Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Tiểu luận Vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận của phép biện chứng duy vật trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.58 KB, 20 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VIỆN TRIẾT HỌC

TIỂU LUẬN
MÔN: ……..

TÊN TIỂU LUẬN
Vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận của phép biện chứng duy vật
trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay

Họ và tên học viên: Nguyễn Văn A
Mã số học viên: MP……
Lớp: cao học ngành……..
Khóa học: K27 (2020 – 2022)
Địa điểm học: Học viện Chính trị khu vực II

NĂM 2021


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU..................................................................................................................1
1. Lý do lựa chọn đề tài............................................................................................2
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu...........................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu........................................................................2
4. Cơ sở lý luận thực tiễn và phương pháp nghiên cứu............................................2
5. Ý nghĩa của tiểu luận ...........................................................................................2
6. Kết cấu của tiểu luận ...........................................................................................2
NỘI DUNG..............................................................................................................3
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT...............3
1.1. Định nghĩa phép biện chứng duy vật..............................................................3


1.2. Những nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật...................................4
Chương 2. VẬN DỤNG CÁC NGUYÊN TẮC PHƯƠNG PHÁP LUẬN PHÉP
BIỆN CHỨNG DUY VẬT TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN
NAY.......................................................................................................................9
2.1. Các nguyên tắc phương pháp luận của phép biện chứng duy vật..................9
2.2. Vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận phép biện chứng duy vật vào sự
nghiệp đổi mới ở nước ta.....................................................................................12
KẾT LUẬN............................................................................................................17
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................18


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phép biện chứng duy vật là "linh hồn sống", là "cái quyết định" của chủ
nghĩa Mác - Lênin nói chung, của triết học Mác - Lênin nói riêng bởi khi nghiên
cứu những quy luật chung nhất, phổ biến nhất về sự vận động, phát triển của hiện
thực khách quan và của nhận thức khoa học, phép biện chứng duy vật thông qua
các nguyên lý, được cụ thể hóa bằng các cặp phạm trù và quy luật cơ bản, thực
hiện chức năng phương pháp luận chung nhất giúp con ngời đề ra những nguyên
tắc tương ứng, định hướng hoạt động lý luận và thực tiễn của mình. Do bản chất
khoa học và cách mạng của nó quy định, phép biện chứng duy vật đã và đang
khẳng định vai trò thế giới quan và phương pháp luận khoa học cho chúng ta nhận
thức và cải tạo thế giới. Phép biện chứng duy vật là cơ sở lý luận khoa học để
chúng ta vận dụng trong nhận thức sự nghiệp đổi mới đất nước, đảm bảo cho nước
ta phát triển vững mạnh trong giai đoạn hiện nay. Ngày nay cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ hiện đại đang phát triển mạnh đặt ra những yêu cầu nhiệm vụ
của sự nghiệp đổi mới, để sự nghiệp đổi mới ở nước ta luôn đúng định hướng xã
hội chủ nghĩa, đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải vận dụng một cách linh hoạt và
sáng tạo phép biện chứng duy vật trong tiến trình sự nghiệp đổi mới. Chính vì vậy
em xin chọn vấn đề " vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận của phép biện

chứng duy vật trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay” làm đề tài tiểu luận
của mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: Làm rõ giá trị ý nghĩa khoa học và cách mạng của phép biện
chứng duy vật, các nguyên tắc phương pháp luận khoa học từ đó vận dụng nâng
cao nhận thức trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.


- Nhiệm vụ: Luận giải bản chất khoa học và cách mạng của phép biện chứng
duy vật, phân tích nguyên tắc phương pháp luận của phép biện chứng duy vật và
vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận này trong nhận thức sự nghiệp đổi mới
ở nước ta.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng: Nghiên cứu việc vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận
của phép biện chứng duy vật trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay
- Phạm vi: Nghiên cứu việc vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận của
phép biện chứng duy vật trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta từ năm 1986 đến nay
4. Cơ sở lý luận thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận của đề tài là quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, các văn
kiện nghị quyết của Đảng. Cơ sở thực tiễn của đề tài là thực tiễn vận dụng các
nguyên tắc phương pháp luận phép biện chứng duy vật trong nhận thức sự nghiệp
đổi mới của nước ta hiện nay.
- Phương pháp nghiên cứu: Vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với các phương pháp như
phân tích, tổng hợp, quy nạp, hệ thống cấu trúc v.v
5. Ý nghĩa của tiểu luận
Tiểu luận góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản của phép biện
chứng duy vật và sự vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của phép
biện chứng duy vật vào nhận thức sự nghiệp đổi mới, góp phần nâng cao nhận
thức của Đảng, Nhà nước ta trong sự nghiệp đổi mới đất nước những năm tới.

6. Kết cấu của tiểu luận gồm: Phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận và
danh mục tài liệu tham khảo.


NỘI DUNG
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1.1. Định nghĩa phép biện chứng duy vật
Trong lịch sử tư tưởng triết học, có hai quan điểm nhìn nhận về sự tồn tại
của các sự vật, hiện tượng trong thế giới. Quan điểm siêu hình cho rằng, các sự vật,
hiện tượng tồn tại độc lập, tách rời nhau, cái này bên cạnh cái kia, giữa chúng
khơng có liên hệ gì với nhau và nếu có, thì đó cũng chỉ là liên hệ bên ngồi, ngẫu
nhiên, khơng mang tỉnh tất yếu. Quan điểm biện chứng coi thế giới như là một
chỉnh thể thống nhất. Các sự vật, hiện tượng cấu thành thế giới đó vừa tồn tại tách
biệt, vừa có sự liên hệ qua lại, thâm nhập và chuyên hóa lẫn nhau.
Khoa học đã chứng minh rằng, quan điểm biện chứng là quan điểm đúng
đắn, vì các sự vật, hiện tượng trong thế giới ln có sự tác động, liên hệ, phụ thuộc
lẫn nhau, khơng có sự tồn tại độc lập, tuyệt đối.
Biện chứng là phạm trù chỉ sự tác động, liên hệ, phụ thuộc, chuyển hóa giữa
các mặt, các yếu tố của một sự vật, một hiện tượng hay giữa các sự vật, hiện tượng
với nhau.
Phép biện chứng là hệ thống quan điểm, lý luận, học thuyết phản ảnh quy
luật về sự tác động, liên hệ, phụ thuộc, chuyển hóa giữa các mặt, các yếu tố của
một sự vật, một hiện tượng hay giữa các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội
và tư duy.
Cho đến nay, phép biện chứng có ba hình thức cơ bản:
Một là, phép biện chứng cổ đại (thế kỷ VI tr.CN), điển hình trong triết học
Hy Lạp, đại biểu tiêu biểu là Hêraclit;
Hai là, phép biện chứng trong triết học cổ điển Đức (thế kỷ XII-XVIII) đại
biểu tiêu biểu là Hêghen;
Ba là, phép biện chứng duy vật (thế kỷ XIX-XX) do C.Mác và PhĂngghen

sáng lập và được V.LLênin bổ sung, phát triển.


Trong ba hình thức trên, phép biện chứng duy vật là phép biện chứng khoa
học. Nói cách khác, phép biện chứng duy vật là khoa học về những quy luật phổ
biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, cửa xã hội loài người và của
tư duy.
1.2. Những nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật
1.2.1. Hai nguyên lý cơ bản
+ Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Thế giới có vơ vàn các sự vật, hiện tượng nhưng chúng tồn tại trong mối liên
hệ trực tiếp hay gián tiếp với nhau; tức là chúng luôn luôn tồn tại trong sự quy định
lẫn nhau, tác động lẫn nhau và làm biến đổi lẫn nhau. Mặt khác, mỗi sự vật hay
hiện tượng của thế giới cũng là một hệ thống, được cấu thành từ nhiều yếu tố,
nhiều mặt… tồn tại trong mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau, chi phối và làm biến đổi
lẫn nhau.
Mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng rất đa dạng, mn hình, mn vẻ. Có
mối liên hệ bên trong là mối liên hệ giữa các mặt, các yếu tố trong một sự vật hay
một hệ thống. Có mối liên hệ bên ngoài là mối liên hệ giữa vật này với vật kia, hệ
thống này với hệ thống kia. Có mối liên hệ chung, lại có mối liên hệ riêng. Có mối
liên hệ trực tiếp không thông qua trung gian lại có mối liên hệ gián tiếp, thơng qua
trung gian. Có mối liên hệ tất nhiên và ngẫu nhiên; mối liên hệ cơ bản và không cơ
bản.v.v…
Ý nghĩa của vấn đề: Khi nhận thức mỗi người phải có quan điểm tồn diện
và quan điểm lịch sử – cụ thể, xem xét kỹ các mối liên hệ bản chất, bên trong sự
vật, hiện tượng; cần tránh cách nhìn phiến diện, một chiều, chung chung trong việc
nhận thức, giải quyết mọi vấn đề trong thực tiễn cuộc sống và công việc.
+ Nguyên lý về sự phát triển
Mọi sự vật, hiện tượng luôn luôn vận động và phát triển không ngừng. Vận
động và phát triển khơng đồng nghĩa như nhau. Có những vận động diễn ra theo

khuynh hướng đi lên, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện
đến hồn thiện. Có khuynh hướng vận động thụt lùi, đi xuống nhưng nó là tiền đề,
là điều kiện cho sự vận động đi lên. Có khuynh hướng vận động theo vịng trịn
khép kín.


Phát triển là khuynh hướng vận động từ thấp lên cao, từ đơn giản đến phức
tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện theo chiều hướng đi lên của sự vật, hiện
tượng; là q trình hồn thiện về chất và nâng cao trình độ của chúng. Phát triển là
khuynh hướng chung của thế giới và nó có tính phổ biến, được thể hiện trên mọi
lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy.
Trong tự nhiên có phát triển của giới vơ sinh và hữu sinh. Trong xã hội, có
phát triển của tiến trình lịch sử xã hội lồi người. Xã hội loài người ở thời đại sau
bao giờ cũng phát triển cao hơn, tiến bộ hơn xã hội thời đại trước về mọi mặt kinh
tế, chính trị, văn hóa…
Phát triển trong tư duy là nhận thức con người ngày càng rõ hơn, khám phá
ra những điều bí ẩn của thế giới vô cùng, vô tận. Nhận thức của từng người là có
hạn, nhận thức của con người là vơ hạn. Nhận thức của thế hệ sau, bao giờ cũng kế
thừa, phát triển và có những biểu hiện cao hơn thế hệ trước.
Nguyên nhân của sự phát triển là do sự liên hệ và tác động qua lại giữa các
mặt, các yếu tố bên trong của sự vật, hiện tượng, không phải do bên ngồi áp đặt,
càng khơng phải do ý muốn chủ quan của con người quy định. Con người chỉ có
thể nhận thức và thúc đẩy hiện thực phát triển nhanh hoặc chậm lại mà thôi.
Ý nghĩa của vấn đề: Nguyên lý về sự phát triển giúp chúng ta nhận thức sự
vật, hiện tượng theo hướng vận động phát triển, tránh được cách nhìn phiến diện
với tư tưởng định kiến, bảo thủ. Mỗi thành công hay thất bại được xem xét khách
quan, tồn diện để có tư tưởng lạc quan, tin tưởng tìm hướng giải quyết theo hướng
tốt lên..
1.2.2. Ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật
+ Về nhận thức quy luật

Quy luật là những mối liên hệ bản chất, tất nhiên, bên trong, có tính phổ biến
và được lặp đi lặp lại giữa các mặt, các yếu tố trong cùng một sự vật, hiện tượng,
hay giữa các sự vật hiện tượng.
Trong thế giới khách quan có nhiều quy luật khác nhau. Có những quy luật
chung, phổ biến tác động trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy. Có những
quy luật riêng, quy luật đặc thù chỉ tác động một hay một số mặt trong một lĩnh
vực nào đó. Dù là quy luật tự nhiên hay quy luật xã hội đều có tính khách quan.


Quy luật tự nhiên diễn ra một cách tự phát, thông qua tác động của lực lượng
tự nhiên. Quy luật xã hội, được hình thành và tác động thơng qua hoạt động của
con người. Quy luật xã hội thường biểu hiện ra như một xu hướng, không biểu hiện
theo quan hệ trực tiếp, có tính xác định với từng việc, từng người. Các sự kiện
trong đời sống xã hội nếu xảy ra trong thời gian càng dài, không gian càng rộng,
lặp đi, lặp lại thì tính quy luật của nó biểu hiện càng rõ.
Tác động của quy luật xã hội phụ thuộc vào nhận thức và vận dụng của con
người. Con người là chủ thể của xã hội và của lịch sử. Khơng có con người thì
khơng có xã hội và do đó cũng khơng có quy luật của xã hội. Quy luật của xã hội
vừa là tiền đề, vừa là kết quả hoạt động của con người. Con người khơng thể sáng
tạo ra quy luật hay xố bỏ quy luật theo ý muốn chủ quan của mình.
Ý nghĩa của vấn đề: Việc con người nhận thức được quy luật sẽ có thể chủ
động vận dụng quy luật, tạo ra những điều kiện thuận lợi, hoặc hạn chế tác hại của
quy luật để phục vụ nhu cầu lợi ích của mình.
+ Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
Đây là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, vạch ra
nguồn gốc động lực của sự phát triển và là hạt nhân của phép biện chứng duy vật.
Mặt đối lập là những mặt có tính chất trái ngược nhau nhưng chúng tồn tại
trong sự quy định lẫn nhau như cực âm và cực dương của mỗi dịng điện, đồng hóa
và dị hóa trong mỗi cơ thể sống, cung và cầu các hàng hóa trên thị trường.
Sự vật, hiện tượng nào cũng là thể thống nhất của các mặt đối lập. Từ mặt

đối lập mà hình thành mâu thuẫn biện chứng- mâu thuẫn bao hàm sự thống nhất và
đấu tranh của các mặt đối lập. Các mặt đối lập liên hệ với nhau, thâm nhập vào
nhau, tác động qua lại lẫn nhau, làm tiền đề tồn tại cho nhau, bài trừ, phủ định lẫn
nhau.
Các mặt đối lập trong mỗi sự vật vừa thống nhất lại vừa đấu tranh tác động,
bài trừ phủ định nhau. Sự đấu tranh đó đưa đến sự chuyển hóa làm thay đổi mỗi
mặt đối lập hoặc cả hai mặt đối lập, chuyển lên trình độ cao hơn hoặc cả hai mặt
đối lập cũ mất đi, hình thành hai mặt đối lập mới. Do đó, có thể nói: sự thống nhất
và đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc và động lực cơ bản của mọi sự vận
động và phát triển.
Sự thống nhất các mặt đối lập là tương đối. Bất cứ sự thống nhất nào cũng là
sự thống nhất có điều kiện, tạm thời, thống qua, gắn với đứng im tương đối của sự


vật. Đứng im là thời điểm các mặt đối lập có sự phù hợp, đồng nhất, tác dụng
ngang nhau. Đây là trạng thái cân bằng giữa các mặt đối lập.
Đấu tranh là tuyệt đối vì nó diễn ra liên tục khơng bao giờ ngừng, trong suốt
q trình tồn tại các mặt đối lập, từ đầu đến cuối. Trong thống nhất có đấu tranh.
Đấu tranh gắn liền với vận động mà vận động của vật chất là tuyệt đối nên đấu
tranh cũng là tuyệt đối.
Ý nghĩa của quy luật: Muốn nhận thức được nguồn gốc và bản chất của mọi
sự vận động, phát triển thì cần phải nghiên cứu, phát hiện và sử dụng được sự
thống nhất và đấu tranh của chúng. Trong nhận thức và thực tiễn phải phát hiện
được những mâu thuẫn của sự vật hiện tượng, biết phân loại mâu thuẫn, có các
biện pháp để giải quyết mâu thuẫn thích hợp. Phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi
giải quyết mâu thuẫn.
+ Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay
đổi về chất và ngược lại
Mỗi sự vật, hiện tượng đều gồm hai mặt đối lập chất và lượng. Chất là chỉ
các thuộc tính khách quan, vốn có của các sự vật, hiện tượng; còn lượng là chỉ số

lượng các yếu tố cấu thành, quy mô tồn tại và tốc độ, nhịp điệu biến đổi của chúng.
Trong mỗi sự vật, hiện tượng, chất và lượng tồn tại trong tính quy định lẫn
nhau, khơng có chất hay lượng tồn tại tách rời nhau. Tương ứng với một lượng
(hay một loại lượng) thì cũng có một chất (hay loại chất) nhất định và ngược lại. Vì
vậy, những sự thay đổi về lượng đều có khả năng dẫn tới những sự thay đổi về chất
tương ứng và ngược lại, những sự biến đổi về chất của sự vật lại có thể tạo ra
những khả năng dẫn tới những biến đổi mới về lượng của nó. Sự tác động qua lại
ấy tạo ra phương thức cơ bản của các quá trình vận động, phát triển của các sự vật,
hiện tượng.
Sự thống nhất giữa lượng và chất, được thể hiện trong giới hạn nhất định gọi
là độ. Độ là giới hạn trong đó có sự thống nhất giữa lượng và chất mà ở đó đã có
sự biến đổi về lượng nhưng chưa có sự thay đổi về chất; sự vật khi đó cịn là nó,
chưa là cái khác. Đến điểm nút, qua bước nhảy bắt đầu có sự thay đổi về chất. Sự
vật biến đổi hồn toàn về chất thành sự vật khác.
Chất là mặt tương đối ổn định, lượng là mặt thường xuyên biến đổi. Lượng
biến đổi mâu thuẫn, phá vỡ chất cũ, chất mới ra đời với lượng mới. Lượng mới lại
tiếp tục biến đổi đến giới hạn nào đó lại phá vỡ chất cũ thông qua bước nhảy. Quá


trình cứ thế tiếp diễn tạo nên cách thức vận động phát triển thống nhất giữa tính
liên tục và tính đứt đoạn trong sự vận động phát triển của sự vật.
Ý nghĩa của quy luật: Con người nhận thức và hoạt động thực tiễn phải tích
lũy lượng để thực hiện biến đổi về chất (“tích tiểu thành đại”, “góp gió thành bão”)
của các sự vật hiện tượng, khắc phục được khuynh hướng chủ quan, duy ý chí,
muốn các bước nhảy liên tục. Mặt khác, cần khắc phục tư tưởng hữu khuynh, ngại
khó khăn, lo sợ khơng dám thực hiện những bước nhảy vọt khi có đủ điều kiện.
Trong hoạt động thực tiễn, cần tích cực chuẩn bị kỹ mọi điều kiện chủ quan. Khi
có tình thế, thời cơ khách quan thì kiên quyết tổ chức thực hiện bước nhảy để giành
thắng lợi quyết định.
+ Quy luật phủ định của phủ định

Quy luật này vạch ra khuynh hướng vận động, phát triển của sự vật. Thế giới
vật chất tồn tại, vận động phát triển không ngừng. Sự vật hiện tượng nào đó xuất
hiện, mất đi, thay thế bằng sự vật, hiện tượng khác. Sự thay thế đó gọi là phủ định.
Phủ định biện chứng có đặc trưng cơ bản là sự tự phủ định do mâu thuẫn bên
trong, vốn có của sự vật; là phủ định gắn liền với sự vận động phát triển. Phủ định
biện chứng là phủ định có sự kế thừa yếu tố tích cực của sự vật cũ và được cải biến
đi cho phù hợp với cái mới. Khơng có kế thừa thì khơng có phát triển nhưng là kế
thừa có chọn lọc. Phủ định biện chứng là sự phủ định vô tận. Cái mới phủ định cái
cũ, nhưng cái mới khơng phải là mới mãi, nó sẽ cũ đi và bị cái mới khác phủ định;
không có lần phủ định nào là phủ định cuối cùng. Phủ định biện chứng gắn với
điều kiện, hoàn cảnh cụ thể; mỗi loại sự vật có phương thức phủ định riêng. Phủ
định trong tự nhiên khác với phủ định trong xã hội, và cũng khác với phủ định
trong tư duy.
Sự vật nào vận động phát triển cũng có tính chu kỳ. Sự vật khác nhau thì chu
kỳ, nhịp điệu vận động phát triển dài, ngắn khác nhau. Tính chu kỳ của sự phát
triển là từ một điểm xuất phát, trải qua một số lần phủ định, sự vật dường như quay
trở lại điểm xuất phát nhưng cao hơn. Mỗi lần phủ định là kết quả của sự đấu tranh
và chuyển hóa các mặt đối lập. Phủ định lần thứ nhất làm cho sự vật trở thành cái
đối lập với chính nó. Phủ định lần thứ hai sự vật mới ra đời, đối lập với cái đối lập,
nên sự vật dường như quay lại cái cũ, nhưng trên cơ sở cao hơn.
Phép biện chứng duy vật khẳng định vận động phát triển đi lên, là xu hướng
chung của thế giới, nhưng không diễn ra theo đường thẳng, mà diễn ra theo đường
xoáy ốc quanh co phức tạp. Trong điều kiện nhất định, cái cũ tuy đã cũ, nhưng cịn
có những yếu tố vẫn mạnh hơn cái mới. Cái mới còn non nớt chưa có khả năng


thắng ngay cái cũ. Có thể có lúc, có nơi, cái mới hợp với quy luật của sự phát triển,
nhưng vẫn bị cái cũ gây khó khăn, cản bước phát triển.
Ý nghĩa của quy luật: Khi xem xét sự vận động phát triển của sự vật, phải
xem xét nó trong quan hệ cái mới ra đời từ cái cũ, cái tiến bộ ra đời từ cái lạc hậu,

con người phải tơn trọng tính khách quan, chống phủ định sạch trơn, hoặc kế thừa
khơng có chọn lọc. Mỗi người cần bênh vực, ủng hộ cái mới, tin tưởng vào cái mới
tiến bộ. Khi có những bước thóai trào cần xem xét kỹ lưỡng, phân tích ngun
nhân, tìm cách khắc phục để từ đó có niềm tin tưởng vào thắng lợi.
1.2.3. Sáu cặp phạm trù cơ bản
Sáu cặp phạm trù cơ bản làm rõ một cách cụ thể nguyên lý về mối liên hệ
nhất phổ biến. Đó là các phạm trù: cái chung và cái riêng, bản chất và hiện tượng,
tất nhiên và ngẫu nhiên, nội dung và hình thức, nguyên nhân và kết quả, khả năng
và hiện thực.



Cặp phạm trù cái chung – cái riêng
Cặp phạm trù bản chất – hiện tượng



Cặp phạm trù tất nhiên – ngẫu nhiên



Cặp phạm trù nội dung – hình thức



Cặp phạm trù nguyên nhân – kết quả



Cặp phạm trù khả năng – hiện thực




Chương 2. VẬN DỤNG CÁC NGUYÊN TẮC PHƯƠNG PHÁP LUẬN
PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở NƯỚC
TA HIỆN NAY
2.1. Các nguyên tắc phương pháp luận của phép biện chứng duy vật
Hoạt động lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ là hoạt động có tính đặc thù.
Đó là việc ra quyết định, tổ chức, chỉ đạo thực tiễn, tổng kết thực tiễn để bổ sung,
phát triển lý luận... Đê hoạt động lãnh đạo, quản lý có hiệu quả, đòi hỏi đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý phải có phương pháp luận nhận thức và hoạt động thực tiễn
khoa học. Cơ sở phương pháp luận đó chính là phép biện chứng duy vật, được thể


hiện trong ba quan điểm: quan điểm toàn diện, quan điểm phát triển, quan điểm
lịch sử - cụ thể.
Thứ nhất, quan điểm toàn diện.
Cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện là nguyên lý về mối liên hệ phộ biến
của phép biện chứng duy vậy. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến chỉ ra rằng, mọỉ
sự vật, hiện tượng khách quan tôn tại trong mối liên hệ, ràng buộc lẫn nhàu. Vì
vậy, muốn nhận thức được sự vật, hiện tượng phải xem xét tất cả các mặt, các mối
liên hệ giữa các yếu tổ, các bộ phận trong sự vật đó và giữa các sự vật, hiện tượng
với nhaũ.
Quan điểm toàn diện yêu cầu:
Một là, muốn nhận thức được bản chất của sự vật, hiện tượng phải xem xét
sự tồn tại của nó trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, các yếu tố, thuộc tính
khác nhau của sự vật, hiện tượng ấy và trong mối liên hệ qua lại giữa sự vật, hiện
tượng đó với sự vật, hiện tượng khác. Bởi vì bản chất của sự vật, hiện tượng được
hình thành, biến đổi và bộc lộ thông qua mối liến hệ giữa chúng với các sự vật,
hiện tượng khác.

Hai là, quan điểm toàn diện chỉ ra rằng, sự vật, hiện tượng tồn tại trong mối
liên hệ phổ biến, nhưng vị trí, vai trị của các mối liên hệ không “ngang bằng”
nhau. Do vậy, trong vô vàn các mối liên hệ của sự vật, hiện tượng phải nắm được
mối liên hệ chủ yếu, bản chất, quy định sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện
tượng để tìm ra xu hướng, cách thức, cơ chế tác động cho sự vận động, phát triển
của sự vật, hiện tượng
Ba là, quan điểm toàn diện chỉ ra rằng, nhận thức của con người về sự vật,
hiện tượng cũng chỉ mang tính tương đối, khơng đầy đủ, trọn vẹn. Bởi lẽ, trong quá
trinh vận động, phát triển, sự vật, hiện tượng không phải lúc nào cũng bộc lộ hết
các thuộc tính ra bên ngồi. Mặt khác, bản thân chủ thể nhận thức lại luôn bị giới
hạn bởi những điều kiện xã hội, lịch sử gắn với nhu cầu thực tiễn và mục đích của


con người. Nhận thức rõ điều này, chúng ta sẽ tránh tuyệt đối hoá tri thức về sự vật,
hiện tượng và tránh coi những tri thức đã có là những chân lý bất biến, tuyệt đôi,
cuối cùng về sự vật, hiện tượng mà không bổ sung phát triển nữa
Quan điểm toàn diện chổng quan điểm phiến diện, chiết trung và ngụy biện.
Thứ hai, quan điểm lịch sử - cụ thể.
Cơ sở lý luận của quan điểm lịch sử - cụ thể là nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến của phép biện chứng duy vật. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biển chỉ ra rằng,
mỗi sự vật, hiện tượng tồn tại, vận động, phát triển trong những không gian, thời
gian xác định, với những mối liên hệ phong phú, đa dạng, khác nhau nên việc nhận
thức chúng phải tính đến những điều kiện cụ thể.
Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu:
Một là, để nhận thức được đầy đủ về sự vật, hiện tượng phải xem xét chúng
trong q trình phát sinh, phát triển, chuyển hố trong các hình thức biểu hiện, với
những bước quanh co, với những ngẫu nhiên gây tác động lên quá trình tồn tại của
sự vật, hiện tượng trong không gian và thời gian cụ thể.
Hai là, quan điểm lịch sử - cụ thể chống lại bệnh giáo điều, bệnh kinh
nghiệm trong nhận thức, coi tri thức là bất biến, dẫn đến nhận thức, vận dụng tri

thức rập khuôn, xa rời thực tiễn. Chân lý được hình thành dựa trên sự phân tích và
khái quát những điều kiện lịch sử - cụ thể trong đó sự vật, hiện tượng diễn ra. Vì
vậy, bất cứ một tri thức trừu tượng nào tách khỏi những điều kiện lịch sử - cụ thể
đều trở nên trống rỗng. Với nghĩa đó, V.I.Lênin đã chỉ ra rằng, mọi chân lý trừu
tượng đều sẽ trở thành một lời nói sng, trống rỗng nếu người ta đem áp dụng nó
vào bẩt cứ tình hình cụ thể nào. Nói cách khác, khi những hoàn cảnh lịch sử - cụ
thể thay đổi, sự vật cũng biến đổi, những tri thức phản ánh sự vật đó cũng phải
biến đơi theo.
Thứ ba, quan điểm phát triển.


Cơ sở lý luận của quan điểm phát triển là nguyên lý về sự phát triển của
phép biện chứng duy vậy. Nguyên lý về sự phát triển chỉ ra rằng, sự vật, hiện tượng
ln có xu hướng vận động, biến đổi theo chiều hướng đi lên theo hướng hoàn
thiện, tiến bộ. Vì vậy, trong khi xem xét sự vật, hiện tượng phải thấy được phát
triển là khuynh hướng chủ đạo.
Quan điểm phát triển yêu cầu:
Một là, khi xem xét sự vật, hiện tượng, phải đặt nó trong trạng thái vận
động, biến đổi; phải thấy được khuynh hướng phát triển của chính sự vật, hiện
tượng từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Mỗi giai đoạn phát
triển có những đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau. Bởi vậy, phải có sự phân
tích cụ thể để tìm ra những hình thức tác động phù hợp hoặc để thúc đẩy, hoặc để
hạn chế sự phát triển đó.
Hai là, phát triển là khó khăn, phức tạp. Để nhận thức được sự vận động,
phát triển của sự vật, hiện tượng phải thấy được sự thống nhất giữa sự biến đổi về
lượng vói sự biến đổi về chất; phải tìm ra được nguồn gốc bên trong của sự vận
động, biên đổi; phải xác định xu hướng phát triển của sự vật, hiện tượng do sự phủ
định biện chứng quy định. Trong nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn khi gặp
khó khăn, thất bại tạm thời phải bình tĩnh, tin tưởng vào tương lai; phải ủng hộ cái
mới, cái tiến bộ ra đời và phát triển. Có như vậy con người mới chủ động, tự giác,

tránh được vấp váp, rủi ro.
Ba là, quan điểm phát triển còn đòi hỏi tư duy phản ánh sự phát triển của sự
vật phải “mềm dẻo”, linh hoạt, phải luôn luôn được bổ sung, thay đổi cho phù hợp
với sự phát triển của bản thân sự vật, hiện tượng. Nắm vững điều này sẽ khắc phục
được nhận thức cứng nhắc, máy móc về sự phát triển.
2.2. Vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận phép biện chứng duy
vật vào sự nghiệp đổi mới ở nước ta
Thứ nhất, vận dụng nguyên tắc toàn diện


Từ khi đổi mới đất nước, với quan điểm đa phương hóa, đa dạng hóa quan
hệ quốc tể, Việt Nam đã hội nhập quốc tế sâu rộng. Năm 1992, chúng ta đã nối lại
được quan hệ với Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng
Phát triển châu Ả (ADB); năm 1995, Việt Nam gia nhập Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á (ASEAN); năm 1996 tham gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
(AFTA), tham gia diễn đàn hợp tác Á - Ẩu với tư cách là thành viên sáng lập; năm
1998, Việt Nam được kết nạp là thành viên chính thức của APEC (Diễn đàn Họp
tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương).
Sau hơn 35 năm đổi mới hội nhập quốc tế, đến nay, Việt Nam đã thiết lập
quan hệ ngoại giao với hơn 170 nước, trong đó bao gồm tất cả các nước lớn; có
quan hệ thương mại với hơn 220 nước và vùng lãnh thổ, là thành viên chính thức
của tất cả các tổ chức quốc tế lớn, các tổ chức và định chế thương mại, tài chính
chủ chốt ở khu vực cũng như trên thế giới. Điều đó chững tỏ tính đúng đắn và sáng
tạo trong các quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong thời đại hiện nay, việc nhận thức sâu sắc quan điểm, đường lối của
Đảng về hội nhập quốc tế cũng là tiền đề cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ra
quyết định phù họp, mở ra khả năng hợp tác cho các tỉnh, thành phố trong hội nhập
quốc tế để phát triển kinh tế - xã hội và mở rộng giao lưu hợp tác văn hóa, tiếp thu
thành tựu khoa học cơng nghệ trong lao động sản xuất... Bên cạnh đó, để hoạt động
lãnh đạo, quản lý có hiệu quả, người cán bộ phải nắm chắc đặc điểm kinh tế, xã

hội, văn hóa, lối sống, truyền thống, phong tục tập quán, con người ở địa phương
mình thì mới ban hành được những quyết định lãnh đạo, quản lý đúng đắn, phù
hợp. Ngồi ra, phải biết đặt địa phương mình vào trong tổng thể liên kết một vùng,
miền để tạo ra hệ thống đồng bộ, thống nhất.
Trong những năm đổi mới, việc nhận thức và giải quyết những mối quan hệ
lớn thể hiện rõ quan điểm toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng ta cho
rằng, những mối quan hệ lớn góp phần xác định quy luật và tính quy luật cùa đổi


mới và phát triển đất nước, đồng thời làm rõ hơn những đặc trưng bản chất của chủ
nghĩa xã hội, góp phần vào sự hồn thiện lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; tạo ra động lực của đổi mới và phát triển toàn
diện đất nước trong thời kỳ mới. Trong các mối quan hệ lỏn đó, mối quan hệ giữa
đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị giữ vai trò trung tâm, cơ bản bởi việc giải
quyết mối quan hệ này sẽ quyết định tới việc giải quyết các mối quan hệ khác.
Ở mỗi địa phương, cơ sở, người cán bộ lãnh đạo, quản lý cũng cần biết xác
định rõ thế mạnh của từng vùng, miền để ra quyết định, lãnh đạo, quản lý. Hiện
nay, việc thực hiện Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) theo Quyết định
số 490/QĐ-TTg, của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 7-5-2018 đang góp phần
thúc đẩy phát triển thế mạnh nông sản ở các vùng miền trên địa bàn cả nước ta,
cũng là tinh thần của quan điểm toàn diện.
Thứ hai, vận dụng quan điểm lịch sử- cụ thể
Trước thời kỳ đổi mới (1986), Việt Nam và các nước xã hội chủ nghĩa là áp
dụng lý luận, kinh nghiệm một cách giáo điều theo mơ hình của Liên Xơ để xây
dựng chế độ kinh tế cho chủ nghĩa xã hội, khơng tính đến trình độ của lực lượng
sản xuất ở điều kiện cụ thể mỗi nước. Điều đó đã dẫn đến kìm hãm sự phát triển
của lực lượng sản xuất, tạo ra nguyên nhân dẫn đến sự khủng hoảng kihh tế - xã
hội.
Ngày nay, một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta vẫn có những hạn
chế trong việc quán triệt và vận dụng quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng,

pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn. Do vậy, việc ban hành quyết định lãnh đạo,
quản lý khơng có tính sáng tạo, khơng đạt hiệu quả cao. Văn kiện Đại hội xin nhận
định: “chỉ đạo và tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu, chậm đưực khắc phục; năng
lực cụ thể hóa, thể chế hóa chủ trương, nghị quyết còn hạn chế, năng lực tỗ chức
thực hiện cùa cán bộ chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, làm cho pháp luật,
nghị quyết chậm được thực hiện và hiệu quả thấp” .


Do vậy, quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu, khi vận dụng những chủ trương,
chính sách của Trung ương vào địa phương, các ngành, người cán bộ lãnh đạo,
quản lý phải hết sức sáng tạo. Không nên coi những chủ trương, chính sách là
những nguyên tắc bất di bất dịch, có thể áp dụng nguyên xi trong mọi hồn cảnh,
mọi thời gian và địa điểm, phải phân tích kỹ lưỡng mọi hoàn cảnh, mọi điều kiện
để vận dụng cho phù hợp.
Thứ ba, vận dụng quan điểm phát triển
Hiện nay, tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, tồn cầu
hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển, sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc cực
đoan, cạnh tranh chiến lược, cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại diễn ra gay
gắt. Trên tinh thần của quan điểm phát triển, Văn kiện Đại hội lần thứ XI của Đảng
Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, lồi người
nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”. Cương lĩnh xây dựng đẩt nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Đi lên
chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng
Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của
lịch sử”. “Đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển
của lịch sử”. Do đó, cần “kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” và
“phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng
xã hội chủ nghĩa”

Sự khủng hoảng và sụp đổ mơ hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xơ và Đông Âu
vào những năm 80-90 của thế kỷ XX, cũng như sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới trong những thập
niên đầu thế kỷ XXI đã chứng minh cho nhận định của các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác-Lênin là đúng đắn.


Quán triệt quan điểm này, trong hoạt động lãnh đạo, quản lý, trước hết, cán
bộ phải nắm vững quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến sự
thay đổi về chất. Mọi sự vật, hiện tượng chỉ có sự chuyển biến về chất nếu có đủ sự
tích lũy về lượng, khơng được nóng vội tả khuynh. Trước năm 1986, do tư tưởng
nóng vội, muốn tiến nhanh, tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội, nên Việt Nam và các
nước xã hội chủ nghĩa mắc khơng ít sai lầm trong nhận thức và hoạt động thực
tiễn. Thực hiện quốc hữu hóa nền kinh tế, nhanh chóng xóa bỏ kinh tế tư nhân và
chế độ tư hữu. Sự nóng vội này đã dẫn đến tư tưởng tả khuynh trong hoạt động
cách mạng. Hiện nay, trong quá trình xây dựng nơng thơn mới, khơng ít địa
phương với tư tưởng nóng vội, bệnh thành tích (biểu hiện ở việc nợ tiệu chí) đã dẫn
đến việc huy động quá sức dân, gây nên tình trạng nợ đọng xây dựng cơ bản khơng
có khả năng trả, làm cho nhiêu nơi việc xây dựng nông thôn mới không thực chất,
không bền vững.
Hiện nay, ở địa bàn nơng thơn, có nhiều mâu thuẫn nảy sinh giữa các giai
tầng xã hội. Tuy nhiên, đó là mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, mâu thuẫn không
cơ bản, khơng chủ yếu, khơng có tính đối kháng. Do vậy, đòi hỏi người cán bộ lãnh
đạo, quàn lý ở cơ sở phải nhận thức, phân tích và có phương pháp phù hợp để giải
quyết từng loại mâu thuẫn. Có như vậy mới giải quyết hài hịa lợi ích, tạo động lực
cho sự phát triển, thúc đẩy phong trào và phát huy được tính tích cực của quần
chúng. Những biện pháp giải quyết mâu thuẫn không phù hợp sẽ triệt tiêu động
lực, tính tích cực của quần chúng. Điều này đi ngược lại với quan điểm phát triển.
Ngồi ra trong tình hình hiện nay, cuộc đấu tranh chống lại những tư tưởng
lạc hậu, cản trở đổi mới đang diễn ra rất phức tạp. Do vậy, trong hoạt động lãnh

đạo, quản lý, người cán bộ phải có thái độ kiên quyết, ttên tinh thần khách quan,
khoa học để bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ lợi ích của nhân dân. Đấu tranh
không khoan nhượng với những tư tưởng, quan điểm phục cổ, hoài cổ, đồng thời
cũng đấu tranh chống lại thái độ phủ định sạch trơn, không khoa học, không biện


chứng. Thực hiện được điều này chính là việc quán triệt đầy đủ và sâu sắc quan
điểm phát triển.
KẾT LUẬN
Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi
xướng và lãnh đạo đã trải qua hơn ba mươi lăm năm, đã thu được nhiều thành tựu
quan trọng, đã, đang và sẽ đem lại những thay đổi lớn lao cho đất nước và dân tộc.
Kết quả quan trọng đó có phần quan trọng là Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận
dụng đúng đắn các quy luật khách quan của triết học mác xít, trong đó có các
nguyên tắc phương pháp luận phép biện chứng duy vật vào xây dựng và thực hiện
đường lối đổi mới. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, việc nghiên cứu, quán triệt
và vận dụng các phương pháp luận của phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa
Mác - Lênin vào giải quyết những vấn đề thực tiễn cách mạng đặt ra vừa là một
khoa học, đồng thời là một nghệ thuật. Để triển khai một cách hiệu quả, đòi hỏi các
thế hệ cách mạng hiện nay phải nắm được bản chất của phép biện chứng duy vật,
không ngừng học tập và rèn luyện mới có thể vận dụng một cách đúng đắn phương
pháp biện chứng duy vật vào giải quyết những vấn đề thực tiễn đang đặt ra mà
không rơi vào ngụy biện, chiết trung… để thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình triết học Mác- Lê nin ( tái bản có cập nhật, chỉnh sửa năm
2021), NXB lý luận chính trị.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

XII, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2016.
3.

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, Nxb.Chính trị quếc gia Sự thật, H.2021, t.I.

4.

C.Mác và Ph.Ăngghen: Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật,
H.2002, t.20.



×