Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.6 KB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC TP.HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
_______oOo_______

BÀI THU HOẠCH KẾT THÚC HỌC PHẦN
….……………………………………………………………………….

TÊN ĐỀ TÀI: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết
quốc tế và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay. Liên hệ bản thân.

1


MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU..................................................................................................................................... 4
II. NỘI DUNG................................................................................................................................ 4
1. Vai trò của đoàn kết quốc tế..................................................................................................4
1.1 Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo sức
mạnh tổng hợp cho cách mạng Việt Nam..................................................................................4
1.2 Thực hiện đồn kết quốc tế nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới thực hiện thắng lợi các
mục tiêu cách mạng của thời đại...............................................................................................6
2. Lực lượng đoàn kết quốc tế và hình thức tổ chức................................................................7
2.1 Đồn kết giữa các dân tộc bị áp bức....................................................................................7
2.2 Đoàn kết giữa phong trào cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa với phong trào cách
mạng vơ sản ở chính quốc.........................................................................................................8
2.3 Đồn kết giữa các đảng cộng sản và các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa...............10
2.4 Đoàn kết với các nước láng giềng, các nước trong khu vực..............................................10
2.5 Đoàn kết với các lực lượng u chuộng hịa bình, dân chủ và tiến bộ trên thế giới..........11
3. Nguyên tắc đoàn kết quốc tế................................................................................................13
3.1 Đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích, có lý, có tình.....................................13


3.2 Đồn kết trên cơ sở độc lập, tự chủ, tự lực tự cường.........................................................15
4. Vận dụng đoàn kết quốc tế vào giai đoạn hiện nay, liên hệ bản thân...............................15
4.1 Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập, tự chủ, dựa vào sức mình...........................16
4.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế là cơ sở lý luận quan trọng...........................17
4.3 Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế để tạo ra mơi trường quốc tế hịa
bình, ổn định, hữu nghị...........................................................................................................17
4.4 Liên hệ bản thân................................................................................................................ 18
III. KẾT LUẬN............................................................................................................................ 18
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................................19

I. MỞ ĐẦU

2


Hồ Chí Minh là lãnh tụ thiên tài của cách mạng Việt Nam, đồng thời là chiến sĩ xuất sắc
của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Người khơng chỉ là biểu tượng sáng ngời của đại
đồn kết dân tộc, mà còn là hiện thân rực rỡ của tinh thần đoàn kết quốc tế cao đẹp trong thời đại
ngày nay.
Trên thế giới, hiếm có một lãnh tụ cách mạng nào lại bàn nhiều, tiến hành hoạt động nhiều
và đạt được nhiều kết quả tốt đẹp về đoàn kết quốc tế như lãnh tụ Hồ Chí Minh. Thuở sinh thời,
Người đã từng bôn ba khắp năm châu bốn biển, đến đâu, ở đâu, với tất cả đồng chí và bạn bè gần
xa, Người ln thể hiện sâu sắc tình đoàn kết quốc tế cao đẹp. Từ sự chứa chan của lịng u nước
thương nịi và sự cảm thơng vơ hạn với những người cùng khổ, Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa
Mác-Lênin, Người đã sớm nhận thức được muốn giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người, thì giai cấp cần lao tồn thế giới phải đồn kết đấu tranh, đánh đổ giai cấp bóc
lột tàn ác.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế được hình thành và phát triển trên nền tảng
truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết của dân tộc; trên cơ sở thấm nhuần chủ nghĩa Mác Lênin và đường lối của Quốc tế Cộng sản; từ thực tiễn hoạt động cách mạng sôi nổi của Người
gắn liền với những thời kỳ trưởng thành của Đảng và cách mạng Việt Nam, với tiến trình cách

mạng thế giới.

II. NỘI DUNG
1. Vai trị của đồn kết quốc tế
1.1 Thực hiện đồn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng Việt Nam
Thực hiện đoàn kết quốc tế để tập hợp lực lượng bên ngồi, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ
và giúp đỡ của bạn bè quốc tế., kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của các trào lưu cách
mạng thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp cho cách mạng chiến thắng kẻ thù là một trong những
nội dung chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh và cũng là một trong những bài học kinh nghiệm
quan trọng nhất, mang tính thời sự sâu sắc nhất của cách mạng Việt Nam.

3


Sức mạnh của dân tộc Việt Nam là sự tổng hợp của các yếu tố vật chất và tinh thần, song
trước hết là sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và ý thức tự lực, tự cường dân tộc; sức mạnh của
tinh thần đồn kết; của ý chí đấu tranh anh dũng, bất khuất cho độc lập, tự do... Sức mạnh đó đã
giúp cho dân tộc ta vượt qua mọi thử thách, khó khăn trong dựng nước và giữ nước.
Là một nhà u nước chân chính, Hồ Chí Minh ln có niềm tin bất diệt vào sức mạnh dân
tộc. Ngay trong những năm tháng đen tối nhất của cách mạng, Người vẫn bộc lộ một niềm lạc
quan tin tưởng rất mạnh mẽ và sâu sắc vào sức mạnh của dân tộc.
Trong quá trình hoạt động cách mạng, nhờ chú ý tổng kết thực tiễn dưới ánh sáng chủ
nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã từng bước phát hiện ra sức mạnh vĩ đại tiềm ẩn trong các trào
lưu cách mạng thế giới mà Việt Nam cần tranh thủ. Các trào lưu đó nếu được liên kết, tập hợp
trong khối đoàn kết quốc tế sẽ tạo nên sức mạnh to lớn. Sức mạnh đó ln được bổ sung những
nhân tố mới, phản ánh sự vận động, phát triển không ngừng của lịch sử tồn thế giới và tiến trình
chính trị quốc tế sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917.
Khi tìm thấy con đường cứu nước Hồ Chí Minh đã sớm xác định cách mạng Việt Nam là
một bộ phận của cách mạng thế giới, cách mạng Việt Nam có thể thành cơng và thành cơng đến

nơi khi thực hiện đoàn kết chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới. Cùng với quá trình phát
triển thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong quan hệ với tình hình quốc tế, tư tưởng đồn kết với
phong trào cách mạng thế giới đã được Hồ Chí Minh phát triển ngày càng đầy đủ, rõ ràng và cụ
thể hơn.
Đánh giá vai trị của đồn kết quốc tế với cách mạng Việt Nam, trong buổi nói chuyện với
Đại sứ nước ta tại Liên Xơ năm 1961 Hồ Chí Minh nói: "Có sức mạnh cả nước một lịng có sự
ủng hộ của nhân dân thế giới chúng ta sẽ có một sức mạnh tổng hợp cộng với phương pháp cách
mạng thích hợp, nhất định cách mạng nước ta sẽ đi đến đích cuối cùng".
Như vậy theo Hồ Chí Minh, thực hiện đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc
tế; đại đoàn kết dân tộc phải là cơ sở cho việc thực hiện đoàn kết quốc tế. Đoàn kết dân tộc gắn
liền với đoàn kết quốc tế là để kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng
hợp cho cách mạng chiến thắng kẻ thù. Nếu đại đoàn kết dân tộc là một trong những nhân tố

4


quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam, thì đoàn kết quốc tế cũng là một nhân tố thường
xuyên và hết sức quan trọng giúp cho cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi hoàn toàn trong sự
nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và quả độ lên chủ nghĩa xã hội.
1.2 Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới thực
hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng của thời đại
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, chủ nghĩa yêu nước chân chính phải được gắn liền với chủ nghĩa
quốc tế vơ sản, đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đồn kết quốc tế; thực hiện đồn kết quốc tế
kkơng phải chỉ vì thắng lợi của cách mạng mỗi nước, mà cịn vì sự nghiệp chung của nhân loại
tiến bộ trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế vì các mục
tiêu cách mạng của thời đại.
Thời đại mà Hồ Chí Minh sống và hoạt động chính trị là thời đại đã chấm dứt thời kỳ tồn
tại biệt lập giữa các quốc gia, mở ra các quan hệ quốc tế ngày càng sâu rộng cho các dân tộc, làm
cho vận mệnh của mỗi dân tộc không thể tách rời vận mệnh chung của cả loài người.
Ngày sau khi nắm được đặc điểm của thời đại mới, Hồ Chí Minh đã hoạt động không mệt

mỏi để phá thế đơn độc của cách mạng Việt Nam, gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế
giới. Trong suốt q trình đó Người khơng chỉ phát huy triệt để sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước
và tinh thần dân tộc trong đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc mình, mà cịn kiên trì đấu
tranh không mệt mỏi để củng cố và tăng cường đoàn kết giữa các lực lượng cách mạng thế giới
đấu tranh cho mục tiêu chung: hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Người cho rằng, Đảng phải lấy tồn bộ thực tiễn của mình để chứng minh: chủ nghĩa yêu
nước triệt để không thể nào tách rời chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng. Trong Báo các chính trị
tại Đại hội II (tháng 2-1951). Người chỉ rõ: "Tinh thần yêu nước chân chính khác hẳn với tinh
thần "vị quốc” của bọn đế quốc phản động. Nó là một bộ phận của tinh thần quốc tế". Sau này,
trong tác phẩm Thưởng thức chính trị (1954). Người nói rõ hơn: "Tinh thần yêu nước là kiên
quyết giữ gìn quyền độc lập, tự do và đất đai tồn vẹn của nước mình. Tinh thần quốc tế là đoàn
kết với các nước bạn và nhân dân các nước khác đề giữ ein hịa bình thế giới, chống chính sách

5


xâm lược và chính sách chiến tranh của đế quốc... giữ gìn hịa bình thế giới tức là giữ gìn lợi ích
của nước ta... Đó là lập trường quốc tế cách mạng".
Theo Hồ Chí Minh, muốn tăng cường đồn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh vì mục tiêu
chung, các đảng cộng sản phải kiên trì chống lại mọi khuynh hướng sai lầm của chủ nghĩa cơ hội
chủ nghĩa vị kỷ dân tộc, chủ nghĩa sôvanh. . những khuynh hướng làm suy yếu sức mạnh đoàn
kết, thống nhất của các lực lượng cách mạng thế giới. Nói cách khác, các đảng cộng sản phải tiến
hành có hiệu quả việc giáo dục chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp với chủ nghĩa quốc tế vô
sản cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong mấy thập kỷ qua là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí
Minh: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nhờ kết hợp giải phóng dân tộc với giải
phóng giai cấp, chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam đã được bổ sung thêm nguồn lực mới,
trở thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Nhờ giương cao ngọn cờ chủ nghĩa xã hội. Việt Nam đã
tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ quốc tế, huy động được sức mạnh của các trào lưu cách mạng
thời đại, làm cho sức mạnh dân tộc được nhân lên gấp bội, chiến thắng được những kể thù có sức

mạnh to lớn hơn mình về nhiều mặt.
2. Lực lượng đồn kết quốc tế và hình thức tổ chức
2.1 Đồn kết giữa các dân tộc bị áp bức
Hồ Chí Minh có nhiều cống hiến cả trên phương diện lý luận cũng như thực tiễn đối với
phong trào giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa và phụ thuộc. Một trong những cống hiến
đó của Người là tạo dựng được tình đồn kết giữa các dân tộc bị áp bức trong cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa đế quốc.
Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước xuất phát từ mong muốn giải phóng dân tộc mình
khỏi ách thống trị của thực dân Pháp. Trong hành trình qua các châu lục, Người đã tận mắt chứng
kiến và xúc động trước bao nỗi khổ cực của người dân mất nước và người lao động. Người rất
cảm thông với nỗi thống khổ và sự cùng cực của họ. Người nhận thức sâu sắc rằng, các nước này
tuy có nhiều điểm khác Việt Nam về vị trí địa lý, văn hóa, trình độ kinh tế... song cùng có điểm
chung là bị thực dân, đế quốc bóc lột nặng nề và nguyện vọng của người dân được thoát khỏi ách

6


áp bức. Vì vậy, theo Người, các dân tộc này phải đoàn kết thành một mặt trận, tạo nên sức mạnh
cả về vật chất và tinh thần, chống kẻ thù chung là thực dân, đế quốc, giành lại quyền độc lập, tự
do cho mỗi dân tộc.
Người kiến nghị với Ban Phương Đông của Quốc tế Cộng sản những biện pháp nhằm tăng
cường sự hiểu biết giữa các dân tộc ở phương Đơng. Năm 1921, Người chủ trì và sáng lập tổ chức
Hội liên hiệp thuộc địa và xuất bản tờ báo Người cùng khổ (Le Paria). Hội này và báo Le Paria- tờ
báo đầu tiên trên thế giới lấy đối tượng phục vụ là các dân tộc thuộc địa - đã góp phần tích cực
thức tỉnh các dân tộc thuộc địa Pháp đứng lên làm cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, thực hiện
đoàn kết quốc tế. Trong thời kỳ hoạt động tại Trung Quốc, Người đã cùng các đồng chí Trung
Quốc, Ấn Độ, Triều Tiên, Indonesia, Miến Điện... thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức
(1925). Trong những năm 1938 - 1940, Hồ Chí Minh hoạt động và chiến đấu bên cạnh nhân dân
Trung Quốc do Đảng Trung Quốc lãnh đạo. Hoạt động này của Người đã gắn cách mạng Việt
Nam với cách mạng Trung Quốc, tạo cơ sở vững chắc cho quan hệ đoàn kết Việt - Trung. Từ 1954

trở đi, Người dành nhiều sự quan tâm và đóng góp tích cực trong việc xây dựng khối đoàn kết
giữa các thuộc địa ở châu Á là Việt Nam, Ấn Độ, Indonesia, Miến Điện... đặc biệt là khối đồn kết
giữa ba nước Đơng Dương là Việt - Miến - Lào.
2.2 Đoàn kết giữa phong trào cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa với
phong trào cách mạng vơ sản ở chính quốc
Hồ Chí Minh nhận thức được rằng cần thiết phải có sự liên minh chặt chẽ giữa các dân tộc
thuộc địa, giữa nhân dân thuộc địa với giai cấp vơ sản ở chính quốc. Ngay từ những năm đầu hoạt
động ở Pháp, đặc biệt là khi tham gia Đảng Xã hội rồi Đảng Cộng sản Pháp, Hồ Chí Minh dành
nhiều cơng sức giúp các đồng chí mình ở chính quốc nhìn rõ hơn bản chất chính sách thuộc địa
của đế quốc Pháp, hiểu biết và ủng hộ cơng cuộc giải phóng của nhân dân thuộc địa nói chung,
trong đó có Việt Nam; đồng thời, Người cũng giúp cho nhân dân thuộc địa của Pháp hiểu rõ và
đồn kết với nhân dân Pháp. Người cịn đấu tranh kiên quyết với những biểu hiện của chủ nghĩa
sôvanh, chủ nghĩa dân tộc hẹp hịi, xóa bỏ sự nghi kỵ lẫn nhau giữa nhân dân thuộc địa với những
người lao động ở Pháp. Những hoạt động này ngày càng mở rộng trên phạm vi quốc tế cùng với
cuộc hành trình của Người.

7


Năm 1924, tại phiên họp lần thứ 8 Đại hội V Quốc tế Cộng sản, Hồ Chí Minh đã nêu rõ ý
nghĩa của cách mạng giải phóng dân tộc đối với phong trào cách mạng vô sản thế giới: “Vận
mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm
lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa”. Đây là nơi cung cấp
lương thực, binh lính cho các nước lớn đế quốc chủ nghĩa, nếu chúng ta muốn đánh bại các nước
đế quốc này, chúng ta phải bắt đầu tước đi thuộc địa của chúng.
Theo Hồ Chí Minh khơng xem cách mạng thuộc địa phụ thuộc hồn tồn vào cách mạng
vơ sản ở chính quốc mà đặt hai cuộc cách mạng này ngang nhau, tác động và ảnh hưởng qua lại
lẫn nhau. Thậm chí, theo Người, cách mạng ở các nước thuộc địa có thể nổ ra và thắng lợi trước
cách mạng vơ sản chính quốc, đồng thời tác động trở lại thúc đẩy cách mạng chính quốc giành
thắng lợi. Người nêu lên chiến lược đấu tranh là: “Cuộc đấu tranh cách mạng của công nhân các

nước tư bản trực tiếp giúp cho các dân tộc bị áp bức tự giải phóng mình... Trong khi đó, cuộc đấu
tranh cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa lại trực tiếp giúp đỡ giai cấp vô sản
các nước tư bản trong cuộc đấu tranh chống các giai cấp thống trị để tự giải phóng khỏi ách nơ lệ
của chủ nghĩa tư bản. Sự nhất trí của cuộc đấu tranh chống đế quốc bảo đảm thắng lợi cho các dân
tộc thuộc địa và nửa thuộc địa và cho giai cấp vô sản ở các nước tư bản”.
2.3 Đoàn kết giữa các đảng cộng sản và các nước trong hệ thống xã hội chủ
nghĩa
Với trách nhiệm của người chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh ln quan tâm đến
mối đoàn kết giữa các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa. Trong đoàn kết với các nước phe xã
hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến mối quan hệ đoàn kết giữa các đảng cộng sản cầm
quyền. Người quan niệm mối quan hệ này là gắn bó, tương trợ lẫn nhau trên tinh thần quốc tế vơ
sản chân chính. Với tư tưởng vơ sản quốc tế triệt để và trong sáng cùng sự khơn khéo tài tình vốn
có, Hồ Chí Minh đã có nhiều đóng góp to lớn trong hàn gắn rạn nứt, xây dựng tình hữu nghị, đồn
kết giữa các đảng cộng sản và công nhân, các nước anh em, phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng chung.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết với các Đảng Cộng sản và các nước trong hệ thống xã
hội chủ nghĩa có ý nghĩa rất lớn đối với thành công của cách mạng thế giới nói chung, cách mạng
Việt Nam nói riêng. Vận dụng tư tưởng của Người, trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân

8


Pháp và đế quốc Mỹ, nhân dân ta đã nhận được sự viện trợ, giúp đỡ to lớn của các nước trong phe
xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xô và Trung Quốc, ngay cả khi hai nước này nảy sinh bất đồng,
mâu thuẫn.
2.4 Đoàn kết với các nước láng giềng, các nước trong khu vực
Trên tinh thần bốn biển đều là anh em, Hồ Chí Minh rất coi trọng quan hệ đoàn kết với các
nước láng giềng. Người đã luận chứng sâu sắc và dày công vun đắp cho quan hệ này vì vấn đề
độc lập, tự do của mỗi nước, vì hịa bình và thịnh vượng của khu vực. Khái niệm “các nước láng
giềng” được Hồ Chí Minh sử dụng từ rất sớm, khá phổ biến và ở nhiều cấp độ, phạm vi khác
nhau. Những năm sau đó, cụm từ này Người dùng khi thì với những nước ở châu Á, trong đó chú

trọng đến nước láng giềng Ấn Độ, lúc khác lại là các nước Đông Nam Á. Song, mối quan tâm
nhiều nhất của Người vẫn là các nước có chung đường biên giới với Việt Nam như: Lào,
Campuchia, Trung Quốc. Hiểu rõ vai trò của các nước láng giềng đối với cách mạng Việt Nam,
Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Thật phi lý nếu nghĩ rằng Việt Nam lại có thể tồn tại biệt lập với các
nước láng giềng.
Ngay từ những năm cuối thập niên 20 thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã nhận thấy vai trị của
đồn kết giữa các nước trong khu vực. Theo Người, châu Á là châu lục đất rộng, người đông với
nhiều nước có nền văn minh lâu đời như Trung Quốc, Ấn Độ..., Việt Nam là một thành viên
không tách rời, có số phận liên quan chặt chẽ trong đó. Người ln chăm lo vun đắp cho sự đồn
kết giữa các nước trong khu vực trên cơ sở bình đẳng, tơn trọng quyền độc lập tự chủ của nhau. Vì
vậy, Người tham gia sáng lập và trở thành linh hồn của Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức - tổ
chức bao gồm những người cách mạng nhiều nước trong khu vực cùng tiến hành cuộc cách mạng
đánh đuổi đế quốc, giành độc lập tự do cho mỗi dân tộc.
Trong quan hệ ở phạm vi hẹp hơn, Hồ Chí Minh chỉ rõ cần phải chú trọng đoàn kết với các
nước Đông Nam Á. Dưới sự chỉ đạo soạn thảo của Người, Báo cáo của Chính phủ trình Quốc hội
khố I họp ngày 2-3-1946 đã nêu rõ vai trò của mối quan hệ đoàn kết giữa Việt Nam với Thái
Lan, Malaixia, Indonesia, Philippines, Miến Điện. Theo đó, mong muốn của Người là các nước
Đơng Nam Á đồn kết, giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau giữ gìn nền hịa bình chung trong khu vực và
trên thế giới. Với Việt Nam, Người cho rằng: “Là một nước ở Đông - Nam Á, chúng ta hết lòng

9


ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của các dân tộc trong khu vực này chống lại sự xâm lược và nô
dịch của chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân cũ và mới”. Hồ Chí Minh đặc biệt dành nhiều sự
quan tâm đến mối quan hệ đoàn kết giữa Việt Nam với Lào và Campuchia. Ba nước này đều có
điểm chung là cùng nằm trên bán đảo Đơng Dương. Nhờ biết đoàn kết, nương tựa vào nhau, lần
lượt ba nước Đông Dương đã đánh bại thực dân Pháp, can thiệp Mỹ và giành thắng lợi trọn vẹn
trong năm 1975.
2.5 Đồn kết với các lực lượng u chuộng hịa bình, dân chủ và tiến bộ trên

thế giới
Hồ Chí Minh ln giương cao ngọn cờ hịa bình, phản đối chiến tranh xâm lược, chiến
tranh phi nghĩa. Tính chất chính nghĩa và lịng u chuộng hịa bình của nhân dân Việt Nam đã
chinh phục trái tim của nhân loại tiến bộ. Vì vậy, trong quá trình kháng chiến chống quân xâm
lược của Việt Nam, các lực lượng u chuộng hịa bình trên thế giới đã lên tiếng bày tỏ sự ủng hộ,
giúp đỡ chân tình cả về tinh thần và vật chất. Không thể phủ nhận ảnh hưởng sức tuyên truyền của
các lực lượng này có sự lan tỏa và đem lại hiệu quả lớn như thế nào đối với thắng lợi của cách
mạng Việt Nam.
Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành cơng, Hồ Chí Minh đã khẳng định chính sách
đối ngoại của Việt Nam là “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và khơng gây thù ốn với một
ai”. Hồ Chí Minh từ rất sớm đã coi trọng đồn kết đối với nhân dân u chuộng hịa bình ở Pháp,
Mỹ - hai quốc gia đi xâm lược Việt Nam. Sau khi tận mắt chứng kiến cảnh nghèo khổ, cùng cực
của nhân dân lao động ở ngay chính những nước này, Người đã phân biệt rõ bạn - thù, vạch ra
chiến lược đồn kết có định hướng, mục tiêu rất cụ thể, rõ ràng. Ngay từ năm 1946, Người đã
khẳng định: “Đối với Pháp, chỉ đánh bọn thực dân, cịn đối với những kiều dân khơng làm hại gì
cho nền độc lập của ta, ta sẽ phải bảo vệ tính mệnh và tài sản của họ”. Lịng u chuộng hịa bình
chân chính của Hồ Chí Minh đã chinh phục cảm tình của đơng đảo nhân dân lao động Pháp, làm
dấy lên một làn sóng mạnh mẽ địi chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Khi đế quốc Mỹ gây chiến ở
Việt Nam, Hồ Chí Minh vẫn rất thân thiện với nhân dân Mỹ. Người trực tiếp gửi thư tới các chính
giới Mỹ, kêu gọi nhân dân tiến bộ Mỹ hãy cùng với nhân dân Việt Nam đứng lên đấu tranh đòi
chấm dứt cuộc chiến tranh phi nghĩa ở Việt Nam. Người từng bày tỏ: “Trước đây, chúng tôi đã

10


chú ý phân biệt thực dân Pháp và nhân dân Pháp u chuộng hịa bình, thì ngày nay chúng tơi
cũng chú ý phân biệt nhân dân Mỹ vĩ đại có truyền thống tự do, với bọn can thiệp Mỹ và bọn qn
phiệt ở Hoa Thịnh Đốn...”. Tiếng nói chính nghĩa của Hồ Chí Minh đã được đơng đảo các tầng
lớp nhân dân Mỹ đồng tình và chính họ đã tạo nên những làn sóng đấu tranh liên tục chống chính
quyền Mỹ, đòi chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam.

Như vậy, đồn kết với các lực lượng u chuộng hịa bình, dân chủ và tiến bộ trên thế giới
trong tư tưởng Hồ Chí Minh khơng chỉ vì độc lập, tự do của dân tộc mình, mà cịn thể hiện sự tơn
trọng truyền thống của các nước thực dân, đế quốc đi xâm lược. Đó cũng chính là biểu hiện của
chủ nghĩa nhân văn cao cả Hồ Chí Minh - khơng gây hận thù dân tộc - một bài học cho nhiều
nước trên con đường tranh đấu cho độc lập tự do. Những quan điểm trên là những cống hiến quan
trọng của Danh nhân văn hóa Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận Mác - Lênin, đã trở thành tài sản
tinh thần quý báu của Đảng ta, nhân dân ta và nhân loại tiến bộ trên thế giới.
3. Nguyên tắc đoàn kết quốc tế
3.1 Đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích, có lý, có tình
Cũng như xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, muốn thực hiện được đoàn kết quốc tế trong
cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và các lực lượng phản động quốc tế phải tìm ra được
những điểm tương đồng về mục tiêu và lợi ích giữa các dân tộc, các lực lượng tiến bộ và phong
trào cách mạng thế giới. Đây là vấn đề cốt từ có tính ngun tắc trong công tác tập hợp lực lượng.
Từ rất sớm Hồ Chí Minh đã phát hiện ra sự tương đồng này nhờ đặt cách mạng Việt Nam trong
bối cảnh chung của thời đại, kết hợp lợi ích của cách mạng Việt Nam với trào lưu cách mạng thế
giới và nhận thức về nghĩa vụ của Việt Nam đối với sự nghiệp chung của loài người tiến bộ.
Để đoàn kết với phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế Hồ Chí Minh giương cao ngọn
cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, thực hiện đoàn kết thống nhất trên nền tảng của
chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vơ sản, có lý, có tình. Là một chiến sĩ cách mạng
quốc tế kiên định, Hồ Chí Minh đã suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp củng cố khối đoàn kết, thống
nhất giữa các lực lượng cách mạng thế giới, trước hết là trong phong trào cộng sản và công nhân

11


quốc tế, lực lượng tiên phong của cách mạng thế giới trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế
quốc vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, để thực hiện đoàn kết thống nhất trong phong trào cộng sản và
cơng nhân quốc tế thì đồn kết giữa các Đảng “là điều kiện quan trọng nhất để bảo đảm cho
phong trào cộng sản và cơng nhân tồn thắng trong cuộc đấu tranh vĩ đại cho tương lai tươi sáng

của toàn thể loài người”. Người cho rằng, thực hiện sự đồn kết đó phải đứng vững trên lập
trường giai cấp công nhân, quán triệt sâu sắc những nguyên tắc của chủ nghĩa quốc tế vơ sản.
“Có lý” là phải tn thủ những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin phải xuất
phát từ lợi ích chung của cách mạng thế giới. Tuy nhiên, việc trung thành với chủ nghĩa Mác –
Lênin đòi hỏi phải vận dụng sáng tạo, có hiệu quả vào hoạt động thực tế của mỗi nước, mỗi đảng,
tránh giáo điều. “Có tình” là sự thơng cảm, tơn trọng lẫn nhau trên tinh thần, tình cảm của những
người cùng chung lý tưởng, cùng chung mục tiêu đấu tranh: phải khắc phục tư tưởng sôvanh,
“nước lớn”, “đảng lớn”, khơng “áp đặt”, “ức chế”, nói xấu, cơng khai cơng kích nhau, hoặc dùng
các giải pháp về chính trị, kinh tế… gây sức ép với nhau. “Có tình” địi hỏi trong mọi vấn đề phải
chờ đợi nhau cùng nhận thức, cùng hành động vì lợi ích chung. Lợi ích của mỗi quốc gia, dân tộc,
mỗi đảng phải được tôn trọng, song lợi ích đó-khơng được phương hại đến lợi ích chung, lợi ích
của đảng khác, của dân tộc khác. ”Có lý”, “có tình” vừa thể hiện tính ngun tắc, vừa là một nội
dung của chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh – chủ nghĩa nhân văn cộng sản. Nó có tác dụng rất lớn
khơng chỉ trong việc củng cố khối đồn kết quốc tế của giai cấp cơng nhân mà cịn củng cố tình
đồn kết trong nhân dân lao động.
Để đoàn kết với các dân tộc trên thế giới, Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ độc lập, tự do
và quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Độc lập, tự do cho mỗi dân tộc là tư tưởng nhất quán được
Hồ Chí Minh coi là chân lý, là ”lẽ phải khơng ai chối cãi được”. Hồ Chí Minh khơng chỉ suốt đời
đấu tranh cho tự do của dân tộc mình mà cịn đấu tranh cho độc lập, tự do của các dân tộc khác.
Những quan điểm trên được Người thể chế hóa sau khi Việt Nam giành được độc lập Thời đại Hồ
Chí Minh sống là thời đại bão táp của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên hầu hết các
châu lục của thế giới. Trong tiến trình đó, Người khơng chỉ là nhà tổ chức, người cổ vũ mà còn là
người ủng hộ nhiệt thành cuộc đấu tranh của các dân tộc vì các quyền dân tộc cơ bản của họ. Nêu
cao tư tưởng độc lập, tự do và quyền bình đẳng giữa các dân tộc, Hồ Chí Minh trở thành người
khởi xướng, người cầm cờ và là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng

12


định bản sắc dân tộc của mình, đồng thời thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau, thực hiện đoàn kết, hữu

nghị giữa các dân tộc trên thế giới với Việt Nam vì thắng lợi của cách mạng mỗi nước.
Để đồn kết với các lực lượng tiến bộ trên thế giới, Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ hịa
bình trong cơng lý. Giương cao ngọn cờ hịa bình, chống chiến tranh xâm lược là một trong những
nội dung quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó bắt nguồn từ truyền thống hòa
hiếu của dân tộc Việt Nam kết hợp với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản và những giá trị nhân văn
nhân loại. Trong suốt cuộc đời mình, Hồ Chí Minh ln giương cao ngọn cờ hịa bình, đấu tranh
cho hịa bình, một nền hịa bình thật sự cho tất cả các dân tộc – “hịa bình trong độc lập tự do”
Giương cao ngọn cờ hịa bình và đấu tranh bảo vệ hịa bình là tư tưởng bất di bất dịch của
Hồ Chí Minh. Trong suốt hai cuộc kháng chiến, quan điểm hịa bình trong cơng lý, lịng thiết tha
hịa bình trong sự tơn trọng độc lập và thống nhất đất nước của Hồ Chí Minh và nhân dân Việt
Nam đã làm rung động trái tim nhân loại. Nó có tác dụng cảm hóa lơi kéo các lực lượng tiến bộ
thế giới đứng về phía nhân dân Việt Nam địi chấm dứt chiến tranh, văn hóa hịa bình.
3.2 Đoàn kết trên cơ sở độc lập, tự chủ, tự lực tự cường
Đoàn kết quốc tế là để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của các lực lượng quốc tế,
nhằm tăng thêm nội lực, tạo sức mạnh thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ cách mạng đặt ra. Để
đồn kết tốt phải có nội lực tốt. Nội lực là nhân tố quyết định, còn nguồn lực ngoại sinh chỉ có thể
phát huy tác dụng thơng qua nguồn lực nội sinh. Chính vì vậy trong đấu tranh cách mạng, Hồ Chí
Minh ln nêu cao khẩu hiệu: “Tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính”, “Muốn người ta
giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã”.
Hồ Chí Minh chỉ rõ, muốn tranh thủ được sự ủng hộ quốc tế, Đảng phải có đường lối độc
lập, tự chủ và đúng đắn. Trong quan hệ giữa các dân thuộc phong trào cộng sản, công nhân quốc
tế Người xác định: “Các đảng dù lớn dù nhỏ đều độc lập và bình đẳng, đồng thời đồn kết nhất trí
giúp đỡ lẫn nhau”. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và kháng chiến chống thực
dân Pháp của Việt Nam là thắng lợi của đường lối đúng đắn và sáng tạo của Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ với đường tới độc lập, tự chủ, giương cao hai
ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp hài hòa lợi ích dân tộc và lợi ích quốc tế,

13



Đảng ta đã tranh thủ được phong trào nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam, tạo ra được tiếng
nói chung và sự ủng hộ có hiệu quả của các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là của Liên Xơ, Trung
Quốc, giữa lúc hai nước này đang có những bất đồng sâu sắc cả về đường lối quốc tế lẫn đường
lối chống Mỹ của Việt Nam. Sự đoàn kết của Việt Nam với Liên Xô và Trung Quốc trong kháng
chiến chống đế quốc Mỹ đã góp phần quan trọng vào việc củng cố đoàn kết của các nước xã hội
chủ nghĩa, của phong trào cách mạng thế giới, tạo chỗ dựa cho phong trào nhân dân thế giới ủng
hộ Việt Nam đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ.
4. Vận dụng đoàn kết quốc tế vào giai đoạn hiện nay, liên hệ bản thân
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế, Đảng và Chính phủ Việt Nam ln
tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân các nước đối với cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và xâm lược Mỹ. Nhờ quan điểm đồn kết đúng đắn đó của Người mà ở Pháp và Mỹ đã dấy
lên phong trào các tầng lớp nhân dân địi chính phủ phải chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt
Nam. Ngày nay, trong bối cảnh thế giới có nhiều biến đổi, thời cơ và thách thức đan xen lẫn nhau,
vấn đề đoàn kết đấu tranh của phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế có những thuận lợi và
khó khăn mới. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, phát huy sự ủng hộ quốc tế là cơ sở quan trọng
để Đảng Cộng sản Việt Nam hoạch định chủ trương, đường lối đối ngoại và giải quyết các vấn đề
quốc tế:
4.1 Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập, tự chủ, dựa vào sức mình
Là chính làm nền tảng để mở rộng quan hệ đối ngoại, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế,
phát triển bền vững và không làm phương hại đến chủ quyền quốc gia, bản sắc văn hóa dân tộc.
Các quốc gia, dân tộc trên thế giới đang tham gia sâu rộng vào q trình tồn cầu hóa, hội nhập
quốc tế, hợp tác cùng phát triển trong hịa bình và hữu nghị. Chiến tranh, xung đột cục bộ vẫn xảy
ra, chủ nghĩa khủng bố và những hành vi tàn ác chà đạp quyền sống của con người. Đặc biệt, thái
độ “lớn ép nhỏ”, lợi ích và chủ nghĩa dân tộc cực đoan đã kéo theo các hành vi xâm phạm độc lập,
chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo của nước khác, bất chấp dư luận và luật pháp quốc tế. Trong đó,
những phức tạp ở Biển Đông đã, đang và tiếp tục gây phức tạp, đe dọa đến hịa bình, ổn định của
Việt Nam và các nước trong khu vực. Với truyền thống hịa hiếu, Việt Nam ln mong muốn cùng
các nước xây dựng và củng cố lịng tin chiến lược vì hịa bình, hợp tác, phát triển trên ngun tắc

14



tơn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi. Việt Nam kiên định nhất quán đường lối
đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các
quốc gia và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; không ngừng nỗ lực làm sâu
sắc thêm và xây dựng quan hệ đối tác chiến lược, đối tác hợp tác cùng có lợi với các quốc gia. Đối
với các nguy cơ và thách thức về an ninh khu vực đang hiện hữu như bán đảo Triều Tiên, Biển
Hoa Đông, Biển Đông… Việt Nam trước sau như một kiên trì nguyên tắc giải quyết bằng biện
pháp hịa bình, tn thủ luật pháp quốc tế, tơn trọng độc lập chủ quyền và lợi ích chính đáng của
nhau. Các bên liên quan đều phải kiềm chế, không sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực.
4.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế là cơ sở lý luận quan trọng
Ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành cơng, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hịa
non trẻ đứng trước mn vàn thử thách, cùng một lúc phải đương đầu với giặc đói, giặc dốt, giặc
ngoại xâm. Trong thời khắc ngàn cân treo sợi tóc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khéo léo sử dụng
ngoại giao đa phương để phục vụ mục tiêu của cách mạng. Thơng cáo về Chính sách ngoại giao
do Hồ Chí Minh ký ngày 3-10-1945 thể hiện quan điểm đối ngoại thân thiện và thành thực hợp tác
trên lập trường bình đẳng, tương ái; tơn trọng nền độc lập của Việt Nam, hữu nghị, hợp tác và
bình đẳng; đối với các dân tộc nhược tiểu trên tồn cầu thì thân thiện, hợp tác chặt chẽ. Có thể
thấy rằng, tư duy đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ của nước ta được hình thành từ
rất sớm. Nhờ chính sách ngoại giao đa phương hóa quan hệ, ngoại giao Việt Nam đã phá được thế
bị bao vây, cô lập, cấm vận, khẳng định tính hợp pháp, hợp hiến của chính quyền cách mạng ở
khu vực và trên thế giới. Qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, đến giai
đoạn đất nước bước vào công cuộc đổi mới, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và đoàn kết quốc
tế, ngoại giao Việt Nam đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn về vật chất và tinh thần của bạn bè
quốc tế, góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp của đất nước và phục vụ đắc lực vào cuộc đấu tranh
bảo vệ độc lập dân tộc và công cuộc đổi mới đất nước.
4.3 Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế để tạo ra mơi trường
quốc tế hịa bình, ổn định, hữu nghị
Để xây dựng một thế giới hịa bình, phát triển tốt đẹp, theo Hồ Chí Minh các dân tộc cần
xích lại gần nhau, thơng qua tiếp xúc, trao đổi để hiểu biết nhau hơn, tin cậy nhau, cùng nhau giải


15


quyết các xung đột. Bằng những cố gắng không mệt mỏi của mình, Người đã sáng lập ra các tổ
chức quốc tế, đồn kết các dân tộc đấu tranh vì độc lập, tự do vào những năm 20 của thế kỷ XX.
Tư tưởng nhất quán của Hồ Chí Minh về giải quyết những bất đồng trong quan hệ quốc tế là lấy
hữu nghị thay cho hận thù, đối thoại thay cho đối đầu, hịa bình thay cho chiến tranh, ln mong
muốn tình hữu nghị, hịa bình, sự hợp tác thân thiện giữa các quốc gia, dân tộc, giữa các nước trên
thế giới. Trong bối cảnh thế giới, khu vực và đất nước có nhiều biến đổi, thời cơ và thách thức đan
xen lẫn nhau, tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế là cơ sở lý luận vững chắc, lâu dài cho
cách mạng Việt Nam về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đảng Cộng sản, nhân
dân Việt Nam và nhân dân thế giới ln phát huy cao nhất tinh thần đồn kết quốc tế cao cả của
Người.
4.4 Liên hệ bản thân
Trong quá trình cơng nghiệp hóa hiện đại hóa hiện nay việc phát huy tinh thần đại đoàn kết
dân tộc càng cần được phát huy. Do đó mỗi cá nhân cần quán triệt tư tưởng sâu sắc trong việc đấu
tranh với bản thân để noi theo tấm gương vĩ đại của Hồ Chí Minh.
Chúng ta phải luôn nâng cao tinh thần cảnh giác, chống những luận điệu xuyên tạc về
Đảng, về Chủ tịc Hồ Chí Minh, khơng ngừng nâng cao trình độ để thích ứng với điều kiện xã hội
mới, áp dụng triệt để và linh hoạt các nguyên tắc của Người tùy theo vị trí của mình như tập trung
dân chủ, kỷ luật nghiêm minh, tự giác trong công việc cũng như trong cuộc sống cộng đồng.
Đẩy mạnh việc tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao chuyên môn của bản thân, tuyên truyền về
đường lối chính sách của Đảng pháp luật của nhà nước. Chống các biểu hiện suy thoái về phẩm
chất đạo đức, luôn tu dưỡng phẩm chất đạo đức.
Mỗi cá nhân cần có ý thức rèn luyện, tu dưỡng đạo đức: Cần gương mẫu rèn luyện phẩm
chất tư cách, làm trịn những nhiệm vụ được Đảng và chính quyền giao phó. Có lối sống cần,
kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư, hịa nhã với mọi người. Ln tự rèn luyện và trau dồi phẩm chất
đạo đức, lối sống.
Thẳng thắn, trung thực bảo vệ công lý, bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, bảo vệ

người tốt, chân thành, khiêm tốn, khơng bao che khuyết điểm,… Ln có ý thức giữ gìn đồn kết

16


III. KẾT LUẬN
Chiến lược đoàn kết quốc tế là một bộ phận quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đã có
nhiều người trong nước và trên thế giới nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ những tư tưởng và giá
trị nhân văn vĩ đại của tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong đó tư tưởng về đồn kết dân tộc, đoàn kết
quốc tế được khẳng định là nội dung thống nhất và đặc sắc trong suốt cả cuộc đời hoạt động của
người. Trong thực tế, chiến lược đoàn kết quốc tế đã trở thành tài sản tinh thần quý giá của Đảng
ta, dân tộc ta và nhân loại tiến bộ trong thời đại ngày nay.
Thế giới ngày nay đã có những thay đổi to lớn song vẫn chưa mất đi bất công và bạo lực.
Các nước đang thực thi những thủ đoạn tinh vi, dùng sức mạnh tài chính, thương mại, công nghệ,
những phương tiện thông tin đại chúng cực mạnh để chi phối về chính trị, xâm nhập về kinh tế,
văn hoá, tư tưởng đối với đa số các nước phát triển và các nước nghèo. Độc lập dân tộc thực sự, tự
do dân chủ cho nhân dân, công bằng, hạnh phúc cho mọi người, hồ bình hữu nghị cho các dân
tộc cịn đang là mục tiêu của lồi người. Khơng có con đường nào khác là các nước phải đoàn kết
dân tộc thành một khối vững chắc và đoàn kết với tất cả các nước trên thế giới, vừa đấu tranh cho
mục tiêu trên, vừa mở rộng hợp tác quốc tế, tiếp thu những thành tựu khoa học và văn hố của nền
văn minh trí tuệ. Đồng thời khẳng định những quyền dân tộc cơ bản của mình, giữ gìn bản sắc và
cốt cách tốt đẹp của dân tộc mình.
Trong giai đoạn hiện nay, tình hình quốc tế và trong nước hiện nay có những chuyển biến
nhanh chóng và sâu sắc, đặt ra những điều kiện mới đội hỏi phải biết vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về đoán kết quốc tế cho phu hợp. Cần làm rõ đoàn kết để hiện mục tiêu cách mạng giai đoạn
hiện nay là xây dựng “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; Mở cửa, hội
nhập quốc tế, là bạn của tất cả các nước, phấn đấu vì hịa bình, tích cực tham gia vào giải quyết
những vấn đề toàn cầu hiện nay; Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh quốc tế để đẩy nhanh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, góp phần vào sự nghiệp cách mạng thế giới; Xây dựng
đảng trong sạch và vmg mạnh là hạt nhân cốt lõi đoàn kết quốc tế và đoàn kết dân tộc.


17


Những quan điểm cơ bản cùng những giá trị thực tiễn của chiến lược đồn kết quốc tế của
Hồ Chí Minh là những bài học rất sâu sắc cần được nhận thức và vận dụng một cách sáng tạo, phù
hợp với cách mạng Việt Nam và thế giới tiến bộ trong giai đoạn hiện nay.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh
2. Tài liệu tham khảo mơn học tư tưởng Hồ Chí Minh,Tập trích các tác phẩm Hồ Chí
Minh
3. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb chính trị quốc gia
4. Viện thông tin khoa học xã hội
5. Cổng thông tin điện tử bộ giáo dục và đào tạo

18



×