Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử với sự nhận thức vai trò của pháp luật trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (347.03 KB, 69 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
CNH-HĐH : Công nghiệp hóa - hiện đại hóa
MỤC LỤC
MỤC LỤC 2
A.MỞ ĐẦU 1
1.Lý do chọn đề tài 1
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài 3
4.Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4
CHƯƠNG 1 5
CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA HÀN PHI TỬ 5
1.1.Bối cảnh lịch sử – xã hội hình thành tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử 5
1.1.1.Điều kiện lịch sử – xã hội 5
1.1.3.Thân thế và sự nghiệp của Hàn Phi Tử 16
1.2. Nội dung tư tưởng pháp Trị của Hàn Phi Tử 19
1.2.1. Tư tưởng của Hàn Phi Tử về pháp 19
1.2.2. Tư tưởng của Hàn Phi Tử về thế 26
1.2.3. Tư tưởng của Hàn Phi Tử về Thuật 27
1.2.4. Nhận xét chung về tư tưởng pháp Trị của Hàn Phi Tử 34
CHƯƠNG 2 38
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA HÀN PHI TỬ VÀO VIỆC NHẬN THỨC
VAI TRÒ PHÁP LUẬT TRONG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY 38
2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về nhà nước pháp quyền 38
2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới và vai trò của pháp luật 45
2.3. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò của pháp luật trong nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa 52
2.4. Từ tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử đến nhận thức vai trò của pháp luật trong việc
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay 57
C.KẾT LUẬN 64
A. MỞ ĐẦU


1. Lý do chọn đề tài
Cùng với sự xuất hiện của nhà nước, pháp luật cũng hình thành và trở
thành công cụ hữu hiệu nhằm để điều chỉnh các quan hệ giữa con người với
con người trong xã hội, thiết lập trật tự xã hội, để bảo vệ chế độ xã hội đó,
bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị. Cùng với sự thay đổi của lịch sử, tùy theo
từng thời kỳ và trình độ phát triển xã hội, mà hệ thống pháp luật cũng khác
nhau phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị. Xã hội ngày càng văn minh
phát triển thì một đòi hỏi không thể thiếu là pháp luật ngày càng có những nội
dung mới để ổn định trật tự và phát triển xã hội. Chính vì vậy pháp luật không
chỉ trở thành mối quan tâm của mỗi quốc gia mà còn là mối quan tâm của
nhân loại.
Trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc cổ đại, một trong những trường phái
triết học lớn đã đóng góp không chỉ làm giàu thêm cho kho tàng tư tưởng về
pháp luật của nhân loại, mà còn góp tiếng nói của mình cho sự phát triển, ổn
định xã hội Trung Quốc – đó là trường phái triết học Pháp gia mà đại biểu
xuất sắc là Hàn Phi Tử.
Xuất hiện trong thời kỳ lịch sử đầy biến động của xã hội Trung Quốc –
thời Xuân thu – Chiến quốc, thời kỳ đánh dấu bước chuyển quan trọng của xã
hội Trung Quốc từ chế độ chiếm hữu nô lệ sang chế độ phong kiến. Tư tưởng
của trường phái triết học này có ảnh hưởng rất lớn đến xã hội thời bấy giờ.
Chính Tần Thủy Hoàng đã áp dụng những tư tưởng của học thuyết Hàn Phi
Tử để chấm dứt những cuộc chiến tranh liên miên, bình ổn trật tự xã hội,
thống nhất đất nước lập nên một nhà nước phong kiến đầu tiên trong lịc sử
Trung Quốc.
Ngày nay trong công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng, bên cạnh
việc phát triển kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước là phải không
ngừng đổi mới hệ thống chính trị, nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu
1
của Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đảng ta khẳng

định: “tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt
Nam. Đó là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, quản lý mọi
mặt của đời sống xã hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa” [4;56]. Để thực hiện được điều đó việc nghiên cứu
để từ đó tiếp thu, kế thừa có chọn lọc những tư tưởng pháp luật của cha ông ta
nói riêng, của nhân loại nói chung, trong đó có những tư tưởng “Pháp trị” của
Hàn Phi Tử là một việc làm hết sức quan trọng.
Với những lý do trên và mong muốn hiểu sâu thêm về triết học Hàn Phi
Tử và những tiến bộ của học thuyết này. Từ thực tế đó mà tôi đã quyết định
chọn đền tài “Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử với sự nhận thức vai trò
của pháp luật trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp cử nhân triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Đối với việc nghiên cứu tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử đã có một số
công trình nghiên cứu tiêu biểu như:
Phan Ngọc Định (2001), Hàn Phi Tử, Nhà xuất bản Văn học Hà Nội.
Nguyễn Hiến Lê – Giản Chi (1999), Hàn Phi Tử, Nhà xuất bản văn hóa
thông tin.
Trí Tuệ (2003), Hàn Phi Tử tư tưởng và sách lược, Nhà xuất bản Mũi Cà Mau.
Lê Tuấn Huy (2002), “Giá trị tư tưởng và lịch sử của trường phái Pháp
gia”, Tạp chí triết học, số 9-2002.
Doãn Chính – Cao Xuân Long (2002), “Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi
Tử và ý nghĩa của nó trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam’’,
Tạp chí triết học, số 8-2002.
Nguyễn Văn Trịnh (2004), “Những tiền đề hình thành tư tưởng pháp trị
của trường phái Pháp gia”, Tạp chí triết học, số 1-2004.
Vũ Kim Dung (2000), “Pháp – Thế – Thuật trong triết học Hàn Phi
Tử’’, Tạp chí triết học số 5- 2000.
2
Nguyễn Văn Yểu – GS.TS Lê Hửu Nghĩa (đồng chủ biên) (2006), Xây

dưng nhà nước pháp quyền trong thời kỳ đổi mới, Nxb chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2006.
Các công trình này đã đi sâu nghiên cứu nhiều khía cạnh khác nhau của
triết học Hàn Phi Tử như những tiền đề hình thành, điều kiện ra đời của triết
học Hàn Phi Tử, các yếu tố Pháp – Thế – Thuật mối quan hệ của nó trong
việc điều khiển xã hội nhằm hướng tới một xã hội ổn định và phát triển, và sự
nhận thức về vai trò của pháp luật trong nhà nước pháp quyền tuy nhiên
những công trình của các tác giả trên là tài liệu quý giá để đề tài có cái nhìn
hệ thống hơn, tổng quát hơn, sâu sắc hơn về tư tưởng của ông.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
- Mục đích
Đề tài này nhằm mục đích làm rõ những nội dung cơ bản trong tư tưởng
pháp trị của Hàn Phi Tử. Từ đó, nhận thức một cách đầy đủ hơn về vai trò của
pháp luật trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay.
- Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên đề tài có những nhiệm vụ cơ bản sau:
+ Phân tích những cơ sở hình thành tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử.
+ Làm rõ những nội dung cơ bản trong tư tưởng triết học của Hàn Phi Tử
về pháp – thế – thuật, đồng thời vạch ra những giá trị và hạn chế trong tư
tưởng về pháp trị của Hàn Phi Tử.
+ Sự nhận thức vai trò pháp luật trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
+ Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
Đảng cộng sản Việt Nam về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
+ Ý nghĩa tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử đối với sự nhận thức vai trò
pháp luật trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiên nay.
3
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa

duy vật lịch sử của triết học Mác – lênin, quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng cộng sản Việt Nam về pháp luật, về nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Phương pháp nghiên cứu của đề tài: dựa trên những nguyên tắc cơ bản
của phép biện chứng duy vật mácxít, cùng với nguyên tắc thống nhất giữa
lôgic và lịch sử trong việc nghiên cứu một học thuyết triết học. Đồng thời đề
tài còn sử dụng phương pháp cụ thể như đối chiếu so sánh, phân tích, tổng
hợp, khái quát hóa để làm rõ các vấn đề mà nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra.
5. Đóng góp của đề tài
Góp phần làm rõ những giá trị trong tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử,
cũng như vai trò của pháp luật trong pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay.
Khóa luận là tài liệu tham khảo cho sinh viên chuyên nghành triết học
hoặc những ai quan tâm đến vấn đề này.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tham khảo, đề tài được kết cấu
thành 2 chương.
Chương 1. Cơ sở hình thành tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử.
Chương 2. Ý nghĩa tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử đối với việc nhận
thức vai trò pháp luật trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam hiện nay.
4
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA HÀN PHI TỬ
1.1. Bối cảnh lịch sử – xã hội hình thành tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử.
1.1.1. Điều kiện lịch sử – xã hội.
Triết học Hàn Phi Tử ra đời trong điều kiện xã hội Trung Quốc đang ở
thời kỳ Xuân Thu – Chiến quốc (770 – 221 TCN). Đó là thời kỳ tan rã của
chế độ chiếm hữu nô lệ và hình thành chế độ phong kiến sơ kỳ.

Đặc điểm của thời kỳ Xuân Thu: về mặt kinh tế, sức sản xuất đã phát
triển, nền kinh tế Trung Quốc đang chuyển từ thời đại đồ đồng sang thời đại
đồ sắt, nhiều công cụ sản xuất bằng sắt xuất hiện, việc dùng bò kéo trở thành
phổ biến. Cùng với sự phát triển nông nghiệp và thủ công nghiệp, thương
nghiệp, buôn bán cũng phát đạt hơn trước. Tiền tệ đã xuất hiện cùng với tầng
lớp thương nhân ngày càng có thế lực, như Huyền Cao nước Trịnh, như Tử
Cống – một môn đệ của Khổng tử. Trên cơ sở của các nghành kinh tế, ruộng
đất giờ đây giao cho từng gia đình để canh tác. Đất do nông dân tự vỡ hoang
trở thành ruộng tư ngày càng tăng thêm. Bọn quý tộc có thế lực chiếm đoạt
ruộng đất công biến thành ruộng đất tư ngày một nhiều. Chế độ chiếm hữu tư
nhân về ruộng đất xuất hiện.
Về chính trị xã hội: suốt thời Xuân Thu, vì mệnh lệnh “Thiên Tử’’
không còn được tuân thủ, chế độ tông pháp bị phá bỏ trật tự lễ nghĩa, cương
thường xã hội bị đảo lộn, đạo đức suy vi, nên các nước chư hầu đua nhau
động binh, gây chiến tranh thôn tính tranh giành địa vị của nhau diễn ra liên
miên và vô cùng khốc liệt. Lễ nghĩa nhà Chu giờ đây đã trở thành hình thức
sáo rỗng và những thủ đoạn ngoại giao. Do vậy dân đã nghèo lại càng thêm
đói khổ, nên như ở nước Tấn “thây người chết đầy đường”.
Thời Xuân Thu có khoảng 295 năm thì đã xảy ra 485 cuộc chiến tranh.
Đầu Tây Chu có hàng ngàn nước, đến cuối thời Xuân Thu chỉ có hơn một
5
trăm nước và những chư hầu mạnh lên thi đua nhau làm bá chủ thiên hạ…
trong số những nước hùng mạnh nhất thời bấy giờ chỉ có năm nước, gọi là
cục diện ngũ bá gồm: Tề, Tấn, Tần, Sở, Tống. Những quốc gia này mạnh và
làm chủ các nước chư hầu khác là do ông vua trị vì dựa trên sức mạnh của
bạo lực và áp bức, hoàn toàn đối lập với cách cai trị của “vương đạo” thi hành
“nhân nghĩa”, “lấy đức thu phục nhân tâm, chủ giáo hóa con người”. Mới đầu
cục diện “ngũ bá” có Hoàn Công nước Tề, Văn Công nước Tấn, Mục Công
nước Tần. Chính trong điều kiện lịch sử xã hội đặc biệt đó, đã nảy sinh ra một
loạt các nhà tư tưởng, các trường phái triết học, đại diện cho tầng lớp, giai cấp

tầng lớp khác nhau, đấu tranh với nhau không kém phần sôi động và quyết
liệt, như âm Dương gia, Nho gia, Lão giáo, Mặc gia, Danh gia, với các triết
gia nổi tiếng như Khổng Khâu, Mặc Định, Lão Tử, Dương Chu… tạo nên bộ
mặt và không khí đặc biệt trong lĩnh vực chính trị và tư tưởng ở Trung Quốc
cổ đại.
Thời kỳ Tây Chu (khoảng XI – 771 TCN) khi nhà Chu còn thịnh, chế độ
tông pháp và trật tự lễ nghĩa nhà Chu còn được duy trì. Từ thời Chu Lệ
Vương đến Chu U Vương mâu thuẩn nội bộ của nhà Chu ngày một trở nên
gay gắt.
Trong thôn xã có sự phân hóa giai cấp mạnh mẽ, một số nhỏ nông dân
trở thành địa chủ phú nông, đa số nông dân nghèo đói, mất ruộng hay phải
bán ruộng, đi cấy rẽ cày mướn trở thành tá điền. Do có chế độ tự mua bán
ruộng đất, bọn quý tộc địa chủ, thương nhân giàu có chiếm đoạt hết ruộng
đất của nhân dân và chúng chuyển sang hình thức thuê mướn nhân công.
Quan hệ sản xuất phong kiến nông nô xuất hiện, dần dần chiếm ưu thế trong
nông nghiệp.
Năm 362 TCN, trong tất cả những quốc gia độc lập và tương đối lớn ở
Trung Quốc cổ đại, vương quốc Tần là vương quốc mạnh nhất. Tần Hiếu
Công lên ngôi tích cực phát triển nông nghiệp, củng cố và chuẩn bị binh bị.
Nhờ những cuộc cải cách của Thương Ưởng vào những năm 359-350 TCN về
6
chế độ kinh tế, chính trị, hành chính, pháp luật và luật thu thuế mới, khuyến
khích phát triển nông nghiệp, đã góp phần làm tan rã quan hệ gia trưởng và
chế độ công xã nông thôn trong nước Tần, nhanh chóng làm cho nước Tần
mạnh lên. Tới cuối thế kỷ thứ III TCN vua Tần Doanh Chính lên ngôi lần lượt
chinh phục các nước khác, thống nhất toàn bộ đất nước Trung Hoa, thiết lập
nên quốc gia phong kiến trung ương tập quyền đầu tiên ở Trung Quốc. Đó là
đế quốc Tần, biến cố này là dấu ấn thay đổi lớn nhất trong lịch sử chính trị
Trung Quốc. Nó gắn liền với tư tưởng triết học có ảnh hưởng lớn đến đời
sống tinh thần xã hội thời đó là trường phái triết học pháp gia mà người đại

diện xuất sắc là Hàn Phi Tử, đã giúp nước Tần thành công trong sự nghiệp
thống nhất đất nước.
Sự biến đổi toàn diện về kinh tế, chính trị, văn hóa thời kỳ này đã tạo
tiền đề cho sự giải phóng tư tưởng con người thoát khỏi sự chi phối của thế
giới quan thần thoại và tôn giáo thần bí truyền thống, ảnh hưởng sâu sắc đến
quá trình phát triển của tư tưởng triết học.
1.1.2. Những Tiền đề lý luận hình thành tư tưởng pháp trị
Tư tưởng “pháp trị” của Hàn Phi Tử là sự kế thừa, phát triển và kết
tinh sâu sắc của các tư tưởng triết học trước đó, đặc biệt là các nhà triết học
của trường phái triết học Pháp gia, như Quản Trọng, Thận Đáo, Thân Bất
Hại, Thương Ưởng… Hàn Phi Tử đã phát triển tiếp theo “Thuật”, “Thế”,
“Pháp” lên một trình độ mới, đồng thời thống nhất chúng trong một học
thuyết duy nhất.
Quản Trọng (khoảng thế kỷ VI TCN) tên là Di Ngô. Ông có tài trong
chính trị. Lúc đầu ông là nho gia, sau đó nghiên cứu Pháp gia và chuyển từ
“Đức trị” sang “Pháp trị”. Người ta cho rằng ông là người đầu tiên bàn về vai
trò của pháp luật như là cách trị nước và chủ trương công bố pháp luật cho
dân chúng. Tư tưởng của ông được thể hiện ở những điểm chủ yếu:
Một là, mục đích trị quốc của ông là làm cho phú quốc, binh cường,
“kho lẫm đầy đủ rồi mới biết lễ tiết, y thực đủ mới biết vinh nhục”.
7
Hai là, muốn có phú quốc, binh cường, một mặt Quản Trọng đề xướng
và thực hiện các cải cách như: coi trọng và phát triển cả nông nghiệp, công
nghiệp và thương nghiệp; áp dụng cho chính sách “ngụ binh ư nông” (gửi
việc binh vào nghề nông). Trên cơ sở này mà tổ chức lại quân đội, luyện tập
thường xuyên. Mặt khác, Quản Trọng đề ra và thực hiện lệ “cho chuộc tội”;
“tội nặng thì chuộc bằng một cái áo tế giáp (áo giáp bằng da con tế), tội nhẹ
thì chuộc bằng một cái quy thuẫn (cái thuẫn bằng mai rùa); tội nhỏ thì nộp
kim phí, tội còn nghi thì tha hẳn, còn hai bên thua kiện nhau mà bên nào cũng
có lỗi một phần thì ông bắt nộp mỗi bên một bó tên rồi xử hòa”.

Ba là, Quản Trọng chủ trương trong phép trị nước phải đề cao: “luật,
hình, lệnh, chính”. Luật là để định danh phận cho mỗi người, lệnh là để cho
dân biết việc mà làm, hình là để trừng trị những kẻ là trái luật và lệnh, chính
là để sữa cho dân đi đường ngay lẽ phải. Ông cho rằng, luật pháp phải công
khai rõ ràng, phải dạy cho dân biết luật pháp và khi thi hành phải giữ lòng tin
đối với dân.
Bốn là, trong khi đề cao “luật pháp”, Quản Trọng cũng rất chú trọng đến
đạo đức, lễ, nghĩa, liêm… trong phép trị nước. Khổng Tử khoe rằng: “Quản
Trọng giúp Hoàn Công khiến Hoàn Công làm bá (lĩnh tụ) các chư hầu, thiên
hạ quy về một mối, nhân dân đến nay còn mang ơn ông…”; và Hoàn Công
chín lần họp chư hầu mà không dùng võ lực uy hiếp họ, đó là tài sức của
Quản Trọng. Nhân đức của ông ấy ở đó, nhận thức của ông ấy ở đó”.
Như vậy có thể nói rằng, Quản Trọng là thủy tổ của Pháp gia, đồng thời
là “cầu” nối giữa Nho gia và Pháp gia. Ông là người biết trọng nhân, nghĩa,
lễ, tín và biết vận dụng luật pháp vào thực tiễn cuộc sống để “trị quốc, bình
thiên hạ”.
Thân Bất Hại (khoảng 401 – 337 TCN) là người đất Kinh thuộc nước
Trịnh chuyên học về hình danh; trước làm một chức quan nhỏ ở nước Trịnh,
sau được Chiêu Li Hầu dùng làm tướng quốc nước Hàn. Là người xuất thân
từ giai cấp quý tộc mới chủ trương ly khai “đạo đức”, chống “lễ” đề cao
8
“thuật” trong phép trị nước. Tư tưởng của ông được thể hiện thông qua thiên
“Định pháp” và thiên “Ngoại trữ thuyết hữu thượng” của Hàn Phi Tử.
Theo Hàn Phi Tử, “Thuật” của Thân Bất Hại là phương pháp, thủ đoạn
trị nước của người cầm quyền (nhà vua), nó là cái “bí hiểm” không được lộ
ra cho bề tôi biết là vua (chúa) sáng suốt hay không, biết nhiều hay ít, yêu
hay ghét mình, ham muốn cái gì hay không… nếu không, bề tôi sẽ đề phòng,
dễ dàng nói dối, lừa gạt bề trên. Bậc vua chúa là cái đích của lợi hay hại, do
đó nhiều người nhắm vào, cho nên bậc làm vua chúa bị lừa dối. Vì vậy cho
nên bậc làm vua chúa để lộ cái yêu và cái ghét của mình thì những người sẽ

nhân đó, làm cho vua bị lừa dối. Lời nói vua chúa mà không thông suốt
xuống dưới thì bọn bầy tôi sẽ làm hại tới lời nói và vua chúa sẽ không còn là
thần thánh nữa.
“Thuật” còn có nghĩa là theo thuật hình danh “Trị bất du quan, tuy tri
phất ngôn”, tức là người giữ một chức quan nào đó phải làm đúng chức trách
bổn phận của mình, ngoài chức trách, bổn phận này thì cái gì biết cũng không
được nói. “Thuật” là phải tùy tài mà giao chức quan, theo danh vị mà trách
lấy việc thực, nắm quyền sinh sát, xét tài năng của cả quần thần, đó là điều mà
nhà vua phải nắm lấy”. Hàn Phi Tử nhận xét rằng, làm đúng bổn phận của
mình, cái đó được biết mà không nói thì là sai.
Thận Đáo (370 – 290 TCN) là người nước Triệu. Tư tưởng triết học của
ông chịu ảnh hưởng quan điểm “đạo” tự nhiên, “vô vi” thuần phác của Lão
Tử. Tuy nhiên, về chính trị ông chủ trương trị nước bằng pháp luật. Theo ông,
pháp luật phải khách quan như vật “vô vi”; điều đó loại trừ thiên kiến chủ
quan, riêng tư của người cầm quyền. Trong phép trị nước Thận Đáo đặc biệt
đề cao “thế” trị nước.
Theo Hàn Phi Tử thì Thận Đáo bàn về “thế” như sau: “Con phi long cưỡi
mây mà bay (lên trời). Con xà đằng (một loại rắn như rồng, không có chân)
chế ngự sương mù mà lượn (trong đó). Mây tan sương tạnh rồi thì hai con đó
cũng như con giun, con kiến vì mất chỗ dựa. Người hiền mà chịu khuất kẻ bất
9
tiếu là vì quyền thế nhẹ, địa vị thấp; kẻ bất tiếu mà phục được người hiền là vì
quyền trọng, địa vị cao. Do vậy tôi biết rằng quyền thế và địa vị đủ để nhờ
cậy được, mà bậc hiền, trí không đủ cho ta hâm mộ. Cây ná yếu mà bắn được
mũi tên lên cao là nhờ sức gió đưa đi, kẻ bất tiếu mà lệnh ban ra được thi
hành là nhờ sức giúp đỡ của quần chúng… Do đó mà xét thì hiền và trí không
đủ cho đám đông phục tùng, mà quyền thế địa vị đủ để khuất phục người
hiền”. Như vậy, “thế” trong phép trị nước của Thận Đáo là địa vị, quyền hành
của người cai trị, là sức mạnh của đất nước… nó có thể thay được bậc hiền,
trí mà “trị quốc bình thiên hạ”. Vì vậy, trong thực tế Thận Đáo chủ trương tập

quyền, cấm không được lập các bè đảng, phân biệt và quy định rõ địa vị,
quyền lợi của từng lớp người trong xã hội cho rõ ràng.
Thương Ưởng – người nước Vệ, tên họ là Công Tôn, xuất thân từ giới
quý tộc nhưng đã sa sút, sống cùng thời với Mạnh Tử, Thân Bất Hại và Thận
Đáo. Ông là nhà chính trị có tài được Tần Hiếu Công trọng dụng là tể tướng,
trong thời gian này, ông đã hai lần giúp vua Tần cải cách pháp luật, hành
chính và kinh tế, làm cho nước Tần ngày càng hùng mạnh. Sau khi Tần Hiếu
Công chết Huệ Văn Vương lên ngôi, Thương Ưởng bị giết vì bị nghi làm
phản, nhưng thực chất là trong việc cải cách, ông đã đụng chạm khá nhiều đến
lợi ích của giai cấp quý tộc cũ, nên bị trả thù bằng những cực hình tàn khốc.
Vào năm 359 TCN, ông đề xuất cải cách pháp luật với những nội dung:
tổ chức liên gia, thực hiện chính sách cáo gian; khuyến khích khai hoang, cày
cấy, nuôi tằm, dệt lụa; thực hiện thưởng cho những người có công và phạt
những người phạm tội; quý tộc mà không có công thì sẽ bị phạt xuống thường
dân. Thiên Định pháp, Hàn Phi Tử viết: pháp luật của Thương quân nói: chém
được một đầu giặc thì thăng một cấp, còn muốn làm quan thì được chức quan
năm mươi thạch lương. Chém được hai đầu giặc thì thưởng hai cấp, còn muốn
làm quan thì được chức quan một trăm thạch lương”. Thực hiện chính sách
này thì trong vòng mười năm nước Tần sẽ mau chóng mạnh lên.
10
Vào năm 350 TCN, Thương Ưởng lại thực hiện biện pháp một lần nữa,
lần này chủ yếu thiên về cải cách hành chính như: khuyến khích khai hoang,
thực hiện một thứ thuế thống nhất và công bằng cho mọi người, thống nhất đồ
đo lường… do vậy, chỉ một thời gian ngắn nước Tần đã mạnh hẳn lên và lần
lượt thôn tính sáu nước Ngụy, Tề, Yên, Sở, Hàn, Triệu để thống nhất toàn bộ
Trung Quốc. Trong phép trị nước, Thương Ưởng đề cao “pháp”, theo ông
pháp luật phải nghiêm, ban bố cho dân ai cũng biết, kẻ trên người dưới ai
cũng phải thi hành, ai có tội thì phạt và phạt nặng. Đó là cách “dĩ hình khử
hình” (dùng hình phạt để từ bỏ hình phạt). Hàn Phi Tử nhận xét rằng, “Công
Tôn Ưởng trị nước Tần, đặt ra lệnh phải cáo gian, nếu tố cáo sai thì bị tội,

năm và mười nhà phải cùng phải chịu trách nhiệm; thưởng hậu mà xác thực,
phạt nặng mà cương quyết; nhờ vậy mà dân tận lực làm lụng không nghỉ,
đánh đuổi địch, dù nguy cũng không lùi bước, làm cho đất nước ngày càng
giàu mạnh.
Sự xuất hiện của triết học Hàn Phi Tử không phải chỉ vì đời sống thực
tiễn của xã hội Trung Quốc thời Xuân Thu – Chiến quốc, mà còn vì những
tiền đề tư tưởng nhất định do những nhà triết học của các trường phái khác
nhau, cũng như những đại biểu của Pháp gia trước đó xây dựng.
Khi giới thiệu về Hàn Phi Tử nhà nghiên cứu Phan Ngọc đã nhận xét
rằng “ông là người duy nhất của Trung Quốc thực hiện được sự tổng hợp cả
ba học thuyết Nho, Lão, Pháp. Ở đó Nho là tài liệu xây dựng, Pháp là cái bản
thiết kế, nhưng Lão mới là kỹ thuật thi công cái ngôi nhà độc đáo” [23;17].
Một trong những tư tưởng triết học của các trường phái khác mà Hàn Phi
Tử kế thừa và tiếp thu đó là tư tưởng “chính danh” của Nho gia. Với Khổng
Tử xã hội của thời Xuân Thu – Chiến quốc là một hiện thực lộn xộn, cũ mới
đan xen vì thế cần phải “chính danh” cho vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con
ra con. Chính danh là điều căn bản của việc làm chính trị, đưa xã hội “loạn”
trở lại “trị”. “Chính” là làm cho mọi việc ngay thẳng, nếu danh không chính
thì lời nói sẽ không đúng đắn, lời nói không đúng đắn thì việc thi hành sai.
11
Khi đó người với người trong xã hội sẽ không tôn trọng nhau, không còn hòa
khí, pháp luật lỏng lẻo và người dân sẽ mất nơi trông cậy, nhờ vả. Dân không
có chỗ trông cậy nhờ vả thì dân sẽ không còn tin ở bề trên, lúc đó dù muốn
hay không xã tắc cũng khó tránh bề suy sụp.
Không chỉ có “chính danh” Hàn Phi Tử còn thừa kế tư tưởng “công lợi”,
“thượng đồng” của Mặc gia. “Công lợi” theo Mặc gia là căn cứ, tiêu chuẩn
cao nhất để xem xét thẩm định giá trị của con người. Người nhân làm việc để
cầu lấy điều lợi, trừ điều hại cho thiên hạ. Mặc gia chỉ ra những điều hại của
thiên hạ thời nay như nước lớn đánh nước nhỏ, mạnh đánh yếu, đông hiếp
ít… và cần phải tìm ra nguồn gốc của những điều hại đó mà trừ để cho dân

được yên ổn, hạnh phúc, đồng thời cũng tìm ra nguyên nhân của điều lợi,
“công lợi” không chỉ là cái đạo của thánh nhân mà còn là cái đức căn bản của
con người, là lợi ích thiết thực cho muôn dân.
Với Mặc gia “thượng đồng” có ý nghĩa là dưới luôn luôn phải thuận theo
ý trên và phục tùng tuyệt đối mệnh lệnh của bên trên, là sự thống nhất, tán
đồng từ dưới lên trên. Tuy nhiên sự tán đồng cao nhất của Mặc gia là phục
tùng theo ý trời, thực hiện “kiêm ái”. “Thượng đồng” còn là kẻ trên người
dưới thông tình đạt ý, người trên nếu có việc ẩn bỏ sót cái lợi, kẻ dưới có thể
biết được mà làm lợi cho người trên, kẻ dưới mà có oan chứa, hại tịch người
trên có thể biết mà trừ khử họ.
Hàn Phi Tử còn kế thừa quan niệm về “đạo”, “đức” và “đạo vô vi” của
Đạo gia, “tính ác” của Tuân Tử. Trong tư tưởng của mình “đạo” chiếm vai trò
cực kỳ quan trọng trong triết học Lão Tử. Nó là nền tảng của mọi vấn đề
khác, chi phối toàn bộ học thuyết của ông. Mặc dù trước ông khái niệm “đạo”
đã xuất hiện với nhiều ý nghĩa và tính chất khác nhau như “thiên đạo” “nhân
đạo” đến Lão Tử khái niệm “đạo” mang nội dung sâu sắc và hoàn chỉnh hơn.
“Đạo” theo Lão Tử mang tính tự nhiên được hiểu như là tính khách quan, vốn
như thế, không phụ thuộc vào ý chí con người. Ông cho rằng mọi sự sinh
thành, biến hóa của vạn vật đều từ “đạo” mà ra. “Đạo” của Lão Tử nhiều khi
12
được dùng như một thuật ngữ chỉ về trật tự của tự nhiên, về tính quy luật,
nhiều khi dùng “đạo” để hình dung vạn vật. Có chỗ “đạo” có trước vạn vật, có
trước hiện tượng đầu tiên. “Đạo” của Lão Tử là một thứ rất huyền bí, thoát
trần không thể dùng ngôn ngữ và khái niệm để nhận thức về nó.
Gắn với “đạo” trong tư tưởng của Lão Tử còn có “đức”. Nếu như “đạo”
là một vật siêu tự nhiên, thần bí khó hiểu thì “đức” là thứ lý sâu sắc phổ biến,
là hình dáng của vạn vật. “Đạo” làm cho vật sinh trưởng thành, “đức” làm cho
vạn vật tốt tươi, “đạo” quán triệt thiên hạ, “đức” của nó trở nên phổ biến… ta
có thể biết được thiên hạ là nhờ vào điểm đó. Chính điều này là yếu tố duy vật
trong tư tưởng triết học về bản thể luận của Lão Tử. Tiếp thu tư tưởng duy vật

về “đạo” của Lão Tử trong học thuyết triết học của mình Hàn Phi Tử đã đưa
ra quan niệm về “đạo” và “lý”. “Đạo” của Hàn Phi Tử là cái khởi đầu của
muôn vật, là tiêu chuẩn phân biệt phải trái, nắm được đạo là biết được nguồn
gốc của muôn vật, biết then chốt của việc đúng sai. Nhà vua chỉ cần nắm
được “đạo” là có thể ngồi yên, vô vi mà vẫn có thể cai trị được quần thần, trị
được nước. “Đạo” là cái làm cho muôn vật thành ra như nó tồn tại hiện nay là
chỗ dựa của muôn lý, là cái lý của vạn vật [23;187]. “ Đạo” không bị hình
thức hạn chế, mềm yếu theo thời, cùng tương ứng với “lý”. Muôn vật được nó
mà sống mà bại mà thành, vì vậy phải biết dụng “đạo” cho đúng. Chính Lão
Tử cũng nói rằng cái “đạo” là cái vượt lên trên vạn vật thiên địa, là cái sinh ra
trước trời đất yên lặng mênh mông, độc lập hay không thay đổi, có thể lấy
làm mẹ sinh ra thế gian ta không biết tên nên tạm gọi nó là “đạo”. [Đạo Đức
Kinh chương 25].
Theo Hàn Phi Tử “đạo” chính là quy luật phổ biến của giới tự nhiên, tồn
tại vĩnh viễn và không thay đổi. Còn cái “lý” là sự biểu hiện khác nhau của
“đạo”, trong mỗi sự vật cái bất thường luôn luôn biến đổi. Trên cơ sở đó ông
yêu cầu con người không chỉ dựa trên quy luật khách quan để hành động, mà
còn phải tùy theo sự biến hóa của “lý”, chống chế độ thủ cựu và bảo thủ.
13
Không chỉ là quy luật phổ biến của giới tự nhiên, “đạo” được Hàn Phi
Tử ví như nước có nghĩa là mênh mông rộng lớn, không thể đo lường được.
“Đạo” là một thứ mà chúng ta không thể nhận biết được bởi nó không có âm
thanh, không có hình dáng, tuy nó tồn tại độc lập nhưng không biến đổi, và
chu hành theo vòng quay của vạn vật. Nó là nguồn gốc để vạn vật, thiên địa
được sinh ra cùng tồn tại và phát triển. Với Hàn Phi Tử trong thế giới này
“đạo” có ở khắp nơi, và vạn vật sinh ra được bắt nguồn từ “đạo” vì “đạo” vốn
là mẹ sinh ra thế gian nên “đạo” nuôi nấng vạn vật trong vũ trụ. “Đạo” vận
động theo một quy luật chung và đây chính là cái “đạo” của trời đất. Tuy
nhiên trong thế giới này có nhiều cái “đạo” như: tà đạo, chính đạo… từ đó để
phân biệt được phải trái, tốt xấu của “đạo”.

Như vậy, theo Hàn Phi Tử “đạo” vừa là nguồn gốc của vạn vật, vừa
mang tính phổ biến khách quan vì thế nó không thay đổi. Còn “lý” là quy luật
riêng nên nó bất thường biến hóa không ngừng. Vật lúc còn lúc mất chết sống
cùng nhau, thịnh đó rồi lại suy đó vì vậy không thể gọi là vĩnh viễn. “Lý” là
cái văn vẻ làm thành vạn vật, để phân biệt hình dạng vạn vật trong vũ trụ.
Theo Hàn Phi Tử có cái “lý” xác định rồi mới có cái “đạo”. Vật khi có cái
“lý” xác định không thể biến hóa, “lý” chính là cái quy tắc quy luật riêng
trong mỗi điều kiện hoàn cảnh riêng. Từ “đạo” và “lý” để nhận thức được sâu
sắc sự vật và hoạt động có kết quả, Hàn Phi Tử khẳng định mọi hoạt động của
con người đều phải tuân theo quy luật “thể hiện đạo” và “tuân theo lý”. Vận
dụng học thuyết “đạo” và “lý” vào phép trị nước, Hàn Phi Tử cho rằng, ngày
nay, cái “lý” (thế thời, hoàn cảnh) đã thay đổi, thì phép trị nước không thể
viện dẫn theo “đạo đức” của Nho gia, “kiêm ái” của Mặc gia, “vô vi” của Đạo
gia như trước nữa mà trong hoàn cảnh hiện tại (vương đạo suy vi, đất nước
loạn lạc) cần phải dùng pháp trị.
Đứng trên lập trường của thế giới quan duy vật, Hàn Phi Tử cho rằng
“đạo” là cái mà con người có thể nhận thức được. Nay “đạo” không thể nhìn
thấy nhưng thánh nhân nắm lấy chỗ có công hiệu của nó mà thấy được hình
14
dạng của nó [23;188]. Đồng thời, ông kiên quyết phản đối mê tín, bói toán, tin
vào quỷ thần. Ông nhấn mạnh rằng: “Trên thế giới không có gì chứng thực
được là có quỷ thần, người cai trị tin vào quỷ thần là sẽ mất nước, đánh giặc
mà nhờ cầu khẩn quỷ thần thì sẽ thất bại. Hàn Phi Tử còn phản đối lối đoán
mò vô căn cứ và thuyết tiên nghiệm luận duy tâm cho rằng “hành trước vật,
động trước lý” đó là tiềm thức. Mặc dù trên cơ sở kế thừa nhưng quan niệm
về “đạo” của Hàn Phi Tử có nhiều điểm khác với Lão Tử vì quan niệm của
Hàn Phi Tử phản ánh được lịch sử xã hội Trung Quốc thời bấy giờ.
Không chỉ dừng lại ở đó triết học Hàn Phi Tử đưa ra quan điểm về qua
trình tiến hóa lịch sử, tiến hóa là tiền đề tiếp theo và quan trọng, phản ánh rõ
nét quan điểm duy vật trong tư tưởng pháp trị của trường phái Pháp gia. Vận

dụng thuyết “đạo” và “lý” (thời thế hoàn cảnh, điều kiện của xã hội) đã thay
đổi thì đạo trị nước phải thay đổi. Đây là cơ sở đầu tiên và vững chắc để Hàn
Phi Tử đưa ra và luận chứng quan điểm cho rằng kiểu cai trị theo lối thác cổ
là không phù hợp, thậm chí lừa bịp, sinh loạn và cai trị theo lối thác cổ là tiền
đề quan trọng mà trường phái triết học Pháp gia thấy rõ không thể dùng pháp
luật như cũ, cũng không thể sử dụng “đức trị”, “kiêm ái”, “vô vi” để trị nước.
Nhà vua phải triệt để dùng “pháp - thế - thuật” của Pháp gia để trị nước.
Là học trò xuất sắc của Tuân Tử ngoài việc kế thừa học vấn uyên bác
của thầy, của Nho gia. Hàn Phi Tử đặc biệt nhấn mạnh tư tưởng “tính ác” của
Tuân Tử nhưng khắt khe hơn khi cho rằng người vốn “đại ác”. Hàn Phi Tử
cho rằng con người sinh ra là ích kỷ, vị lợi là thích điều lợi mà tìm nó ghét
điều hại mà tránh nó đó là bản tính của con người [23;124].
Tóm lại, quan điểm pháp luật được hình thành khá sớm trong lịch sử
tư tưởng Trung Quốc cổ đại. Nó phát triển đến thời Chiến quốc đã hình
thành nên ba thuyết cơ bản: “thế” của Thận Đáo, “thuật” của Thân Bất Hại
và “pháp” của Thương Ưởng. Trong đó mỗi thuyết có vị trí, vai trò quan
trọng riêng của mình trong phép trị nước. Tuy nhiên, sự tồn tại tách rời
giữa chúng làm bộc lộ những yếu điểm mà tự mình, mỗi thuyết không thể
15
khắc phục được. Sự nghiệp thống nhất và phát triển của đất nước Trung
Quốc đòi hỏi phải phát triển tiếp theo “thế”, “thuật”, “pháp” lên một trình
độ mới, đồng thời phải thống nhất chúng trong một học thuyết duy nhất.
Người đảm nhận và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ này là nhà triết học và
luật học – Hàn Phi Tử.
1.1.3. Thân thế và sự nghiệp của Hàn Phi Tử
Hàn Phi Tử (280-233 TCN) được coi là nhà tư tưởng số một của
trường phái Pháp gia thời Xuân thu – Chiến quốc đồng thời cũng là một
nhà văn hóa xuất sắc.
Hàn Phi Tử là con vua nước Hàn nhưng không phải là người được kế vị
ngôi báu. Bản thân Hàn Phi Tử nổi tiếng là người thông minh, ham học và

học rất giỏi, là người có năng khiếu đặc biệt về văn học. Ông nói ngọng,
không có sở trường nói chuyện, nhưng lại rất giỏi viết lách.
Xuất thân từ tầng lớp danh gia vọng tộc là con vua một nước chư hầu lớn
thời Chiến Quốc cho nên ngay từ nhỏ Hàn Phi Tử đã nhận thấy rõ mối quan
hệ giữa nhà vua và bề tôi, nhận thức được mặt hạn chế của cách cai trị đất
nước lúc bấy giờ. Chính vì vậy điều làm ông canh cánh suốt cuộc đời là làm
sao đưa ra được cách cai trị nước tốt nhất để chấn hưng và bảo tồn đất nước,
từ trường học của nước Tề trở về nước, thấy nước Hàn ngày càng suy yếu,
ông đã nhiều lần viết thư cho vua Hàn và mong muốn thực hiện được cuộc cải
cách toàn diện nhưng không được chấp thuận. Như vậy, mong muốn từ nhỏ
của ông đã không được thực hiện nên ông quan tâm hơn tới việc xây dựng
một học thuyết có tính thống nhất để cho đời sau sử dụng, trong đó nội dung
chủ yếu là phục vụ cai trị và quản lý đất nước. Ngoài việc lấy kinh nghiệm,
kiến thức chắt lọc từ các học giả trước đó như Khổng Tử, Mạnh Tử… cũng
như tiếp thu tư tưởng của Tuân Tử, Hàn Phi Tử là người kế thừa những đại
diện của phái pháp gia trước đó như: Quản Trọng (730-645 TCN), Ngô Khởi
(440-381 TCN), Thương Ưởng (380-338 TCN)…
16
Hàn Phi Tử đã nhiều lần dâng sớ tới vua Hàn để hiến kế sách cứu
nước, nhưng vua Hàn không nghe lời ông. Tuy vậy, bộ Hàn Phi Tử đã
được lan truyền tới tay vua Tần. Tần Thủy Hoàng khi đọc xong “Cô phẫn”
và “Ngũ đố” đã hết sức thán phục, bảo: “ta được làm bạn với người này
có chết cũng không hối hận”.
Một thời gian sau, Tần cất quân đánh Hàn. Hàn Vương Anh lúc đầu
không tin dùng Hàn Phi Tử, bây giờ mới cảm thấy lo lắng, Vương Anh
bèn cho mời Hàn Phi Tử vào cung và cử ông làm sứ sang nước Tần để hòa
giải mông cứu được đất nước khỏi họa xâm lăng. Vốn là người yêu nước,
Hàn Phi Tử đã nhận lãnh sứ mạng đó. Đi sang nước Tần, vua Tần rất
mừng đón tiến ông nhưng cũng không tin dùng ông. Lý Tư mặc dù là bạn
học của Hàn Phi nhưng do ghen ghét với tài năng của bạn, sợ vua Tần

trọng dụng Hàn Phi cho nên đã thừa dịp này nói xấu ông. Lý Tư cho rằng:
“Hàn Phi là người nước Hàn, rốt cuộc ông ta vẫn tận trung với nước Hàn
chứ không tận trung với nước Tần đâu. Nhà vua không dùng ông ta, giữ
ông ta ở đây lâu rồi trả về nước Hàn, chi bằng buộc tội ông ta rồi giết đi”.
Tần Thủy Hoàng cho là phải và giam ông vào ngục tối. Lý Tư vẩn chưa
hài lòng sợ vua Tần đổi ý nên đã sai người đem thuốc độc cho Hàn Phi,
bảo Hàn Phi nên sớm tự tử ở trong ngục. Hàn Phi xin được yến kiến vua
Tần để trần tình nhưng không được. Đến lúc Tần Thủy Hoàng suy nghĩ lại
muốn tha cho ông thì Hàn Phi đã về nơi chín suối. Đó là năm 233 TCN.
Ba năm sau khi Hàn Phi Tử mất, nước Hàn bị tiêu diệt. Mười hai năm sau
đó, Tần Thủy Hoàng thống nhất thiên hạ.
Hàn Phi đã không có chỗ dung thân ở nước Tần. Tuy nhiên, những tư
tưởng của ông đề ra thì lại hết sức quan trọng trong chính sách cai trị của nhà
Tần. Tần Thủy Hoàng cùng với Lý Tư đã hết sức đề cao học thuyết của phái
pháp gia, đặc biệt là tư tưởng pháp trị. Tư tưởng pháp trị đã đáp ứng được nhu
cầu lịch sử lúc bấy giờ là phải có một chính quyền mạnh để thống nhất Trung
Quốc. Nhà Tần đã bỏ hẳn tư tưởng của Nho gia, Đạo gia, Mặc gia… ra khỏi
17
đường lối cai trị của mình và độc tôn Pháp gia. Chính vì áp dụng học thuyết
pháp gia mà nhà Tần đã thống nhất được thiên hạ, chấm dứt được thời kỳ
hàng chục, hàng trăm nước chư hầu lớn nhỏ tranh hùng, tranh bá, mở ra một
thời kỳ thống nhất cho lịch sử Trung Quốc.
Theo nghiên cứu của một số nhà khoa học thì Hàn Phi bắt đầu viết
sách khoảng năm thứ 8 đời Trần Thủy Hoàng. Theo Sử Ký của Tư Mã
Thiên thì năm, sáu năm sau khi Hàn Phi đi sứ Tần, cả Lý Tư và Tần Thủy
Hoàng đều đã được đọc tác phẩm của ông. Tư Mã Thiên cũng cho rằng
tác phẩm của Hàn Phi trên mười vạn chữ và có những thiên như Cô phẫn,
Ngũ đố, Nội, Ngoại trừ, Thuyết lâm, Thuế nan… mà không cho biết trọn
bộ có bao nhiêu thiên. Trần Khải Thiên đã có sự sắp đặt lại chia thành
mười quyền theo quy tắc những thiên nào quan trọng nhất như Hiền Ngọc,

Ngũ đố, Nạn thế… thì đưa lên trên còn những thiên kém quan trọng hoặc
còn nghi ngờ không phải của Hàn Phi thì đưa xuống dưới.
Theo sự nghiên cứu của Nguyễn Hiến Lê có tham khảo thêm ý kiến của
Trần Khải Thiên có thể phân chia các thiên của Hàn Phi theo cách sau.
− Các thiên chắc chắn của Hàn Phi: Nam ngôn, Cô phẫn, Thuế nan,
Hòa thí, Bị nội, Nan diện, Thuyết lâm hạ, Nội trừ thuyết thượng,
Ngoại trừ thuyết hửu hạ, Nạn thất, Nạn tam, Nạn tứ, Nạn thế, Vận
biến, Ngụy sử, lục phản, Ngũ đố, Hiến học, Trung hiếu.
− Các thiên còn tồn nghi hoặc có phần là của Hàn: Tồn Hàn, Ái
Thần, Hửu độ, Nhị Bính, Bát gian, Thập quá, Gian kiếp thĩ thần,
Vong trưng, Tam thủ, Thuyết ngữ, Bát thuyết, Bát kinh… Nhân chủ,
Sức lệnh, Tâm độ, Thế than…
Qua tác phẩm của Hàn Phi Tử chúng ta thấy được tư tưởng, nội dung học
thuyết của Hàn Phi khá rõ ràng về lịch sử quan, thế giới quan. Nhưng
phần có giá trị nhất của Hàn Phi cho triết học nói riêng và lịch sử Trung
Quốc nói chung là tư tưởng pháp trị.
18
1.2. Nội dung tư tưởng pháp Trị của Hàn Phi Tử
Triết học Hàn Phi được coi là tập đại thành triết học Pháp gia, tư tưởng
pháp trị của ông là tổng hợp của pháp, thế, thuật đó là ba thứ kiêm dụng, là
phương châm trị quốc cơ bản của Hàn Phi Tử, cũng là nội dung trọng tâm của
lý luận quản lý pháp gia của ông. Nó là một sách lược, cũng là phương pháp
trị quốc thiết thực. Sau đây chúng ta sẽ lần lượt nghiên cứu nội dung của từng
thuyết một.
1.2.1. Tư tưởng của Hàn Phi Tử về pháp
Trong lịch sử Trung Quốc cổ đại tư tưởng về Pháp và hình pháp xuất
hiện rất sớm. Trong tư tưởng Trung Quốc “pháp” là một phạm trù triết học
được hiểu theo hai nghĩa:
Theo nghĩa rộng: pháp là thể chế quốc gia, là chế độ chính trị, xã hội của
đất nước.

Theo nghĩa hẹp: pháp là những điều luật, luật lệ, hiến lệnh, quy định có
tính chất khuôn mẫu mà mọi người trong xã hội phải tuân thủ. Pháp do vua
ban hành để điều khiển xã hội, còn hình pháp tức là bộ luật do vua ban hành
để trừng trị kẻ có tội.
Trước Hàn Phi Tử, Nho gia dùng chữ pháp theo nghĩa phép tắc, lễ giáo,
chẳng hạn “hậu vương chi pháp” (phép tắc của hậu vương), “tiên vương chi
pháp” (phép tắc của tiên vương).
Theo các nhà nghiên cứu thì có lẽ Quản Trọng là người đầu tiên bàn về
pháp. Quản Trọng khẳng định rằng pháp luật là quy tắc của thiên hạ. Lấy
pháp luật mà giết, mà trị tội thì dân chịu mà không oán, lấy pháp luật mà định
công lao thì dân nhận thưởng mà không cho là ân đức… cho nên dùng pháp
luật mà khiến dân thì họ theo, không có pháp luật thì dân dừng lại. Dân lấy
pháp luật chống nhau với quan lại. Người dưới lấy pháp luật phục vụ người
trên, cho nên bọn dối trá không thể lừa chủ, bọn ghen ghét không có cái bụng
của kẻ giặc, bọn xu nịnh khoe cái khéo ngoài ngàn dặm không dám làm điều
trái. Chính trường phái triết học Pháp gia mà đại biểu là Hàn Phi Tử nói tới
19
pháp là luôn chỉ pháp luật của nhà nước tức là những luật lệ, quyền hành
thưởng phạt…
Pháp là một nội dung quan trọng trong học thuyết của Hàn Phi. Trong
thiên Định pháp Hàn Phi Tử đã định nghĩa Pháp như sau “Pháp là hiến lệnh
công bố ở các công sở, thưởng hay phạt đều được dân tin chắc là thi hành,
thưởng người cẩn thận giữ pháp luật, phạt kẻ phạm pháp, như vậy bề tôi sẽ
theo Pháp” [11;273]. Nho gia nói pháp tức muốn nói tới những phép tắc, quy
tắc còn Pháp gia nói tới pháp là luôn chỉ nói tới pháp luật. Trong thiên hữu độ
Hàn Phi Tử đã ví pháp với dây mực, cái thủy chuẩn, cái quy, cái củ tức là
những cái dùng để đo lường, dùng để làm tiêu chuẩn cho cái khác. Pháp luật
là một thứ tiêu chuẩn để biết đâu là phải, đâu là trái, đâu là chính, đâu là tà, để
khen, chê, thưởng phạt đúng người, đúng công việc.
Do sự thay đổi của lịch sử xã hội, người ngày càng nhiều mà của cải thì

lại khan hiếm cho nên nạn cướp bóc của cải xảy ra nên người ta phải sử dụng
pháp luật để điều chỉnh xã hội. Do yêu cầu, kẻ thống trị phải căn cứ vào nhu
cầu khách quan của lịch sử, tùy đặc điểm, hoàn cảnh, thời thế mà lập ra chế
độ, đặt chính sách, phương pháp trị nước mới cho thích hợp vì không có một
pháp luật nào đúng với mọi thời đại. Hàn Phi Tử còn biện luận “pháp trị dân
không cố định, chỉ dùng pháp luật để trị mà thôi”. Pháp luật mà biến chuyển
theo thời đại thì thiên hạ trị… vì thế thời thế thay đổi thì pháp luật cũng cần
thay đổi. Đây là quan điểm thể hiện rõ tính duy vật và tư tưởng biện chứng tự
phát về lịch sử và phương pháp trị nước của Hàn Phi Tử. Tư tưởng này của
ông đã được người sau lấy làm chuẩn mực cho sự biến đổi của xã hội và pháp
luật để thực hiện nước giàu binh mạnh.
Như đã tìm hiểu tư tưởng dùng pháp luật để trị nước không phải đến Hàn
Phi mới có mà tư tưởng này đã có từ Quản Trọng đến Thương Ưởng và dần
dần phát triển thêm theo chiều dài của lịch sử. Điểm đáng chú ý ở đây là sự
tôn quân càng tăng thì ý thức pháp luật càng mạnh. Nho gia tuy cũng rất đề
cao vua nhưng coi vua chỉ nhận sứ mệnh của trời nên vua cần có đạo đức.
20
Nho gia chỉ biết đề cao đạo đức, về bổn phận chứ không đề ra pháp luật. Trái
lại, Pháp gia lại cho rằng vua cần phải áp dụng theo pháp luật để cai trị nước.
Mặc dù vua là người đề ra pháp luật, xét xử người vi phạm nhưng vua cũng
phải thừa hành pháp luật, làm đúng theo pháp luật để làm gương cho kẻ khác.
Như vậy, vua vẫn bị một vòng Kim cô khống chế, đó chính là pháp luật. Đối
tượng của pháp luật, theo ông là toàn bộ xã hội chứ không phải là một lớp
người nào. Trị nước an dân không có gì hiệu quả bằng thực hiện pháp luật,
song “Pháp luật không hòa theo người sang. Sợi dây rọi không uốn mình theo
cây gỗ cong” trừng trị cái sai không tránh kẻ đại thần, thưởng cái đúng
không bỏ sót kẻ thất phu. Hàn Phi cho rằng vua là tượng trưng cho quốc gia
do đó vua là người nắm quyền đề ra pháp luật. Tuy nhiên, không phải vua
muốn đề ra, áp đặt pháp luật ra sao cũng được mà khi xây dựng pháp luật phải
tuân thủ theo nguyên tắc nhất định sau:

Nguyên tắc thứ nhất, luật pháp phải hợp thời. Hàn Phi cho rằng xã hội
luôn luôn vận động, biến đổi không ngừng, đời sau không giống đời trước
cho nên pháp luật cũng phải tùy cơ, tùy hoàn cảnh mà đề ra cho phù hợp.
Tập cổ là điều đáng quý nhưng nếu không đúng lúc, không phù hợp sẽ trở
nên lố lăng, kệch cỡm, nếu không muốn nói là đôi khi còn phản tác dụng.
Trong thiên Tiên độ có câu: “Pháp luật cùng với thời mà thay đổi thì nước
trị, trị dân mà hợp với đời thì có kết quả. Thời thay mà pháp luật không đổi
nước loạn, đời đã thay đổi mà cấm lệnh không biến thì nước bị chia cắt. Cho
nên thánh nhân trị dân thì pháp luật theo thời mà đổi, cấm lệnh cùng với đời
mà biến” [11;276]. Như vậy, theo quan niệm của Hàn Phi Tử, pháp luật
trước hết phải hợp thời, tức là phù hợp với hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã
hội của đất nước trong thời gian đó. Khi điều kiện thay đổi, hoàn cảnh thay
đổi thì pháp luật cũng phải có sự biến đổi cho phù hợp, có như vậy đất nước
mới phát triển lên được.
Xuất phát từ quan điểm biện chứng về lịch sử xã hội loài người Hàn Phi
Tử cho rằng pháp luật phải thay đổi theo sự thay đổi của thời đại. Vì lịch sử
21
xã hội luôn luôn biến đổi, từ trước tới nay không có một xã hội nào tồn tại
vĩnh viễn, mỗi một xã hội có một hệ thống pháp luật phù hợp để trị vì xã hội
và pháp luật đó phải tương ứng với trình độ phát triển của xã hội. Vì vậy
trong thiên Tâm độ về việc pháp, Hàn Phi Tử viết: “Dân chúng chất phát, chỉ
cần dùng thanh danh tốt hoặc thanh danh xấu để chế ước họ cũng quản lý họ
tốt. Người trên xã hội trí xảo gian trá thì phải dùng hình phạt chế ước mới
khiến họ phục tùng. Đất nước thời đại phát triển rồi mà biện pháp quản lý
không thay đổi thì sẽ hổn loạn, người trí xảo càng nhiều mà lệnh cấm không
thay đổi thì nước sẽ suy yếu. Cho nên, thánh nhân cai trị dân chúng pháp thế
tùy theo sự phát triển trí năng mà cải đổi” [9;588-589].
Pháp luật phải soạn sao cho dân dễ biết, dễ thi hành. Trong Thiên Ngũ
đố, Hàn Phi viết “ Pháp luật không gì bằng thống nhất; cố định để cho dân dễ
biết” [11;277]. Thống nhất ở đây có nghĩa là pháp luật phải quy định cho cả

nước theo chứ không phải chỉ áp dụng cho một vùng riêng biệt nào đó. Nếu
làm như thế thì dân không biết mà vô tình phạm pháp mất. Thống nhất còn có
ý nghĩa là khi ban hành lệnh mới, các luật lệ mới thì phải bỏ pháp lệnh cũ đi,
nếu không thì kẻ gian sẽ lợi dụng tình trạng mập mờ đó, dùng pháp lệnh nào
đó có lợi cho họ mà theo.
Như vậy, tư tưởng của Hàn Phi Tử rõ ràng rất tiến bộ. Vì pháp luật thì
không thể nào khác như thế được không thể có một bộ luật nào có thể đem áp
dụng cho mọi thời đại được.
Nguyên tắc thứ hai, Theo Hàn Phi Tử thì pháp luật là để cho toàn dân
theo, do vậy phải làm thế nào để cho dân dễ biết và dễ thi hành kể cả những
người không có học cũng hiểu được. Ông viết: “Cái gì mà kẻ sỹ có óc tinh tế
mới biết được thì không nên ban hành làm lệnh, vì dân không phải người nào
cũng có óc tinh tế cả. Cái gì mà bậc hiền mới làm được, thì không nên dùng
làm phép tắc vì không phải người dân nào cũng hiền cả” [11;278]. Điều đó có
nghĩa là pháp luật phải được soạn sao cho minh bạch, dễ hiểu ai cũng có thể
hiểu được một cách đúng đắn, chính xác. Nếu lời văn cao siêu quá thì người
22
dân khó biết mà thực hiện, nếu lời văn tĩnh lược hoặc dài dòng quá sẽ gây ra
tình trạng hiểu mập mờ, hiểu nhầm hoặc lợi dụng sự sơ hở của câu chữ để thu
lợi về mình.
Pháp luật soạn thảo ra cũng cần phải được phổ biến rộng rãi cho dân dễ
biết và thi hành, không nên chỉ truyền bá pháp luật trong giai cấp thống trị,
trong tầng lớp quan lại mà phải có mở rộng cho toàn dân biết. Để phổ biến
pháp luật rộng rãi cho dân có thể dùng theo ba cách sau:
Thứ nhất; là viết hay khắc lên thẻ tre treo ở những chỗ công cộng, những
chỗ đông đúc người qua lại (người ta gọi là trúc hình). Cũng có thể đúc các
điều luật lên các đỉnh bằng sắt nhưng các đỉnh này chỉ được trưng bày ở trong
cung hoặc miếu đường, dân ít được biết nên khó phổ biến hơn “trúc hình”.
Thứ ha; là để quan lại dạy pháp luật cho dân, lấy quan lại làm thầy, lấy
các điều luật làm sách. Chính sách “Lấy pháp luật mà dạy dân” được đề cập

đến trong thiên Ngũ đố.
Nguyên tắc Thứ ba, pháp luật phải công bằng, pháp luật soạn thảo ra
phải đem lại quyền lợi như nhau cho mọi người dân, không kể sang hèn, số ít
hay số nhiều. Có như vậy thiên hạ mới không loạn. Nhìn chung, các Pháp gia
đều mong muốn có sự công bằng, bình đẳng trong thiên hạ. Tuy nhiên, sự
công bằng trong Pháp gia không bao giờ hàm cả tình thương. Ở đây, nếu Pháp
gia kết hợp giữa “lý” với “tình” thì thật tuyệt.
Sự công bằng, bình đẳng trước pháp luật là một tư tưởng rất tiến bộ của
Pháp gia. Nó hoàn toàn ngược với tính chất giai cấp của “lễ” trong Nho gia.
Do vậy, chủ trương bình đẳng trước pháp luật là một tư tưởng hết sức tiến bộ.
Thương Ưởng và Hàn Phi đã dùng pháp luật để loại trừ đặc quyền đó của tầng
lớp quý tộc, kéo họ xuống ngang hàng với bình dân.
Hàn Phi Tử viết: “Bậc thánh nhân coi sự thực của sự phải quấy, xét tình
hình trong sự trị loạn, cho nên trị nước thì mình định pháp luật, đặt ra hình
phạt nghiêm khắc để cứu loạn cho quần chúng, trừ họa cho thiên hạ, khiến
cho kẻ mạnh không lấn người yếu, đám đông không hiếp đáp số ít, người già
23

×