Tải bản đầy đủ (.pdf) (182 trang)

Đổi mới chính sách xã hội đối với đội ngũ giảng viên trong các nhà trường quân đội nhân dân việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.03 MB, 182 trang )

đại học quốc gia hà nội
tr-ờng đại học khoa học xã hội và nhân văn

nguyễn hữu quyền

ĐổI MớI CHíNH SáCH Xã HộI
ĐốI VớI ĐộI NGũ GIảNG VIÊN TRONG CáC NHà TRƯờNG
QUÂN ĐộI NHÂN DÂN VIệT NAM HIệN NAY

luận án tiến sĩ triết học

Hà nội - 2015

1


đại học quốc gia hà nội
tr-ờng đại học khoa học xã hội và nhân văn

nguyễn hữu quyền

ĐổI MớI CHíNH SáCH Xã HộI
ĐốI VớI ĐộI NGũ GIảNG VIÊN TRONG CáC NHà TRƯờNG
QUÂN ĐộI NHÂN DÂN VIệT NAM HIệN NAY
Chuyên ngành : Chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử
Mã số

: 62 22 80 05

luận án tiến sĩ triết học



Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: 1. PGS.TS Nguyễn Trọng Tuấn
2. PGS.TS Phạm Công Nhất

Hà nội - 2015

2


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án
là trung thực. Những kết luận khoa học của
luận án chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.

T¸c gi¶ luËn ¸n

Nguyễn Hữu Quyền

3


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của
PGS.TS Nguyễn Trọng Tuấn và PGS.TS Phạm
Công Nhất. Các số liệu nêu trong luận án là

trung thực. Những kết luận khoa học của luận
án chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.

T¸c gi¶ luËn ¸n

Nguyễn Hữu Quyền

1


Môc lôc
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN

5

ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. Nhóm công trình ngoài nước nghiên cứu về chính sách xã hội và

5

chính sách xã hội trong quân đội
1.2. Nhóm công trình nghiên cứu trong nước về chính sách xã hội và


8

chính sách xã hội đối với trí thức trong các trường đại học Việt Nam
1.3. Nhóm công trình nghiên cứu trong nước về chính sách xã hội trong

12

Quân đội và chính sách xã hội đối với đội ngũ giảng viên trong các
nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam
1.4. Đánh giá các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
Chương 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI VÀ

17
22

ĐỔI MỚI CHÍNH SÁCH XÃ HỘI ĐỐI VỚI ĐỘI NGŨ
GIẢNG VIÊN TRONG CÁC NHÀ TRƢỜNG QUÂN ĐỘI
NHÂN DÂN VIỆT NAM

2.1. Đội ngũ giảng viên và chính sách xã hội đối với đội ngũ giảng viên

22

trong các nhà trường quân đội nhân dân Việt Nam
2.2. Quan niệm và một số yếu tố tác động đến đổi mới chính sách xã hội

42

đối với đội ngũ giảng viên trong các nhà trường Quân đội nhân dân
Việt Nam

Chương 3: ĐỔI MỚI CHÍNH SÁCH XÃ HỘI ĐỐI VỚI ĐỘI NGŨ

60

GIẢNG VIÊN TRONG CÁC NHÀ TRƢỜNG QUÂN ĐỘI
NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY - THỰC TRẠNG,
NGUYÊN NHÂN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

3.1. Thực trạng đổi mới chính sách xã hội đối với đội ngũ giảng viên

60

trong các nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay
3.2. Nguyên nhân của thành tựu và hạn chế về đổi mới chính sách xã hội
đối với đội ngũ giảng viên trong các nhà trường Quân đội nhân dân
Việt Nam và một số vấn đề đặt ra

2

94


Chương 4: YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỔI MỚI

109

CHÍNH SÁCH XÃ HỘI ĐỐI VỚI ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN
TRONG NHÀ TRƢỜNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT
NAM HIỆN NAY


4.1. Yêu cầu đổi mới chính sách xã hội đối với đội ngũ giảng viên trong

109

các nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay
4.2. Những giải pháp cơ bản đổi mới chính sách xã hội đối với đội ngũ

121

giảng viên trong các nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay
KẾT LUẬN

147

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN

149

ĐẾN LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

3

150


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CSXH


: Chính sách xã hội

GD&ĐT

: Giáo dục và đào tạo

KH&CN

: Khoa học và công nghệ

QĐNDVN

: Quân đội nhân dân Việt Nam

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

4


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tình hình hiện nay, đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo
(GD&ĐT) là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết từ quan điểm, tư tưởng
chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện thực
hiện. Đối với quân đội, sự nghiệp GD&ĐT giữ một vị trí quan trọng trong việc
xây dựng quân đội chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại. Thực hiện chiến
lược phát triển GD&ĐT, khoa học và công nghệ (KH&CN) quân sự đòi hỏi phải
có sự đầu tư về mọi mặt. Trong đó phát triển đội ngũ giảng viên có đủ phẩm chất,

năng lực sư phạm là nhân tố quyết định và nó phải được đặt lên hàng đầu.
Đội ngũ giảng viên trong các nhà trường quân đội nhân dân Việt Nam
(QĐNDVN) là người trực tiếp thực hiện nhiệm vụ đào tạo gắn với nghiên cứu khoa
học, liên kết các hoạt động của nhà trường với thực tiễn huấn luyện sẵn sàng chiến
đấu và chiến đấu của các đơn vị trong toàn quân, phát triển dịch vụ cộng đồng thông
qua giảng dạy, nghiên cứu ứng dụng; triển khai có hiệu quả các tiến bộ khoa học kỹ
thuật, công nghệ quân sự vào sản xuất; là lực lượng trực tiếp tham gia xây dựng nền
giáo dục đại học Việt Nam tiên tiến, hiện đại nhằm chấn hưng giáo dục nước nhà;
trực tiếp tham gia vào đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, xây dựng đội ngũ
chuyên gia quân sự, những nhà khoa học trong lĩnh vực quân sự; cung cấp luận cứ
khoa học cho Đảng, Nhà nước hoạch định các đường lối liên quan đến quốc phòng,
an ninh.
Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây
dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, đòi hỏi phải
xây dựng đội ngũ giảng viên các nhà trường quân đội vững mạnh về mọi mặt tạo nền
tảng nâng cao chất lượng GD&ĐT, phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ quân
sự, nghệ thuật quân sự của quân đội. Do vậy, cùng với các chủ trương, biện pháp về tư
tưởng và tổ chức thì việc đổi mới các chính sách xã hội (CSXH) như chính sách đào

5


tạo, bồi dưỡng, sử dụng giảng viên; chính sách bảo hiểm, an sinh xã hội; chính sách ưu
tiên, ưu đãi trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học; chính sách tôn vinh khen thưởng...
quan tâm thiết thực đến lợi ích chính đáng đối của họ là đòi hỏi khách quan và mang
tính cấp thiết trong tình hình cách mạng hiện nay.
Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước và Quân đội đã ban hành nhiều
CSXH đối với đội ngũ cán bộ, sĩ quan nói chung và đội ngũ giảng viên trong các
nhà trường quân đội nói riêng. Tuy nhiên, đối với các nhà trường quân đội, một số
CSXH đối với đội ngũ giảng viên chưa phản ánh đầy đủ đặc điểm, tính chất lao

động sư phạm trí óc, sáng tạo trong môi trường quân sự. Các chính sách khuyến
khích đổi mới giảng dạy chưa tương xứng, không có phụ cấp đứng lớp; kinh phí cho
nghiên cứu khoa học và ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học vào thực tiễn chiến
đấu của quân đội còn hạn hẹp; chính sách bảo hiểm, nhà ở, đất ở còn manh mún,
nhiều bất cập; tuổi phục vụ ngắn dẫn đến lãng phí nguồn chất xám được đào tạo,
còn tình trạng sử dụng giảng viên chưa đúng mục tiêu, yêu cầu đào tạo, chưa có
nhiều chính sách tạo động lực cho giảng viên phát triển hết tài năng, để cống hiến
cho sự nghiệp GD&ĐT của quân đội. Vấn đề "chảy máu chất xám" và "lãng phí
chất xám" vẫn là một thực tế đang diễn ra. CSXH đối với đội ngũ giảng viên trong
các nhà trường Quân đội chưa thật sự là một động lực quan trọng trong phát triển
nguồn nhân lực chủ yếu này. Vì vậy, việc "Đổi mới chính sách xã hội đối với đội
ngũ giảng viên trong các nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay" là
đề tài cần đi sâu nghiên cứu một cách toàn diện cả về lý luận và thực tiễn.
2. Mục đích, nhiệm vụ của luận án
- Mục đích nghiên cứu của luận án
Làm rõ một số vấn đề lý luận, thực tiễn, yêu cầu và đề xuất giải pháp cơ
bản nhằm đổi mới CSXH đối với đội ngũ giảng viên trong các nhà trường
QĐNDVN hiện nay.
- Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
+ Luận giải, làm rõ vấn đề lý luận và nhân tố tác động đến đổi mới CSXH
đối với đội ngũ giảng viên trong các nhà trường QĐNDVN hiện nay.

6


+ Khảo sát đánh giá thực trạng và chỉ rõ vấn đề đặt ra của đổi mới CSXH đối
với đội ngũ giảng viên trong các nhà trường QĐNDVN hiện nay.
+ Nêu ra yêu cầu, đề xuất giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục đổi mới CSXH
đối với đội ngũ giảng viên trong các nhà trường QĐNDVN hiện nay.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của luận án

- Đối tượng nghiên cứu của luận án
Đổi mới CSXH đối với đội ngũ giảng viên trong các nhà trường QĐNDVN.
- Phạm vi nghiên cứu của luận án
Luận án nghiên cứu vấn đề đổi mới CSXH, đi sâu vào các chính sách đãi
ngộ trong đổi mới giảng dạy, nghiên cứu khoa học và đảm bảo đời sống, điều kiện
làm việc đối với đội ngũ giảng viên trong các học viện, trường sĩ quan quân đội
(bậc đại học), chủ yếu từ năm 1992 đến nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
- Cơ sở lý luận của luận án là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về CSXH, về phát
huy nguồn lực con người trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước; các văn kiện, nghị quyết, chỉ thị của Quân ủy Trung ương về CSXH đối
với quân đội và cán bộ, giảng viên trong các nhà trường QĐNDVN.
- Cơ sở thực tiễn luận án dựa vào thực tế hoạt động đổi mới CSXH đối với
đội ngũ giảng viên trong các nhà trường quân đội trong những năm qua, các số liệu
thống kê, các báo cáo tổng kết đánh giá thực trạng đổi mới CSXH đối với giảng
viên trong các nhà trường quân đội; kết quả điều tra, khảo sát thực tế của tác giả về
đổi mới CSXH đối với đội ngũ giảng viên trong các nhà trường QĐNDVN trong
những năm vừa qua.
- Phương pháp nghiên cứu của luận án
Luận án được thực hiện trên cơ sở vận dụng tổng hợp phương pháp luận
chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin và các
phương pháp khác như: phân tích và tổng hợp, lôgic và lịch sử, hệ thống, so sánh,
điều tra xã hội học, tổng kết thực tiễn và phương pháp chuyên gia...

7


5. Những đóng góp mới của luận án
- Đưa ra quan niệm về đổi mới CSXH đối với đội ngũ giảng viên trong các

nhà trường quân đội, khẳng định vai trò của đổi mới CSXH đối với việc phát huy
nguồn nhân lực đội ngũ giảng viên trong sự nghiệp đổi mới nâng cao chất lượng
GD&ĐT của các nhà trường QĐNDVN hiện nay.
- Đánh giá thực trạng và những vấn đề đặt ra của đổi mới CSXH đối với đội
ngũ giảng viên trong nhà trường QĐNDVN hiện nay.
- Đề xuất hệ thống giải pháp cơ bản nhằm đổi mới CSXH đối với đội ngũ
giảng viên trong các nhà trường QĐNDVN hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
* Ý nghĩa lý luận
Với kết quả đạt được, luận án góp phần làm rõ hơn một số vấn đề lý luận,
cung cấp các luận cứ khoa học về CSXH và đổi mới CSXH cho Đảng, Nhà nước,
Quân đội và các cơ quan chức năng trong quản lý con người và quản lý quân nhân
trong QĐNDVN bằng công cụ chính sách.
* Ý nghĩa thực tiễn
- Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy
về CSXH và CSXH đối với quân đội và các học viện, nhà trường quân đội.
- Luận án cung cấp thêm những căn cứ, số liệu cho việc nghiên cứu, ban
hành CSXH và đổi mới CSXH đối với quân đội nói chung và đối với đội ngũ giảng
viên trong các nhà trường quân đội nói riêng.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của
luận án gồm 4 chương, 10 tiết.

8


Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN


Cùng với sự phát triển của đất nước, trong những năm qua, vấn đề CSXH,
đổi mới CSXH đối với các nhóm lao động xã hội, những ngành nghề mang tính đặc
thù, đặc biệt là đổi mới CSXH đối với đội ngũ trí thức trong đó có đội ngũ giảng
viên bậc đại học nhằm tạo động lực phát triển KH&CN, GD&ĐT được Đảng, Nhà
nước hết sức quan tâm; đồng thời, nó cũng thu hút nhiều cơ quan trong và ngoài
quân đội, các nhà khoa học nghiên cứu vấn đề này. Thời gian gần đây đã có nhiều
công trình, đề tài nghiên cứu về CSXH; các vấn đề liên quan đến sự phát triển của
đội ngũ cán bộ, giảng viên trong các nhà trường QĐNDVN cũng như của đất nước.
1.1. Nhóm công trình nƣớc ngoài nghiên cứu về chính sách xã hội và
chính sách xã hội trong quân đội
- GS,TSKH. V.C.Bulannov (2003), "bản chất, nội dung và mục đích của
chính sách xã hội" NXB Ezamen (ID số 05518ot01.08.01). Tác giả công trình quan
niệm, xã hội bao gồm các nhóm xã hội (số đông nhất trong giai cấp của họ). Mỗi
nhóm như vậy có sự thật của riêng mình, có hình dung thế nào là tốt, là xấu trong
trật tự hiện hữu, cũng như cách thay đổi trật tự đó như thế nào. Có nghĩa là trong các
nhóm xã hội có lợi ích khác nhau, đôi khi giống nhau điều gì đó, nhưng đôi khi không
thể dung hòa, thậm chí thỏa hiệp. Toàn bộ các nhóm xã hội đó là cấu trúc của xã hội.
Chính sách xã hội là quan hệ tương hỗ giữa các nhóm xã hội với lý do gìn
giữ và thay đổi vị thế xã hội của nhân dân nói chung và các giai cấp, tầng lớp, xã
hội, các nhóm dân số xã hội, các nhóm chuyên môn xã hội, các cộng đồng xã hội
(các gia đình, dân tộc, nhân dân các thành phố, làng mạc, vùng...).
Chức năng của chính sách xã hội: một là, đảm bảo sự ổn định xã hội, an
sinh xã hội của xã hội; hai là, đảm bảo sự vững chắc của chính quyền; ba là, đảm
bảo phân phối quyền lực trong nền kinh tế (sở hữu), làm sao để đa số công nhận sự

9


công bằng để không xuất hiện các cuộc đấu tranh vượt khỏi vòng kiểm soát; bốn là,
thành lập hệ thống phân phối các dự trữ và hiệu quả kinh tế đáp ứng yêu cầu số

đông dân cư; năm là, đảm bảo môi trường ở mức cần thiết và đầy đủ cho xã hội và
nhà nước; sáu là, bảo đảm cuộc sống cho xã hội ở mức cần thiết và đầy đủ cho dân
chúng nói chung, cho các nhóm xã hội nói riêng.
- GS. M.V. Kibakin (2011), "Nghiên cứu chất lượng cuộc sống của cán bộ
giảng dạy của các cơ sở giáo dục quân sự trong quân đội Nga", Luận án Tiến sĩ,
Học viện Quân sự Frunze, Liên bang Nga. Luận án nêu lên vai trò của nâng cao
chất lượng cuộc sống cho cán bộ giảng dạy trong các cơ sở giáo dục quân sự quân
đội Nga, là nhằm bổ sung hiệu quả cho những giá trị cơ bản khác nhau như: tận tụy
với nhiệm vụ, trung thành, sẵn sàng tuân thủ trình tự, sẵn sàng hi sinh. Những giá trị
ấy chỉ có được khi những cán bộ giảng dạy trong nhà trường quân sự được tôn vinh
và đảm bảo chất lượng trong cuộc sống.
So sánh có liên quan đến chất lượng cuộc sống của giáo viên với nhóm xã
hội tương tự, như của giáo viên các trường dân sự. Ngược lại, với công việc, dịch
vụ lại không có thời gian và cũng không có cơ hội hợp pháp cho thêm (trong dịch
vụ) cải thiện hạnh phúc: một giảng viên quân sự không thể (và không nên) kết hợp
công việc chuyên môn, công việc giảng dạy - để kinh doanh.
Chất lượng cuộc sống của giáo viên trong các trường quân sự luôn phụ
thuộc vào tình trạng vật chất, tinh thần của đơn vị và quyền lực của nhà nước.
Chính vì vậy, khi tính toán chất lượng cuộc sống của cán bộ giảng dạy không chỉ
đơn thuần là đảm bảo bằng tiền thù lao và các vật chất đảm bảo khác, mà phải đảm
bảo bằng những đặc điểm của các giá trị tham chiếu trong mối quan hệ khác nhau
đối với các nhóm xã hội tương đồng và các nhà hoạt động kinh tế.
- Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Nga Nikolai Pankov (2007), "Triển vọng cho
an sinh xã hội của người phục vụ trong quân đội Nga". Luật liên bang, 24 tháng 6
năm 2007 № 198 - FZ, Maxcơva. Theo Trung tâm Nghiên cứu Công luận All-Nga,
40% người Nga được hỏi thừa nhận rằng gia đình quân nhân hiện đang sống trong

10



nghèo đói, dưới mức trung bình quốc gia, gần 60% người Nga tin rằng tình hình
kinh tế - xã hội của các quân nhân cao hơn mức trung bình toàn quốc.
Phân tích các dữ liệu giám sát cho phép xác định các hướng chính của chính
sách xã hội quân sự đòi hỏi phải cải thiện các văn bản pháp lý: cải cách tiền lương
các quân nhân; giải quyết vấn đề nhà ở các quân nhân và người dân thải ra từ các
dịch vụ quân sự; cải thiện hệ thống lương hưu công dân thải ra từ các dịch vụ quân
sự, và các gia đình của các nạn nhân (chết) chiến sĩ; cải thiện y tế và điều dưỡng
cho quân nhân, công dân thải ra từ các dịch vụ quân sự, và gia đình của họ; tính
hiệu quả của bảo trợ xã hội và phục hồi chức năng của các chiến binh, các gia đình
các quân nhân đã chết; tạo ra các cơ chế hiệu quả để khuyến khích việc làm của
nhân lực của lực lượng vũ trang; thích ứng với xã hội, đào tạo và tìm việc làm của
người thải ra từ các dịch vụ quân sự.
- Cơ quan nghiên cứu Ủy ban Cố vấn Ban Chính sách Quốc phòng Mỹ
(2011), "Chinese military officers' wages steadily rising" (Lương sĩ quan Trung
Quốc quân sự gia tăng đều đặn), Tân hoa xã, Bắc Kinh, Trung Quốc. Thông tin
phản ánh, lương sĩ quan quân sự Trung Quốc đã tăng đều qua các năm qua. Một
cuộc khảo sát của các sĩ quan quân đội đã cho thấy rằng vào cuối năm 2010, thu
nhập bình quân hàng tháng đối với cán bộ quân sự là 5,373.14 nhân dân tệ (khoảng
$ 826), cao hơn so với mức lương trung bình của năm 2005 là 2,61 lần. Trong khi
đó, thu nhập bình quân đầu người cho các gia đình của các sĩ quan quân đội đạt
2,637.62 nhân dân tệ, cao hơn so với con số tương tự từ năm 2005 là 2,41 lần. Các
khảo sát cho thấy lương sĩ quan đang leo ở mức nhanh nhất kể từ khi thành lập
nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa vào năm 1949. Đồng thời, báo cáo cho biết,
cuộc khảo sát, trong đó lấy mẫu 10.000 sĩ quan quân đội, cho thấy điều kiện sống
cho cán bộ quân sự cũng được cải thiện đáng kể, mặc dù vợ chồng và con cái của họ
vẫn đang gặp rắc rối với việc làm và giáo dục. Tương ứng, theo báo cáo của các
quan chức quân sự đã cam kết sẽ tiếp tục cải thiện phúc lợi nhân viên quân sự trong
năm năm tiếp theo.

11



- Fiona Tam (2012), Mid-ranking officers get dramatic pay increase (Tăng
lương cho sĩ quan phục vụ trong quân đội) Thông tin cho thấy, thu nhập trung
bình hàng tháng cho cấp trung sĩ Quân đội Giải phóng Nhân dân đã tăng đến 5.373
nhân dân tệ (HK $ 6413), gấp 2,6 lần so với số tiền mà họ đã giành được 5 năm trước
đây, theo một cuộc khảo sát được tiến hành bởi trụ sở của PLA. Thu nhập bình quân
hàng tháng của gia đình trong số 10.000 nhân viên phỏng vấn, xếp hạng từ chỉ huy
đến trung úy, đã có 37% số cán bộ đã mua nhà riêng của họ, và gần 43% đã có tài
khoản tiết kiệm. Khoảng 17% sở hữu xe ô tô riêng của họ, và 85% có máy tính. Cán
bộ ở các tỉnh phía Nam thu nhập nhiều hơn so với những người ở phía Tây. Cuộc
điều tra cho thấy một nửa của các quan chức quân đội từ những đơn vị ở Quảng Châu
có xe ô tô riêng cao hơn nhiều so với mức thu nhập trung bình. Các gia đình quân
nhân đã để dành trung bình 2.703 nhân dân tệ mỗi người một tháng, 60 phần trăm còn
lại dùng để mua thực phẩm và các chi phí hàng ngày. Các nhà chức trách cho rằng sự
tăng trưởng thu nhập để kết nối giữa hệ thống lương quân sự với hệ thống lương đối
với công chức, là cao hơn nhiều so với thu nhập người dân trung bình.
1.2. Nhóm công trình nghiên cứu trong nƣớc về chính sách xã hội và
chính sách xã hội đối với trí thức trong các trƣờng đại học Việt Nam
Từ sau những năm đổi mới, cùng với những thành tựu to lớn trong phát
triển kinh tế của đất nước, theo cơ chế thị trường định hướng XHCN thì các vấn đề
xã hội được đặt ra một cách cấp thiết. Có nhiều công trình đề cập đến khái niệm, vị
trí, nội dung của CSXH và CSXH đối với đội ngũ giảng viên bậc đại học. Sau đây
tác giả thống kê một số công trình tiêu biểu đó là:
- Lê Đăng Doanh và Nguyễn Minh Tú (1999): "Khung chính sách xã hội
trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường" NXB Thống kê, Hà Nội.
Theo nhóm tác giả, nội dung CSXH của Việt Nam được thể hiện theo lĩnh vực sau:
Lĩnh vực 1: Các lĩnh vực CSXH xác định theo chi ngân sách nhà nước bao
gồm: Lĩnh vực xã hội: GD&ĐT; y tế - bảo vệ sức khỏe; dân số kế hoạch hóa gia


12


đình; bảo vệ, chăm sóc trẻ em; dịch vụ xã hội cơ bản: giáo dục cơ bản; chăm sóc
sức khỏe ban đầu; sức khỏe môi trường; dinh dưỡng; sức khỏe sinh sản và kế
hoạch hóa gia đình.
Lĩnh vực 2: Các lĩnh vực CSXH xác định theo đối tượng bao gồm: Chính
sách đối với phụ nữ; chính sách đối với trẻ em; chính sách đối với thanh niên; chính
sách đối với dân tộc ít người; chính sách đối với người già; chính sách đối với
người tàn tật; chính sách đối với người sống trong vùng gặp thiên tai; chính sách đối
với thương, bệnh binh và nạn nhân chiến tranh; chính sách đối với người lao động.
Lĩnh vực 3: Các lĩnh vực CSXH xác định theo phạm vi tác động bao gồm:
Chính sách giáo dục và đào tạo; chính sách y tế; chính sách bảo hộ người lao động;
hệ thống bảo hiểm xã hội bao gồm: (bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bồi thường tai
nạn lao động, trợ cấp thôi việc.); chính sách giải quyết việc làm bao gồm (đào tạo,
dạy nghề; xúc tiến việc làm; quỹ giải quyết việc làm); chính sách ưu đãi xã hội;
chính sách cứu trợ xã hội; chính sách xóa đói, giảm nghèo; chính sách chống tệ nạn
xã hội và tội phạm.
- Hoàng Chí Bảo, Đoàn Minh Huấn (2012): "Những vấn đề lý luận cơ bản
về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội". NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Tác giả đưa ra quan niệm xã hội theo nghĩa rộng, đó là một cấu trúc hệ thống chỉnh thể, trong nghĩa rộng nhất có tầm khái quát lớn nhất là xã hội loài người, là
lịch sử thế giới, nhân loại. Đó là, một đất nước, một cộng đồng dân tộc; với một
hình thái nhà nước, một nước độc lập, có chủ quyền toàn vẹn, có địa vị pháp lý và
quan hệ quốc tế.
Xã hội theo nghĩa hẹp, là phương diện xã hội của đời sống xã hội. Đó là
một tập hợp lớn, một hệ thống các vấn đề xã hội trong phát triển, liên quan trực tiếp
tới đời sống của con người như lao động và việc làm, mức sống và tình trạng đói
nghèo, dân số, sức khỏe và y tế cộng đồng, nhà ở, giáo dục, vệ sinh môi trường, an
toàn giao thông, văn hóa tinh thần... Nói tóm lại, là tất cả những vấn đề của đời
sống cá nhân và cộng đồng, có tính chất và hệ quả xã hội mà xã hội và nhà nước

phải giải quyết bằng chính sách.

13


- Bộ Giáo dục và Đào tạo (2010), "Đổi mới giáo dục Việt Nam", Luật Giáo
dục sửa đổi bổ sung và các văn bản mới nhất về các đề án giáo dục, quy chế tài
chính, quy chế tuyển sinh. Trong Luật Giáo dục được sửa đổi, bổ sung ngày 25
tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khóa X kỳ họp thứ X quy định: Nhà giáo của các
trường cao đẳng, đại học được tuyển dụng theo phương thức ưu tiên đối với sinh
viên tốt nghiệp loại khá, loại giỏi, có phẩm chất tốt và người có trình độ đại học,
trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ, có kinh nghiệm hoạt động thực tiễn, có nguyện
vọng trở thành nhà giáo. Chính sách với nhà giáo trong Luật Giáo dục quy định:
Nhà nước có chính sách bồi dưỡng nhà giáo về chuyên môn, nghiệp vụ để nâng cao
trình độ và chuẩn hóa nhà giáo; nhà giáo được cử đi học nâng cao trình độ, bồi
dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, được hưởng lương và phụ cấp theo quy định của
Chính phủ; nhà giáo được hưởng tiền lương, phụ cấp ưu đãi theo nghề và phụ cấp
khác theo quy định của Chính phủ; nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục công tác ở
vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được ủy ban nhân dân các cấp
tạo điều kiện về chỗ ở, được hưởng chế độ phụ cấp và chính sách ưu đãi theo quy
định của Chính phủ... [11, tr. 260-264].
- Vũ Thanh Bình (2012), "Vấn đề chất lượng đội ngũ giảng viên lý luận chính
trị trong các trường đại học, cao đẳng ở nước ta hiện nay", Luận án Tiến sĩ, Đại học
Quốc gia Hà Nội. Tác giả quan niệm, giảng viên là khái niệm chỉ những người làm
công tác giảng dạy, nghiên cứu trong các học viện, các trường đại học, cao đẳng.
Từ thực trạng nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị, tác
giả đưa ra một số nhóm giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên lý
luận chính trị trong các trường đại học, cao đẳng hiện nay. Trong đó có giải pháp
Đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách, tạo động lực khuyến khích đội ngũ giảng
viên lý luận chính trị không ngừng nâng cao năng lực chuyên môn, tu dưỡng đạo

đức nghề nghiệp. Để nhanh chóng tạo ra những thay đổi mang tính bước ngoặt
trong đội ngũ giảng viên lý luận chính trị, về cơ chế, chính sách, hết sức lưu ý sửa
đổi, hoàn thiện những cơ chế chính sách bao gồm: Cơ chế, chính sách tuyển dụng,

14


bố trí, sử dụng;cơ chế chính sách đối với việc học tập nâng cao trình độ; cơ chế,
chính sách khuyến khích nghiên cứu khoa học; cơ chế chính sách khuyến khích đổi
mới phương pháp giảng dạy.
- Đảng Cộng sản Việt Nam (2013); "Quan điểm của Đảng về giáo dục và
đào tạo trong thời kỳ đổi mới và hội nhập", NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. Kết
luận Hội nghị lần thứ sáu khóa XI về Đề án "Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế" đã đề cập đến những
điểm hạn chế, yếu kém trong trong xây dựng đội ngũ giáo viên của sự nghiệp
GD&ĐT trong thời gian qua đó là: Công tác quy hoạch phát triển đội ngũ nhà giáo
và cán bộ quản lý giáo dục chưa được quan tâm. Chất lượng đào tạo của các trường
sư phạm còn hạn chế, đào tạo giáo viên chưa gắn với nhu cầu của địa phương. Đầu
tư cho giáo dục còn mang tính bình quân; cơ sở vật chất kỹ thuật của các cơ sở giáo
dục còn thiếu và lạc hậu. Quỹ đất dành cho phát triển giáo dục còn thiếu. Chế độ,
chính sách đối với nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục chưa thỏa đáng.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, Đảng xác định đối với
GD&ĐT đó là: Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ
hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội
ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt. Thực hiện kiểm định chất lượng
GD&ĐT ở tất cả các bậc học. Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kết hợp
chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội.
- Trần Thị Lan Anh (2014), "Chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo

dục đại học ở Việt Nam hiện nay", Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh.
Thực trạng chất lượng lao động của đội ngũ trí thức hiện nay tác giả nêu lên
một số vấn đề biểu hiện ở kết quả đào tạo nguồn nhân lực đó là: Hầu hết các lĩnh vực
còn thiếu lao động kỹ thuật lành nghề, thiếu chuyên gia, doanh nhân, nhà quản lý giỏi,

15


nhân lực khoa học công nghệ trình độ cao, các nhà khoa học đầu đàn, đầu ngành; tác
phong công nghiệp, thể lực và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của nguồn nhân lực
được đào tạo chưa đáp ứng tốt nhu cầu của người sử dụng lao động; khả năng sáng
tạo, khả năng thích ứng, hội nhập của nguồn nhân lực được đào tạo đại học ở nước ta
chưa cao. Từ đó, tác giả xác định một số vấn đề cần đặt ra và những giải pháp nâng
cao chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay.
1.3. Nhóm công trình nghiên cứu trong nƣớc về chính sách xã hội trong
Quân đội và chính sách xã hội đối với đội ngũ giảng viên trong các nhà trƣờng
Quân đội nhân dân Việt Nam
- Tổng cục Chính trị - Bộ Quốc phòng (1997), "Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện
chính sách đãi ngộ đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng trong
tình hình mới", đề tài KXB-96, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội. Nhóm nghiên cứu
đề tài đưa ra khái niệm của chính sách đãi ngộ đối với quân đội và hậu phương quân
đội là một bộ phận quan trọng của CSXH, thuộc hệ thống chính sách chung của
Đảng và Nhà nước; đó là hệ thống quan điểm, thái độ, trách nhiệm của Đảng, Nhà
nước và nhân dân ta được pháp luật hóa bằng các chế độ, quy định và phong trào
bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần đối với người lính và hậu phương gia đình của
họ nhằm phát huy nhân tố con người trong hoạt động quân sự tạo động lực trực tiếp
đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng. Nội dung của chính
sách đãi ngộ là phạm vi rộng lớn bao gồm, chính sách, chế độ bảo đảm về ăn, mặc,
ở; chính sách về chế độ tiền lương, phụ cấp; các chế độ khuyến khích đặc thù; chính

sách, chế độ mang tính bảo hiểm xã hội, bảo đảm sức khỏe, bảo hiểm y tế; chế độ
với thương bệnh binh...
- Nguyễn Văn Tốn (2002) "Nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục nghề
nghiệp trong các trường đào tạo cán bộ chuyên môn kỹ thuật hiện nay". Đề tài
KX-03. Nhóm đề tài đã đưa ra nhiều giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả
giáo dục nghề nghiệp trong các trường đào tạo cán bộ chuyên môn kỹ thuật hiện
nay, trong đó có giải pháp Đổi mới chính sách sử dụng, đãi ngộ và tạo điều kiện bồi

16


dưỡng phát triển năng lực nghề nghiệp để người cán bộ chuyên môn kỹ thuật yên
tâm phát triển suốt đời trong quân đội. Để có chính sách đãi ngộ thỏa đáng đối với
đội ngũ cán bộ chuyên môn kỹ thuật làm cho họ yên tâm với nghề nghiệp mình đã
lựa chọn, yêu cầu CSXH đối với họ phải đạt được những vấn đề: Độc lập với các
tiêu chí của lĩnh vực chỉ huy, quản lý; căn cứ vào hiệu quả công tác và trình độ
chuyên môn; khuyến khích thâm niên công tác; khuyến khích chuyên môn sâu, kích
thích các thành quả lao động sáng tạo.
- Trần Danh Bích (2002), "Xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới", Đề tài KXB 96-09. Nhóm thực hiện đề tài đưa
ra nhiều nhóm giải pháp nhằm xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, sĩ
quan trong QĐNDVN hiện nay, trong đó có nhóm giải pháp: Tiếp tục sửa đổi, bổ
sung và hoàn thiện hệ thống chính sách đối với cán bộ và gia đình cán bộ trong
quân đội. Trong giải pháp này nhóm tác giả cho rằng: Công tác chính sách đối với
cán bộ không chỉ dừng lại ở chính sách đãi ngộ, mà cần phải đổi mới tư duy, đi sâu
vào nhiều mặt, nhiều mối quan hệ khác, vừa phải đảm bảo tính công bằng cho
những người hoạt động binh nghiệp, vừa nâng cao vị thế xã hội của người sĩ quan.
Có như vậy, chính sách mới phát huy được hiệu quả tích cực, góp phần nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ, động viên cán bộ tu dưỡng, rèn luyện, yên tâm gắn bó
với quân đội, thu hút được người tài năng vào quân đội.

- Đặng Đức Thắng chủ biên (2003), "Nâng cao chất lượng đào tạo đội
ngũ giáo viên khoa học xã hội và nhân văn trong quân đội giai đoạn hiện nay",
NXB Quân đội nhân dân. Đề tài của nhóm các nhà khoa học ở Học viện Chính trị
nghiên cứu, đã nêu quan điểm, nhiệm vụ đào tạo đội ngũ giảng viên khoa học xã
hội nhân văn quân sự theo quan điểm của Đảng, Bộ Quốc phòng. Đề tài quán triệt
tinh thần chỉ thị ngày 22/4/2003 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về một số nhiệm vụ
cấp bách kiện toàn và phát triển nhà giáo quân đội đến năm 2010, đó là:
1. Kiện toàn tổ chức biên chế nhà giáo và hoàn thiện tiêu chuẩn chức danh
nhà giáo.

17


2. Các cấp quản lý trường phải đảm bảo đủ số lượng nhà giáo theo biên chế.
3. Thực hiện chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo đến năm 2010 có 100% nhà giáo
đạt chuẩn quốc gia theo quy định của Bộ Quốc phòng.
4. Hoàn thiện chế độ, chính sách đối với nhà giáo quân đội.
5. Nâng cao hiệu lực quản lý đối với đội ngũ nhà giáo quân đội.
6. Khẩn trương kiện toàn thành lập các khoa sư phạm quân sự.
Đây là những định hướng, những yêu cầu cơ bản cho việc xây dựng, kiện
toàn đội ngũ nhà giáo quân đội trong điều kiện bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới.
Trần Văn Minh (2004), "Tiếp tục đổi mới công tác chính sách trong quân
đội nhân dân dân Việt Nam hiện nay", Luận án tiến sĩ Khoa học chính trị, Học viện
Chính trị Quân sự, Hà Nội. Tác giả đã nêu quan điểm về chính sách và CSXH, theo
đó: CSXH là sự thể chế hóa, cụ thể hóa đường lối, chủ trương giải quyết các vấn đề
xã hội của Đảng, phù hợp với bản chất của chế độ chính trị- xã hội, nhằm tác động
trực tiếp vào con người và điều chỉnh các mối quan hệ lợi ích giữa con người với
con người, giữa con người với xã hội, hướng tới mục đích cao nhất là thỏa mãn
những nhu cầu ngày càng tăng về đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Đề cập tới vai trò của công tác chính sách trong quân đội, tác giả cho rằng,

mục đích của công tác chính sách là thực hiện chiến lược con người, xây dựng và
phát huy nhân tố con người trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay;
công tác chính sách đúng đắn góp phần thúc đẩy cán bộ chiến sĩ trong đơn vị thực
hiện tốt nhiệm vụ, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Về biện pháp đổi mới
công tác chính sách trong quân đội hiện nay, tác giả nêu lên bốn nhóm giải pháp cơ
bản đó là: một là, đổi mới về nhận thức của các cấp, các ngành, các lực lượng về vai
trò của công tác chính sách; hai là, đổi mới nâng cao chất lượng nghiên cứu, lập kế
hoạch và tổ chức thực hiện có hiệu quả công tác chính sách; ba là, xây dựng đội
ngũ cán bộ chính sách, cơ quan chính sách vững mạnh toàn diện, đáp ứng khả năng
tham mưu, đề xuất cho thủ trưởng cơ quan, đơn vị mình thực hiện tốt công tác chính
sách trong quân đội; bốn là, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra quá trình thực
hiện chính sách và đổi mới công tác chính sách ở các đơn vị trong toàn quân.

18


- Tổng cục Chính trị - Bộ Quốc phòng (2007), "Công tác chính sách trong
Quân đội nhân dân Việt Nam" NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội. Đề cập đến quá
trình đổi mới công tác chính sách trong quân đội thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, đề tài cho rằng: nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây
dựng quân đội, củng cố quốc phòng trong tình hình mới, các chế độ, CSXH đối với
quân đội, hậu phương quân đội cần tiếp tục được thể chế hóa toàn diện theo chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đó là: thứ nhất, đổi mới công tác đề xuất
và thực hiện các chế độ chính sách, bao gồm thực hiện cải cách chính sách tiền
lương, phụ cấp, trợ cấp đối với các đối tượng phục vụ trong quân đội theo tiến trình
cải cách tiền lương của Đảng và Nhà nước; điều chỉnh mức lương hưu và mức trợ
cấp đối với các đối tượng hưởng CSXH; chính sách đào tạo, bồi dưỡng sử dụng đội
ngũ cán bộ; thứ hai, đổi mới chính sách và cơ chế quản lý tổ chức thực hiện bảo
hiểm xã hội trong quân đội; thứ ba, đổi mới toàn diện và đồng bộ công tác khen
thưởng trong quân đội với phương châm: lấy thành tích và giá trị của thành tích đạt

được của tập thể và cá nhân làm căn cứ chủ yếu để xét khen; thứ tư, tiếp tục giải
quyết có hiệu quả những tồn đọng về chính sách sau các cuộc chiến tranh; thứ năm,
đẩy mạnh thực hiện chính sách người có công với cách mạng và phong trào "đền ơn
đáp nghĩa" trong quân đội; thứ sáu, tăng cường công tác chính sách hậu phương
quân đội đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội trong tình hình mới; thứ bảy, tiếp tục
củng cố cơ quan, xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác chính sách trong quân đội,
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ đổi mới.
- Nguyễn Văn Tháp (2009), "Xây dựng đội ngũ giảng viên khoa học xã hội,
nhân văn trong các trường đào tạo sĩ quan quân đội", NXB Chính trị quốc gia. Tác
giả nêu lên thực trạng xây dựng đội ngũ giảng viên khoa học nhân văn trong các
nhà trường quân đội hiện nay còn nhiều bất cập, trong đó: chính sách đãi ngộ chưa
phát huy hết khả năng của đội ngũ giảng viên khoa học xã hội nhân văn trong
nghiên cứu, giảng dạy. Chính sách đãi ngộ đối với các nhà giáo nhân dân, nhà giáo
ưu tú, các giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ; chính sách thu hút người giỏi vào trong quân
đội và chế độ đãi ngộ khác chưa đồng bộ, chưa thống nhất và chưa thật hợp lý.

19


Để khắc phục những khiếm khuyết trên, cần phải thực hiện tốt chính sách
đối với đội ngũ giảng viên khoa học xã hội nhân văn quân sự bao gồm: các chính
sách về đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt, bổ nhiệm, chế độ nghỉ phép, chế độ lương, phụ
cấp trách nhiệm, chế độ bảo hiểm, khám chữa bệnh, an dưỡng, bồi dưỡng, phục hồi
sức khỏe cán bộ, chính sách thương, bệnh binh, chính sách khen thưởng, chính sách
nhà ở, đất ở, chính sách đối với thân nhân sĩ quan, chính sách chuyển ra, chuyển
ngành, nghỉ hưu cũng như các chế độ bảo đảm điều kiện vật chất, văn hóa tinh thần
của sĩ quan, cán bộ trong công tác, học tập, nghiên cứu và sinh hoạt tại đơn vị.
- Tổng cục Chính trị (2013), sách chuyên khảo "Xây dựng đội ngũ trí thức
quân đội trong thời kỳ mới", NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội. Nhóm tác giả đưa ra
một số bất cập trong xây dựng đội ngũ trí thức trong quân đội trong đó có đội ngũ

giảng viên đó là: Việc xây dựng đội ngũ trí thức trong quân đội trong thời gian vừa
qua đã đạt được những thành tựu đáng kể, tuy nhiên, vẫn còn một số điểm hạn chế,
bất cập là: nhận thức của các chủ thể về vai trò, tầm quan trọng và yêu cầu xây dựng
đội ngũ trí thức quân đội; thực hiện quy trình xây dựng đội ngũ trí thức, thiếu chủ
trương, biện pháp xây dựng phù hợp, hiệu quả, sử dụng đãi ngộ chưa tương xứng
với vai trò và đóng góp của trí thức quân đội; số lượng, cơ cấu đội ngũ còn nhiều
bất cập, chất lượng còn hạn chế so với yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng quân đội và bảo
vệ Tổ quốc.
Từ thành tựu, hạn chế và nguyên nhân, nhóm tác giả đưa ra một số giải
pháp về xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý, đánh giá, sử dụng, đãi
ngộ nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ trí thức quân sự trong tình hình mới, đó là:
tiếp tục đổi mới công tác cán bộ của Đảng, của quân đội trong xây dựng đội ngũ trí
thức quân đội; hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và xây dựng cơ chế
khuyến khích trí thức quân đội tham gia có hiệu quả các hoạt động tư vấn, phản
biện và giám định; đổi mới cơ chế quản lý, nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý
đội ngũ trí thức quân đội trong thời kỳ mới; đổi mới cơ chế, chính sách đánh giá, sử
dụng đội ngũ trí thức; đổi mới, bổ sung, hoàn thiện hệ thống chế độ, chính sách đãi
ngộ đối với đội ngũ trí thức quân đội.

20


- Tổng cục Chính trị (2013), "Xây dựng đội ngũ cán bộ đầu ngành khoa học
xã hội nhân văn trong quân đội thời kỳ mới", NXB Quân đội nhân dân, do Đại
tá, TS. Nguyễn Văn Quang chủ biên. Nhóm tác giả đưa ra những hạn chế trong xây
dựng đội ngũ cán bộ khoa học xã hội nhân văn đó là: Công tác tổ chức, quy hoạch,
quản lý, đánh giá và sử dụng trí thức, cán bộ đầu ngành còn nhiều yếu kém; các chủ
trương, chính sách còn chắp vá, thiếu hệ thống, đồng bộ và hiệu quả làm nảy sinh
nhiều khó khăn mới trong xây dựng đội ngũ cán bộ đầu ngành; môi trường GD&ĐT
và nghiên cứu khoa học còn thiếu dân chủ, tự do tư tưởng, tự do sáng tạo; chưa có

chính sách thích hợp, đủ mạnh để giữ người tài giỏi và thu hút cán bộ ngoài quân
đội cùng phối hợp nghiên cứu, giảng dạy khoa học xã hội và nhân văn, phát triển tư
duy, trình độ lý luận, chính trị trong quân đội. Những yếu kém trên do nhiều nguyên
nhân, nhưng có một nguyên nhân quan trọng đó là: cơ chế, chính sách, quy trình, điều
kiện bảo đảm cho hoạt động khoa học xã hội và nhân văn còn nhiều bất cập, chưa
phù hợp với tính chất đặc thù lao động đặc biệt - khoa học chuyên sâu, trí tuệ và
sáng tạo của đội ngũ cán bộ đầu ngành.
1.4. Đánh giá các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
Có thể nói, một khối lượng tri thức phong phú với nhiều công trình nghiên
cứu công phu về đội ngũ giảng viên trong các trường đại học, nói chung và đội ngũ
giảng viên trong các nhà trường QĐNDVN nói riêng, cho thấy sức hấp dẫn và tính
đặc biệt quan trọng của vấn đề này trong đổi mới GD&ĐT và chấn hưng nền giáo
dục nước nhà. Giá trị khoa học của một khối lượng lớn những tài liệu, công trình
nghiên cứu lý luận và thực tiễn về trí thức và đội ngũ giảng viên trong các trường
đại học đã tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả luận án nghiên cứu CSXH đối với đội
ngũ giảng viên trong các nhà trường QĐNDVN hiện nay.
Từ tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến luận án, xin đưa ra
những đánh giá khái quát như sau:
Vấn đề thứ nhất, các công trình nghiên cứu về CSXH đã cho tác giả một
cách nhìn tổng quan, hệ thống về CSXH ở nước ta hiện nay. Quan niệm về CSXH

21


mặc dù có nhiều ý kiến khác nhau nhưng các tác giả đều đồng nhất đã là CSXH
thì phải có các đặc trưng là: Đây là hệ thống chính sách thể hiện quan điểm của
giai cấp thống trị đối với các vấn đề xã hội, an sinh xã hội, công bằng xã hội, được
ban hành thông qua nhà nước; đó là một tập hợp lớn, một hệ thống các chính sách
giải quyết các vấn đề xã hội trong phát triển, liên quan trực tiếp tới đời sống của
con người như lao động và việc làm, mức sống và tình trạng đói nghèo, dân số,

sức khỏe và y tế cộng đồng, nhà ở, giáo dục, vệ sinh môi trường, an toàn giao
thông, văn hóa tinh thần...
Các công trình nêu trên đã nêu đầy đủ những luận điểm về CSXH, vai trò của
nó đối với đời sống người lao động, duy trì sự ổn định xã hội, đảm bảo xã hội tiến tới
dân chủ, công bằng, văn minh. Hiện nay, Đảng và Nhà nước chủ trương đổi mới giáo
dục và đào tạo một cách toàn diện, triệt để nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
cho đất nước trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập và xây dựng nền
kinh tế tri thức. Ngoài việc đổi mới nội dung chương trình, phương pháp, tác phong
người thầy thì việc đổi mới CSXH đối với đội ngũ nhà giáo, đặc biệt là đội ngũ giảng
viên trong nhà trường quân đội có vai trò quan trọng. Trong luận án của mình, tác
giả đã kế thừa những vấn đề lý luận có tính hệ thống về CSXH nói chung của các
công trình có liên quan và phát triển một số vấn đề mang tính lý luận về CSXH và
đổi mới CSXH đối với đội ngũ giảng viên trong các nhà trường QĐNDVN hiện nay.
Vấn đề thứ hai, nghiên cứu về đội ngũ trí thức nói chung và đội ngũ giảng
viên trong các trường đại học của cả nước nói riêng, các công trình đã nêu được
quan niệm và tính đặc thù trong lao động của giảng viên bậc đại học là lao động trí
óc vừa mang tính truyền thụ tri thức vừa mang tính sáng tạo, là lao động đặc biệt có
sự hao tổn lớn về trí lực, cần phải có một hệ thống chính sách đãi ngộ thỏa đáng,
tương xứng với lao động của họ. Do vậy, đổi mới CSXH đối với họ là cần phải tạo
lập ra những cơ chế: Một là, cơ chế chính sách tuyển dụng, bố trí, sử dụng; hai là,
cơ chế chính sách đối với việc học tập nâng cao trình độ; ba là, cơ chế, chính sách
khuyến khích nghiên cứu khoa học; bốn là, cơ chế chính sách khuyến khích đổi mới

22


×