Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Tư tưởng pháp trị của hàn phi tử và việc vận dụng tư tưởng pháp trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (741.75 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
Phần I: Mở đầu ............................................................................................................1
Phần II: Nội dung ........................................................................................................2
1. Tác giả Hàn Phi Tử và hoàn cảnh ra đời của tư tưởng Học thuyết Pháp trị ...........2
1.1 Tác giả Hàn Phi Tử .........................................................................................2
1.2 Hoàn cảnh ra đời của học thuyết pháp trị .......................................................2
2. Nội dung tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử ...........................................................3
2.1 Các tư tưởng chủ đạo của học thuyết pháp trị của Hàn Phi Tử ......................3
2.1.1 Tư tưởng về bản chất con người trong xã hội .........................................3
2.1.2 Tư tưởng về quan hệ giữa người cai trị và kẻ bị trị ................................4
2.1.3 Tư tưởng về những yếu tố chính trong quản lý xã hội ............................4
2.2 Đánh giá ưu điểm và nhược điểm của tư tưởng pháp trị ................................7
2.2.1 Một số ưu điểm của tư tưởng Pháp trị.....................................................7
2.2.2 Hạn chế của học thuyết pháp trị ..............................................................8
3. Việc vận dụng Học thuyết pháp trị trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam .................................................................................................9
3.1 Khái quát chung về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ........9
3.1.1 Khái niệm Nhà nước pháp quyền ............................................................9
3.1.2 Một số nguyên tắc đặc trưng trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam ...................................................................................9
3.2 Vận dụng Học thuyết pháp trị trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam ...............................................................................................10
3.2.1 Khai thác giá trị tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử nhằm góp phần xây
dựng và hồn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trên cả
ba mặt: lập pháp, hành pháp, tư pháp .............................................................10
3.2.2 Áp dụng tư tưởng của Hàn Phi Tử về trị nước bằng pháp luật trở thành
một tất yếu khách quan, xu thế phát triển của xã hội hiện đại .......................12
3.2.3 Vận dụng tư tưởng pháp trị về nguyên tắc thượng tôn pháp luật, khơng
ai nằm ngồi phạm vi tác động của pháp luật ................................................13
3.2.4 Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực .............13
3.2.5 Đấu tranh chống tham nhũng, nạn quan liêu trong bộ máy quản lý nhà


nước, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa .................................................14
Phần III: Kết luận ......................................................................................................15


1
Phần I: Mở đầu
Trong lịch sử phát triển xã hội loài người, Trung Hoa cổ đại là một trong
những cái nôi của văn minh nhân loại, là một trong những nền văn hóa lâu đời nhất
và phức tạp nhất trên thế giới với nhiều giai đoạn biến đổi thăng trầm.
Thời Xuân Thu (từ khoảng năm 770 đến năm 475 trước Công nguyên) Chiến Quốc (từ năm 475 đến năm 221 trước Công nguyên) là thời kỳ lịch sử đầy
biến động của Trung Hoa cổ đại. Phân công lao động và chun mơn hóa sản xuất
ngày càng cao dẫn đến sự phát triển của lực lượng sản xuất và nền kinh tế nông
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đã làm thay đổi kết cấu và địa vị kinh tế của các giai
tầng trong xã hội. Thời Xuân Thu, mệnh lệnh của Thiên tử nhà Chu khơng cịn
được tn thủ, trật tự lễ nghĩa, kỷ cương xã hội bị đảo lộn, đạo đức suy đồi. Các lực
lượng cát cứ nổi lên tranh giành đất đai và quyền cai trị đã đẩy xã hội Trung Hoa cổ
đại vào tình trạng chiến tranh khốc liệt liên miên. Sự biến chuyển sơi động đó của
thời đại làm xuất hiện những tụ điểm, những trung tâm là nơi các kẻ sĩ tụ tập để
tranh luận về trật tự xã hội cũ và đề ra những hình mẫu của một xã hội tương lai.
Lịch sử gọi thời kỳ này là thời kỳ "Bách gia chư tử", "Bách gia tranh minh". Chính
trong q trình ấy đã sản sinh các tư tưởng lớn và hình thành nên các trường phái
triết học khá hoàn chỉnh. Đây là thời kỳ triết học Trung Hoa phát triển rực rỡ, hình
thành nhiều tư tưởng lớn khởi nguồn của các tư tưởng ở thời kỳ sau, trong đó có
học thuyết Pháp trị của Hàn Phi Tử. Trong suốt chiều dài lịch sử Trung Hoa cổ đại,
học thuyết pháp quyền Hàn Phi Tử sáng lập đã không ngừng phát triển, bổ sung để
trở thành học thuyết quản lý chủ yếu của nhà nước phong kiến Trung Quốc.
Ra đời cách đây trên hai nghìn năm, học thuyết pháp trị được xây dựng và
hoàn thiện dựa trên những tiền đề lý luận và thực tiễn, mang nhiều giá trị tư tưởng
có ảnh hưởng rất lớn trong lịch sử Trung Quốc cũng như các nước phong kiến
phương Đông, trong đó có Việt Nam.

Qua q trình học tập và nghiên cứu học phần “Lịch sử các học thuyết quản
lý”, nhận thấy những giá trị to lớn trong tư tưởng chính trị của tác giả Hàn Phi Tử
và sự phù hợp vận dụng hệ tư tưởng pháp trị trong công cuộc xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, xin lựa chọn đề tài “Tư tưởng
pháp trị của Hàn Phi Tử và việc vận dụng tư tưởng pháp trị trong xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” làm bài tiểu luật kết thúc học phần.


2
Phần II: Nội dung
1. Khái quát về tác giả Hàn Phi Tử và hoàn cảnh ra đời của tư tưởng Học
thuyết Pháp trị
1.1 Tác giả Hàn Phi Tử
Hàn Phi (khoảng 280 – 233 TCN) sống cuối đời Chiến Quốc, trong giai đoạn
Tần Thủy Hoàng đang thống nhất Trung Hoa. Hàn Phi là một công tử nước Hàn,
học rộng, biết cả đạo Nho (vì là mơn đệ của Tn Tử), đạo Lão, nhưng thích nhất
học thuyết của các Pháp gia, có nhiều tư tưởng mới về chính trị. Mặc dù là mơn đệ
của Tn Tử nhưng Hàn Phi có tư tưởng khác với thầy. Tn Tử trọng giáo hóa lễ
nghĩa, cịn Hàn Phi trọng pháp chế và quyền thuật. Ông từng nói “ngơ ái ngơ sư ngơ
bưu ái chân lý” (ta mến thầy nhưng ta càng chuộng chân lý hơn”.
Ông ở trong giai cấp q tộc nhưng có tinh thần tiến bộ, có tinh thần ái quốc
cao, trọng kẻ sĩ giỏi pháp thuật (tức bọn tân địa chủ), chê bọn “trọng nhân” (q tộc)
là cổ hủ, vơ dụng. Ơng xây dựng và phát triển một hệ thống lý luận pháp trị tương
đối hoàn chỉnh và tiến bộ so với đương thời. Coi pháp luật là công cụ hữu hiệu để
đem lại hồ bình, ổn định và cơng bằng, Hàn Phi đã đề xuất tư tưởng dùng luật pháp
để trị nước. Ông đưa ra một số nguyên tắc cơ bản trong xây dựng và thực thi pháp
luật, như pháp luật phải nghiêm minh, khơng phân biệt sang hèn, mọi người đều
bình đẳng trước pháp luật... Với những tư tưởng đó, học thuyết của Hàn Phi được
người xưa gọi là “học thuyết của đế vương”. Trong tác phẩm kinh điển là bộ sách
Hàn Phi Tử đã trình bày một hệ thống tư tưởng Pháp trị rất hoàn chỉnh của Hàn Phi

với rất nhiều giá trị triết lý nhân sinh quan của tác giả mà đến ngày nay vẫn cịn giá
trị to lớn.
1.2 Hồn cảnh ra đời của học thuyết pháp trị
Cuối thời Xuân thu sang đầu Chiến quốc, xã hội Trung Quốc lâm vào cuộc
khủng hoảng ngày càng trầm trọng: nền chính trị Thiên Tử của nhà Chu suy vong,
các chư hầu cùng nổi lên tranh giành bá chủ. Trung Quốc bước vào thời kỳ loạn lạc
chưa từng thấy. Những biến động lớn của xã hội là tiền đề tích cực cho ra đời hàng
loạt các học thuyết tư tưởng quản lý thời bấy giờ. Lịch sử Trung Quốc đã từng kiểm
nghiệm vai trị các học thuyết điển hình lúc đó như thuyết Đức trị của Khổng Tử,
thuyết Vô vi của Lão tử, thuyết Kiêm ái của Mặc Tử nhưng chúng đều không đáp
ứng được yêu cầu thời cuộc. Đúng lúc tưởng như bế tắc đó, học thuyết pháp trị đã
xuất hiện trên vũ đài lịch sử với tư cách là đường lối chiến lược chính trị lấy pháp
luật làm cơng cụ chủ yếu, nhanh chóng trở thành ngọn cờ tư tưởng góp phần đưa sự
nghiệp thống nhất của nhà Tần đi đến thắng lợi, thúc đẩy sự chuyển biến xã hội
Trung Quốc từ phong kiến sơ kỳ sang quân chủ chuyên chế, đánh dấu một mốc
quan trọng trong lịch sử Trung Quốc. Học thuyết pháp trị của Hàn Phi Tử được hình
thành trên cơ sở thống nhất của ba học phái: Pháp của Thương Ưởng (?- 338), Thế
của Thận Đáo (-370-290) và Thuật của Thân Bất Hại (-401-337). Học thuyết đã
phát triển rực rỡ ở thời kỳ tiền Tần và tuy không được bổ sung phát triển liên tục


3
trong lịch sử như các học thuyết khác, song hôm nay dưới góc độ của khoa học
pháp lý hiện đại để tìm hiểu về học thuyết này chúng ta vẫn thấy tốt lên những giá
trị tư tưởng bổ ích.
2. Nội dung tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử
2.1 Các tư tưởng chủ đạo của học thuyết pháp trị của Hàn Phi Tử
Tư tưởng chính trị của Hàn Phi hình thành từ quan niệm hết sức sâu sắc về
thực tiễn. Hàn Phi cho rằng, mọi suy nghĩ, mọi hành động, mọi lý luận phải đều
được bắt nguồn từ chính thực tiễn của đất nước.

Hàn Phi cho rằng cách tốt nhất để quản lý xã hội là dùng pháp luật: “Pháp
luật là chuẩn mực cho sự thưởng phạt “dùng pháp luật để trị nước là để khen ngợi
người đúng, người phải, trách đúng người quấy thôi. Pháp luật không thể a dua
người sang cũng như dây mực uốn theo gỗ cong” Theo ông, để dựng nước và giữ
nước, bậc làm vua phải biết sử dụng thứ công cụ vạn năng là pháp luật. Học thuyết
pháp trị của Hàn Phi là hệ tư tưởng phản ánh nhiều vấn đề thực tiễn, phản ánh thực
chất tình hình xã hội lúc bấy giờ.
2.1.1 Tư tưởng về bản chất con người trong xã hội
Giống như Tuân Tử, Hàn Phi Tử quan niệm rằng con người là ác, tự tư, tự lợi
và luôn tranh giành quyền lợi lẫn nhau. Hàn Phi đã đi thẳng vào khía cạnh lợi ích cá
nhân - chủ yếu là lợi ích về mặt vật chất, để khẳng định cơ sở sự tồn tại của con
người và bản tính vốn hám lợi, sợ hại của mọi cá thể. Sự tranh giành quyền lợi cá
nhân tất sẽ dẫn đến tình trạng loạn lạc trong xã hội. Hàn Phi đã giải thích mâu thuẫn
xã hội bắt đầu từ lợi ích kinh tế trên cơ sở phân tích sự biến đổi của điều kiện dân
số, tình trạng dân cư, trình độ của cơng cụ lao động… Ông đã chỉ ra gốc rễ của vấn
đề - cái gốc rễ mà nhiều người đương thời đã che đậy, không dám thẳng thắn thừa
nhận. Đồng thời, Hàn Phi còn nhận ra tác dụng hai chiều của yếu tố kinh tế đối với
con người đó là cái lợi là yếu tố căn bản thúc đẩy con người hành động, tranh giành
của cải và là nguyên nhân gây ra mâu thuẫn, nhưng mặt khác, nó cũng là yếu tố liên
kết con người với nhau. Theo đó, hành động vì cái lợi là lẽ bình thường, vấn đề là
cần đặt cái lợi riêng trong cái lợi chung, khơng vì cái lợi riêng mà đi ngược lại cái
lợi chung. Đây là tư tưởng biện chứng khá sâu sắc của Hàn Phi. Ông đã đánh giá xã
hội đương thời và phê phán chế độ quân chủ một cách sắc bén và thẳng thắn. Khi
cho rằng giáo dục, thuyết phục không thể là phương tiện thay đổi tính ác của con
người thành tính thiện được, mà phải lấy cái ác để chế ngự cái ác Hàn Phi Tử cũng
đồng thời khẳng định rằng công cụ quản lý xã hội duy nhất là pháp luật. Và pháp
luật quản lý chủ yếu là cưỡng chế và thưởng, phạt nghiêm minh. Hàn Phi Tử đẩy
mạnh quan điểm con người tư lợi tới mức cực đoan, thậm chí mở rộng yếu tố vụ lợi
của con người trong cả quan hệ gia đình. Hàn Phi Tử nói: “Cha mẹ sinh con trai thì
mừng, sinh con gái thì giết. Người ta muốn sinh con trai vì nghĩ đến điều lợi về lâu

về dài sau này.”


4
Nhìn chung, những nội dung về vấn đề con người trong triết thuyết của ông
khá tàn nhẫn. Quan điểm của Hàn Phi về con người còn nhiều hạn chế chỉ thấy khía
cạnh vụ lợi của con người mà khơng thấy con người cịn có rất nhiều lý tưởng cao
đẹp để phấn đấu và hy sinh. Đồng thời, ở một khía cạnh nhất định, mục tiêu xây
dựng lý luận của ông là nhằm tạo ra một công cụ phục vụ cho nhà vua củng cố địa
vị và quyền lực độc tôn của mình. Cho nên, con người trong học thuyết của ông
luôn ở địa vị thấp hèn và bị phụ thuộc. Sự bình đẳng của con người trước pháp luật
là sự bình đẳng về thân phận người nơ lệ dưới ngai vàng của nhà vua.
2.1.2 Tư tưởng về quan hệ giữa người cai trị và kẻ bị trị
Hàn Phi Tử quan điểm coi trọng nhà cầm quyền. Nhưng vai trò của vua theo
ông “ Cái làm cho đất nước trị hay loạn khơng phải là ơng vua của nước đó ra sao,
mà là nền pháp trị của nước đó như thế nào”. Hàn Phi coi trọng quyền lực của nhà
lãnh đạo khi cho rằng người cai trị có thể thực hiện ý muốn của mình đối với kẻ bị
trị bất chấp sự chống đối. Hàn Phi cho rằng, chỉ khi nào nắm quyền thống trị trong
tay, thì một người nào đấy mới là kẻ thống trị, mới có thể cai trị dân chúng. Ông đã
đề xuất tư tưởng “trị nước bằng luật pháp” (dĩ pháp trị quốc), chủ trương “luật pháp
không phân biệt sang hèn” (pháp bất a quý), “hình phạt khơng kiêng dè bậc đại
thần, tưởng thưởng khơng bỏ sót kẻ thất phu” (hình quá bất tị đại thần, thưởng thiện
bất di tứ phu) để thể hiện sự bình đẳng trước pháp luật của bất kỳ ai, kể cả bậc quân
chủ và kẻ bị cai trị đều cùng trong khuôn khổ pháp luật, đều phải tôn trọng và tuân
thủ pháp luật.
Trong đánh giá năng lực người quản lý, Hàn Phi nêu ba mức: Bậc vua thấp
kém dùng hết khả năng mình, bậc vua trung bình dùng hết sức của người, của nhân
dân, bậc vua cao hơn dùng hết trí của người, lúc đó vua như là thần. “Bậc thánh
nhân hiểu rõ cái thực tế của việc phải và trái, xét rõ thực chất của việc trị và loạn,
cho nên trị nước thì nêu rõ pháp luật đúng đắn, bày ra hình phạt nghiêm khắc để

chữa cái loạn của dân chúng, trừ bỏ cái họa trong thiên hạ.
Bên cạnh những tư tưởng tiến bộ về quan hệ giai cấp, tư tưởng của Hàn Phi
về hệ thống quyền lực chính trị chính là mơ hình quản lý pháp trị cứng nhắc theo
một trật tự quyền lực từ cao nhất đến thấp nhất trong bậc thang quyền lực.
2.1.3 Tư tưởng về những yếu tố chính trong quản lý xã hội
Hàn Phi Tử hết sức coi trọng tác dụng của pháp luật và chủ trương xây dựng
một lý luận pháp trị hoàn chỉnh, trong đó lấy “pháp” làm hạt nhân, kết hợp chặt chẽ
“pháp”, “thuật” với “thế”.
Một là, tư tưởng về “Trọng pháp”: Trong tư tưởng Trung Quốc cổ đại,
“Pháp” là phạm trù chính trị – xã hội được hiểu theo hai nghĩa. Theo nghĩa rộng,
“Pháp” là thể chế quốc gia, là chế độ chính trị – xã hội của đất nước; theo nghĩa
hẹp, “Pháp” là những điều luật, luật lệ, những quy định mang tính ngun tắc và
khn mẫu. Các nhà tư tưởng của phái Pháp gia dùng chữ “Pháp” theo cả hai nghĩa


5
rộng và hẹp. Trong tư tưởng pháp gia, “Pháp” có thể xem xét ở hai khía cạnh là
“thưởng” và “phạt”.
Quan điểm của Hàn Phi Tử về lập pháp: Xuất phát từ quan niệm bản tính tự
nhiên của con người là ln có ham muốn mưu cầu cái lợi riêng, ln tự tư, tự lợi,
ông cho rằng pháp luật cũng phải dựa vào nhân tính này chứ khơng nên đi ngược
lại. Luật pháp đặt ra thì cái lợi của nó phải lớn hơn cái hại. Hàn Phi cũng chủ trương
lập pháp phải có tính phù hợp với thời thế khi cho rằng “Pháp luật thay đổi theo thời
thì trị; việc cai trị thích hợp theo thời thì có cơng lao... Thời thế thay đổi mà cách cai
trị khơng thay đổi thì sinh loạn... Cho nên, bậc thánh nhân trị dân thì pháp luật theo
thời mà thay đổi và sự ngăn cấm theo khả năng mà thay đổi”. Đây là nét nổi bật
trong tư tưởng pháp trị của Hàn Phi. Thừa nhận lập pháp phải linh hoạt, Hàn Phi Tử
cũng cho rằng vua không thể tùy tiện đặt luật pháp mà phải xây dựng luật pháp dựa
trên những nguyên tắc nhất định: pháp luật phải thành văn và được công bố rộng rãi
“là mệnh lệnh ban bố rõ ràng ở nơi cửa công”; pháp luật phải tường tận rõ ràng, hợp

thời nhưng phải thống nhất và ổn đinh, định ra phải dễ hiểu và dễ thi hành.
Đối với việc chấp pháp, Hàn Phi quản điểm: Việc thực thi pháp luật chỉ có
hiệu quả khi pháp luật được coi là quy tắc chuẩn mực của mọi hành động. Pháp lệnh
nghiêm minh để ngăn chặn tội lỗi và gạt bỏ tình riêng. Hình phạt nghiêm khắc để
quán triệt pháp lệnh trừng phạt kẻ dưới. Mọi chuyện ban thưởng, xử phạt đều phải
tuân theo pháp lệnh “tín thưởng tất phạt”. Pháp luật phải là chuẩn mực của xã hội,
quyết khơng thể vì quyền lực và trách nhiệm mà uốn cong pháp chế. Cho nên, theo
Hàn Phi, “để chỉnh đốn trật tự xã hội thì khơng có gì tốt bằng pháp chế”. Điều cần
nhấn mạnh là tinh thần bình đẳng của pháp luật, đến bản thân bậc quân chủ – nhà
vua – cũng phải tôn trọng và tuân thủ pháp luật “Kẻ làm vua chúa là kẻ phải giữ
pháp luật, căn cứ vào kết quả mà xét để lập công lao” và “Nếu nhà vua biết bỏ điều
riêng tư, làm theo phép cơng thì chẳng những dân sẽ được yên, mà nước cũng được
trị”. Nếu xét theo ý nghĩa của những luận điểm này thì có thể thấy rằng, mặc dù
Hàn Phi chủ trương quân quyền thần thánh khơng thể xâm phạm, song hình thái
qn quyền này vẫn bị chế ước bởi pháp quyền. Ông cũng chủ trương giáo dục giáo
dục pháp chế, tức là “dĩ pháp vi giáo” và sức mạnh đạo đức trong thực thi pháp luật.
Có thể nói rằng, tư tưởng tiến bộ này chính là tinh hoa của Pháp gia. Pháp
luật đề ra phải công bằng, phải thể hiện sự bênh vực kẻ yếu, số ít, có như thế trong
nước mới có trật tự. Theo Hàn Phi Tử cũng như các pháp gia khác, cơng bằng có
nghĩa là mọi người đều được đối xử bình đẳng trước pháp luật, khơng kể người đó
thuộc tầng lớp nào, đẳng cấp nào. Đây là tư tướng tiến bộ, khác hẳn với quan điểm
của các nhà tư tưởng thời Xuân Thu, Hàn Phi nhấn mạnh một nội dung quan trọng
trong thực thi pháp luật là “thưởng hậu, phạt nặng”.
Tư tưởng của Hàn Phi về vấn đề này đã thực sự vượt lên trên lập trường giai
cấp của giai cấp quý tộc và gần với những lý luận dân chủ hiện đại về pháp luật.
Tuy nhiên, do nhiều yếu tố, cả khách quan và chủ quan, trong tư tưởng của Hàn Phi,


6
thân phận con người trước pháp luật ở thế nhỏ bé, bị động, phụ thuộc với thân phận

tầng lớp bị trị chứ không phải là “công dân.
Hai là, tư tưởng về “Trọng thế”: Hàn Phi Tử cho rằng pháp luật là công cụ để
trị dân, ổn định xã hội, nhưng để mọi người tuân thủ theo pháp luật thì người cầm
đầu chính thể phải có “thế”. “Thế” cịn được gọi là “quyền thế”, “uy thế”, “thế
trọng”, nó chỉ một sức mạnh quyền uy tuyệt đối, cũng chính là quyền thống trị tối
cao của ông vua, bao gồm quyền sử dụng người, quyền thưởng phạt.
Hàn Phi Tử đặt địa vị, quyền lực lên trên tài đức. Ông cho rằng tài đức chỉ
cần ở mức trung bình nhưng có thế tức là có quyền lực, có chức vụ cụ thể là có thể
quản lý được. Để yên ổn trị nước, bậc quân chủ tất phải nắm giữ quyền thế. Hàn Phi
tin tưởng rằng chỉ có uy quyền mới có thể trị quốc vì thơng thường, bề tơi đối với
vua chúa khơng có quan hệ huyết thống mà chỉ do uy quyền của nhà vua mà bề tơi
phải phụng sự, bởi vì họ bị trói buộc bởi quyền thế mà khơng thể khơng làm việc.
Quyền lực phải tập trung tuyệt đối vào tay nhà vua, không được trao quyền cho bất
cứ ai, phải dùng pháp luật để củng cố quyền lực. Hàn Phi Tử coi quyền lực là tối
thượng, là điều kiện căn bản nhất của nhà quản lý. Uy thế tối cao của vua sẽ khiến
cho bề tôi phải làm việc theo pháp lệnh. Tuân theo pháp luật sẽ được trọng thưởng,
vi phạm pháp luật sẽ bị trừng trị. Hàn Phi còn chỉ rõ rằng để bảo vệ được cái thế của
mình thì nhà vua khơng thể để bề tơi có chung quyền uy, đồng thời vua cũng cần
phải dựa vào thưởng phạt để củng cố quyền thế. Những học thuyết của Hàn Phi Tử
như “pháp”, “thuật”, “thế” đều không tách khỏi sự thưởng phạt. Thưởng, phạt là hai
mục lớn của “pháp”, là hai công cụ của „thuật”, là sự biểu hiện về sức mạnh của
“quyền thế”. Như vậy, quan niệm về “Thế ” của Hàn Phi là một trong những
nguyên tắc cơ bản của đạo trị quốc, là một chỗ dựa không thể thiếu của một ông vua
trong việc thực thi quyền lực của mình.
Ba là, tư tưởng về “Trọng thuật”: “Thuật” theo quan điểm của Hàn Phi là cái
nhà vua nắm lấy, là nhân trách nhiệm mà giao chức quan, theo tên gọi mà đặt ra yêu
cầu thực sự, nắm lấy cái quyền cho sống và giết chết, hiểu rõ năng lực của bầy tơi.
“Thuật” của Hàn Phi có nghĩa là “kỹ thuật, nghệ thuật dùng người”, hay thủ đoạn
của ông vua điều khiển quân thần. Khái quát lại, “Thuật” bao gồm những nội dung
sau: thứ nhất là thuật trị quan lại; thứ hai là thuật trừ gian; thứ ba là thuật dụng

người; thứ tư là thuật thưởng phạt.
Theo Hàn Phi, “thuật” trước hết thể hiện thông qua khả năng nhìn người.
Bằng cách nhìn nhận thẳng thắn, ơng chỉ ra rằng, xung quanh nhà vua, ai cũng có
thể trở thành kẻ gian bởi con người không ai không ra sức liều chết để đạt được cái
mình mong muốn. Cho nên, cái quan trọng nhất đối với vua là thuật trừ gian. Trước
hết phải nhận biết được kẻ gian. Kẻ gian tựu chung vào hai loại: kẻ thân thích của
nhà vua và quần thần. Cả hai đều đánh vào tình cảm, dục vọng và điểm yếu của nhà
vua để lung lạc nhà vua và hồnh hành. Họ cịn ngăn cản và hãm hại các đấng trung
thần.


7
Hàn Phi còn chỉ ra thuật dùng người: Hàn Phi nhấn mạnh nguyên tắc dùng
công việc để sử dụng người, đó là cái then chốt của sự cịn hay mất, trị hay loạn.
Muốn đánh giá người thì phải căn cứ vào công việc và kết quả thực hiện công việc.
Việc dùng người phải hết sức thận trọng. Trong thuật dùng người, Hàn Phi Tử
khuyên các bậc vua quan phải biết phân công công việc cho mọi người để dùng tài
sức của họ: Sức một người không địch nổi đám đông, trí một người khơng biết hết
mọi việc, dùng một người không bằng dùng cả nước.
Như vậy, “Thuật” của Hàn Phi là những phương pháp và thủ đoạn để ông
vua chuyên chế nắm và điều khiển được quần thần, để ông vua củng cố được ngơi
vị vững chắc của mình. Theo Hàn Phi, trong dùng “thuật”, nhà vua cần thực hiện
theo cơ chế: bên trong thì có biện pháp đề phịng, thay đổi ln ln, bên ngồi thì
cứ chiếu theo phép tắc mà xử. Nó là điều kiện để xây dựng chế độ phong kiến trung
ương tập quyền mà lúc bây giờ đang là một xu hướng tất yếu. Hàn Phi Tử đã kế
thừa và phát triển cả bề rộng lẫn bề sâu tư tưởng “Thuật” của Thân Bất Hại để tạo
cho “Thuật” có một nội dung mới và hồn chỉnh.
Tư tưởng chính trị – xã hội của Hàn Phi Tử đã thể hiện rõ đường lối chính trị
là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa ba yếu tố Pháp – Thuật – Thế trong mối quan hệ
biện chứng với nhau không tách rời. Hàn Phi Tử hết sức coi trọng tác dụng của

pháp luật, chủ trương xây dựng một lý luận pháp trị hồn chỉnh, trong đó lấy “pháp”
làm hạt nhân và có sự kết hợp chặt chẽ và bổ trợ của hai yếu tố, “thuật”, “thế”.
Nhìn chung, học thuyết Pháp trị của Hàn Phi được xây dựng và hoàn thiện
dựa trên những tiền đề lý luận và thực tiễn chắc chắn để xây dựng một hệ thống lý
luận mang tính vượt thời đại vừa có tính thực tiễn cao, vừa có lơgíc chặt chẽ khi
dám nhìn thẳng vào sự thật và khẳng định những giá trị lợi ích căn bản là động cơ
cho mọi hành động của con người, bóc trần mọi quan hệ giả tạo giữa người với
người, phê phán chế độ quân chủ chuyên chế điển hình của Trung Hoa.
2.2 Đánh giá ưu điểm và nhược điểm của tư tưởng pháp trị
2.2.1 Một số ưu điểm của tư tưởng Pháp trị
Một là, học thuyết pháp trị khẳng định vai trò quan trọng của pháp luật: Pháp
luật là “phép công” để điều khiển hành vi của mọi người, là cơng cụ hữu hiệu nhất
để đem lại hịa bình, ổn định và công bằng trong xã hội.
Hai là, then chốt của việc xây dựng đất nước giàu mạnh là phải dựa vào pháp
luật. Pháp luật được thi hành một cách phổ quát và đúng đắn thì xã hội mới ổn định,
xã hội ổn định lại là tiền đề quan trọng để xây dựng đất nước giàu mạnh, làm cho
dân chúng được yên bình, hạnh phúc.
Ba là, Hàn Phi Tử cũng đặt ra yêu cầu rất cao đối với pháp luật, bao gồm:
Pháp luật phải kịp thời thay đổi khi thời thế thay đổi “thời thay mà pháp luật khơng
đổi thì nước loạn”; pháp luật phải đơn giản, dễ hiểu để dân biết mà thi hành. Đây là
quan điểm hoàn toàn đúng trong thực thi pháp luật ở xã hội hiện đại. Nhà nước bắt
buộc phải chú trọng công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật rộng rãi đến người


8
dân, chỉ khi pháp luật đi vào đời sống xã hội thì mới có thể thực thi. Ngồi ra, pháp
luật phải được áp dụng một cách phổ biến, công bằng với mọi người. Ông cho rằng
quan lại phải lấy pháp luật mà dạy dân và phải truyền bá pháp luật tới mọi người
dân. Hàn Phi Tử có những luận điểm rất hiện đại và tiến bộ, đặc biệt là tư tưởng về
tính cơng bằng. Mọi người dân đều bình đẳng trước pháp luật. Đó chính là tư tưởng

chủ đạo trong hiến pháp của các nhà nước hiện đại.
Bốn là, quyền lực nhà nước tập trung vào tay một người nên quyền lực được
thống nhất và không bị phân tán. Các chính sách được thực hiện xun suốt, khơng
có sự tranh giành quyền lực giữa các đảng phái.
Năm là, coi trọng năng lực người lãnh đạo, sử dụng được nhân tài nên phát
huy được hiệu quả trong quản lý.
2.2.2 Hạn chế của học thuyết pháp trị
Thực tế là sau khi áp dụng hệ thống pháp trị, Nhà Tần đã thực sự đạt được
những thành tựu to lớn trong đó có cơng cuộc thống nhất Trung Hoa. Tuy nhiên,
giai đoạn về sau, pháp gia ngày càng thất thế. Sở dĩ có sự suy tàn tư tưởng pháp trị
của Hàn Phi là do những hạn chế căn bản của chính hệ tư tưởng này.
Một là, học thuyết của Hàn Phi Tử xây dựng dựa trên tư tưởng bản tính của
con người là tính ác và khơng thấy thiện, khơng thấy được bản tính tốt đẹp trong
mỗi con người. Ông đẩy mạnh quan điểm con người tư lợi tới mức cực đoan. Ông
đã mở rộng yếu tố vụ lợi của con người trong cả quan hệ gia đình. Đặc biệt, ơng cịn
bài trừ các tư tưởng của Nho giáo khi phê phán Nho giáo quá đề cao lịch sử, đề cao
quá khứ.
Hai là, quá đề cao pháp luật, độc tôn công cụ pháp luật trong quản lý. Ông
cho rằng, muốn giữ ổn định cho quốc gia phải dùng pháp luật mà bỏ qua các công
cụ quản lý khác như giáo dục, thuyết phục, nêu gương,...
Ba là, Hàn Phi Tử quan điểm đồng nhất cai trị dựa vào pháp luật với cai trị
dựa vào các hình phạt: Theo Hàn Phi Tử, phương pháp quản lý tốt nhất là thưởng
phạt, bỏ qua các giá trị nhân văn của con người. Chính vì vậy, học thuyết của ông
được nhận xét là “khắc bạc, ít ân đức”.
Bốn là, pháp luật mà học thuyết Pháp trị đề cao là thứ pháp luật hà khắc, tàn
bạo, con người phải vì pháp luật. Mặt khác, vua có quyền lực tuyệt đối, trên pháp
luật, gây nên sự sợ hãi trong lòng dân. Hàn Phi quá đề cao, quá coi trọng quyền lực
của vua trong chế độ quân chủ. Pháp luật đặt ra vì lợi ích của vua chứ khơng phải đa
số nhân dân lao động.
Năm là, trị nước từ một phía nhà nước dẫn đến độc quyền, lạm dụng quyền

lực, không nhận được sự ủng hộ của dân. Hệ thống cai trị trong học thuyết của Hàn
Phi là quyền lực một chiều từ trên xuống, khơng có sự tác động trở lại của các yếu
tố khác trong xã hội.
Sáu là, coi quyền lực là tất cả, có quyền lực là có tất cả. Theo Hàn Phi Tử,
vua không cần hiền tài mà phải có Thế: “Hiền và trí khơng đủ làm cho đám đông


9
phục tùng, nhưng quyền và thế có thể khuất phục được vạn người”. Đồng thời, coi
các điều khoản pháp luật chính thức là hình thức duy nhất phù hợp với pháp luật,
hoàn toàn bỏ qua nhân tố luật tập quán.
Bảy là, quan niệm về pháp luật quá máy móc và cứng nhắc, khơng linh hoạt,
khơng có tính đàn hồi trong việc áp dụng pháp luật
Tám là, giải thích mục tiêu pháp luật quá chú trọng đến phương diện vật chất
trong khi thực ra luật pháp cần phải giúp phát triển một cách bình đẳng các lợi ích
khác nhau
3. Việc vận dụng Học thuyết pháp trị trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam
3.1 Khái quát chung về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam
3.1.1 Khái niệm Nhà nước pháp quyền
Nhà nước pháp quyền, với định nghĩa căn bản nhất là khơng có ai ở trên luật
hay ngoài luật, mà mọi người phải tuân theo pháp luật. Một nguyên tắc bắt nguồn
một cách logic từ ý tưởng cho rằng sự thật, cũng như luật, đều dựa trên những
nguyên tắc căn bản có thể được phát hiện ra nhưng không thể được tạo ra theo ước
muốn.
Ở Việt Nam, tại Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá
VII đã lần đầu tiên đưa ra khái niệm “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, sau
đó tiếp tục được khẳng định tại Hội nghị tồn quốc giữa nhiệm kỳ khố VII của
Đảng năm 1994 cũng như trong các văn kiện khác của Đảng và tiếp tục được bổ

sung, phát triển về chất trong nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
ở nước ta tại các kỳ Đại hội sau này. Tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã khẳng
định định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 – 2030 là “xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt
động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước”
Thể chế hố quan điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Đảng,
Điều 2 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “1. Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam
là Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; 2. Nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam do Nhân dân làm chủ, tất cả quyền lực nhà nước thuộc
về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nơng
dân và đội ngũ trí thức; 3. Quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân cơng, phối
hợp, kiểm sốt giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp”.
3.1.2 Một số nguyên tắc đặc trưng trong xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước
của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Do đó, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam cần được xây dựng trên cơ sở đáp ứng các nguyên tắc sau:


10
Một là, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm
sốt giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp.
Hai là, tuân thủ nguyên tắc thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, mọi chủ thể
trong xã hội đều phải tôn trọng và nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật mà Hiến pháp
là đạo luật tối cao, bộ luật gốc mang tính nền tảng.
Ba là, Nhà nước khẳng định và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, tơn
trọng sự bình đẳng của mọi cá nhân trong thụ hưởng và phát triển quyền, khơng có
sự phân biệt đối xử, trước tiên và chủ yếu trong việc tham gia vào công tác quản lý

nhà nước và xã hội.
Bốn là, Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và
pháp luật.
Năm là, nguyên tắc bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân.
Quyền và nghĩa vụ của công dân được pháp luật thừa nhận, tôn trọng và bảo đảm
thực hiện, thúc đẩy trong khuôn khổ luật pháp.
Bản chất của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước đặt dưới
sự điều chỉnh tối cao của pháp luật. Do đó, pháp luật trong nhà nước pháp quyền
phải bảo đảm tính cơng khai, minh bạch, khả thi và hiệu quả, bảo đảm nguyên tắc
bình đẳng trước pháp luật và bảo vệ quyền con người.
3.2 Vận dụng Học thuyết pháp trị trong xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Từ khi chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội nghĩa Việt Nam,
trong suốt tiến trình xây dựng và phát triển, trên cơ sở trí tuệ của tồn Đảng, tồn
dân, kế thừa những giá trị tinh hoa của dân tộc, Đảng và Nhà nước ta cịn tiếp thu,
học hỏi có chọn lọc những giá trị tư tưởng của văn minh nhân loại, trong đó có các
tư tưởng tiến bộ của văn minh Trung Hoa cổ đại, tiêu biểu là học thuyết Pháp trị của
Hàn Phi Tử. Loại bỏ những yếu tố hạn chế thuộc về lịch sử và đặc thù riêng, rất
nhiều tư tưởng tiến bộ, có tính thời đại của Hàn Phi cho đến ngày nay vẫn còn
nguyên giá trị. Thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay càng
cho thấy sự cần thiết và tính thời sự của việc kế thừa, vận dụng những yếu tố hợp lý
trong tư tưởng của Hàn Phi Tử nhằm góp phần tăng cường hiệu lực, hiệu quả của
pháp luật và pháp chế xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và quản lý
xã hội bằng pháp luật ở nước ta, cụ thể như sau:
3.2.1 Khai thác giá trị tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử nhằm góp phần
xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trên
cả ba mặt: lập pháp, hành pháp, tư pháp
Hàn Phi Tử cho rằng, pháp luật là chuẩn mực cao nhất của việc trị quốc và
quản lý xã hội. Đồng thời cũng đặt ra yêu cầu đối với hệ thống pháp luật như việc
soạn thảo, ban hành pháp luật phải rõ ràng, dễ hiểu, ban bố rộng rãi; pháp luật phải

phù hợp với tính chất, đặc điểm, trình độ phát triển kinh tế – xã hội. Cũng giống


11
như Hàn Phi Tử, đối với hoạt động lập pháp, các nhà quản lý của chúng ta ln có
tư tưởng đề cao vai trò của pháp luật, coi pháp luật là công cụ quan trọng để quản lý
nhà nước.
Tuy nhiên có một điều khác về bản chất là pháp luật của Hàn Phi Tử là pháp
luật phong kiến, nhằm bảo vệ quyền thơng trị của thiên Tử. Cịn pháp luật xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là vì dân. Pháp luật phải phản ánh đúng nguyện vọng của nhân
dân. Nhà nước đảm bảo các quyền tự do dân chủ của công dân, chịu trách nhiệm
trước công dân về hoạt động của mình… Ngược lại, cơng dân phải thực hiện các
nghĩa vụ đối với nhà nước, chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm pháp luật của mình.
Khi điều kiện kinh tế- xã hội thay đổi thì pháp luật, nhất là đạo luật “gốc” – Hiến
pháp cũng phải thay đổi để đảm bảo khả năng điều chỉnh hợp lý các quan hệ xã hội.
Hồ Chí Minh khẳng định: “Pháp luật của ta là pháp luật dân chủ, phải nghiêm minh
và phát huy hiệu lực thực tế. Nhà nước sử dụng pháp luật để quản lý xã hội, Song
pháp luật của ta đã có sự thay đổi về chất, mang bản chất của giai cấp cơng nhân, là
một loại hình pháp luật kiểu mới, pháp luật thật sự dân chủ, vì nó bảo vệ quyền tự
do, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động”. Đây chính là điểm mới, tiến bộ hơn,
khắc phục được những nhược điểm của học thuyết pháp trị của Hàn Phi Tử. Và để
đảm bảo các yêu cầu trên thì nhà nước pháp quyền nói chung phải có một thể chế
thích hợp, để đảm bảo pháp luật được thực thi và đảm bảo được vai trò của các cơ
quan lập pháp, tư pháp, hành pháp.
Nếu như trong thời phong kiến, hệ thống pháp luật còn mang yếu tố tư lợi cá
nhân bởi luật là do vua ban hành và mang lợi ích của vua nhiều hơn dân. Do vậy, tư
tưởng cơng bằng mà Hàn Phi Tử nói đến chưa thể là sự cơng bằng giữa dân với vua.
Cịn ở Việt Nam, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên cơ sở xác
định quyền lực là của nhân dân lao động, do đó pháp luật trước hết phải bảo vệ
quyền lợi của nhân dân: nhân dân có quyền đóng góp ý kiến cho văn bản pháp luật,

soạn thảo ra và ủy thác thẩm định cuối cùng là Quốc hội. Luật pháp phản ánh
nguyện vọng của dân nên tất yêu nó mang giá trị nhân văn và nó thực hiện các
quyền con người, quyền cơng dân lao động chứ không phải thực hiện các quyền tối
cao vua như trong thời đại Hàn Phi Tử. Hoạt động lập pháp ở Việt Nam có sự tham
gia của người dân thông qua các hoạt động trưng cầu dân ý và các hình thức dân
chủ khác. Do đó, để xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì việc
đầu tiên chúng ta phải xây dựng một hệ thống pháp luật đầy đủ, có chất lượng, phù
hợp với yêu cầu thực tiễn đầy biến động như hiện nay. Trong hoạt động lập pháp,
cần tính đến các yếu tố lịch sử cụ thể, đồng thời phải linh hoạt theo những biến
động, thay đổi của các yếu tố thuộc về môi trường quốc tế. Có như vậy những hệ
thống pháp luật mới đảm bảo tính khách quan, khả thi.
Về hoạt động hành pháp, theo Hàn Phi Tử việc thực thi pháp luật chỉ có hiệu
quả khi pháp luật được coi là quy tắc chuẩn mực của mọi hành động. Pháp lệnh
nghiêm minh để ngăn chặn tội lỗi và gạt bỏ tình riêng. Chủ tich Hồ Chí Minh cũng
đã cho rằng một trong những điều khó khăn nhất trong thi hành pháp luật là phải


12
bảo đảm được tính khách quan, bình đẳng của cơng dân trước pháp luật. Người yêu
cầu pháp luật của ta phải thẳng tay trừng trị kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào,
làm nghề nghiệp gì. Theo đó, trong hoạt động hành pháp, cần tăng cường vai trị
của Chính phủ - cơ quan đứng đầu nên hành chính quốc gia trong bộ máy Nhà nước
pháp quyền XHCN. Chính phủ và bộ máy hành chính nhà nước thống nhất quản lý
nhà nước bằng pháp luât.
Về hoạt động tư pháp, Hàn Phi Tử nhấn mạnh tinh thần “pháp bất vị thân”,
pháp luật phải là chuẩn mực của xã hội, quyết khơng thể vì quyền lực và trách
nhiệm mà uốn cong pháp chế. Chính Hàn Phi cũng đã khẳng định, pháp luật không
nghiêm minh, công bằng; vua thực thi pháp luật khơng nghiêm… thì bề tơi sẽ gian
dối. Pháp luật khơng nghiêm thì xã hội sẽ loạn. Theo ơng, một quốc gia muốn vững
mạnh thì phải bắt đầu từ việc chấn chỉnh hoạt động của đội ngũ quan lại, nghĩa là

làm trong sạch bộ máy quản lý, cai trị xã hội.
Áp dụng linh hoạt tư tưởng của Hàn Phi Tử vào thực tiễn của nước ta, có thể
thấy rằng việc thực thi quyền lực tư pháp có ảnh hưởng trực tiếp tới mục tiêu và
những giá trị của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa: Cơng
tác tố tụng, xét xử phải tn thủ trình tự pháp luật, tơn trọng pháp luật. Bởi vì, trong
một xã hội pháp quyển thì pháp luật giữ vị trí tối thượng và là chuẩn mực cho mọi
hành động trong xã hội. Các tổ chức, cá nhân thực thi pháp luật càng phải gương
mẫu thực hành pháp luật trước dân, tránh tình trạng dựa vào mối quan hệ quen, thân
mà bỏ qua hoặc xử lý nhẹ. Trong quá trình xử án, xử lý những vi phạm pháp luật,
cần đảm bảo tính công khai, minh bạch. Chỉ khi công khai, minh bạch, pháp luật
mới thể hiện được sức mạnh cưỡng chế, giáo dục của nó. Ngồi ra, phải đảm bảo
tính cơng bằng trong q trình thực thi pháp luật. Điều đó có nghĩa là, trong công
tác tổ chức xử án, thi hành án, kiểm tra việc thi hành án… phải tránh sự can thiệp,
tham gia của các cá nhân, tổ chức dẫn tới tình trạng sai lệch, bất cơng, dẫn đến oan
sai, thua thiệt cho người dân. Do đó, việc đẩy mạnh cải cách tư pháp đang là một
vấn đề được quan tâm của Nhà nước ta hiện nay. Việc cải cách tập trung vào việc
đấu tranh nghiêm trị các tội chống Tổ quốc, chống chế độ, tội tham nhũng và các tội
hình sự khác, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của công dân; nâng cao chất lượng
hoạt động của viện kiểm sát theo chức năng quy định trong Hiến pháp, tập trung
làm tốt chức năng cơng bố và kiểm sốt hoạt động tư pháp; đổi mới hệ thống toà án
nhân dân; kiện toàn các cơ quan điều tra, bổ trợ tư pháp,... Tăng cường thanh tra,
kiểm tra việc thực hiện thể chế tăng cường thẩm quyền cho các cơ quan thanh tra
trong việc xử lý các vi phạm pháp luật.
3.2.2 Áp dụng tư tưởng của Hàn Phi Tử về trị nước bằng pháp luật trở
thành một tất yếu khách quan, xu thế phát triển của xã hội hiện đại
Lịch sử phát triển của nhà nước qua các thời kỳ đã chứng minh rằng dùng
pháp luật để quản lý, điều chỉnh các quan hệ xã hội là phương thức quản lý phổ biến
ở nhiều nước để đảm bảo duy trì ổn định và trật tự, kỷ cương của xã hội, đồng thời
còn là biện pháp ngăn ngừa và xử lý các hành vi tiêu cực cho xã hội. Để quản lý xã



13
hội và đưa chính sách vào cuộc sống, các nhà nước đều sử dụng pháp luật như một
công cụ sắc bén, hiệu nghiệm và khơng thể thay thể.
Trong mơ hình nhà nước pháp xã hội chủ nghĩa ở nước ta, pháp luật trỏe
thành công cụ cơ bản quan trọng nhất, việc quản lý xã hội bằng pháp luật có ý nghĩa
tất yêu khách quan bởi nó giúp cho bộ máy nhà nước vận hành một cách thuận lợi
cũng như trong điều kiện xã hội còn tồn tại giai cấp, bất cứ quốc gia nào cũng
khơng rời khỏi hình và pháp. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh rằng trong các xã hội
có giai cấp, sự tồn tại của nhà nước cùng với pháp luật và hệ thống công cụ bạo lực
là tât yếu. Khơng có pháp luật thì mọi quan hệ xã hội khơng được điều chỉnh bằng
một ý chí thống nhất, khơng duy trì được trật tự kỷ cương. Hơn nữa, để đưa xã hội
từ tình trạng rồi ren vào trật tự, ổn định thì dùng biện pháp cường chế bằng pháp
luật có tác dụng nhanh hơn việc giáo dục đạo đức.
3.2.3 Vận dụng tư tưởng pháp trị về ngun tắc thượng tơn pháp luật,
khơng ai nằm ngồi phạm vi tác động của pháp luật
Tư tưởng của Hàn Phi Tử về viêc “trị nước bằng luật pháp”, chủ trương “luật
pháp khơng phân biệt sang hèn”, “hình phạt khơng kiêng dè bậc đại thần, tưởng
thưởng khơng bỏ sót kẻ thất phu” để thể hiện sự bình đẳng trước pháp luật của bất
kỳ ai, kể cả bậc quân chủ và kẻ bị cai trị đều cùng trong khuôn khổ pháp luật, đều
phải tôn trọng và tuân thủ pháp luật là một trong những tư tưởng tiến bộ mà cho đến
hiện tại vẫn còn giá trị to lớn trong việc phát triển nhà nước pháp quyền. Thượng
tôn pháp luật, đồng nhất với khơng có bất kỳ trường hợp ngoại lệ nào với pháp luật.
Cán bộ, công chức là những chủ thể quản lý xã hội, ban hành hệ thống pháp luật
nhưng bản thân họ cũng là một đối tượng điều chỉnh của pháp luật, phải tuân thủ
pháp luật, nếu trái luật phải bị xử lý một cách công bằng. Khoản 2 Điều 8 Hiến
pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và
pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ”. Đồng thời, nâng cao hơn một tư tưởng pháp chế xã hội chủ nghĩa
thành pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

3.2.4 Xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức trong sạch, có năng lực
chun mơn cao
Mặc dù đều coi trọng bộ máy lãnh đạo, nhưng Hàn Phi coi trọng vị trí, quyền
lực hơn tài đức của người lãnh đạo. Còn trong quan điểm phát triển bộ máy nhà
nước ở nước ta, đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước với tư cách là chủ thể quản lý
nhà nước được coi là nhân tố cốt lõi, là mục tiêu và là động lực của sự nghiệp xây
dựng nhà nước pháp quyền. Việc xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức có phẩm chất
và năng lực là yếu tố quyết định chất lượng của bộ máy nhà nước. Cán bộ, cơng
chức phải có đủ “thế”, “thuật” và được đảm bảo bằng “pháp”. Đại hội Đảng lần thứ
XIII đã thống nhất quan điểm chỉ đạo “xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là
đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm
vụ, gắn bó mật thiết với nhân dân là những yếu tố có ý nghĩa quyết định thành công
sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”.


14
Cần phải có các tổ chức giám sát, dựa vào nhân dân, cần tăng cường hơn nữa
trong công tác giáo dục, quản lý, có cơ chế tuyển đụng cán bộ vào bộ máy nhà
nước, loại bỏ các hiện tượng luồn lách, chạy chức, chạy quyền. Thực hiện nguyên
tắc công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong hoạt động công vụ; xử phạt
nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật đối với đội ngũ cán bộ công chức, viên chức.
3.2.5 Đấu tranh chống tham nhũng, nạn quan liêu trong bộ máy quản lý
nhà nước, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa
Pháp luật nghiêm minh thưởng phạt rõ ràng, khơng phân biệt. Mọi người đều
bình đẳng trước pháp luật. Và để pháp luật được thực thi hiệu quả thì khâu kiểm
soát (kiểm tra, giám sát) là quan trọng. Thực tế cho thấy, nếu như quyền lực công
mà không được kiểm sốt thì các cá nhân rất dễ lạm quyền, biến quyền lực chung
thành quyền lực riêng, biến mục đích sử dụng quyền lực của đại đa số thành mục
đích phục vụ cho lợi ích cá nhân. Kiểm sốt tốt, thanh tra tốt mới có thể hồn thiện
tốt nền pháp trị xã hội chủ nghĩa, từ đó mới hạn chế được vấn đề lạm dụng chức

quyền, tham nhũng, hối lộ… Trong quan điểm pháp trị của Hàn Phi Tử, ông rất coi
trọng đến thưởng và phạt. Tuy nhiên, cũng cần xây dựng nguyên tắc và hình thức
thưởng đúng người, đúng thành tích, tránh hình thức, cào bằng. Hàn Phi Tử nêu tư
tưởng thưởng nhiều là đúng, có tác dụng khuyến khích người ta làm điều tốt. Tuy
nhiên, biện pháp này cũng có tính hai mặt, nếu áp dụng khơng đúng sẽ dẫn đến tình
trạng có kẻ cơ hội, hám lợi, chạy chọt để có danh hiệu thi đua, để được thưởng.
Xác định rõ trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan nhà nước trong việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân. Cần có quy chế tạo thuận lợi để người dân
trình bày ý nguyện, thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của mình, ngăn chặn những
hành vi lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để xuyên tạc, vu khống, gây rối. Tăng
cường công tác giám sát và kiểm tra của cấp trên đối với công tác giải quyết khiếu
tố của cấp dưới. Có như vậy, mới đẩy lùi được tệ nạn tham nhũng và làm trong sạch
bộ máy hành chính nhà nước.


15
Phần III: Kết luận
Từ việc nghiên cứu những tư tưởng nổi bật của Hàn Phi Tử, có thể thấy học
thuyết pháp trị của ơng là học thuyết chính tri - pháp lý đồng thời là học thuyết quản
lý xã hội tiêu biểu trong lịch sử. Tư tưởng của ông thực sự đã trở thành ngọn cờ tư
tưởng của Trung Hoa thời cổ đại và là nền tảng tư tưởng chế độ phong kiến phương
Đông. Học thuyết pháp trị Trung Hoa đã cung cấp nội lực cho văn hóa Trung Quốc
tự cường, nó cũng chi phối mạnh mẽ văn hóa chính trị xuyên suốt thời kỳ lịch sử
lâu dài cho đến ngày nay. Chủ trương dùng pháp luật làm công cụ trị nước, đặc biệt
là tư tưởng kết hợp giữa quyền lực và luật pháp cùng với những nguyên tắc pháp lý
cơ bản trong học thuyết pháp trị của Hàn Phi Tử đã đánh dấu bước phát triển quan
trọng của tư duy pháp lý nhân loại và đóng góp đáng kể cho sự hình thành, phát
triển tư tưởng nhà nước pháp quyền trong lịch sử, thể hiện những tư tưởng đi trước
thời đại của ơng. Tư tưởng pháp trị có ý nghĩa hết sức lớn lao trong lich sử nhà
nước và pháp quyên phong kiến phương Đông và đối với lịch sử văn minh nhân

loại.
Quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một
tất yếu khách quan nhưng hiện đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức.
Yêu cầu đặt ra là Đảng phải ln đảm bảo được tính chính đáng trong cầm quyền
của mình thể hiện uy tín, sự tin tưởng, sự cuốn hút của Đảng đối với Nhân dân; tính
hiệu quả trong lãnh đạo phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, đáp ứng yêu cầu, lợi ích
của Nhân dân. Trong cuộc cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
nếu bỏ qua những hạn chế mang tính lịch sử, chúng ta có thể nghiên cứu kế thừa
những hạt nhân tiến bộ của học thuyết này như như tư tưởng đề cao pháp luật, pháp
luật phải phù hợp với đời sống xã hội và pháp luật phải được thi hành triệt để,
nghiêm minh, tiếp thu những giá trị và kinh nghiệm to lớn trong quản lý xã hội,
quản lý con người và vận dụng một cách linh hoạt, phù hợp với chủ trương, đường
lối và định hướng phát triển đất nước trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế.


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. />8-b8de-4932-a9c9-fa3607f8381b
2. />3. />4. />5. />6. />7. Tài liệu học tập Các văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, XIII
của Đảng.
8. Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam các năm 2009, 2013



×