điều tiết vĩ mô của mỡnh bằng cỏc biện phỏp hành chớnh, kinh tế, bằng hệ
thống phỏp luật, bằng cơ chế, chính sách , cần phải chủ động xây dựng và tạo lập
được sự liên kết các xu hướng phát triển khác nhau để tạo ra một hợp lực chung của
các xu hướng phát triển; từ đó, tạo nên một tổng hợp lực thúc đẩy sự vận động và phát
triển chung của toàn xó hội - sự tổng hợp lực theo nguyờn tắc hỡnh bỡnh hành lực như
Ph.Ăngghen đó chỉ rừ. Dưới ánh sáng tư tưởng phát triển xó hội của Ph.Ăngghen, có thể
nói, trong bước phát triển quá độ hiện nay, xu hướng phát triển chung của đời sống kinh
tế - xó hội nước ta chính là hướng hợp thành của sự hợp lực giữa hai xu hướng phát triển
cơ bản nêu trên. Đương nhiên, trong đó xu hướng định hướng xó hội chủ nghĩa đóng vai
trũ chủ đạo.
Trong quỏ trỡnh đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay, để xó
hội ta tiếp tục phỏt triển như chúng ta mong muốn, Báo cáo Chính trị tại Đại hội X
của Đảng đó chỉ rừ: “Tiếp tục xõy dựng và hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị
trường định hướng xó hội chủ nghĩa, giải phúng mạnh mẽ sức sản xuất và tạo động



lực mới cho phát triển”. Thực hiện quan điểm chỉ đạo mang tính chiến lược này, trước

hết, chúng ta cần phải nắm vững định hướng xó hội chủ nghĩa trong suốt quỏ trỡnh
phỏt triển kinh tế thị trường; đồng thời phát triển đồng bộ và quản lý cú hiệu quả sự
vận hành cỏc thị trường cơ bản, theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh; phỏt triển mạnh
cỏc thành phần kinh tế, cỏc loại hỡnh tổ chức sản xuất, kinh doanh trờn cơ sở kinh tế
nhà nước giữ vai trũ chủ đạo và cùng với kinh tế tập thể, ngày càng trở thành nền tảng
vững chắc của nền kinh tế quốc dân.r

(*) Tiến sĩ triết học, Phó trưởng ban Chính trị - Triết học, Tạp chí Cộng sản.
(2) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.21. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.
436.
(3) Xem: C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t 21, tr. 435 - 436.
(4) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.21, tr. 436.
(5) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t 37, tr. 643.
(6) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd, t 37, tr. 642.



TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH BƯỚC PHÁT TRIỂN MỚI VỀ Đ
ẠO
ĐỨC TRONG VĂN HÓA VIỆT NAM


ĐỖ HUY (*)
Trong tư tưởng đạo đức của mỡnh, Hồ Chớ Minh đó phỏt triển cỏc giỏ trị đạo đức
dân tộc, tiếp biến tinh hoa đạo đức của nhân loại, xác lập nhiều chuẩn mực đạo đức
mới trong văn hoá Việt Nam. Các tư tưởng về công bằng, bỡnh đẳng xó hội; về sự kết
hợp giữa lợi ớch cộng đồng và lợi ích cá nhân; về chủ nghĩa yêu nước kiểu mới, về
lũng khoan dung và nhõn đạo; về đạo đức sinh thái… dựa trên nội dung mới của
phạm trù thiện - ác, lương tâm, vinh dự, trỏch nhiệm xó hội và ý nghĩa cuộc sống đó
nõng nền văn hoá Việt Nam lên một giai đoạn phát triển mới, đáp ứng được yêu cầu





của thời đại. Vỡ vậy, việc giỏo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là giải pháp lớn
trong lịch trỡnh xõy dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của Việt
Nam trong những thập niên đầu thế kỷ XXI.

Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là biểu trưng cho một trỡnh độ đạo đức mới trong văn
hóa Việt Nam. Nó định hướng lại các quan hệ đạo đức truyền thống, kiến tạo lại các
lối ứng xử giữa con người và con người, giữa con người và tự nhiên. Tư tưởng Hồ
Chí Minh “về đạo đức cách mạng, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; về chăm lo
bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân
ta giành thắng lợi”(1). Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một tài sản tinh thần vô giá
để chúng ta xây dựng xó hội mới trong thế kỷ XXI.
Là một nhà văn hoá lớn, Hồ Chí Minh đó tiếp biến những giỏ trị tớch cực của cả hai
nền đạo đức Đông – Tây, tạo nên sắc thái mới cho các giá trị đạo đức của thời đại
mang tên Người.
Hồ Chí Minh suy tư về các giá trị đạo đức của Khổng Tử, của Nho giáo và đi đến kết
luận: “Về căn bản, chủ nghĩa Khổng Tử là sự bỡnh yờn trong xó hội khụng bao giờ
thay đổi”(2). Hồ Chí Minh cũng đó suy tư rất nhiều về đạo đức Phật giáo. Người hiểu
rất rừ nền văn hóa gắn liền với sự tu tâm, giản dị và các đóng góp của tăng ni, phật tử
ở nước ta cho cách mạng, nhưng triết lý bất bạo động, diệt dục và không sát sinh của
đạo đức Phật giáo tạo ra một lối sống thiếu tích cực trong việc cải tạo xó hội. Do đó,
Người cho rằng: “Ông Bụt không làm hại gỡ, nhưng cũng chẳng làm lợi cho loài
người”(3). Mong muốn kết hợp giữa các giá trị đạo đức Đông – Tây, tiếp biến vào
văn hóa Việt Nam cho phù hợp với thời cuộc mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết rằng:
“Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo của
Zêsu có ưu điểm của nó là lũng nhõn ỏi cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương
pháp làm việc biện chứng; chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó

thích hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Zêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có ưu
điểm chung đó sao? Họ đều muốn mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu cầu hạnh



phúc cho xó hội. Nếu hụm nay họ cũn sống trờn đời này tôi tin rằng họ nhất định sống
chung với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm một
người học trũ nhỏ của cỏc vị ấy”(4).
Thế kỷ XX, loài người chuyển sang một giai đoạn phát triển mới. Trong xu thế đó,
nhân dân Việt Nam cần phải xác lập các chuẩn mực đạo đức mới. Các chuẩn mực này
sẽ kết hợp được các giá trị đạo đức tích cực của nền văn hóa truyền thống dân tộc với
các giá trị đạo đức của loài người tạo nên sự tiến bộ đạo đức trong tiến trỡnh phỏt
triển của xó hội Việt Nam, tiến lên chủ nghĩa xó hội.
Khi lựa chọn giải pháp kết hợp giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại đểgiải
quyết quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, Hồ Chí Minh đó quan tõm sõu
sắc đến các giá trị đạo đức làm cơ sở cho sự phát triển trên một chiều rộng và bám sâu
vào mọi quan hệ xó hội. Trờn nền tảng quyền con người, quyền dân tộc cơ bản, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đó thức tỉnh ý thức đạo đức dân tộc và tạo tiền đề để ý thức đó nối
liền một mạch với thời đại mới mà trước đó, đạo đức Nho giáo, Phật giáo không thể
thực hiện được.
Chủ nghĩa yêu nước kiểu cũ trong văn hóa Việt Nam có một phạm vi hoạt động hạn
hẹp. Trên quan điểm tiến bộ đạo đức, Hồ Chí Minh đó đưa chủ nghĩa yêu nước này
“thành một bộ phận của tinh thần quốc tế”(5). Tư tưởng này là nền tảng quan trọng
của toàn bộ sự tiến bộ đạo đức trong nền văn hóa mới ở Việt Nam. Nó xác lập chủ
nghĩa yêu nước chân chính, đan kết, tiếp biến các giá trị đạo đức tiến bộ của loài
người, gạt bỏ các mặt đạo đức lạc hậu và củng cố ý thức đạo đức mới. Việc kết hợp
các giá trị đạo đức dân tộc với các giá trị đạo đức của thời đại do Hồ Chí Minh khởi
xướng đó tạo ra những xung lượng rất mới chi phối các quan hệ ứng xử, các hành vi
và ý thức đạo đức trong nhân dân, tạo điều kiện cho việc xác lập các quy chuẩn đạo
đức mới.

Khi đấu tranh cho quyền dân tộc cơ bản, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vừa dựa trên
nền tảng chủ nghĩa nhân văn Việt Nam, vừa dựa trên các thành tựu về quyền con
người mà loài người tiến bộ đó đạt được. Đạo đức Phật giáo tuy mang lại cho lối




sống Việt Nam truyền thống sự giác ngộ và giác tha, đức tính giản dị và tiết kiệm,
không ham danh, ham lợi và ham quyền song nhiều thiện nam, tín nữ vẫn sống rất bất
hạnh do các thế lực vô đạo đức tạo nên. Đạo đức Nho giáovới lời khuyên con người
hóy cỏch vật, trớ tri, thành ý, chớnh tõm, tu thõn, tề gia, trị quốc, bỡnh thiờn hạ đó đi
vào đời sống thường nhật của xó hội Việt Nam truyền thống, song cho đến trước Cách
mạng Tháng Tám, đạo đức ấy vẫn duy trỡ sự bất bỡnh đẳng thế hệ, bất bỡnh đẳng
giới tính, bất bỡnh đẳng dân tộc, kỡm trúi xó hội trong sự bỡnh yờn. Đạo đức Lóo
Trang với khát vọng khoan dung và hướng thiện từng có ảnh hưởng nhất định đến văn
hóa truyền thống người Việt, song sự chờ thời, ở ẩn theo triết học tự nhiờn của Lóo
Tử đó khụng thể giải phúng nhõn dõn Việt Nam khỏi những tầng ỏp bức búc lột. Sự
thất bại của đạo đức Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo trước sự xâm lược của thực dân
Pháp ở Việt Nam đó minh chứng cho điều đó. Nhận thức được điều này, Hồ Chí Minh
và Đảng Cộng sản Việt Nam hướng các giá trị đạo đức cổ truyền Việt Nam tới một
nền đạo đức mới, từ chủ nghĩa yêu nước truyền thống đến chủ nghĩa xó hội. Trong
cỏc tỏc phẩm của mỡnh, từ Bản án chế độ thực dân Pháp, Đường Kách
mệnh đếnTuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh luôn hướng tới việc xây dựng các quan
hệ đạo đức mới, nhằm giải phóng nhân cách, xác lập một hệ chuẩn mực đạo đức mới
công bằng hơn, bỡnh đẳng hơn trong xó hội.
Nội dung các quan hệ đạo đức mới trong tư tưởng Hồ Chí Minh, trước hết được phản
ánh trong việc đổi mới các quan hệ giữa con người với con người. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đó xõy dựng, xỏc lập và mở rộng nội hàm của cỏc khỏi niệm, cỏc phạm trự đạo
đức truyền thống. Người bàn tới phạm trù cơ bản nhất của đạo đức học: phạm
trù Thiện Ác. Người viết rằng: “Thiện nghĩa là tốt đẹp, vẻ vang. Trong xó hội khụng

cú gỡ tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ lợi ích của nhân dân.
Trong xó hội cú thiện và cũng có ác.
Theo nghĩa rộng thỡ cả thế giới và trong một nước có thiện và có ác. Theo nghĩa hẹp
thỡ bản thõn và tư tưởng mỗi người cũng có thiện và có ác.
Thiện và ác là hai cái mâu thuẫn, luôn luôn đấu tranh gay gắt với nhau. Cuộc đấu



tranh ấy phải trường kỳ gian khổ, nhưng cuối cùng thỡ ác nhất định bại, thiện nhất
định thắng thực hành chí công, vô tư, cần kiệm liêm chính, thế là thiện. Nếu phạm
phải quan liêu, mệnh lệnh, tham ô, lười biếng thế là ác(6).
Trong thời đại của mỡnh, Hồ Chớ Minh phải giải quyết một khối lượng lớn các vấn
đề có liên quan bản chất đến việc xây dựng các quan hệ đạo đức: truyền thống và hiện
đại; dân tộc và quốc tế; cá nhân và xó hội; dõn tộc và tộc người; con người và tự
nhiên; con người và khoa học - kỹ thuật. Người xác lập tổng thể các mối quan hệ của
đạo đức và xác lập ý thức đạo đức mới trên các chiều cạnh của con người đối với tự
nhiên, con người đối với xó hội, với gia đỡnh, với bản thõn, với truyền thống, với dõn
tộc, với quốc tế. Chủ tịch Hồ Chớ Minh quan tõm sõu sắc đến mối quan hệ giữa đạo
đức sinh thái và đạo đức xó hội. Theo đó, “vỡ sự nghiệp mười năm phải trồng cõy.
Vỡ sự nghiệp trăm năm phải trồng người”: Trồng cây là bản chất đầu tiên của đạo đức
sinh thái và trồng người là bản chất đầu tiên của đạo đức xó hội.
Đây là một tư tưởng lớn và toàn diện về đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tư tưởng
này có một tầm chiến lược sâu rộng trong ứng xử đạo đức của con người với tự nhiên
và xó hội. Xó hội cũ đó hỡnh thành cỏc chuẩn mực đạo đức cũng như giáo dục đạo
đức không toàn diện. Nền đạo đức cũ xác lập được các phạm trù thiện, ác, lương tâm,
danh dự, nghĩa vụ, trách nhiệm nhưng không xác lập được hệ chuẩn mực bỡnh đẳng
xó hội. Sự bất bỡnh đẳng dân tộc, bất bỡnh đẳng giai cấp, bất bỡnh đẳng giới tính, bất
bỡnh đẳng thế hệ, sự thiếu công bằng giữa người dân và người có chức có quyền làm
cho các phong tục, các tập quán xó hội bị kỡm trúi. Vỡ vậy, Hồ Chớ Minh đó tiến
hành cuộc cải tạo xó hội rộng lớn nhằm xỏc lập một ý thức đạo đức mới đủ khả năng

thúc đẩy những nhân tố tiến bộ xuất hiện, tạo nên các cách ứng xử, các quan hệ giữa
cá nhân và cộng đồng, giữa con người và tự nhiên rất mới.
Trước hết, Hồ Chí Minh xác lập ý thức về quyền bỡnh đẳng xó hội rộng lớn.Các
chuẩn mực đạo đức mới mà Hồ Chí Minh nêu lên khi định hướng nền văn hóa mới
vừa xác định, vừa hỗ trợ cho hệ giá trị về quyền bỡnh đẳng dân tộc trong một quốc
gia đa dân tộc; xác lập các khuynh hướng ưu tiên trong các quan hệ giai cấp; xác định




quyền bỡnh đẳng công dân; xóa bỏ sự phân biệt giới tính trong các lợi ích và nghĩa vụ
xó hội. Từ đó, mới tạo ra một hệ chuẩn mực đạo đức mới nhằm phát triển mọi nhân
cách sống, lao động và sáng tạo vỡ mục tiờu cao đẹp của nhân dân và Tổ quốc. Chuẩn
mực mới làm cho người này đối xử với người khác có văn hóa hơn, con người đối xử
với tự nhiên đúng đắn hơn.
Trong xó hội ta, trước Hồ Chí Minh, chưa có một nhà đạo đức và một học thuyết đạo đức
nào giải quyết thành công vấn đề bỡnh đẳng và công bằng xó hội. Cỏi hố sõu ngăn cách
giữa người giàu và người nghèo, người lao động trí óc và lao động chân tay, người làm
nghề này và làm nghề khác trong nền văn hóa truyền thống được các chuẩn mực đạo đức
cũ quy định một cách bất công. Những chuẩn mực này thường ưu tiên cho xó hội thượng
lưu, cho người giàu, người thống trị. Ý thức được rằng, không giải quyết thành công các
chuẩn mực về công bằng xó hội sẽ khụng thể cú tiến bộ xó hội, Hồ Chớ Minh cú quyết tâm
rất cao xóa bỏ các hệ thống chuẩn mực đạo đức bất công trước đây. Khát vọng về công
bằng xó hội, về nghĩa vụ cụng dõn nằm sõu trong ý tưởng về quyền lực của nhân dân, về
sức mạnh của nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đạo đức mới phải gắn liền với sự tham gia đông đảo
của nhân dân làm chủ xó hội. Hồ Chớ Minh từng viết rằng: “Nước ta là nước dân
chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vỡ dõn. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi
mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là công việc
của dân. Chớnh quyền từ xó đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ

Trung ương đến xó do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi
dân”(7). Nhõn dõn là hũn đá tảng để xây dựng và kiểm tra các quan hệ đạo đức mới và
sự tiến bộ của mọi quan hệ đạo đức xó hội.
Để xác lập quyền lực của một trật tự xó hội mới, đảm bảo cho hệ chuẩn đạo đức mới
phát huy các năng lượng và đan kết các giá trị trong văn hóa mới Việt Nam, Hồ Chí
Minh, một mặt, phát huy toàn bộ khả năng của nhân dân trong việc làm chủ xó hội;
mặt khỏc, răn đe một chủ nghĩa cực quyền có thể uy hiếp và nạt nộ dân, tạo nên các
phản đạo đức chống lại sự tiến bộ xó hội. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, để hỡnh



thành cỏc quan hệ đạo đức mới ở thời đại mới, đạo đức phải gắn với pháp luật.
Nhà nước ta, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, là một nhà nước pháp quyền, mặc dầu
Người rất coi trọng đạo đức. Sự tiến bộ đạo đức trong nền văn hóa mới là sự gắn liền
ý thức đạo đức công dân với nhà nước pháp quyền. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, các
quan hệ xó hội căn bản phải được điều chỉnh bằng pháp luật chứ không phải là bằng
đạo lý. Người từng lên án mạnh mẽ nạn bè phái, cảm tỡnh riờng khụng những chỉ làm
thiệt hại đến lợi ích chung mà cũn tổn hại sõu sắc đến văn hóa đạo đức xó hội và nhõn
phẩm con người. Đó cú lần, Hồ Chớ Minh viết rằng: “Chớnh phủ hiện thời đó cố
gắng liờm khiết lắm. Nhưng trong Chính phủ, từ Hồ Chí Minh cho đến những người
làm việc ở ủy ban làng đông lắm, phức tạp lắm. Dù sao Chính phủ đó hết sức làm
gương, và nếu làm gương không xong, thỡ dùng pháp luật mà trị”(8). Do đó, khi quan
tâm giáo dục đạo đức cho nhân dân, Người đó gắn liền với giáo dục pháp luật. Văn hóa cổ
truyền người Việt đó quen đức trị như pháp trị và đặc trưng của đức trị là uy quyền. Đó là
một cơ chế đạo đức do sắc lệnh và sắc chỉ của nhà vua xác lập và buộc dư luận cộng đồng
phải tuân theo. Sau Cách mạng Tháng Tám, Nhà nước ta đó lónh đạo nhân dân bằng luật
pháp, mở rộng quyền để “nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, và dùng quyền dân chủ của
mỡnh”(9).
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề trung tâm của các quan hệ đạo đức mới làvấn đề
lợi ích. Đó là lợi ích cơ bản của dân tộc, của những người lao động, của số đông bị áp

bức, bóc lột, bị dồn nén bất công. Hồ Chí Minh quan tâm đến ba nhóm lợi ích: lợi ích
tập thể, lợi ích cá nhân và sự hội nhập giữa lợi ích tập thể với cá nhân.
Lợi ích tập thể tồn tại một cách khách quan, đó là lợi ích chung của cộng đồng. Người
coi sự cộng đồng về lợi ích có tác dụng thúc đẩy chủ nghĩa nhân đạo phát triển. Sự
cộng đồng những lợi ích cơ bản sẽ định hướng các mục tiêu, các lý tưởng, tạo một cơ
sở vững chắc cho tiến bộ xó hội.
Tuy quan tâm sâu sắc đến các lợi ích chung, nhưng Hồ Chí Minh cũng coi lợi ích cá
nhân là một thực thể tồn tại đích thực trong cơ cấu đạo đức mới. Người nói rằng “đấu
tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải giày xéo lên lợi ích cá nhân”(10). Theo đó,




mọi quan hệ đạo đức phải đặt trên cơ sở phát triển hài hũa giữa lợi ớch cỏ nhõn và lợi
ớch tập thể, dựa trờn nền tảng khoan dung. Cộng đồng là cơ sở để phát triển cá nhân
và cá nhân có trách nhiệm đối với cộng đồng.
Ở bất cứ xó hội nào, cỏc phẩm chất đạo đức đều gắn với những mẫu hỡnh con người
đại diện cho nó. Trong xó hội phong kiến, bậc trượng phu, người quân tử, kẻ sĩ với
các đặc điểm nhân cách của họ là đặc trưng cho nền đạo đức ấy. Xó hội ta, Hồ Chớ
Minh quan tõm đến mẫu hỡnh người cách mạng với các phẩm chất đạo đức cần kiệm,
liêm chính, chí công, vô tư, trung với nước, hiếu với dân.
Ngay từ năm 1927, trong những trang mở đầu tác phẩm Đường Kách mệnh, Hồ Chí
Minh cho rằng, đạo đức cách mạng sẽ tạo nội lực quan trọng cho quá trỡnh cỏch
mạng và vỡ lẽ đó, Người rất quan tâm đến việc tu dưỡng đạo đức người cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh, người cách mạng phải cần kiệm, cẩn thận, nhẫn nại, vị công,
vong tư, không hiếu danh, không kiêu ngạo, nói phải làm Khi giành được chính
quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh càng quan tâm hơn đến đạo đức người cách mạng.
Người cho rằng, đạo đức cách mạng là cái gốc của sự phát triển xó hội mới. Ngay sau
Cỏch mạng Thỏng Tỏm, Người đó cảnh bỏo tỡnh trạng cỏn bộ “lấy của cụng làm việc
tư, quên cả thanh liêm đạo đức”(11).

Việc quan tâm sâu sắc tới đạo đức người cách mạng là một bộ phận trong lý tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh. Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, trung với Đảng, hiếu với dân
khi đó trở thành phẩm chất đạo đức của người cách mạng thỡ diện mạo văn hóa xó
hội sẽ khỏc hẳn cỏi chất “nho nhó” của xó hội cũ. Theo Người, “Đạo đức cũ như người
đầu ngược xuống đất, chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững
được dưới đất, đầu ngẩng lên trời. Bọn phong kiến ngày xưa nêu ra cần kiệm liêm chính
nhưng không bao giờ làm mà lại bắt nhân dân phải tuân theo để phụng sự quyền lợi cho
chúng. Ngày nay ta đề ra cần kiệm liêm chính cho cán bộ thực hiện làm gương cho dân
để lợi cho đất nước, cho dân”(12).
Trong thời đại mỡnh, Hồ Chớ Minh hiểu rừ rằng, cần phải xõy dựng cỏc quan hệđạo
đức gắn liền với khoa học - kỹ thuật. Kiểu người nắm khoa học kỹ thuật thỡ chỉ cú



thời đại ta mới có; vỡ lẽ đó, từ rất lâu, Hồ Chí Minh đó đặt vấn đề “dạy bảo các cháu
thiếu niên về khoa học, kỹ thuật, làm cho các cháu ngay từ thuở nhỏ đó biết yờu khoa
học để mai sau các cháu trở thành người có thói quen sinh hoạt và làm việc theo khoa
học”(13). Đặt việc sống và làm việc theo khoa học như một giá trị đạo đức mới, Chủ
tịch Hồ Chí Minh khẳng định dấu ấn của thời đại trong tiến bộ đạo đức. Thời đại khoa
học, chuẩn mực đạo đức đánh giá con người cần gắn với tiến bộ khoa học. Cuộc chiến
đấu cho tư duy khoa học, chống lại bảo thủ, đưa đất nước tiến lên là một trách nhiệm
đạo đức trong xó hội ta. Đó là tư tưởng đạo đức tiến bộ của Hồ Chí Minh trong văn
hóa mới Việt Nam. Nếu tách rời các đánh giá đạo đức ra khỏi cơ sở khoa học của thời
đại, tôn sùng các chuẩn mực đạo đức bảo thủ sẽ có nguy cơ tạo ra các phản văn hóa trong
các quan hệ đạo đức mới; vỡ vậy, Người tỡm mọi cỏch để giáo dục quan điểm phát triển
toàn diện trong giáo dục. Nhiều lần, Người nói rằng, mỗi công dân phải có đức, có tài,
phải vừa hồng, vừa chuyên.
Tư tưởng đạo đức lớn nhất của Hồ Chí Minh là tư tưởng khoan dung. Tư tưởng này là
sự nối tiếp các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam và gắn liền với thời đại khoa
học mới. Hồ Chí Minh đó đưa ra một tư tưởng nhân đạo và khoan dung sâu rộng.

Người viết: “Ta thương cha mẹ ta, mà cũn phải thương cha mẹ người, phải cho mọi
người đều biết thương cha mẹ”(14).
Tư tưởng khoan dung của Hồ Chí Minh có ảnh hưởng sâu sắc tới mọi quan hệ của xó
hội. Khi thành lập Chớnh phủ Lõm thời năm 1946, Người đó đoàn kết mọi lực lượng
để xây dựng đất nước. Khi lónh đạo nhân dân chống thực dân Pháp, Người có chính
sách đại đoàn kết dân tộc và khi xây dựng xó hội mới, phỏt triển đất nước, Người đó
cú chính sách đoàn kết công - nông - trí.
Tư tưởng khoan dung Hồ Chí Minh xuất phát từ một tấm lũng bao la như “sông to,
biển rộng thỡ bao nhiờu nước cũng chứa được, vỡ độ lượng nó rộng và sâu. Cái chén
nhỏ, cái đĩa cạn thỡ một chỳt nước cũng đầy tràn, vỡ độ lượng của nó nhỏ hẹp”(15).
Tỡnh yờu bao la của Chủ tịch Hồ Chớ Minh khụng chỉ đối với con người mà cũn đối
với cả tự nhiên. Người đề xuất ý tưởng trồng cây và bảo vệ môi trường sống, Người




đặt vấn đề đạo đức sinh thái ngay từ khi bắt đầu đô thị hóa, công nghiệp hóa.
Chúng ta đang xây dựng một xó hội mới, cỏc quan hệ đạo đức xó hội đó chuyển động
mạnh. Quá trỡnh đô thị hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa làm cho nhiều chuẩn mực
đạo đức truyền thống biến đổi rất sâu sắc. Các quan hệ anh em, họ hàng, gia đỡnh,
quờ hương, do đó, cũng đang lỏng lẻo dần. Xây dựng các quan hệ đạo đức mới vỡ sự
tiến bộ xó hội khụng phải là xúa bỏ hoàn toàn cỏi cũ hay giữ lại hoàn toàn cái cũ.
Thời đại mới có các nguyên lý xuất phỏt mới. Việc gỡn giữ bản sắc văn hóa dân tộc
không phải là quay về với cái cũ. Tư tưởng mới, hiện thực mới đũi hỏi một hệ giỏ trị
đạo đức mới gắn liền với khoa học và pháp luật. Chỉ có dựa trên tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối của Đảng, gắn với khoa học và pháp luật, chúng ta mới làm trong
sạch được các quan hệ đạo đức và xây dựng các giá trị đạo đức mới. Khi các giá trị
đạo đức mới xuất hiện trên cơ sở của các giá trị khoa học và quan hệ phỏp luật thỡ
diện mạo xó hội mới sẽ tốt đẹp hơn, tiến bộ hơn. Để cho đạo đức ngấm sâu vào các
quan hệ gia đỡnh, nơi cộng đồng, làng xó, phố phường, chúng ta cần phải có một

chiến lược xây dựng những con người tốt, việc tốt theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh. Giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là giải pháp lớn trong lịch trỡnh xõy
dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong những thập niên đầu của thế
kỷ XXI.r


(*) Giáo sư, tiến sĩ triết học.
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 21.
(2) Hồ Chí Minh. Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Nxb Văn học, Hà Nội,
1981, tr.476 - 477.
(3) Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.9. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.172.
(4) Dẫn theo: Phan Văn Các. Nho giáo xưa và nay. Nxb Khoa học xó hội, Hà Nội,
1991.



(5) Hồ Chí Minh. Sđd., t.6, tr.172.
(6) Hồ Chí Minh. Sđd., t.8, tr.276 – 277.
(7) Hồ Chí Minh. Sđd., t.5, tr. 698.
(8) Theo: Tạp chí Cộng sản, số 10, 1992, tr.24.
(9) Hồ Chí Minh. Nói về dân chủ và đạo đức cách mạng. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1967,
tr.84.
(10) Hồ Chí Minh. Sđd., t.9, tr.291.
(11) Hồ Chí Minh. Sđd., t.4, tr.57.
(12) Hồ Chí Minh Sđd., t.6, tr.320 –321.
(13) Hồ Chí Minh. Sđd., t.11, tr.80.
(14) Hồ Chí Minh. Sđd., t.5, tr.640.
(15) Hồ Chí Minh. Sđd., t.5, tr.644


NGHỆ THUẬT GIẢI QUYẾT MÂU THUẪN XÃ HỘI TRONG TƯ TƯ
ỞNG
HỒ CHÍ MINH VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA

TRẦN ĐẮC HIẾN (*)
Nghệ thuật phõn tớch và giải quyết mõu thuẫn xó hội là một nột nổi bật trong tư
tưởng Hồ Chí Minh, thể hiện sự kế thừa tư tưởng biện chứng duy vật của chủ nghĩa
Mác - Lênin cùng với phương pháp tư duy mềm dẻo kiểu phương Đông. Tư tưởng
Hồ Chí Minh về giải quyết mâu thuẫn xó hội cú ý nghĩa phương pháp luận quan
trọng đối với việc nhận thức và giải quyết các mâu thuẫn xó hội trong thời kỳ quỏ
độ lên chủ nghĩa xó hội ở nước ta. Tư tưởng của Người về vấn đề này được Đảng
ta quán triệt, vận dụng một cách sáng tạo trong công cuộc đổi mới, góp phần tạo
nên sự ổn định chính trị và phát triển kinh tế – xó hội của đất nước.

Quán triệt sâu sắc tinh thần biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, đặc biệt là tư
tưởng về phương pháp giải quyết mâu thuẫn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đó vận dụng




sỏng tạo, linh hoạt vào giải quyết cỏc mõu thuẫn xó hội nảy sinh trong từng thời kỳ
cỏch mạng để đưa cách mạng Việt Nam vững bước đi lên giành thắng lợi. Giải
quyết mâu thuẫn xó hội thực sự là một nghệ thuật trong hệ thống tư tưởng của Hồ
Chí Minh. Đúng như các nhà nghiên cứu đó chỉ rừ: “Nghệ thuật phõn tớch và giải
quyết mõu thuẫn là nột nổi bật nhất trong tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh”(1).
Trong quỏ trỡnh lónh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn chú ý đến tính
phổ biến của mâu thuẫn trong các sự vật, sự việc và quỏ trỡnh. Người căn dặn cán
bộ cách mạng: “Khi việc gỡ cú mõu thuẫn, khi phải tỡm cỏch giải quyết, tức là cú
vấn đề. Khi đó cú vấn đề, ta phải nghiên cứu cho rừ cỏi gốc mõu thuẫn trong vấn đề
đó là gỡ. Phải điều tra, phải nghiên cứu cái mâu thuẫn đó. Phải phân tách rừ ràng và

cú hệ thống, phải biết rừ cỏi nào là mõu thuẫn chớnh, cái nào là mâu thuẫn phụ.
Phải đề ra cách giải quyết”(2). Nhờ xác định và phân loại đúng các mâu thuẫn,
đồng thời phân tích chúng một cách khách quan, khoa học nên Hồ Chí Minh luôn
vạch ra được phương pháp phù hợp, huy động được những lực lượng cần thiết để
giải quyết mâu thuẫn kịp thời, hiệu quả.
Nghệ thuật giải quyết mõu thuẫn xó hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh được kế thừa
trực tiếp từ tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, đặc biệt là tư tưởng của V.I.Lênin
về “kết hợp các mặt đối lập” trong giải quyết mâu thuẫn kinh tế - xó hội, cựng với
phương pháp tư duy mềm dẻo, biện chứng truyền thống theo kiểu phương Đông.
Xuất phát từ những đặc điểm văn hoá - xó hội, quan hệ giữa cỏc giai tầng trong lịch
sử dõn tộc ta khụng thường xuyên mang tính chất đối kháng gay gắt, trong quỏ
trỡnh giải quyết cỏc mõu thuẫn xó hội, Hồ Chớ Minh thường nhấn mạnh chữ
“đồng”, hạn chế khai thác những điểm “dị biệt” giữa các “mặt đối lập” trong các
mâu thuẫn xó hội ấy. Chữ “đồng” trong tư tưởng Hồ Chí Minh bao hàm một nội
dung hết sức phong phú, sinh động và biện chứng. Đó là: đồng tâm, đồng lũng,
đồng mục tiêu, đồng lý tưởng, đồng lợi ích, v.v Trong diễn ca Lịch sử nước ta,
Người viết: “Dân ta xin nhớ chữ đồng: đồng tỡnh, đồng sức, đồng lũng, đồng
minh”(3); hay trong bài Chơi trăng, Người khẳng định: Nước nhà giành lại nhờ gan



sắt. Sự nghiệp làm nên bởi chữ đồng, v.v
Nhất quán tư tưởng này, trong việc giải quyết mõu thuẫn xó hội, Hồ Chớ Minh
thường chủ trương khai thác triệt để những điểm tương đồng giữa các “mặt đối lập
xó hội”, nhằm tỡm kiếm một giải phỏp có tính “mềm dẻo”, dễ “dung hoà” để hướng
tới mục tiêu chung là “cùng có lợi”, tránh những đổ máu hoặc thiệt hại không cần thiết.
Người đó vận dụng tài tỡnh tư tưởng đó vào giải quyết các mâu thuẫn trên mọi lĩnh
vực của đời sống xó hội; đồng thời, xác định đó là một phương pháp cách mạng, một
sách lược hết sức quan trọng để đạt được mục tiêu to lớn của cách mạng nước ta là độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xó hội.

Trong thời kỳ Cách mạng dân tộc dân chủ, để giải quyết mâu thuẫn đối kháng gay
gắt giữa dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược, Hồ
Chí Minh, một mặt, đề cao sự đoàn kết, thống nhất các lực lượng nhân dân trong
nước; mặt khác, chủ trương đoàn kết, tranh thủ triệt để sự ủng hộ của nhân dân tiến
bộ Pháp và các nước khác trên thế giới đối với cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân
dân lao động Việt Nam, coi đó là sức mạnh quyết định để giải phóng dân tộc.
Người yêu cầu chúng ta phải phân biệt rừ kẻ thự xõm lược với nhân dân tiến bộ tại
các nước đó. Ở đây, quan điểm của Hồ Chí Minh rất rừ ràng, đối với những kẻ đi
xâm lược thỡ chỳng ta phải kiờn quyết chống, nhưng đối với nhân dân tiến bộ nước
đó thỡ phải đoàn kết. Càng đoàn kết tốt với nhân dân tiến bộ và yêu chuộng hoà
bỡnh trờn thế giới, chỳng ta càng cú điều kiện đấu tranh hiệu quả chống bọn xâm
lược. Về yêu cầu tăng cường đoàn kết giữa các tầng lớp nhân dân trong nước,
Người chỉ rừ: “Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người
như một thỡ nước ta độc lập, tự do. Trái lại, lúc nào dân ta không đoàn kết thỡ bị
nước ngoài xâm lấn”(4). Với nguyên tắc Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết, Người
chủ trương thực hiện đoàn kết rộng rói, chặt chẽ, lõu dài với tất cả những ai cú thể
đoàn kết được vỡ mục tiờu chung. Từ nguyờn tắc chỉ đạo, xuyên suốt ấy, Hồ Chí
Minh đó quy tụ được toàn thể nhân dân thuộc các giai cấp, tầng lớp, các dân tộc,
tôn giáo, kể cả những người trước đây từng mắc những lỗi lầm nhưng nay đó thực




sự ăn năn, hối cải tập hợp dưới ngọn cờ cách mạng, tạo thành khối đại đoàn kết
toàn dân, có sức mạnh vô địch để thực hiện thắng lợi cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc. Xuất phát từ tinh thần biện chứng và nhân văn sâu sắc, Người chủ trương
đoàn kết tất cả những người yêu nước không phân biệt xu hướng chính trị, tín
ngưỡng, tôn giáo, không phân biệt họ thuộc đảng phái nào và quá khứ của họ
đó hợp tỏc với phe nào; “Bất kỳ ai mà thật thà tỏn thành hoà bỡnh, thống nhất, độc
lập, dân chủ thỡ dự những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta

cũng thật thà đoàn kết với họ”(5). Nhờ vậy, chúng ta đó tạo ra được lực lượng cách
mạng thống nhất, có đủ sức mạnh để giải quyết thành công nhiệm vụ lịch sử giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Khi cách mạng thành công, chính quyền đó về tay nhõn dõn, Hồ Chớ Minh vẫn rất
quan tõm đến việc đấu tranh giải quyết các mâu thuẫn phát sinh trong nội bộ lực
lượng cách mạng, trong nội bộ nhân dân nhằm xây dựng, mở rộng và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân; củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân trong
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xó hội. Điều khiến Người phải suy nghĩ và trăn trở
nhiều nhất là làm thế nào để đấu tranh, ngăn chặn những phần tử tiêu cực, thoái
hoá, biến chất trong nội bộ Đảng, Chính quyền. Theo Hồ Chí Minh, việc đấu tranh
với kẻ địch ở tiền tuyến bằng súng, bằng gươm cũn dễ, nhưng đấu tranh với kẻ địch
trong mỗi con người, trong nội bộ, trong tinh thần là một quá trỡnh đầy khó khăn.
Vỡ vậy, thỏng 2 – 1969, trong bài viết quan trọng -Nâng cao đạo đức cách mạng,
quét sạch chủ nghĩa cá nhân, Người đó tỏ rừ thỏi độ nghiêm khắc, cương quyết đấu
tranh với những biểu hiện tiêu cực, quan liêu, mất dân chủ trong cán bộ, đảng viên
và khẳng định phải loại trừ những hiện tượng, những phần tử ấy ra khỏi bộ máy
Đảng, Nhà nước.
Phân tích những bộ phận khác nhau trong nội bộ nhân dân, Người chỉ rừ: “… dân
chúng không nhất luật như nhau. Trong dân chúng, có nhiều tầng lớp khác nhau,
trỡnh độ khác nhau, ý kiến khác nhau. Có lớp tiền tiến, có lớp chừng chừng, có lớp
lạc hậu”(6), nên hành động của họ cũng không nhất quán, thậm chí mâu thuẫn



nhau. Do đó, việc giải quyết mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân phải quán triệt sâu
sắc nguyên tắc giáo dục, thuyết phục, tuyên truyền, vận động quần chúng; làm cho
quần chỳng hiểu rừ chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước để tự giác chấp
hành; đối với những người lầm đường lạc lối, phải giáo dục, thuyết phục họ với
tinh thần khoan dung, đại lượng, lấy lời khôn, lẽ phải, tỡnh thõn ỏi để cảm hoá họ,
không được định kiến, cố chấp, vơ đũa cả nắm. Người viết: “Năm ngón tay cũng có

ngón vắn, ngón dài. Nhưng vắn dài đều hợp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu
người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dũng dừi
của tổ tiờn ta. Vậy nờn ta phải khoan hồng đại độ”(7). Để làm được điều đó, công
tác dân vận phải là hàng đầu, nhằm “… vận động tất cả lực lượng của mỗi một
người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực
hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đó giao
cho”(8). Giải quyết mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân phải hướng tới mục đích đoàn
kết, gắn bó các giai cấp, tầng lớp nhân dân, đồng bào các dân tộc, các tôn giáo… để
tạo ra phong trào cách mạng sâu rộng trong quần chúng nhân dân. Khi đó cú sự đoàn
kết, đồng tỡnh, ủng hộ của nhõn dõn thỡ mọi việc dự khú khăn cũng đều được giải
quyết và sự nghiệp cách mạng sẽ thành công.
Chú trọng chữ “đồng”, mặt “thống nhất”, “đoàn kết” trong giải quyết mâu thuẫn xó
hội ở tư tưởng Hồ Chí Minh hoàn toàn xa lạ với thái độ “thoả hiệp” giữa các mặt
đối lập; cũng không phải là sự kết hợp có tính chất chiết trung, cải lương, hay là
quan điểm sai lầm xoá bỏ nguyên tắc đấu tranh giữa các mặt đối lập, mà là sự kết
hợp khoa học, biện chứng những điểm chung, điểm tương đồng giữa các “mặt đối
lập xó hội” để đi đến một sự nhất trí cần thiết; từ đó, đưa cuộc đấu tranh của quần
chúng vào những hỡnh thức cụ thể, giải quyết cỏc mõu thuẫn theo hướng có lợi cho
sự nghiệp cách mạng. Người phân biệt rừ: “Đối với nội bộ nhõn dõn thỡthực hành
dân chủ. Đối với đế quốc, phong kiến và lũ phản động, thỡ thực hành chuyên
chính chống lại chúng, đàn áp chúng”(9). Đối với việc giải quyết các mâu thuẫn xó
hội cú tớnh đối kháng, mâu thuẫn “địch - ta”, Người thực hiện phương châm vừa

×