Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Hiểu biết về các quân binh chủng trong quân đội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (350.27 KB, 33 trang )

Nhận làm bài thuê lý luận chính trị, khoa học xã hội & nhân văn giá rẻ sinh viên
Liên hệ Zalo: 0389632001

HIỂU BIẾT CHUNG VỀ CÁC QUÂN, BINH CHỦNG
TRONG QUÂN ĐỘI
3.1. Tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam
3.1.1. Khái quát chung về tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam
Bộ Quốc phòng Quân đội nhân dân Việt Nam là một cơ quan trực thuộc Chính
phủ, quản lý và điều hành Quân đội nhân dân Việt Nam, thực hiện nhiệm vụ chiến đấu
chống giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc, phòng thủ quốc gia. Bộ Quốc phòng đặt dưới
sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng Cộng sản Việt Nam.

BQP

BTTM

TCCT

TC II

TCKT

QCPK-KQ
QCHQ
CÁC BC

TCHC

TCCNQ

qk1



qk4

qk2

qk5

qk3

qk7
qk9

qđ1

qđ3
BTL BP

qđ2

BTLTĐ

BTL CSB

qđ4
Hình 3.1. Sơ đồ khái quát chung tổ chức QĐNDVN

-

- Các


Các cơ quan trực thuộc Bộ Quốc phòng: Bộ Tổng Tham mưu, Tổng cục Chính trị,
Tổng cục 2, Tổng cục Kỹ thuật, Tổng cục Cơng nghiệp Quốc phịng, Tổng cục
Hậu cần.
- Các quân chủng: Quân chủng Hải quân, Qn chủng Phịng khơng - Khơng qn.

binh chủng: Binh chủng Pháo binh; Binh chủng Tăng - thiết giáp; Binh chủng đặc
cơng; Binh chủng Hóa học; Binh chủng Thơng tin liên lạc; Binh chủng Công binh (3
binh chủng chiến đấu và 3 binh chủng bảo đảm).


Nhận làm bài thuê lý luận chính trị, khoa học xã hội & nhân văn giá rẻ sinh viên
Liên hệ Zalo: 0389632001

-

Các quân khu: Quân khu 1, Quân khu 2, Quân khu 3, Quân khu 4, Quân khu 5,
Quân khu 7, Quân khu 9.

-

Các quân đoàn trực thuộc Bộ Quốc phịng: Qn đồn 1, Qn đồn 2, Qn
đồn 3, Qn đồn 4.

-

Các Bộ Tư lệnh trực thuộc Bộ Quốc phịng: Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng,
Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội, Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển.

Trong mỗi qn khu, qn đồn có các đơn vị chiến đấu như sư đoàn, lữ đoàn,
trung đoàn, tiểu đoàn trực thuộc. Riêng các quân khu, ngoài các đơn vị chủ lực cịn có

các đơn vị trực thuộc bộ chỉ huy qn sự các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương...
ở từng

lữ đồn, trung đồn có các tiểu đồn (tiểu đồn bộ binh, tiểu đồn pháo binh,
tiểu đồn cơng binh...); đại đội trực thuộc lữ đoàn, trung đoàn (đại đội sửa chữa,
đại đội xe...); tiểu đồn có các đại đội bộ binh, hỏa lực, các trung đội trực thuộc
tiểu đoàn và tiểu đội trinh sát; đại đội có các trung đội bộ binh, tiểu đội hỏa lực;
trung đội có các tiểu đội bộ binh; tiểu đội là đơn vị biên chế nhỏ nhất trong hệ
thống tổ chức của ?

-

Hệ thống các học viện nhà trường trực thuộc Bộ Quốc phòng như: các học viện,
các trường đại học, trường sĩ quan, trường dạy nghề; các cơ quan và đơn vị khác
trực thuộc Bộ Quốc phịng.

Ví dụ: Tập đồn CN viễn thơng QĐ Viettel, Thanh tra BQP, Cục tài chính, Cục
đối ngoại quân sự, Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển, Trung tâm nhiệt đới Việt Nga, Cục cứu
hộ cứu nạn, Cục Điều tra hình sự, Cục thi hành án, Binh đoàn 15...
3.1.2. Tổ chức, biên chế, trang bị các phân đội bộ binh từ tiểu đội đến tiểu đoàn
QĐND Việt Nam
3.1.2.1. Tổ chức, biên chế, vũ khí trang bị của tiểu đội bộ binh
- Tổ chức : Thành 3 tổ bộ binh

at/TT tổ 1

1

TT tổ 2


2

AK

Tr.L

aphó/TT tổ 3

3

4

5

6

AK

AK

M79

AK

7

8

9


AK

B41

AK

Hình 3.2. Sơ đồ đội hình của aBB
+

Tổ bộ binh 1: gồm tiểu đội trưởng, Trung liên (số 2), AK (số 3);


Nhận làm bài thuê lý luận chính trị, khoa học xã hội & nhân văn giá rẻ sinh viên
Liên hệ Zalo: 0389632001

+
+

Tổ bộ binh 2: gồm tổ trưởng (số 4), M79 (số 5), AK (số 6);

Tổ bộ binh 3: gồm tổ trưởng (số 7), B41 (số 8), AK (số 9); Biên chế quân số, vũ khí trang bị.
Quân
số

AK TL

Vũ khí
M79 B41

HSQ,CS


09

06

01

01

01

Tổng cộng

09

06

01

01

01

Lựu
đạn

Xẻng
bộ
binh


30

07

Trang bị
Cuốc Dao Cưa
bộ
tông tay
binh
02

02

01

3.1.2.2. Tổ chức, biên chế, vũ khí, trang bị của trung đội bộ binh
- Tổ chức
Trung đội
trưởng

Phó trung
đội trưởng

aBB1

aBB2

aBB3

Hình 3.3. Sơ đồ tổ chức của bBB

-

Biên chế quân số, vũ khí trang bị
Quân
Vũ khí
số
AK TL M79 B41

Sĩ quan

01

01

HSQ,CS

28

19

03

03

03

Tổng cộng

29


20

03

03

03

Lựu
đạn

Xẻng
bộ
binh

Trang bị
Cuốc Dao Cưa
bộ binh tông tay

01
94

22

06

23

06


06

03

(Nếu biên chế 01 quân nhân chuyên nghiệp làm phó trung đội trưởng thì HSQ,
chiến sĩ có 27 đ/c).


Nhận làm bài thuê lý luận chính trị, khoa học xã hội & nhân văn giá rẻ sinh viên
Liên hệ Zalo: 0389632001

3.1.2.3. Tổ chức, biên chế, vũ khí trang bị của đại đội bộ binh
- Tổ chức
Chỉ huy đại đội

bBB

a Đại liên

a Cối 60

KĐ1

aBB

KĐ1

Hình 3.4. Sơ đồ tổ chức của cBB
Biên chế quân số, vũ khí trang bị


acối
60mm

09

03

Tổng
cộng
+

111 04

70

02

09

02

02 09

09

282

69

18


18

09

18

03

05

02

14

04

03

02

01

80

26

22

10


Lựu đạn

M79

B41

02

04

Cưa tay

04

09

02

Dao tông

08

09

22 02

Cuốc con

a đại liên


09

Xẻng con

60

Địa bàn

87

Trang bị
Ống nhịm

3 bBB

Cối 60 ly

03

07

Đại liên

04

CH+l.lạc

Trung liên


Vũ khí
Tiểu liên

Qn
Số

Súng ngắn

-

336 02

02

Sĩ quan 7 đồng chí (chỉ huy đại đội 4 đ/c, trung đội trưởng 3 đ/c)
Bộ phận chỉ huy đại đội 7 đồng chí (4 sĩ quan: 1đại đội trưởng, 1 phó đại đội
trưởng, 1 chính trị viên, 1 chính trị viên phó, 1 y tá, 2 chiến sĩ liên lạc).
+ 3 trung đội bộ binh, tổng quân số 87 đồng chí (3 sĩ quan, 84 HSQ và chiến
sĩ)
+ Tiểu đội đại liên 08 đồng chí (gồm 2 khẩu đội; mỗi khẩu đội 4 đ/c)
+ Tiểu đội cối 60 mm quân số 9 đồng chí ( 1 at’, 2 khẩu đội; mỗi khẩu đội 4
đ/c)


Nhận làm bài thuê lý luận chính trị, khoa học xã hội & nhân văn giá rẻ sinh viên
Liên hệ Zalo: 0389632001

3.1.2.4. Tổ chức, biên chế, vũ khí trang bị của tiểu đồn bộ binh
- Tổ chức
CHỈ HUY

TIỂU ĐỒN

cBB

c Cối 82

a T.Sát

b Cối 82
bBB

b ĐKZ

KĐ ĐKZ

b 12,7mm

KĐ 12,7

a Cối 60

a Đ.liên

a VTĐ
b T.Tin

aBB

a VT


b V.Tải

b P.Vụ

a N.Ăn

Hình 3.5. Sơ đồ tổ chức của dBB
Biên chế quân số, vũ khí trang bị
+ Biên chế qn số: Qn số 542 đồng chí.
-



Tiểu đồn bộ qn số 13 đ/c, trong đó sĩ quan 6 đ/c (dt, ctv, phó dt, ctv phó, trợ lý tham
mưu, trợ lý hậu cần); QNCN 4 đ/c (nhân viên quân khí, nhân viên tài chính, nhân viên
quân lực, y sĩ); HSQ, CS 3 đ/c (2 liên lạc, 1 y tá)
• 3 Đại đội bộ binh: như nội dung điểm (c/1.1.2)


Đại đội cối 82mm: Qn số 51đ/c; trong đó sĩ quan 6đ/c; HSQ, chiến sĩ 45đ/c; 2
trung đội cối 82 mm.

Ban chỉ huy đại đội 7 đ/c, trong đó sĩ quan 4 đ/c (đại đội trưởng, chính trị viên,
phó đại đội trưởng, chính trị viên phó), 2 chiến sĩ liên lạc 1 y tá.
Trung đội cối 82mm gồm 22 đ/c (trong đó 1 sĩ quan là trung đội trưởng, 1 HSQ
là phó trung đội trưởng và 2 khẩu đội cối 82 mm).
1 Khẩu đội có 10 HSQ, CS (trong đó 1 khẩu đội trưởng, 1 khẩu đội phó, 8 pháo
thủ cối 82.



Trung đội SMPK 12,7mm: Quân số 35 đ/c (trong đó 1 sĩ quan là trung đội trưởng, 1
quân nhân chuyên nghiệp hoặc HSQ là phó trung đội trưởng và 33 HSQ, chiến sĩ).
Gồm 3 khẩu đội SMPK 12,7mm (1 khẩu đội có 11 HSQ, chiến sĩ).



Trung đội ĐKZ 82mm: Quân số 29 đ/c (trong đó 1 sĩ quan là trung đội trưởng, 1 phó
trung đội trưởng là HSQ hoặc quân nhân chuyên nghiệp và 27 HSQ, chiến sĩ).


Nhận làm bài thuê lý luận chính trị, khoa học xã hội & nhân văn giá rẻ sinh viên
Liên hệ Zalo: 0389632001

Gồm 3 khẩu đội ĐKZ (1 khẩu đội ĐKZ có 9 HSQ, chiến sĩ).
Trung đội thơng tin: Qn số 24 đ/c (trong đó 1 sĩ quan là trung đội trưởng và 23
HSQ, chiến sĩ). Gồm 3 tiểu đội (1 tiểu đội VTĐ scn có 12 đ/c; 1 tiểu đội HTĐ có
6 đ/c; 1 tiểu đội thơng tin qn bưu 4 đ/c.





Trung đội phục vụ: Quân số 24 đ/c (trong đó 1 quân nhân chuyên nghiệp là trung đội
trưởng, 1 nhân viên quản lí và 22 HSQ, chiến sĩ). Gồm 2 tiểu đội nấu ăn (1 tiểu đội
nấu ăn có 11 đ/c).


Trung đội vận tải bộ: Quân số 25 đ/c (trong đó 1 sĩ quan là trung đội trưởng và 23
HSQ, chiến sĩ). Gồm 3 tiểu đội vận tải (1 tiểu đội gồm có 8 HSQ, chiến sĩ).




Tiểu đội trinh sát: Quân số 9 đ/c (trong đó 1 tiểu đội trưởng, 1 phó tiểu đội trưởng,
7 chiến sĩ trinh sát).
+ Vũ khí, trang bị
• Vũ khí

M79

Súng
Cối
82mm

Súng
ĐKZ
82mm

03

Súng

Tiểu

Trung

Đại

Súng

Súng


ngắn

liên

liên

liên

B41

22

250

27

06

27

27

04

Xẻng
con

Súng
PK 12,7

mm

03

Súng
cối 60
mm

06

Lựu
đạn

1550

• Trang bị
nhịm

Địa
bàn

VTĐ
S.cực
ngắn

Máy
HTĐ

Tổng
đài

10 số

Dây
HTĐ

26

26

06

06

01

6Km

Ống

Cuốc
con

300 101

Xẻng
to

Cuốc
to


Dao
tông

Cưa
tay

20

07

80

40

Chú ý:
Trên đây là mẫu biên chế trong thời bình của các đơn vị bộ binh để tổ chức
huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu; từng Quân chủng, Binh chủng, chuyên môn kỹ thuật
căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ để tổ chức biên chế phù hợp với đặc thù riêng.


các học viện, nhà trường trong quân đội, căn cứ vào nhiệm vụ cụ thể để tổ chức
biên chế, vũ khí trang bị sao cho phù hợp với điều kiện hoạt động của từng trường
(không nhất thiết phải giống như các đơn vị huấn luyện).

Ví dụ: Ở các học viện thường tổ chức thành hệ, lớp, tổ; các trường sĩ quan tổ
chức các tiểu đoàn, đại đội, trung đội, tiểu đội học viên nhưng quân số có thể nhiều
hoặc ít hơn, tùy theo từng chuyên ngành đào tạo. Vũ khí, trang bị cấp đại đội, tiểu
đồn biên chế khơng đầy đủ như ở các đơn vị chiến đấu.
3.2. Hiểu biết chung về các quân, binh chủng
3.2.1. Quân chủng hải quân

3.2.1.1. Sự ra đời và phát triển


Nhận làm bài thuê lý luận chính trị, khoa học xã hội & nhân văn giá rẻ sinh viên
Liên hệ Zalo: 0389632001

Ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền Việt Minh tại
nhiều tỉnh ven biển đã tổ chức các đội dân quân bảo vệ bờ biển. Nhiều chi đội Vệ quốc
quân được điều về chốt giữ trên những địa bàn xung yếu. Các đơn vị sự này, tùy theo
địa phương, mang tên gọi "Thủy quân" hoặc "Hải quân", với biên chế không đồng đều,
trang bị cũng không thống nhất, đều chịu sự chỉ huy trực tiếp của các chỉ huy quân sự
địa phương. Như tại Đà Nẵng, có tổ chức thủy quân miền Nam Trung Bộ, lực lượng
gồm khoảng 400 người. Tại Hải Phòng, Bộ Tư lệnh khu Duyên Hải tổ chức Ủy ban
Hải quân Việt Nam, với lực lượng chiến đấu được tổ chức thành Đại đội Ký Con với
quân số gần 200 người, phương tiện hoạt động gồm một tàu nhỏ mang tên Bạch Đằng
và 3 ca nơ có nhiệm vụ hoạt động ở cửa biển Hải Phịng và vùng ven biển Đơng Bắc.
Từ đầu tháng 9 năm 1945 đến giữa tháng 5 năm 1946, các đơn vị thủy quân địa
phương này tổ chức đánh nhiều trận gây thiệt hại cho quân Pháp trong quá trình tìm
cách tái chiếm Đơng Dương. Nhiều đơn vị đã hoạt động cho đến Chiến tranh Đông
Dương kết thúc.
Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, ngày 22 tháng 5
năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 71/SL về Quân đội Quốc gia Việt
Nam, chính thức thống nhất và chính quy hóa lực lượng quân sự quốc gia. Đến ngày
19 tháng 7 năm 1946, Quyền Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Huỳnh Thúc
Kháng ra Quyết định số 125/QĐ thành lập trong Quân đội Quốc gia Việt Nam ngành
Hải quân Việt Nam, đặt dưới quyền Bộ Quốc phòng về phương diện quản trị và Quân
sự Ủy viên hội về phương diện điều khiển. Ngày 10 tháng 9 năm 1946, Chủ tịch Quân
sự Ủy viên hội Võ Nguyên Giáp ra Nghị định số 103/NĐ thành lập "Cơ quan Hải
quân" (sau gọi là Hải đoàn bộ), do một Hải đoàn trưởng điều khiển trực thuộc Bộ Tổng
Tham mưu. Nhiệm vụ của Hải đoàn bộ là tổ chức thủy đội tuần liễu và phỏng thủ

duyên hải, tập trung các nhân viên, bộ đội thủy quân đã có trong Quân đội Quốc gia
Việt Nam và tuyển lựa cựu thủy binh để thành lập ngay một tổ chức Hải quân. Tuy
nhiên, do tình hình chiến sự lúc đó, các quyết định trên đều chưa có điều kiện thực
hiện.

[3]

Đến đầu năm 1947, xét thấy không thể duy trì lực lượng hải quân, Bộ Tổng

Chỉ huy Quân đội Quốc gia Việt Nam đã quyết định cho tháo gỡ máy móc, vũ khí,
thiết bị và đánh đắm tàu để không lọt vào tay quân Pháp.
Ngày 8 tháng 3 năm 1949, Bộ Tổng tư lệnh Quân đội quốc gia và Dân quân
Việt Nam ra Nghị định số 604/QĐ, do Đại tướng Võ Nguyên Giáp ký, thành lập Ban
Nghiên cứu Thủy quân thuộc Bộ Tổng tham mưu. Ông Nguyễn Văn Khương được cử
làm Trưởng ban, ơng Nguyễn Việt làm Chính trị viên và ơng Trần Đình Vọng làm Phó
ban. Cơ quan Ban nghiên cứu Thủy quân đóng tại phố Giàn, bên bờ sông Chảy thuộc
huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ.


Nhận làm bài thuê lý luận chính trị, khoa học xã hội & nhân văn giá rẻ sinh viên
Liên hệ Zalo: 0389632001

Ban nghiên cứu Thủy quân có 3 ban chuyên môn là: Hàng hải, Thông tin Hàng
hải, Điện cơ máy nổ và các bộ phận hành chính, quân sự, hậu cần. Nhiệm vụ của Ban
nghiên cứu Thủy quân là nghiên cứu phương án xây dựng và chiến đấu của lực lượng
thủy quân, phù hợp với thực tiễn hiện tại (kháng chiến chống Pháp) và trong tương lai;
tập hợp đội ngũ cán bộ, công nhân viên hải quân cũ (từng phục vụ trong chính quyền
thuộc địa), tạo điều kiện xây dựng cơ sở ban đầu; tuyển mộ, huấn luyện đào tạo một
đội ngũ thủy qn cách mạng, trẻ, có trình độ khoa học kỹ thuật hàng hải. Trước đó,
khi nghe báo cáo và đề nghị thành lập Ban Nghiên cứu Thủy quân và mở lớp thủy

quân của Bộ Tổng Tham mưu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị nhiệm vụ đầu tiên của
Ban Nghiên cứu Thủy quân là huấn luyện xây dựng một đội du kích có khả năng hoạt
động trên sông, rồi từ sông mới tiến ra biển khi có điều kiện.
Tháng 2 năm 1950, khóa học thủy quân đầu tiên được khai giảng, gồm 180 học
viên được tuyển chọn từ các đơn vị bộ binh, dân quân du kích vùng ven biển Đơng
Bắc, một số là học sinh các trường trung học ở Bắc Ninh, Bắc Giang, Phú Thọ, Vĩnh
Yên, tổ chức thành một tiểu đoàn huấn luyện, do ơng Trần Lưu Thơng làm Tiểu đồn
trưởng. Đội ngũ giáo viên khoảng 10 người, đều là các nhân sự từng là thủy binh trong
Hải quân Pháp hoặc trong ngành hàng hải Pháp. Cả Ban Nghiên cứu Thủy quân và
tiểu đoàn huấn luyện mang phiên hiệu chung là Đội sản xuất 71.
Chương trình huấn luyện thủy quân bấy giờ gồm qn sự, chính trị, chun
mơn, trong đó tập trung huấn luyện một số nội dung kỹ thuật, chiến thuật của bộ binh
chiến đấu trong môi trường sông biển như bắn súng trên tàu thuyền, trên ca nô, tập bơi,
lặn, tập chèo thuyền, chèo xuồng, tập động tác đổ bộ (từ bờ lên thuyền và từ thuyền
nhảy xuống tiếp cận bờ triển khai đội hình chiến đấu), tập sử dụng hải đồ, xác định vị
trí tàu trên biển bằng phương pháp quan sát, đo đạc các mục tiêu địa văn và theo kinh
nghiệm của nhân dân (nhìn trăng, sao, xem thủy triều, hướng gió…), học cách sử dụng
các phương tiện thơng tin đơn giản (cờ, đèn…). Trong điều kiện chiến tranh, các học
cụ đều rất thơ sơ và ít có điều kiện thực hành.
Khoảng vào tháng 5 năm 1950, Bộ Tổng Tham mưu ra chỉ thị chọn khoảng 100
học viên của Ban Nghiên cứu Thủy quân, đưa sang đảo Nào Cháu (Điều Thuận), một
hịn đảo nằm ở phía đơng bán đảo Lơi Châu (Trung Quốc), bấy giờ dưới quyền quản lý
chính phủ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, đồng minh thân cận với chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hịa, để học tập nâng cao trình độ. Bộ phận khung ở lại, chiêu sinh
khoảng 100 học viên để đào tạo thủy quân khóa 2. Ngày 10 tháng 8 năm 1950, Đội
Thủy binh 71 được thành lập dưới sự chỉ đạo của Ban Nghiên cứu Thủy qn, đóng
qn tại làng Cị, gần phố Giàn, huyện Đoan Hùng (Phú Thọ).


Nhận làm bài thuê lý luận chính trị, khoa học xã hội & nhân văn giá rẻ sinh viên

Liên hệ Zalo: 0389632001

Đến giữa tháng 4 năm 1951, khi khóa II vừa kết thúc được ít ngày, và các học
viên học ở Trung Quốc trở về, do yêu cầu góp phần duy trì chiến tranh du kích ở vùng
Đơng Bắc và châu thổ duyên hải Bắc Bộ, Bộ Quốc phòng quyết định giải thể Ban
Nghiên cứu Thủy quân và Đội Thủy binh 71. Phần lớn học viên khóa I và một số học
viên khóa II được chuyển ra các vùng Hịn Gai, Hải Ninh, Quảng Yên, góp phần đẩy
mạnh chiến tranh du kích ở các địa bàn ven biển. Một bộ phận học viên chuyển về Đại
đồn Cơng pháo 351 và các đại đồn bộ binh đang trong q trình xây dựng. Bộ phận
lực lượng cịn lại về nhận cơng tác ở các liên khu, Bộ Tổng tư lệnh, hoặc đi học ở
Trường Lục quân Trần Quốc Tuấn.
Hình thành lực lượng Hải quân: Sau thắng lợi quyết định tại trận Điện Biên Phủ
và Hiệp định Geneve, 1954 được ký kết, để chuẩn bị cho việc tiếp quản miền Bắc Việt
Nam, đầu tháng 8 năm 1954, Bộ Quốc phòng đã điều động 7 nhân sự trước đây từng ở
Ban nghiên cứu Thủy quân và Đội Thủy binh 71 về Cục tác chiến để thành lập bộ phận
nghiên cứu lực lượng bảo vệ vùng biển. Tháng 1 năm 1955, thêm 4 cán bộ được bổ
sung. Ông Nguyễn Bá Phát, nguyên Tham mưu trưởng Liên khu 5, Phó sư đồn trưởng
Sư đồn 308 được giao nhiệm vụ trực tiếp phụ trách bộ phận này. Bộ phận được giao 3
nhiệm vụ chính: Thăm dị cơ sở để tổ chức lực lượng tự sản xuất phương tiện tàu,
thuyền; Nghiên cứu địa hình và tình hình trên vùng ven biển miền Bắc để xác định kế
hoạch bố trí lực lượng bảo vệ bờ biển; Xây dựng đề án tổ chức, xây dựng lực lượng
phòng thủ bờ biển.
Sau khi kiểm sốt hồn tồn miền Bắc Việt Nam, ngày 26 tháng 4 năm 1955,
Bộ Quốc phòng đã thành lập Trường Huấn luyện bờ biển để đào tạo nhân sự cho việc
quản lý trên 800 km dải bờ biển miền Bắc từ Móng Cái đến vĩ tuyến 17 (Quảng Trị).
Chưa đầy 2 tuần sau, ngày 7 tháng 5 năm 1955, Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh ra
Nghị định số 284/NĐ-A thành lập Cục Phòng thủ bờ biển. Nhiệm vụ của Cục là giúp
Bộ Tổng tư lệnh chỉ đạo bộ đội phòng thủ bờ biển; đào tạo cán bộ, nhân viên, thủy
thủ; sản xuất các dụng cụ, phương tiện về thủy quân; xây dựng các thủy đội phòng thủ
bờ biển rồi chuyển giao cho các liên khu (sau này là quân khu). Ông Nguyễn Bá Phát

được cử làm phụ trách Cục. Về sau, ngày 7 tháng 5 được chọn làm ngày thành lập của
Hải quân nhân dân Việt Nam.
Sau khi thành lập, Cục Phòng thủ bờ biển quyết định tự đóng 20 tàu gỗ 20 tấn
lắp máy ơ tơ làm phương tiện hoạt động, bên cạnh 36 thuyền buồm và lực lượng gồm
6 tiểu đoàn, xây dựng thành lực lượng tuần duyên. Ngày 24 tháng 8 năm 1955, Bộ
Quốc phòng đã thành lập hai thủy đội Sông Lô và Bạch Đằng. Đây được xem là những
đơn vị chiến đấu chính quy đầu tiên của Hải quân nhân dân Việt Nam.


Nhận làm bài thuê lý luận chính trị, khoa học xã hội & nhân văn giá rẻ sinh viên
Liên hệ Zalo: 0389632001

Ngày 24 tháng 1 năm 1959, Cục Phòng thủ bờ biển chuyển đổi thành Cục Hải
quân trực thuộc Bộ Quốc phòng. Tổ chức biên chế của Cục Hải quân gồm 5 phịng
(Tham mưu, Chính trị, Hậu cần, cơng trình và Đo đạc biển); 5 đơn vị trực thuộc:
Trường Huấn luyện bờ biển (đổi thành Trường Huấn luyện hải quân), Đồn 130, Đồn
135, tiểu đồn cơng binh 145 và Xưởng 46. Ngày 20 tháng 4 năm 1959, thành lập
Đảng bộ Cục Hải quân trực thuộc và đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Tổng Quân ủy.
Các đơn vị chiến đấu lần lượt cũng được thành lập như ngày 18 tháng 5 năm
1959, thành lập Đoàn 135 (sau này đổi thành 140), đơn vị tàu tuần tiễu; ngày 3 tháng 8
năm 1961, thành lập căn cứ Hải quân I và căn cứ Hải qn II.
Đồn tàu khơng số: Ngày 23 tháng 10 năm 1961, thành lập Đoàn 759 (Đoàn
Vận tải Quân sự đường biển nay là Lữ đoàn 125). Nhiệm vụ chính của đơn vị này khi
mới thành lập là bí mật vận tải vũ khí, cán bộ bằng đường biển (Đường Hồ Chí Minh
trên biển) từ miền Bắc vào miền Nam chi viện cho Quân Giải phóng miền Nam chiến
đấu trong Chiến tranh Việt Nam. Thời kỳ đó, căn cứ của lữ đồn là bến Bính (số hiệu
là K20) ở Hải Phòng. Đơn vị sử dụng các tàu vận tải cỡ nhỏ thâm nhập miền Nam tại
các căn cứ ở bến Sơng Gianh (Quảng Bình), Sa Kỳ (Quảng Ngãi), Vũng Rô (Phú
Yên), Lộc An (Bà Rịa - Vũng Tàu), Thạnh Phong (Bến Tre) và Vàm Lũng (Cà Mau).
Trong Chiến tranh Việt Nam, đơn vị đã sử dụng các tàu vận tải cỡ nhỏ để thâm

nhập vào miền Nam. Mặc dù có số hiệu đầy đủ, song để giữ bí mật, các tàu này không
sơn số hiệu lên thân tàu. Vì thế, những con tàu này được biết đến với tên gọi chung là
Đồn tàu Khơng số.
3.2.1.2. Vị trí, nhiệm vụ
* Vị trí:
Quân chủng Hải quân là lực lượng tác chiến chủ yếu trên chiến trường biển và
đại dương. Làm nòng cốt trong việc tiêu diệt kẻ địch ở hải phận và thềm lục địa, bảo
vệ các đảo, lãnh thổ Việt Nam.
* Nhiệm vụ:
Quân chủng Hải quân của Quân đội nhân dân Việt Nam còn gọi là Hải quân
nhân dân Việt Nam, là một quân chủng thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam. Quân chủng
Hải quân là lực lượng nòng cốt bảo vệ chủ quyền quốc gia của Việt Nam trên biển. Hải
quân nhân dân Việt Nam có nhiệm vụ quản lý và kiểm soát chặt chẽ các vùng biển, hải
đảo chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đơng; giữ gìn an ninh, chống lại mọi hành vi vi
phạm chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và lợi ích quốc gia của Việt Nam
trên biển; bảo vệ các hoạt động bình thường của Việt Nam trên các vùng biển đảo, theo
quy định của luật pháp quốc tế và pháp luật Việt Nam; bảo đảm an toàn hàng hải và
tham gia tìm kiếm cứu nạn theo pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc


Nhận làm bài thuê lý luận chính trị, khoa học xã hội & nhân văn giá rẻ sinh viên
Liên hệ Zalo: 0389632001

tế mà Việt Nam tham gia, sẵn sàng hiệp đồng chiến đấu với các lực lượng khác nhằm
đánh bại mọi cuộc tiến công xâm lược trên hướng biển.
3.2.1.3. Tổ chức, biên chế:
* Bộ Tư lệnh:
- Tư lệnh; các Phó tư lệnh
Đảm nhận chức vụ Tư lệnh Quân chủng Hải quân Nhân dân Việt Nam thường
là một sĩ quan cao cấp mang hàm từ Chuẩn Đơ đốc, Phó đơ đốc đến Đô đốc. (tương

đương quân hàm từ Thiếu tướng, Trung tướng, Thượng tướng); đồng thời kiêm chức
vụ Thứ trưởng Bộ Quốc phịng.
- Chính ủy; Phó chính ủy.
*

Cơ quan đơn vị trực thuộc: Văn phòng Quân chủng;
- Thanh tra Quân chủng;
- Ủy ban kiểm tra Đảng;
- Phịng Tài chính;
- Tịa án Quân sự Quân chủng Hải quân;
- Bộ Tham mưu;
- Cục Chính trị;
- Cục Hậu cần;
- Cục Kỹ thuật;
- Bộ Tư lệnh Vùng 1;
- Bộ Tư lệnh Vùng 2;
- Bộ Tư lệnh Vùng 3;
- Bộ Tư lệnh Vùng 4;
- Bộ Tư lệnh Vùng 5;
- Học viện Hải qn;

- Lữ đồn Khơng qn 954;
- Lữ đồn Đặc cơng Hải qn 126;
- Lữ đồn Tàu ngầm 189;
- Trung đồn đặc cơng tàu ngầm 196;
- Trường Cao đẳng Kỹ thuật Hải quân;
- Viện Kỹ thuật Hải quân;
- Viện Y học Hải quân;
- Tổng Công ty Tân cảng Sài Gịn.
3.2.2. Qn chủng Phịng khơng - Không quân

3.2.2.1. Sự ra đời và phát triển


Nhận làm bài thuê lý luận chính trị, khoa học xã hội & nhân văn giá rẻ sinh viên
Liên hệ Zalo: 0389632001

-

Ngày thành lập bộ đội Phịng khơng nhân dân Việt Nam.

Ngày 1 tháng 4 năm 1953 Đại tướng Võ Nguyên Giáp Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng, Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam ký quyết định số 06/QĐ thành lập
trung đồn pháo phịng khơng 367. Với quyết định thành lập này lực lượng nòng cốt
của một binh chủng chiến đấu mới, binh chủng pháo cao xạ của Quân đội nhân dân
Việt Nam chính thức ra đời. Sự ra đời của bộ đội pháo phịng khơng đánh dấu một
bước trưởng thành của Quân đội ta trên con đường tiến lên chính quy, hiện đại. Từ đây
trở thành ngày truyền thống vẻ vang của bộ đội Phịng khơng nhân dân Việt Nam.
- Ngày truyền thống Không quân nhân dân Việt Nam.
Căn cứ vào nhiệm vụ chiến lược của cách mạng từ đầu năm 1955, Tổng Quân
uỷ và Bộ Quốc phòng xác định nhiệm vụ của quân đội ta trong bước đi đầu tiên của
cơng cuộc xây dựng chính quy, hiện đại về tổ chức, xây dựng lực lượng không quân
phù hợp với kế hoạch xây dựng quân đội trong giai đoạn mới. Ngày 3 tháng 3 năm
1955 Bộ trưởng Bộ Quốc phịng ra quyết định số 15/QĐA, từ đó đánh dấu sự ra đời và
được xác định là ngày truyền thống hàng năm của Không quân nhân dân Việt Nam.
- Ngày truyền thống Binh chủng Rađar.
Ngày 1 tháng 3 năm 1959 tất cả các đài Rađar trên tồn mạng chính thức phát
sóng, các bộ dây trời quay những vịng đầu tiên, mở đầu giai đoạn mới trong lịch sử bộ
đội phịng khơng nói riêng và lịch sử chiến đấu bảo vệ tổ quốc nói chung, giai đoạn
quân và dân tacó khả năng quan sát phát hiện địch xâm phạm vùng trời Tổ quốc từ xa
bằng khí tài. Một lực lượng chiến đấu mới sử dụng kỹ thuật trinh sát hiện đại, luôn

luôn đứng ở tuyến đầu của cuộc chiến đấu đối không đã ra đời. Ngày 1 tháng 3 hàng
năm trở thành ngày truyền thống vẻ vang của bộ đội Rađar Quân đội nhân dân Việt
Nam.
- Ngày thành lập Quân chủng Phịng khơng - Khơng qn nhân dân Việt Nam.
Qn chủng Phịng khơng - Khơng qn nhân dân Việt Nam được thành lập
ngày 22/10/1963 trên cơ sơ sát nhập Bộ tư lệnh Phịng khơng và Cục Khơng qn.
Trước đó, Bộ tư lệnh Phịng khơng được thành lập theo quyết định số 047/ND
2/3/1958 và Cục Không quân thuộc Bộ tổng Tham mưu được thành lập 24/01/1959.
- Thời

gian từ ngày 16 tháng 5 năm 1977 Chủ tịch nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
nam Tơn Đức Thắng kí sắc lệnh (số 34/1 CT) tách Qn chủng Phịng khơng - Khơng
qn thành Qn chủng Phịng khơng và Qn chủng Khơng qn. Đến ngày 3 tháng 3
năm 1999 hai Qn chủng Phịng khơng và Quân chủng Không quân lại sát nhập thành
Quân chủng Phịng khơng - Khơng qn như hiện nay.


Nhận làm bài thuê lý luận chính trị, khoa học xã hội & nhân văn giá rẻ sinh viên
Liên hệ Zalo: 0389632001

3.2.2.2. Vị trí, nhiệm
vụ * Vị trí:
Có chức năng cơ bản là quản lý chặt chẽ vùng trời quốc gia, thơng báo tình hình
địch trên khơng cho các lực lượng vũ trang và nhân dân, đánh trả các cuộc tiến công
đường không của đối phương, bảo vệ các trung tâm chính trị, kinh tế, văn hố. Làm
nịng cốt cho các lực lượng khác trong việc tiêu diệt các loại máy bay địch.
* Nhiệm vụ:
Qn chủng Phịng khơng - Khơng quân Nhân dân Việt Nam là một trong ba
quân chủng của Quân đội nhân dân Việt Nam trực thuộc Bộ Quốc phịng, có nhiệm vụ
chiến đấu bảo vệ khơng phận, mặt đất và biển đảo Việt Nam; cứu trợ, tìm kiếm cứu

nạn và các nhiệm vụ khác. Quân chủng Phòng không – Không quân đảm nhiệm cả
nhiệm vụ của bộ đội phịng khơng quốc gia và của khơng qn. Đây là lực lượng nòng
cốt quản lý, bảo vệ vùng trời, bảo vệ các mục tiêu trọng điểm quốc gia, bảo vệ nhân
dân đồng thời tham gia bảo vệ các vùng biển đảo của Tổ quốc. Lực lượng Phịng
khơng - Khơng quân có thể độc lập thực hiện nhiệm vụ hoặc tham gia tác chiến trong
đội hình quân binh chủng hợp thành. Quân chủng làm tham mưu cho Bộ Quốc phòng
chỉ đạo xây dựng lực lượng phịng khơng lục qn và không quân thuộc các quân
chủng, binh chủng, ngành khác. Lực lượng khơng qn vận tải ngồi nhiệm vụ vận
chuyển phục vụ chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu còn tham gia các hoạt động cứu trợ
thiên tai và phát triển kinh tế.
3.2.2.3. Tổ chức, biên chế:
* Bộ Tư lệnh:
- Tư lệnh; Các phó tư lệnh;
- Chính ủy; Phó chính ủy.
Cơ quan trực thuộc: Văn phòng Quân chủng; Thanh tra Quân chủng; Ủy ban
kiểm tra Đảng; Phịng Tài chính; Viện Kiểm sát Qn sự Qn chủng Phịng
khơng - Khơng qn; Bộ Tham mưu; Cục Chính trị; Cục Hậu cần; Cục Kỹ thuật;
Cục Phịng khơng Lục qn.
* Đơn vị trực thuộc:
- Sư đồn Phịng khơng 361 (Đồn phịng khơng Hà Nội);
- Sư đồn Phịng khơng 363 (Đồn phịng khơng Hải Phịng);
- Sư đồn Phịng khơng 365 (Đồn phịng khơng Bắc Thái);
- Sư đồn Phịng khơng 367 (Đồn phịng khơng thành phố Hồ Chí Minh);
- Sư đồn Phịng khơng 375 (Đồn phịng khơng Đà Nẵng);
- Sư đồn Phịng khơng 377 (Đồn phịng khơng Khánh Hịa);
- Sư đồn Khơng qn 371 (Đồn Khơng qn Thăng Long);
- Sư đồn Khơng qn 372 (Đồn Khơng qn Hải Vân);
- Sư đồn Khơng qn 370 (Đồn Khơng qn Biên Hòa);
*



Nhận làm bài thuê lý luận chính trị, khoa học xã hội & nhân văn giá rẻ sinh viên
Liên hệ Zalo: 0389632001

-

Lữ đồn Khơng qn 918 (Đồn Khơng qn Hồng Hà);
Lữ đồn Cơng binh 28 (Đồn Cơng binh 19/5);
Lữ đồn thơng tin 26;
Học viện Phịng khơng - Khơng qn;
Trường Sĩ quan Khơng qn;
Viện Kỹ thuật Phịng khơng- Khơng qn;
Viện Y học Phịng khơng - Khơng qn;
Tổng cơng ty Xây dựng Cơng trình Hàng khơng ACC;
Cơng ty Thiết kế và Tư vấn xây dựng cơng trình hàng khơng (ADCC).

Ngồi ra lực lượng Bộ đội Phịng khơng được tổ chức biên chế ở các quân khu,
quân đoàn thành các đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn pháo cao xạ các loại cỡ
nịng súng khác nhau. Có các tiểu đồn, trung đồn tên lửa ở các tầm bắn khác nhau.
Ngồi ra cịn có các đại đội, tiểu đồn phục vụ như: ra đa, vận tải…
Lực lượng Bộ đội Không quân được tổ chức biên chế ra các trung đoàn, sư
đoàn của các loại máy bay tiêm kích, trực thăng v.v….
3.2.3. Binh chủng Pháo Binh
3.2.3.1. Sự ra đời và phát triển
- Trong

thời kỳ kháng chiến chống Pháp, ngày 29/6/1946 tại sân Vệ quốc đồn Trung ương
(40 Hàng Bài, Hà Nội) đồng chí Hồng Văn Thái Tổng Tham mưu trưởng Quân đội
nhân dân Việt Nam đọc quyết định thành lập Đoàn pháo binh Thủ đô gồm 3 trung đội:
Trung đội Pháo đài Láng gồm 44 người, chia làm 3 khẩu đội, trang bị 4 khẩu pháo cao

xạ 75mm của Đức là loại pháo hiện đại nhất lúc bấy giờ được đặt trên bệ bê tơng và có
500 viên đạn. Trung đội Pháo đài Xn Canh, trang bị 1 khẩu pháo cao xạ 75mm và
200 viên đạn. Trung đội Pháo đài Xuân Tảo, trang bị 2 khẩu pháo cao xạ 75mm và 400
viên đạn.
Ngày 19/12/1946 từ pháo đài Láng trung đội pháo binh đầu tiên đã bắn những phát
đạn đầu tiên vào vị trí đóng quân của Pháp, mở đầu cho cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp ở Hà Nội. Chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947 bộ đội pháo binh phối hợp cùng lực
lượng vũ trang địa phương lập chiến công oanh liệt trên mặt trận sơng Lơ, bắn chìm, bắn
cháy nhiều ca nơ, tàu chiến ở vùng Khoan Bộ - Đoan Hùng - Khe Lau, góp phần bẻ gãy
gọng kìm quan trọng của quân Pháp tiến công lên chiến khu Việt Bắc. Chiến thắng sông
Lô đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của bộ đội pháo binh, sáng tạo ra cách đánh độc
lập với lối đánh "Đặt gần, bắn thẳng" đạt hiệu suất chiến đấu cao.

Ngày 31/7/1949 Bộ quốc phòng quyết định thành lập Cục Pháo binh, có nhiệm
vụ nghiên cứu, chế tạo, sửa chữa các loại pháo, đạn và mở các lớp đào tạo cán bộ chỉ


Nhận làm bài thuê lý luận chính trị, khoa học xã hội & nhân văn giá rẻ sinh viên
Liên hệ Zalo: 0389632001

huy pháo binh và thợ pháo. Lần đầu tiên chế tạo được súng và đạn khơng giật SKZ cỡ
nịng 60mm, phá hủy tường gạch dày 1m.
Chiến dịch Biên giới 1950, bộ đội pháo binh phát triển cả về tổ chức, biên chế
trang bị và quy mô tác chiến. Lần đầu ta sử dụng 3 tiểu đoàn sơn pháo 75mm gồm:
Tiểu đoàn pháo binh 40 (Đại đoàn 308), Tiểu đoàn 178 (Trung đoàn 209), Tiểu đoàn
253 (Trung đoàn 174) vào trận. Sử dụng cách đánh hiệp đồng binh chủng chi viện hỏa
lực cho bộ binh tiêu diệt địch ở cứ điểm Đơng Khê, 2 binh đồn Lơ -Pa-giơ (Le Page)
và Sác-Tơng (Charton) của Pháp. Góp phần giải phóng tuyến biên giới rộng, dài
khoảng 200km thuộc 2 tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn. Sau chiến dịch, bộ đội pháo binh
có bước phát triển mới về tổ chức. Tháng 9 năm 1950 Bộ Tổng tư lệnh quyết định

thành lập trung đoàn pháo chủ lực đầu tiên trực thuộc Bộ lấy tên là Trung đồn 95.
Nịng cốt chính là 3 tiểu đồn sơn pháo 40, 178, 253.
Ngày 20/11/1950 thành lập Trung đoàn pháo 675 gồm 6 liên đội sơn pháo
75mm và Trung đoàn pháo 45 (tiền thân là Trung đoàn 34) được chuyển trang bị xây
dựng thành trung đoàn pháo cơ giới đầu tiên của Quân đội ta. Với trang bị 20 pháo lựu
105mm và 40 ô tô các loại. Đến tháng 3/1951 Đại đồn cơng pháo 351 được thành lập,
biên chế gồm 3 trung đoàn (2 trung đoàn pháo 675, 45 và Trung đồn cơng binh 151),
là cơ sở để thành lập Bộ tư lệnh Pháo binh sau này.
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ 1954 lần đầu tiên ta sử dụng trung đồn pháo
xe kéo (trung đồn pháo 45 gồm có 24 pháo lựu 105mm) kết hợp với 2 trung đoàn
pháo hỗn hợp; 4 tiểu đoàn pháo phản lực thuộc pháo binh dự bị của Bộ và 6 tiểu đoàn
pháo binh thuộc biên chế của các đại đoàn bộ binh. Tạo sự phát triển về quy mơ lực
lượng; hình thành các lực lượng với nhiệm vụ khác nhau, pháo binh trong biên chế,
pháo binh tác chiến cùng bộ binh và pháo binh dự bị của Bộ. Suốt quá trình chiến dịch,
bộ đội pháo binh đã hiệp đồng chặt chẽ với các lực lượng khác bí mật dùng sức người
kéo pháo vào chiếm lĩnh trận địa ở địa hình hiểm trở, bố trí hiểm hóc, hình thành thế
trận pháo binh trên cả 4 hướng đồng loạt nổ súng mãnh liệt trong đợt tập kích "Sấm
rền" cũng như trong suốt q trình chiến dịch đã chi viện kịp thời, hiệu quả cho các đại
đoàn chủ lực tiến công địch trong từng trận, từng đợt, tiến tới tổng cơng kích giành
thắng lợi, hồn thành xuất sắc nhiệm vụ của chiến dịch giao cho.
Để đáp ứng với nhiệm vụ ngày 7/9/1954 Bộ Quốc phòng quyết định thành lập
Bộ chỉ huy Pháo binh, sau đó đến 28/5/1956 đổi tên thành Bộ Tư lệnh Pháo binh, có
nhiệm vụ chỉ huy lực lượng pháo binh dự bị và làm tham mưu giúp Bộ chỉ đạo lực
lượng pháo binh toàn quân. Lực lượng pháo binh từ đó đã chuyển sang giai đoạn
thống nhất về biên chế, trang bị, huấn luyện, đào tạo và tác chiến trong cơ cấu của một
binh chủng chiến đấu.


Nhận làm bài thuê lý luận chính trị, khoa học xã hội & nhân văn giá rẻ sinh viên
Liên hệ Zalo: 0389632001


-

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Binh chủng Pháo binh cùng với lực
lượng vũ trang cả nước tích cực chi viện sức người, sức của cho cách mạng miền
Nam, kịp thời đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ chiến đấu. Pháo binh Quân giải phóng
phát triển nhanh chóng cả về số lượng, chất lượng; đã kết hợp chặt chẽ giữa lối
đánh hiệp đồng và đánh độc lập chi viện kịp thời, hiệu quả cho bộ binh đánh địch.
Kết hợp đánh nhỏ, đánh vừa, đánh lớn, thực sự là hoả lực mặt đất chủ yếu của các
lực lượng vũ trang miền Nam Việt Nam, góp phần đánh bại (Chiến tranh cục bộ;
Chiến tranh đặc biệt và Việt Nam hoá chiến tranh) của đế quốc Mỹ.
Giai đoạn từ 1965÷1968 lực lượng pháo binh chủ yếu tác chiến quy mô trung,

đại đội với các loại pháo mang vác như cối 82mm và ĐKZ. Cuộc Tổng tiến công Tết
mậu thân 1968 quy mơ trên 30 tiểu đồn pháo (ĐKB, H12, A12) và hàng trăm phân
đội pháo binh, súng cối của bộ đội địa phương, dân quân du kích gây cho địch thiệt hại
nặng nề.
Giai đoạn 1969÷1973 pháo xe kéo phát triển ngày càng lớn mạnh trên chiến
trường, đã tiến hành nhiều đợt hỏa lực mãnh liệt đánh vào căn cứ đầu não của địch ở
Quảng Trị, Đường 9 Nam Lào; Tây Nguyên, Miền Đông Nam Bộ…chi viện hỏa lực
kịp thời cho bộ binh, xe tăng, xe thiết giáp đánh thắng địch từ chiến dịch này đến chiến
dịch khác.
Trong cuộc chống chiến tranh phá hoại của Hải quân Mỹ ở miền Bắc, bộ đội
pháo binh của 3 thứ quân là hoả lực chủ yếu, bắn cháy, bắn chìm 276 tàu chiến các
loại của Mỹ, lập chiến cơng vang dội, góp phần cùng các lực lượng khác đánh bại
chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dạy mùa xuân 1975, lực lượng pháo binh của 3 thứ
quân đã triển khai trong thế chiến tranh nhân dân rộng khắp, kết hợp với lực lượng tại
chỗ và lực lượng cơ động tổ chức sử dụng hợp lý, chi viện kịp thời có hiệu quả cho
binh chủng hợp thành tiến cơng, bao vây tiêu diệt quân địch, đập tan mọi khả năng

phản kích hoặc tháo chạy của địch. Góp phần giành thắng lợi trong các chiến dịch Tây
Nguyên, Huế, Đà Nẵng...tạo điều kiện mới cho chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử thắng
lợi. Trong giai đoạn này ta sử dụng hơn 90% lực lượng của Binh chủng Pháo binh có
mặt trên chiến trường với 5 lữ, 23 trung đoàn, 20 tiểu đoàn, 88 đại đội độc lập với trên
1330 pháo các loại (trong đó có trên 500 pháo xe kéo cỡ lớn) dội đòn hoả lực sấm sét
xuống quân địch. Với lực lượng pháo binh hùng mạnh tham gia chiến dịch, pháo binh
tạo ra lưới lửa dày đặc áp đảo quân địch; chi viện chính xác, kịp thời cho bộ binh, xe
tăng, xe thiết giáp tiến cơng giải phóng Sài Gịn kết thúc thắng lợi chiến dịch Hồ Chí
Minh lịch sử, giải phóng hồn tồn miền Nam thống nhất đất nước.
Giai đoạn cuối chiến tranh lực lượng pháo binh của ta đã phát triển quy mô nhiều


Nhận làm bài thuê lý luận chính trị, khoa học xã hội & nhân văn giá rẻ sinh viên
Liên hệ Zalo: 0389632001

trung, lữ đoàn pháo binh. Từ chỗ trong các chiến dịch chỉ tổ chức các phân đội nhỏ đã
phát triển thành các cụm pháo binh 1 cấp, 2 cấp, 3 cấp.
-

Những năm gần đây, trong công cuộc đổi mới của đất nước, trước yêu cầu,
nhiệm vụ của chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, cùng với lực lượng vũ trang nhân
dân, bộ đội pháo binh đã có những bước phát triển mới cảc về tổ chức, biên
chế trang bị. Nhiều đơn vị pháo binh mới được thành lập với trang bị hiện đại,
tăng sức mạnh và khả năng sẵn sàng chiến đấu của bộ đội pháo binh.

Trải qua lịch sử hơn 60 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành pháo binh đã
phát triển khơng ngừng, từ khơng đến có, từ ít đến nhiều, từ đơn giản thơ sơ đến hiện
đại, ngày càng hoàn thiện cả về số lượng, chất lượng, đặc biệt về quy mô, lực lượng
đáp ứng yêu cầu tác chiến của Quân đội ta.
3.2.3.2. Vị trí, nhiệm vụ

* Vị trí:
Binh chủng Pháo binh của Quân đội nhân dân Việt Nam là binh chủng chiến
đấu; là hoả lực mặt đất chủ yếu của lục quân; có thể tác chiến hiệp đồng quân, binh
chủng hoặc độc lập tác chiến.
* Nhiệm vụ:
-

Chi viện hoả lực cho các lực lượng trong tác chiến hiệp đồng quân binh chủng.
Kiềm chế, chế áp các trận địa pháo binh, súng cối, tên lửa, sở chỉ huy (vị trí chỉ
huy) của địch. Tiêu diệt xe tăng, xe thiết giáp, ụ súng, lô cốt và hỏa điểm của địch.
Chế áp, phá hoại, khống chế các mục tiêu quan trọng trong chiều sâu đội hình
địch như sở chỉ huy (vị trí chỉ huy), trung tâm thơng tin, sân bay, kho tàng, bến
cảng...và hậu phương của địch. Chi viện hoả lực cho các lực lượng đánh nhỏ lẻ,
phân tán, rộng khắp trong địa bàn tác chiến.

- Dùng

hỏa lực pháo binh bắn tiêu diệt gây tổn thất tới mức làm cho mục tiêu của địch
hoàn toàn mất sức chiến đấu. Bắn phá hoại các mục tiêu như công sự, cơng trình
phịng ngự của địch…gây hư hỏng tới mức mục tiêu khơng cịn tác dụng. Bắn chế áp
gây tổn thất cho các mục tiêu của địch tạm thời mất sức chiến đấu, cơ động bị hạn chế,
chỉ huy bị rối loạn. Bắn kiềm chế gây tổn thất và tác động về tinh thần, tâm lý để ngăn
chặn và hạn chế hoạt động của mục tiêu của địch trong một thời gian nhất định.
3.2.3.3. Tổ chức, biên chế
* Bộ Tư lệnh:
- Tư lệnh; Các phó tư lệnh.
- Chính ủy; Phó chính ủy.
* Cơ quan:
Văn phịng; Thanh tra; Phịng Tài chính; Bộ Tham mưu; Cục Chính trị; Cục
Hậu cần; Cục Kỹ thuật.

* Đơn vị trực thuộc:


Nhận làm bài thuê lý luận chính trị, khoa học xã hội & nhân văn giá rẻ sinh viên
Liên hệ Zalo: 0389632001

Trường Sĩ quan Pháo binh.
- Lữ đoàn 45.
- Lữ đoàn 204.
- Lữ đoàn 490.
- Lữ đoàn 675.
- Lữ đoàn 96.
- Trung tâm Huấn luyện - Đào tạo.
- Kho 380.
- Kho K86.
- Tiểu đoàn 371.
- Tiểu đoàn 97.
- Tiểu đoàn 10 vận tải - Cục HC.
Ngoài ra lực lượng pháo binh còn được biên chế ở các quân khu, quân đoàn…
-

3.2.4. Binh chủng Tăng thiết giáp
3.2.4.1. Sự ra đời và phát triển
Tăng thiết giáp là một binh chủng kỹ thuật, chiến đấu và là lực lượng đột kích
quan trọng của Lục quân Việt Nam. Từ giữa năm 1955, Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội
Nhân dân Việt Nam đã tuyển chọn nhiều cán bộ chiến sĩ tập trung để đưa đi học bổ túc
văn hóa tại Trường Văn hóa Quân đội, với mục đích tạo nguồn để đào tạo cán bộ sĩ
quan cả về chỉ huy, tham mưu và các quân binh chủng kỹ thuật, trong đó có binh
chủng
thiết giáp.

Tháng 8 năm 1956, 2 đoàn cán bộ, chiến sĩ được tuyển chọn cử đi Trung Quốc
để đào tạo về tăng thiết giáp. Tháng 8 năm 1959, Bộ Quốc phòng quyết định xây dựng
một căn cứ huấn luyện xe tăng, lấy mật danh là Công trường 92, tại khu vực núi Đanh
thuộc xã Kim Long, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phú (nay thuộc huyện Tam Dương,
tỉnh Vĩnh Phúc).
Ngày 5/10/1959, Bộ Quốc phòng ra quyết định số 449/NĐ về việc thành lập
Trung đoàn xe tăng 202 với biên chế 3 tiểu đoàn tăng, 5 đại đội trực thuộc (Sửa chữa,
Công binh, Thông tin, Huấn luyện, Vệ binh) và 4 phịng (Tham mưu, Chính trị, Hậu
cần, Kỹ thuật). Sự ra đời của Trung đoàn xe tăng 202 đánh dấu bước phát triển tất yếu
của Quân đội ta trên con đường tiến lên chính qui, hiện đại, là cơ sở quan trọng cho sự
ra đời của Binh chủng Thiết giáp sau này.
Ngày 29 tháng 2 năm 1962, Việt Nam tiếp nhận thêm một số trang bị mới bao


Nhận làm bài thuê lý luận chính trị, khoa học xã hội & nhân văn giá rẻ sinh viên
Liên hệ Zalo: 0389632001

gồm 19 xe PT-76, 11 xe T-54, 1 xe MTY-10, 4 xe dắt T-34 do Liên Xô viện trợ. Cuối
năm 1963, Việt Nam tiếp nhận thêm 72 xe T-34, 11 xe T-54, 31 xe PT-76. Lúc này,
tổng số xe tăng thiết giáp và các xe hỗ trợ của Việt Nam đã có là 164 chiếc các loại.
Ngày 22/6/1965, Bộ Quốc phịng chính thức ra quyết định số 100/QĐ-QP thành
lập Trung đoàn 203 và quyết định số 101/QĐ-QP thành lập Bộ tư lệnh Thiết giáp (đến
năm 1994 đổi tên là Bộ tư lệnh Binh chủng Tăng thiết giáp) với 3 cơ quan Tham mưu,
Chính trị, Hậu cần - Kỹ thuật.
Bộ tư lệnh Thiết giáp được thành lập đánh dấu giai đoạn phát triển mới của bộ
đội TTG. Đó là bước phát triển tất yếu của Quân đội ta trên con đường tiến lên chính
quy, hiện đại, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, bảo vệ vững chắc miền Bắc, giải
phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc
Ngày 01/10/1966, Bộ tư lệnh Thiết giáp được lệnh của Bộ tổng Tham mưu tổ
chức 11 đại đội cao xạ 37 ly tăng cường cho Bộ tư lệnh Phịng khơng - Khơng qn

tham gia chống chiến tranh phá hoại của Mỹ, bảo vệ các mục tiêu trọng điểm của miền
Bắc (sân bay Thủ đô Hà Nội, Hồ Lạc, cầu Việt Trì). Ngày 5/8/1967, 0Bộ tư lệnh Thiết
giáp được Bộ Quốc phịng thơng báo, chuẩn bị 2 đại đội xe tăng vào chiến trường miền
Nam chiến đấu. Sau thời gian gấp rút chuẩn bị chiến đấu, ngày 01/10/1967, Tiểu đoàn
198 (được thành lập từ Đại đội tăng 3 và Đại đội tăng 9 thuộc Tiểu đoàn 3, Trung đoàn
203) bắt đầu hành quân từ Lương Sơn – Hịa Bình vào chiến trường. Sau hơn 50 ngày
đêm hành quân vượt hơn 1000km đường Trường Sơn với nhiều địa hình phức tạp,
trong điều kiện địch đánh phá ác liệt, tồn Tiểu đồn đã đến vị trí tập kết bảo đảm an
toàn về người và trang bị chiến đấu.
Đại đội tăng 3 hành quân 931 km, ngày 21/12/1967 tới vị trí tập kết ở Nậm
Khang trên đường số 9. Đại đội tăng 9 vượt qua chặng đường dài gần 1500km tập kết
tại Ha Xinh-Ta xinh ở Nam đường 9; (đồng hồ hành trình trên các xe của Đại đội tăng
9 đã báo 1438,8 km với 171,36 giờ máy nổ).
Đây là cuộc hành quân lịch sử bằng xích của xe tăng ta từ hậu phương vào
chiến trường, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng không chỉ đối với Binh chủng mà cịn có ý
nghĩa chiến lược quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân
ta. Cuộc hành quân thắng lợi đã khẳng định: Trong điều kiện địa hình hiểm trở của
tuyến đường chiến lược, khơng quân địch đánh phá ác liệt suốt ngày đêm, nhưng với
khả năng thực tế, ý chí quyết tâm cao và phương pháp tổ chức, bảo đảm hành quân
phù hợp ta vẫn có thể đưa được một lực lượng lớn xe tăng vào chiến trường (gồm cả
con người và đầy đủ vũ khí, trang bị) để tham gia chiến đấu. Đây là mốc mở đầu cho
quá trình triển khai lực lượng Tăng thiết giáp ở các địa bàn chiến lược trên chiến
trường, đáp ứng yêu cầu phát triển của cuộc chiến tranh giải phóng. Ta đưa được xe


Nhận làm bài thuê lý luận chính trị, khoa học xã hội & nhân văn giá rẻ sinh viên
Liên hệ Zalo: 0389632001

tăng vào chiến trường là một bất ngờ lớn đối với bộ máy chiến tranh xâm lược Mỹ và
bè lũ tay sai của chúng.

Tháng 2 năm 1968, lực lượng tăng thiết giáp Quân đội Nhân dân Việt Nam
tham chiến lần đầu tiên tại Tà Mây - Làng Vây (Đường 9 - Khe Sanh). Chiến thắng Tà
Mây, Làng Vây đã góp phần phá vỡ một mảng tuyến phịng thủ chiến lược của địch
trên Đường 9, dồn địch vào thế phòng thủ, bị động đối phó; đồng thời phối hợp kịp
thời với các chiến trường, góp phần vào chiến cơng vang dội của quân và dân cả nước
trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1968.
Trận đánh Tà Mây - Làng Vây là chiến công đầu tiên của bộ đội Tăng thiết giáp,
khẳng định sức mạnh của xe tăng trong chiến đấu hợp đồng binh chủng, góp phần làm
rạng rỡ lịch sử truyền thống của Quân đội ta, cổ vũ tinh thần quyết chiến, quyết thắng của
cán bộ, chiến sĩ Tăng thiết giáp trong suốt quá trình chiến đấu và xây dựng sau này.

Trong cuộc tiến công chiến lược năm 1972, Bộ đội Tăng thiết giáp đã cùng với
các Quân, Binh chủng bạn tiến công trên khắp các chiến trường miền Nam, đánh bại
địch ở nhiều vùng rộng lớn như Trị Thiên, Tây Nguyên, Đông Nam bộ... ta thu và phá
huỷ một khối lượng lớn vũ khí trang bị chiến tranh của địch, giải phóng nhiều vùng đất
rộng lớn, làm chuyển biến cục diện chiến tranh.
Một trong những trận đánh tiêu biểu, đạt hiệu suất chiến đấu cao trong giai đoạn
này là trận tiến công căn cứ Đắc Tô - Tân Cảnh của đại đội 7 thuộc Tiểu đoàn 297 phối
thuộc cho Trung đoàn bộ binh 66 ngày 24/4/1972. Đây là một căn cứ then chốt nằm
trên tuyến phòng thủ phía Bắc tỉnh Cơng Tum. Địch dựa vào thế núi hiểm trở, sông
suối bao quanh để tổ chức thành căn cứ phịng ngự mạnh, có qn số đơng, nhiều hỏa
khí, hệ thống cơng sự, lơ cốt vững chắc, vật cản dày, được hỏa lực pháo binh, không
quân chi viện. Từ năm 1968 cho đến hết năm 1975, tăng thiết giáp đã tham gia chiến
đấu hơn 200 trận, đặc biệt đã dẫn đầu 5 cánh qn giải phóng Sài Gịn trong chiến dịch
Hồ Chí Minh.
Ngày 20 tháng 10 năm 1976, Binh chủng Tăng thiết giáp được Quốc hội và
Chính phủ Việt Nam tuyên dương danh hiệu Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân
dân.
3.2.4.2. Vị trí, nhiệm vụ
* Vị trí:

Tăng thiết giáp là loại trang bị kỹ thuật hiện đại, có vỏ thép dày, hỏa lực mạnh
và sức cơ động cao, là lực lượng đột kích quan trọng của Quân đội nhân dân Việt Nam
trong chiến đấu hiệp đồng binh chủng cùng với bộ binh là lực lượng đột kích chủ yếu
của chiến đấu chiến dịch; hiệp đồng với các binh chủng tạo nên sức mạnh chiến đấu
Binh chủng hợp thành.


Nhận làm bài thuê lý luận chính trị, khoa học xã hội & nhân văn giá rẻ sinh viên
Liên hệ Zalo: 0389632001

Trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc tương lai (nếu xảy ra) để đánh bại tiến công
quy mô lớn của địch trên nhiều hướng: trên bộ kết hợp với đổ bộ đường không, đường
biển với cường độ cao, nhịp độ lớn, liên tục bằng nhiều thê đội. Bộ đội TTG là một
trong những thành phần lực lượng rất quan trọng của Lục quân có thể được sử dụng
ngay từ đầu với quy mơ lực lượng thích hợp cùng các lực lượng khác tiêu diệt lớn
quân địch, đảm nhiệm nhiệm vụ đột kích quan trọng (có trường hợp là chủ yếu trong
chiến dịch hiệp đồng quân, binh chủng)
Trong chiến đấu phịng ngự tích cực tiêu diệt địch nhất là TTG, ngăn chặn đánh
bại tiến công của chúng, cùng các lực lượng khác giữ vững khu vực được giao.
* Nhiệm vụ:
Trong chiến đấu bộ đội tăng thiết giáp thường cùng với bộ binh và các quân,
binh chủng khác chiến đấu hiệp đồng quân, binh chủng hoặc đảm nhiệm một nhiệm vụ
độc lập, thường đảm nhiệm các nhiệm vụ sau:
- Trong tiến cơng:
Đột phá trận địa phịng ngự của địch, thọc sâu, vu hồi đánh vào mục tiêu chủ
yếu bên trong như sở chỉ huy, trận địa hỏa lực, khu vực tập trung cơ giới, trung tâm
thơng tin, sân bay, địa hình quan trọng để tạo điều kiện chiến đấu, chiến dịch phát triển
thuận lợi, nhanh chóng tiêu diệt tồn bộ qn địch. Tiêu diệt địch cơ động ứng cứu giải
tỏa đường bộ, ĐBĐK; tiêu diệt địch rút chạy; có thể được sử dụng làm lực lượng dự bị
để sẵn sàng xử trí các tình huống quan trọng.

-

Trong phịng ngự:

Có thể thực hiện nhiệm vụ cùng bộ binh và các lực lượng khác phòng ngự điểm
tựa quan trọng, cố thủ mục tiêu chủ yếu, cùng các lực lượng khác giữ vững khu vực
phịng thủ then chốt.
Làm lực lượng cơ động tiến cơng thực hiện hành động tiến cơng trong phịng
ngự cùng các lực lượng khác thực hiện các lực lượng khác thực hiện các trận đánh
quan trọng then chốt tạo nên sự thay đổi đột biến thế lực và thời cơ cho trận chiến đấu
chiến dịch có lợi cho ta, cùng các lực lượng khác đánh bại tiến công của địch giữ vững
khu vực phòng ngự được giao. Đây là nhiệm vụ quan trọng nhất của TTG. Thực hiện
được mục đích bản chất của phịng ngự đồng thời phát huy được tồn bộ các yếu tố tạo
nên sức mạnh của TTG.
- Trong thực hiện nhiệm vụ A2.
Có thể thực hiện chốt giữ mục tiêu, tiến công giành lại các mục tiêu đã bị đánh
chiếm (các mục tiêu quan trọng như trụ sở Đảng, chính quyền các cấp), ngăn chặn, chia
cắt, giải tán, trấn áp tiêu diệt các lực lượng bạo loạn lật đổ; cùng các lực lượng khác tiến


Nhận làm bài thuê lý luận chính trị, khoa học xã hội & nhân văn giá rẻ sinh viên
Liên hệ Zalo: 0389632001

công tiêu diệt địch ĐBĐK vào các sân bay, bến cảng, hoặc khống chế các mục tiêu
trên không cho địch đổ bộ hỗ trợ các lực lượng bạo loạn lật đổ nội địa.
3.2.4.3. Tổ chức, biên chế:
* Bộ Tư lệnh:
- Tư lệnh; Các phó tư lệnh.
- Chính ủy; Phó chính ủy.
* Cơ quan:

Văn phịng; Thanh tra; Phịng Tài chính; Phòng Khoa học Quân sự; Ban Tổng
kết; Phòng Điều tra hình sự; Cơ quan Ủy ban kiểm tra; Ban Kinh tế; Bộ Tham mưu;
Cục Chính trị; Cục Hậu cần; Cục Kỹ thuật.
* Đơn vị trực thuộc:
- Trường Sĩ quan Tăng - Thiết giáp.
- Trường Hạ sĩ quan xe tăng 1.
- Trường Trung cấp Kỹ thuật Tăng thiết giáp.
- Lữ đoàn xe tăng 201.
- Lữ đoàn xe tăng 215.
Ngoài ra lực lượng Tăng - thiết giáp còn được biên chế ở các qn khu, qn
đồn…
3.2.5. Binh chủng Đặc cơng
3.2.5.1. Sự ra đời và phát triển
Ngày thành lập (Ngày truyền thống binh chủng): 19 tháng 3 năm 1967. Tổ chức
lực lượng lúc mới thành lập: 9 tiểu đồn đặc cơng; Trường bổ túc cán bộ và 3 cơ quan.
Tuy ngày thành lập chính thức là năm 1967, nhưng từ những năm kháng chiến chống
Pháp, cách đánh "công đồn đặc biệt" ở chiến trường Nam Bộ, cách đánh và tổ chức
đặc công đã phát triển nhanh chóng, hình thành ba loại lực lượng: Đặc công bộ; Đặc
công nước; Đặc công biệt động.
* Đặc công bộ:
Trong kháng chiến chống Pháp, từ sau cuộc tiến công lên Việt Bắc bị thất bại,
Pháp xây dựng hàng loạt đồn bót. Trước tình hình mới, bộ đội khơng thể dừng lại
ở những

trận tập kích, phục kích tiêu hao, quấy rối, mà phải tiến lên tiêu diệt các cứ
điểm nhỏ này. Nhưng để đánh được cứ điểm thì phải dùng cách đánh bất ngờ (kỳ
tập). Nếu Pháp phòng thủ mạnh phải có pháo hạng nặng (cường tập), mà bộ đội
thì pháo q ít, đạn pháo khan hiếm. Cuối cùng một cách đánh mới được đề xuất:
tranh thủ đánh bất ngờ, nếu bị lộ thì chuyển sang đánh bằng hỏa lực mạnh. Với
cách đánh kỳ tập kết hợp với cường tập, từ Thu Đông 1948 đến đầu 1950, trên

chiến trường Bắc Bộ, bộ đội đã tiêu diệt hàng loạt đồn bốt, cứ điểm Pháp.


Nhận làm bài thuê lý luận chính trị, khoa học xã hội & nhân văn giá rẻ sinh viên
Liên hệ Zalo: 0389632001



chiến trường Nam Bộ, Pháp tăng quân, xây dựng hệ thống bót Delatour là sản phẩm
của tướng Delatour Desmer, tư lệnh quân viễn chinh Pháp ở Nam Bộ. Hàng loạt đồn
bót dựng lên xung quanh thị xã, thành phố và trên các đường giao thông quan trọng,
nhằm bao vây, chia cắt, ngăn chặn lực lượng vũ trang Việt Minh. Phong trào du kích
phát triển khắp nơng thơn, thành thị, nhưng Việt Minh gặp khó khăn do chưa có chiến
thuật hữu hiệu và loại vũ khí có đủ sức cơng phá tường dày của tháp canh. Qua nhiều
lần thử nghiệm thắng lợi, đặc biệt là trận đánh đêm 18 rạng 19 tháng 3 năm 1948 tiêu
diệt đồn cầu Bà Kiên, đã mở ra một khả năng mới đánh địch trong vị trí cố thủ vũng
chắc. Từ thực tế đánh tháp canh, Việt Minh đúc kết được kinh nghiệm thực tiễn, làm
tiền đề cho chiến thuật đặc công ra đời.
Đặc công bộ hiện nay có Lữ đồn Đặc cơng 113 (3 lần được phong anh hùng
lực lượng vũ trang các năm 1975, 1979, 2000), Lữ đồn Đặc cơng 198 (thành lập năm
1974, anh hùng lực lượng vũ trang năm 1976), Lữ đồn Đặc cơng 429.
* Đặc cơng nước:
Đặc cơng nước là lực lượng đặc biệt tinh nhuệ, được huấn luyện để tiến công
các mục tiêu thủy của đối phương như: bến cảng, tàu thủy,... và các mục tiêu chỉ có thể
xâm nhập qua đường thủy: căn cứ biệt lập, căn cứ thủy qn... Nếu đặc cơng bộ có lối
đánh đặc biệt thì đặc cơng nước càng đặc biệt, vì đánh dưới nước khó khăn hơn nhiều
so với trên bộ, trang bị vũ khí cũng khác biệt hơn. Đặc cơng nước (cịn gọi là đặc công
thủy) ra đời do yêu cầu đánh vào đối tượng hải quân của Pháp và những mục tiêu vùng
sơng nước, do đó xuất hiện gần như song song với đặc công bộ. Trong cuộc Chiến
tranh Đông Dương, các hoạt động trên sông nước của Pháp chiếm một phần quan

trọng trên chiến trường. Lợi dụng lãnh thổ Việt Nam có bờ biển dài, nhiều sơng ngịi,
có vùng sơng ngòi chằng chịt như miền Tây Nam Bộ, quân Pháp đã bố trí một lực
lượng hải quân khá mạnh. Hải quân Pháp tập trung vào 3 hoạt động chủ yếu:
- Dùng tàu thuyền chiến đấu hỗ trợ cho bộ binh đi càn quét;
- Đánh phá căn cứ, ngăn chặn tiếp tế, vận chuyển của Việt Minh; Dùng đường thủy để tiếp hậu cần cho quân Pháp trên đất liền.

Vì thế việc đánh Pháp trên mặt trận sơng biển có ý nghĩa chiến lược quan trọng.


miền Bắc, các vùng ven sông, ven biển khẩn trương xây dựng các đội săn tàu Pháp,
sẵn sàng đánh Pháp trên mặt trận sông nước. Trong chiến dịch Hà – Nam - Ninh (tháng
6 năm 1951), tổ đặc công nước do Nguyễn Quang Vinh (thuộc Trung đoàn 36, Đại
đoàn 308) chỉ huy dùng thuyền nan chở 300 kg thuốc nổ đánh chìm tàu LCD chở vũ
khí của quân Pháp. Đây là trận mở đầu cho cách đánh tàu chiến trên chiến trường Bắc
Bộ, tạo tiền đề cho việc nghiện cứu sử dụng đặc công đánh các mục tiêu


Nhận làm bài thuê lý luận chính trị, khoa học xã hội & nhân văn giá rẻ sinh viên
Liên hệ Zalo: 0389632001

tên sông, biển. Ở miền Nam, đầu năm 1949, đội săn tàu Long Châu Sa dùng thủy lôi
tự tạo đánh chìm tàu Glyxin trên sơng Sài Thượng, diệt hàng trăm quân đối phương.


vùng Rừng Sác, vào tháng 9 năm 1950, các đội đặc cơng được hình thành từ Trung
đồn 300, hoạt động ở vùng Nhà Bè, Thủ Thiêm xuống Cần Giờ, Soài Rạp. Lực lượng
này chiến đấu rất dũng cảm, táo bạo, được gọi là "quân cảm tử", diệt nhiều chỉ huy
Pháp và tay sai. Như vậy trong giai đoạn đầu kháng chiến, cùng với cách đánh của đặc
công bộ, cách đánh của đặc công thủy cũng bắt đầu phát triển. Dựa trên những tiến bộ
của quá trình nghiên cứu cải tiến vũ khí, các địa phương ở Bắc Bộ và Nam Bộ đã tổ

chức được một lực lượng chuyên, tinh để đánh tàu, thuyền bằng cách đánh đặc cơng.
Ngày 13/4/1966, Bộ Quốc phịng ra quyết định thành lập Đồn huấn luyện trinh
sát đặc cơng mang phiên hiệu Đồn 126 trực thuộc Bộ Tư lệnh Hải quân. Đoàn trưởng
được giao cho Hồng Đắc Cót và Phạm Điệng là Chính ủy. Tháng 5/1966 Bộ Tư lệnh
Hải quân tổ chức Đoàn 126 thành cơ quan đoàn bộ và 12 đội chiến đấu, lực lượng Đặc
cơng hải qn Việt Nam đã hình thành. Cuối 1966, một lực lượng lớn của Đoàn 126
được đưa vào chiến trường Quảng Trị, Đà Nẵng, Qui Nhơn và Nam Bộ thâm nhập
thực tế chiến đấu. Ngày 10/3/1967, Bộ Tư lệnh Mặt trận B5 (Mặt trận Trị - Thiên) giao
nhiệm vụ cho Đoàn 126 tiêu diệt tàu địch ở cảng và sông từ Cửa Việt tới Đông Hà.
Tàu cuốc 70 tấn của Hàn Quốc bị ốp mìn nổ tung. Ngày 9/5/1967, tàu cuốc Hayda dài
71m, rộng 12m bị đánh chìm xuống sơng Cửa Việt, tàu LST trọng tải lớn 5.000 tấn
chở xe thiết giáp và vũ khí hạng nặng cũng bị đánh chìm xuống sơng. Ngày 15/5/1967,
1 tàu LCU bị đánh chìm tại chỗ nằm vắt ngang sơng Cửa Việt. Chỉ trong vòng 5 tháng
chiến đấu, từ tháng 4 đến 9/1967, riêng Đội 1 của Đoàn 126 đã tham chiến 6 trận, đánh
chìm 10 tàu địch, làm hư hỏng 2 tàu khác, phá hủy nhiều phương tiện vũ khí.
Trong 10 ngày hoạt động ở Cửa Việt (19 đến 29/01/1968), Đồn 126 đã thả
được 13 quả thủy lơi xuống dịng sơng Cửa Việt, đánh chìm 8 tàu, phá hủy hàng nghìn
tấn hàng hóa và phương tiện chiến tranh của địch, làm gián đoạn giao thông của địch ở
cảng Cửa Việt nhiều ngày liền. Tối ngày 6/9/1969, tại điểm xuất phát ở Cửa Tùng (thị
trấn Cửa Tùng, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị), Đoàn 126 cử tổ chiến đấu 3 người
lặn tới đánh mìn tàu địch. Mỗi người mang theo ống thở, khí tài lặn, hai thủ pháo, hai
lựu đạn, dao găm… riêng 2 người nhận thêm hai quả mìn rùa nặng 6,8 kg do Liên Xô
sản xuất. Đây là loại vũ khí lợi hại của đặc cơng nước, có ghép 48 mảnh nam châm
hình móng ngựa, có sức hút 100 kg. Khi mìn đã áp vào sườn tàu, rút chốt an toàn,
đúng giờ sẽ nổ, nếu chưa đến giờ nổ mà bị tháo gỡ mìn cũng sẽ tự phát nổ bởi nó có
ngịi chống tháo. Sau 2 ngày ẩn nấp, tổ chiến đấu đã tiếp cận tàu Mỹ, gắn mìn rùa rồi
rút lui. Vài giờ sau mìn nổ, chiếc tàu vận tải USS Noxubee trọng tải 4.000 tấn bị hư
hại nặng.



Nhận làm bài thuê lý luận chính trị, khoa học xã hội & nhân văn giá rẻ sinh viên
Liên hệ Zalo: 0389632001

Tiểu đồn Đặc cơng nước 471 - Qn khu 5 được thành lập ngày 25/2/1971 tại
Trà Bồng (Quảng Ngãi); sau đó tiểu đồn được chuyển ra hoạt động ở cánh Bắc Hòa
Vang, thuộc Mặt trận 4 Quảng Đà, làm nhiệm vụ tác chiến các mục tiêu cố định của
quân Mỹ - ngụy. Trong vòng 5 năm (4/1971 - 4/1975), Tiểu đồn Đặc cơng nước 471
đã đánh 41 trận (29 trận đánh dưới nước, 12 trận đánh trên cạn), tiêu diệt 800 tên địch
(trong đó có một số lính Mỹ), đánh chìm 10 tàu vận tải quân sự (bao gồm 1 tàu chở
dầu, 1 pháo hạm) trọng tải 8-10 nghìn tấn, 1 hải thuyền, 1 cầu cảng Tiên Sa.
Trong chiến tranh chống Mỹ, Hải quân Việt Nam đã huấn luyện, đào tạo, bổ
sung cho các chiến trường miền Nam hơn 5.000 cán bộ, chiến sĩ đặc công. Trong 7
năm chiến đấu trên chiến trường Cửa Việt – Đông Hà, đặc cơng Hải qn đã đánh 300
trận; đánh chìm, đánh hỏng 336 tàu xuồng chiến đấu, phá hủy nhiều phương tiện chiến
tranh, tiêu diệt nhiều sinh lực địch. Góp phần cùng các lực lượng trên khắp chiến
trường miền Nam đánh chìm, đánh hỏng 4.473 tàu thuyền, đánh sập hàng trăm cầu
cống, vật chất phục vụ chiến tranh, góp phần cùng quân dân miền Nam đánh bại kẻ
thù.
Đặc công nước hiện nay gồm Lữ đồn Đặc cơng 5 trực thuộc Bộ Tư lệnh Đặc
cơng, Lữ đồn 126 Đặc cơng Hải qn, qn chủng Hải quân và một số đơn vị thuộc
các quân khu và qn đồn.
* Đặc cơng biệt động:
Do tính chất của cuộc kháng chiến lâu dài và để phù hợp với phương châm,
phương thức hoạt động tác chiến ở thành phố, bên cạnh các lực lượng vũ trang đô thị
như Tự vệ thành, Thanh niên xung phong, Quốc gia tự vệ cuộc, Cơng đồn xung
phong... các tổ chức qn sự chuyên trách lần lượt ra đời. Lực lượng này hơi khác với
đặc công bộ thông thường mặc dù trong tổ chức có rất nhiều điểm tương đồng. Biệt
động hầu như chỉ hoạt động vào ban ngày và rút lui về đêm.



Sài Gịn, 10 ban cơng tác thành hoạt động mạnh dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Khu
trưởng Nguyễn Bình. Ở nhiều thành phố khác như Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng,
các đội công tác đặc biệt và biệt động cũng khẩn trương thành lập làm nhiệm vụ tiêu
diệt những phần tử đối phương nguy hiểm và phá hoại cơ sở kinh tế của đối phương.
Các tổ, đội vũ trang biệt động hoạt động ngay trong lòng đối phương, từ đánh nhỏ, lẻ,
tiến lên đánh biệt động đặc công táo bạo, linh hoạt. Nổi lên trong các hoạt động tại Sài
Gịn là nữ sinh trường Qn chính Nguyễn Thị Lan (Lan Mê Linh) 17 tuổi đã dùng
súng ngắn ám sát chủ bút báo "Phục Hưng" là Hiền Sỹ tháng 3 năm 1946.
Đặc biệt ngày 8 tháng 6 năm 1946 ban công tác thanh đánh kho đạn của Pháp,
thiêu hủy 400 tấn đạn dược, thuốc nổ, làm chết 40 lính Pháp. Đạn nổ liên lục 3 ngày
đêm. Đầu năm 1947, lực lượng biệt động Hải Phòng phối hợp với bộ đội địa phương


×