Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

CUỘC CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CHỈ CÓ THỂ THẮNG LỢI – THÀNH CÔNG KHI VÀ CHỈ KHI CÓ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN. TẠI SAO? LIÊN HỆ CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (574.66 KB, 38 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

~~~~~~*~~~~~~

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
CUỘC CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CHỈ CĨ THỂ
THẮNG LỢI – THÀNH CƠNG- KHI VÀ CHỈ KHI CÓ SỰ
LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN CỦA GIAI CẤP CƠNG
NHÂN. TẠI SAO? LIÊN HỆ CÁCH MẠNG VIỆT NAM.

Mơn học
Giảng viên hướng dẫn
Sinh viên Thực hiện

:
:
:

CHỦ NGHĨA KHOA HỌC XÃ HỘI

Nhóm

Họ và Tên

MSSV

1.
2.
3.


4.
5.
Thành phố Hồ Chí Minh
Tháng 6, năm 2021

STT


NHÓM THỰC HIỆN: NHÓM 13
Họ và tên thành viên:

MSSV

STT

Điểm:

Lời nhận xét:

Chữ kí của giảng viên


MỤC LỤC

MỤC LỤC.............................................................................................................................. 2
PHẦN MỞ ĐẦU.................................................................................................................... 5
CHƯƠNG I: LUẬN CỨ LÝ LUẬN.....................................................................................6
1.1.

CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA...................................................................6


1.2.

NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN CUỘC CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.....6

1.2.1. Nguyên nhân sâu xa:...............................................................................................................6
1.2.2. Nguyên nhân trực tiếp:...........................................................................................................7

1.3.

GIAI CẤP CÔNG NHÂN........................................................................................7

CHƯƠNG 2: SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM.....................................9
2.1.

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI TỪ SỰ KẾT HỢP CHỦ NGHĨA
MÁC - LÊNIN VỚI PHONG TRÀO CÔNG NHÂN VÀ PHONG TRÀO YÊU
NƯỚC........................................................................................................................ 9

2.2.

HỘI NGHỊ HỢP NHẤT CÁC TỔ CHỨC CỘNG SẢN, THÀNH LẬP ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM..........................................................................................9

2.3

MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN
HỆ SẢN XUẤT……………………………………………………………………11

CHƯƠNG 3: SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM QUA CÁC GIAI

ĐOẠN CÁCH MẠNG.........................................................................................................12
3.1.

ĐẢNG LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN TA GIÀNH CHÍNH QUYỀN VÀ BẢO VỆ
ĐỘC LẬP DÂN TỘC.............................................................................................12

3.1.1 Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh giành chính quyền.............................................................12
3.1.2 Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng (1945-1946).................13
3.1.3 Đảng lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1946-1954).............13
3.1.4 Đảng lãnh đạo nhân dân ta tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược (1954-1975)
…………………………………………………………………………………………14

3.2.

ĐẢNG LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN TA XÂY DỰNG XÃ HỘI MỚI (TỪ NĂM
1975 ĐẾN NAY)......................................................................................................15


CHƯƠNG 4: SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG - NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH THẮNG LỢI
CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM........................................................................................20
4.1.

SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CỦA SỰ NGHIỆP CÁCH
MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC.........................................................................20

4.2.

SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐÁP ỨNG YÊU CẦU BẢO VỆ ĐỘC LẬP DÂN
TỘC VÀ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC...................................................................20


CHƯƠNG 5: NHỮNG KINH NGHIỆM VÀ BÀI HỌC CỦA ĐẢNG TRONG QUÁ
TRÌNH LÃNH ĐẠO CÁCH MẠNG VIỆT NAM.............................................................22
5.1.

NẮM VỮNG NGỌN CỜ ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI....22

5.2.

SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG LÀ CỦA NHÂN DÂN, DO NHÂN DÂN VÀ VÌ
NHÂN DÂN............................................................................................................24

5.3.

KHƠNG NGỪNG CỦNG CỐ, TĂNG CƯỜNG ĐỒN KẾT: ĐOÀN KẾT
TOÀN ĐẢNG, ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN, ĐOÀN KẾT DÂN TỘC, ĐOÀN
KẾT QUỐC TẾ......................................................................................................25

5.4.

KẾT HỢP SỨC MẠNH DÂN TỘC VỚI SỨC MẠNH THỜI ĐẠI, SỨC MẠNH
TRONG NƯỚC VỚI SỨC MẠNH QUỐC TẾ....................................................27

5.5.

SỰ LÃNH ĐẠO ĐÚNG ĐẮN CỦA ĐẢNG LÀ NHÂN TỐ HÀNG ĐẦU BẢO
ĐẢM THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM........................................30

CHƯƠNG 6: KẾT LUẬN..................................................................................................35
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................................36




6

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong giai đoạn mới hiện nay , cộng cuộc công nghiệp hiện đại hó đang diễn ra trên
tồn thế giới, chủ nghĩa xã hội đang ở trong thời kỳ thoái trào, thời đại ngày nay vẫn đang là
thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi tồn thế giới cịn đang có
nhiều biến động tiêu cực.. thì vấn đề làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và sự
lãnh đạo của Đảng được đặt ra trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết, cả trên hai phương diện : lý
luận và thực tiễn. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một phạm trù cơ bản nhất của chủ
nghĩa xã hội khoa học, do đó nó đã được C.Mác-Ph.Ăngghen và Lênin nghiên cứu và phát triển
hết sức hoàn thiện trong trong quá trình phát triển của lịch sử thế giới. Xét trên phương diện
lịch sử, những nhận định và lý luận của các ông về giai cấp công nhân có tác dụng to lớn và
đúng đắn. Cịn đối với nước ta, vấn đề trên được Đảng ta rất chú trọng. Vì thế, sứ mệnh lịch sử
của giai cấp cơng nhân không chỉ thể hiện rõ trong các văn kiện đại hội đại biểu tồn quốc, mà
đây cịn là một trong những đề tài nghiên cứu khoa học của nhiều nhà lý luận, nhà nghiên cứu
lịch sử, và của nhiều thế hệ cơng nhân, sinh viên...mà cịn làm thay đổi tình hình kinh tế chính
trị xã hội trên tồn thế giới, nó tác động tới q trình sản xuất cụ thể, tới bộ mặt phát triển của
thế giới.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Đảng Cộng sản, giai cấp công nhân là nhân tố quan trọng, yếu tố quyết định thắng lợi
Cách mạng Xã hội Chủ nghĩa.
- Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản.
3. Phương pháp nghiên cứu
- Áp dụng những kiến thức đã được tiếp thu qua bài giảng của giảng viên. Tra cứu tài
liệu, tổng hợp và phân tích thơng tin, nghiên cứu và đưa ra những lý luận và đánh giá.



CHƯƠNG I: LUẬN CỨ LÝ LUẬN
1.1. CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng nhằm thay thế chế độ tư bản chủ
nghĩa lỗi thời bằng chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong cuộc cách mạng đó, giai cấp cơng
nhân là giai cấp lãnh đạo và cùng với quần chúng nhân dân lao động xây dựng một xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
Theo nghĩa hẹp: Cách mạng XHCN là cuộc cách mạng chính trị, được kết thúc
bằng việc giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động giành được chính quyền, thiết
lập được nhà nước chun chính vơ sản- nhà nước của gccn và quần chúng nhân dân lao
động.
Theo nghĩa rộng: Cách mạng XHCN gồm 2 thời kì: cách mạng về chính trị với nội
dung chính là thiêt lập nhà nước chuyên chính vơ sản và tiếp theo là thời kỳ GCCN và
nhân dân lao động sử dụng nhà nước của mình để cải tạo xã hội cũ về mọi mặt nhằm thực
hiện thắng lợi chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
1.2. NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN CUỘC CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1.2.1. Nguyên nhân sâu xa:
Nguyên nhân sâu xa của mọi cuộc Cách mạng xã hội trong lịch sử nhân loại
đều là do sự phát triển của LLSX phá vỡ sự phù hợp về mặt trình độ của QHSX đối với
nó, địi hỏi tất yếu phải thay thế QHSX lỗi thời bằng một QHSX mới tiên tiến hơn.
Vì vậy, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: "Từ chỗ là những hình thức phát triển
của LLSX, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các LLSX. Khi đó, bắt đầu
thời đại một cuộc cách mạng xã hội"
Cách mạng XHCN có nguyên nhân sâu xa từ mâu thuẫn nội tại của phương
thức sản xuất TBCN - đó là mâu thuẫn giữa LLSX mang tính xã hội cao với QHSX mang
tính chất tư nhân TBCN khơng cịn phù hợp với trình độ của LLSX.
Mâu thuẫn trên ngày càng gay gắt và trở thành mâu thuẫn cơ bản, nội tại, khơng
thể xóa bỏ được của chế độ TBCN. Từ đó sinh ra tình trạng vơ chính phủ trong sảnxuất,
khủng hoảng sản xuất thừa, khủng hoảng theo chu kỳ, nạn thất nghiệp... Sự tích tụ và tập
trung tư bản dẫn tới chỗ buộc giai cấp tư sản phải thừa nhận mâuthuẫn ấy bằng cách tổ
chức các Xanh-đi-ca, Tơ-rớt, Cơng-xc-xi-om, quốc hữu hố một số ngành, thành lập

những công ty độc quyền xuyên quốc gia. Nhưng đó chỉ là những biện pháp để giai cấp
tư sản duy trì quan hệ sản xuất TBCN khi nó khơng cịn phù hợp với trình độ của lực


lượng sản xuất đã được xã hội hoá. Sự phù hợp thực sự với tính chất xã hội hố ngày
càng ở trình độ cao của lực lượng sản xuất chỉ có thể là sự thay thế quan hệ sản xuất
TBCN bằng quan hệ sản xuất XHCN thông qua cuộc cách mạng XHCN.
1.2.2. Nguyên nhân trực tiếp:
Mâu thuẫn kinh tế giữa LLSX mang tính xã hội cao với QHSX mang tính chất
tư nhân TBCN khơng cịn phù hợp với trình độ của LLSX kể trên được biểu hiện về mặt
xã hội-giai cấp thành mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp công nhân với giai cấp tư sản.
Mâu thuẫn đối kháng giữa hai giai cấp này chính nguyên nhân trực tiếp của cách mạng
XHCN. Cùng với sự phát triển của mâu thuẫn kinh tế, mâu thuẫn đối kháng này cũng là
một nguyên nhân dẫn tới sự bùng nổ tất yếu của cách mạng XHCN.
CNTB càng phát triển thì những mâu thuẫn nội tại của nó càng trở nên gay gắt.
Cùng với những mâu thuẫn nội tại đó, trong q trình tồn tại và phát triển của nó, CNTB
cịn đồng thời tạo ra rất nhiều mâu thuẫn gay gắt với xung quanh nó, như: mâu thuẫn với
các dân tộc, quốc gia thuộc địa và phụ thuộc; mâu thuẫn giữa bản thân các nước tư bản
với nhau; chủ nghĩa khủng bố được sinh ra từ chính những tham vọng bành trướng và
bịn rút tài nguyên thiên nhiên ở nước ngoài của các nước đế quốc... đang và sẽ trở thành
những nguyên nhân cộng hưởng dẫn tới sự tất yếu của cách mạng XHCN ở các nước tư
bản.
Những nguyên nhân sâu xa và trực tiếp khiến cho cách mạng XHCN tất yếu sẽ
nổ ra, song sự bùng nổ của nó lại phụ thuộc vào sự chín muồi của những nhân tố khách
quan trong sự vận động của lịch sử kết hợp với sự nỗ lực chủ quan của giai cấp cơng
nhân và chính Đảng của nó ở mỗi nước. Chỉ khi nào những nguyên nhân đã phát triển
chín muồi, những điều kiện khách quan và chủ quan chín muồi làn xuất hiện tình thế và
thời cơ cách mạng, khi đó, giai cấp cơng nhân thơng qua vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng
sản mới có thể tiến hành cách mạng XHCN thắng lợi.
1.3.


GIAI CẤP CÔNG NHÂN
Giai cấp cơng nhân là một tập đồn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng

với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực
lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao; là lực lượng lao động cơ bản tiên
tiến trong các quy trình cơng nghệ, dịch vụ công nghiệp, trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia
vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; đại
biểu cho lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất tiên tiến trong thời đại hiện nay.
Giai cấp cơng nhân mang hai thuộc tính cơ bản:


- Về phương thức lao động, phương thức sản xuất: đó là những người lao động
trực tiếp hay gián tiếp vận hành các cơng cụ sản xuất có tính chất cơng nghiệp ngày càng
hiện đại và xã hội hóa cao.
- Về vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa: đó là những người lao động
khơng có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động cho nhà tư bản và bị nhà tư bản bóc lột
về giá trị thặng dư. Thuộc tính thứ hai này nói lên một trong những đặc trưng cơ bản của
giai cấp công nhân dưới chế độ tư bản chủ nghĩa nên C.Mác và Ph.Ăngghen cịn gọi giai
cấp cơng nhân là giai cấp vơ sản.
*Sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân:
Nói một cách khái quát, nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân là
xố bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xố bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp
cơng nhân, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo
nàn lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh.
Ph. Ăngghen viết: “Thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới ấy, - đó là sứ mệnh
lịch sử của giai cấp vô sản hiện đại”. V.I. Lênin cũng chỉ rõ: “Điểm chủ yếu trong học
thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sáng rõ vai trị lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là
người xây dựng xã hội chủ nghĩa”.
Ở nước ta, giai cấp công nhân trước hết phải làm cuộc cách mạng dân tộc dân

chủ nhân dân. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân là phải lãnh đạo cuộc cách mạng
đó thơng qua đội tiên phong của mình là Đảng Cộng sản Việt Nam,đấu tranh giành chính
quyền, thiết lập nền chuyên chính dân chủ nhân dân. Trong giai đoạn cách mạng xã hội
chủ nghĩa, giai cấp công nhân từng bước lãnh đạo nhân dân lao động xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội, khơng có người bóc lột người, giải phóng nhân dân lao động khỏi
mọi sự áp bức, bóc lột, bất công.


CHƯƠNG 2: SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
2.1.

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI TỪ SỰ KẾT HỢP CHỦ NGHĨA
MÁC - LÊNIN VỚI PHONG TRÀO CÔNG NHÂN VÀ PHONG TRÀO
YÊU NƯỚC.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ

Chí Minh vận dụng và phát triển sáng tạo những nguyên tắc cơ bản của V.I.Lênin về
Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân vào xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là cội
nguồn sức mạnh, khẳng định tính chính danh và sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam
của Đảng ta; đồng thời là “lửa thử vàng” để khẳng định Đảng ta là chính đảng mácxít
mang bản chất giai cấp công nhân. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ làm rõ một
số cống hiến đặc sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng ta về Đảng và xây dựng
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin
với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Một trong những cống hiến xuất sắc
của Hồ Chí Minh đối với sự phát triển của chủ nghĩa Mác - Lênin là luận điểm của Người
về sự thành lập chính đảng của giai cấp vơ sản ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến.
Các nhà sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học quan niệm Đảng cộng sản ra đời là sự kết
hợp của hai yếu tố: Chủ nghĩa Mác - Lênin và phong trào công nhân. Luận điểm đó hồn
tồn đúng đối với các nước phương Tây, khi giai cấp công nhân đã bước lên vũ đài chính

trị với tư cách là một lực lượng chính trị độc lập, được lý luận khoa học của chủ nghĩa
Mác - Lênin dẫn đường. Tuy nhiên, ở các nước phương Đông, đặc biệt là ở những nước
thuộc địa nửa phong kiến như ở Việt Nam, bị chủ nghĩa thực dân thống trị, nền kinh tế
hết sức lạc hậu, què quặt, công nghiệp gần như chưa phát triển, giai cấp công nhân tuy đã
ra đời và sống khá tập trung song cịn nhỏ bé, chưa đại diện cho tồn bộ phong trào dân
tộc. Chính từ nhận thức đó, trong q trình chuẩn bị thành lập Đảng, Hồ Chí Minh đã
định hướng đúng đắn cho sự vận động của hai quá trình: một là, đưa phong trào yêu nước
chuyển dần từ lập trường quốc gia sang khuynh hướng mácxít, rồi từ khuynh hướng mác
xít chuyển sang lập trường cộng sản; hai là, đưa phong trào cơng nhân chuyển dần từ
trình độ tự phát sang trình độ tự giác. Nhân tố đóng vai trị quyết định bảo đảm sự chuyển
biến về chất của phong trào công nhân và phong trào yêu nước là chủ nghĩa Mác - Lênin.
Sau này, trong tác phẩm Ba mươi năm hoạt động của Đảng, Người khái quát: “Chủ nghĩa
Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc
thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930”.


2.2.

HỘI NGHỊ HỢP NHẤT CÁC TỔ CHỨC CỘNG SẢN, THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM.
Dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị hợp nhất các tổ chức

cộng sản ở Việt Nam diễn ra từ ngày 6/1 đến 7/2/1930 tại Hồng Kơng (Trung Quốc),
mang tầm vóc lịch sử của Đại hội thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội nghị đã hợp nhất 3 tổ chức Cộng sản ở Việt Nam là Đông Dương Cộng sản
Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đơng Dương Cộng sản Liên đồn thành một đảng duy
nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam, với mục tiêu lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam
tiến hành giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con
người, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Hội nghị đã đề ra Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Điều lệ vắn tắt,

trong đó, Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt phản ánh nội dung cương lĩnh chính
trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội nghị cũng ban hành Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt
Nam gửi đến công nhân, nơng dân, binh lính, thanh niên, học sinh và tất cả đồng bào bị
áp bức, bóc lột.
Trải qua 90 năm xây dựng và phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam đã trải qua
12 kỳ Đại hội. Mỗi kỳ Đại hội Đảng là một mốc lịch sử quan trọng ghi nhận, đánh dấu
những thắng lợi, thành tựu của cách mạng Việt Nam.


2.3 MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN
XUẤT
Đảng chính trị là tổ chức cao nhất, đại biểu tập trung cho trí tuệ và lợi ích của tồn thể
giai cấp. Đối với giai cấp cơng nhân đó là Đảng Cộng sản, chẳng những đại biểu cho trí tuệ
và lợi ích của giai cấp cơng nhân mà cịn đại biểu cho tồn thể nhân dân lao động và dân tộc.
Cho nên phải có một đảng chính trị vững vàng, kiên định và sáng suốt, có đường lối
chiến lược và sách lược đúng đắn thể hiện lợi ích của tồn giai cấp và tồn bộ phong trào để
giai cấp cơng nhân có thể hồn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Giai cấp cơng nhân là cơ sở xã hội - giai cấp của Đảng, là nguồn bổ sung lực lượng
của Đảng, Đảng là đội tiên phong chiến đấu, là bộ tham mưu của giai cấp, là biểu hiện tập
trung lợi ích, nguyện vọng, phẩm chất, trí tuệ của giai cấp công nhân và của dân tộc. Giữa
Đảng với giai cấp cơng nhân có mối liên hệ hữu cơ, không thể tách rời. Những đảng viên
của Đảng Cộng sản có thể khơng phải là cơng nhân nhưng phải là người giác ngộ về sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và đứng trên lập trường của giai cấp này.
Với một Đảng Cộng sản chân chính thì sự lãnh đạo của Đảng chính là sự lãnh đạo của
giai cấp. Đảng với giai cấp là thống nhất, nhưng Đảng có trình độ lý luận và tổ chức cao nhất
để lãnh đạo cả giai cấp và dân tộc; vì thế không thể lẫn lộn Đảng với giai cấp. Đảng đem lại
giác ngộ cho toàn bộ giai cấp, sức mạnh đồn kết, nghị lực cách mạng, trí tuệ và hành động
cách mạng của toàn bộ giai cấp, trên cơ sở đó lơi cuốn tất cả các tầng lớp nhân dân lao động

khác và cả dân tộc đứng lên hành động theo đường lối của đảng nhằm hoàn thành sứ mệnh
lịch sử của mình. Để giai cấp cơng nhân hồn thành sứ mệnh của mình, giai cấp cơng nhân
cũng như mỗi người công nhân cần thường xuyên phấn đấu vươn lên, trưởng thành về các
mặt: tư tưởng, chính trị, lập trường giai cấp, văn hoá, khoa học kỹ thuật, tay nghề...Các tổ
chức nghiệp đồn, cơng đồn, thường xun phát triển vững mạnh...cùng với q trình phát
triển khơng ngừng của nền sản xuất công nghiệp hiện đại…


CHƯƠNG 3: SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM QUA CÁC GIAI ĐOẠN CÁCH MẠNG
3.1.

ĐẢNG LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN TA GIÀNH CHÍNH QUYỀN VÀ BẢO
VỆ ĐỘC LẬP DÂN TỘC
3.1.1 Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh giành chính quyền
Sau khi ra đời, Đảng đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, giành

chính quyền với 3 cao trào cách mạng có ý nghĩa to lớn đưa đến thắng lợi của cuộc Cách
mạng tháng Tám năm 1945. Đó là:
Cao trào cách mạng 1930-1931, đỉnh cao là phong trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh: đã
làm rung chuyển chế độ thống trị của đế quốc thực dân Pháp và tay sai. Dưới sự lãnh đạo
của Đảng quần chúng cách mạng đã vùng dậy trừng trị bọn cường hào, phản động, tay sai
của thực dân Pháp, thành lập chính quyền cách mạng ở một số nơi theo hình thức XơViết.
Cao trào cách mạng 1930 - 1931 đã khẳng định đường lối cách mạng Việt Nam do Ðảng
đề ra là đúng đắn và để lại những bài học quý báu về xây dựng liên minh công-nông, về
xây dựng Mặt trận Dân tộc Thống nhất, về phát động phong trào quần chúng đấu tranh
giành và bảo vệ chính quyền.
Cao trào cách mạng địi dân sinh, dân chủ (1936 - 1939): với sức mạnh đoàn kết
của quần chúng nhân dân và dưới sự lãnh đạo của Đảng đã buộc chính quyền thực dân
phải nhượng bộ một số yêu sách về dân sinh, dân chủ; quần chúng được giác ngộ về

chính trị và trở thành lực lượng chính trị hùng hậu của cách mạng; Đảng qua đó đã tích
lũy được nhiều bài học kinh nghiệm trong việc xây dựng Mặt trận Dân tộc Thống nhất,
kinh nghiệm tổ chức, lãnh đạo quần chúng đấu tranh công khai, hợp pháp...
Cao trào cách mạng giải phóng dân tộc (1939 - 1945) dưới sự lãnh đạo vô cùng
sáng suốt, kiên quyết của Đảng, đứng đầu là Lãnh tụ vĩ đại - Nguyễn Ái Quốc kết hợp
với sự đoàn kết hăng hái, chiến đấu ngoan cường và hy sinh hào hùng của biết bao đảng
viên cộng sản, chiến sĩ và đồng bào yêu nước đã kết thúc thắng lợi huy hoàng bằng cuộc
Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã phá tan sự thống trị của các đế
quốc thực dân gần một trăm năm và lật đổ chế độ phong kiến đè nặng lên nhân dân ta
mấy mươi thế kỉ, mở ra bước ngoặt vĩ đại của cách mạng, đưa dân tộc Việt Nam bước
sang kỷ nguyên mới; kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nhân dân
ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Ngày
2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên
ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nay là nước Cộng hòa xã hội


chủ nghĩa Việt Nam - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Khái quát ý
nghĩa lịch sử của Cách mạng tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:
“Chẳng những giai cấp lao động và Nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao
động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu
tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo
cách mạng thành cơng, đã nắm chính quyền toàn quốc”.
3.1.2 Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng
(1945-1946)
Ngay khi vừa mới ra đời, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã phải đối mặt với ba
thứ giặc: giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Nạn đói hồnh hành đầu năm 1945 đã làm
chết hơn hai triệu người ở miền Bắc. Trên 95% dân Việt Nam mù chữ. Ở miền Bắc, hơn
20 vạn quân Tưởng đã tràn vào với mưu đồ diệt cộng, cầm Hồ. Ở miền Nam, hơn 15 vạn
quân Pháp với sự giúp đỡ của liên quân Anh - Ấn lăm le xâm lược nước ta. Trong khi đó,

lực lượng mọi mặt của Nhà nước ta còn rất non yếu; vận mệnh của đất nước trước tình
thế “ngàn cân treo sợi tóc. Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã kịp thời đề ra
những chủ trương và quyết sách đúng đắn, tồn diện trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế,
xã hội, an ninh, quốc phòng. Đối với các thế lực thù địch, chúng ta đã thực hiện sách lược
mềm dẻo, lợi dụng mâu thuẫn, phân hoá chúng, dành thời gian củng cố lực lượng, chuẩn
bị kháng chiến. Với đường lối chính trị sáng suốt, vừa cứng rắn về nguyên tắc, vừa mềm
dẻo về sách lược, Đảng ta đã động viên được sức mạnh đoàn kết toàn dân, triệu người
như một, vượt qua mn vàn khó khăn, nguy hiểm để củng cố, giữ vững chính quyền,
đưa cách mạng vượt qua tình thế hiểm nghèo, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu
dài chống thực dân Pháp.
3.1.3 Đảng lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
(1946-1954)
Bất chấp mong muốn độc lập và hồ bình của Chính phủ và nhân dân ta, mặc dù
chúng ta đã nhân nhượng nhưng thực dân Pháp càng lấn tới vì chúng có dã tâm cướp
nước ta một lần nữa.
Lịch sử đã đặt dân tộc ta trước một thử thách mới, phải đứng lên bảo vệ nền độc
lập của dân tộc. Đêm ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi toàn
quốc kháng chiến. Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân
cả nước đồng loạt đứng lên với quyết tâm “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu
mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn
diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, Đảng đã


lãnh đạo nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược, đánh dấu bằng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.
Đánh giá ý nghĩa thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Chủ tịch
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Lần đầu tiên trong lịch sử một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh
thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt
Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng hồ bình, dân chủ và xã hội chủ
nghĩa trên thế giới”.

Thắng lợi đó làm sáng tỏ một chân lý: Trong điều kiện thế giới ngày nay, một dân
tộc dù là nhỏ yếu, nhưng một khi đã đoàn kết đứng lên, kiên quyết đấu tranh dưới sự lãnh
đạo của chính đảng Mác - Lênin để giành độc lập và dân chủ, thì có đầy đủ lực lượng để
chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Thắng lợi đó cũng chứng tỏ rằng chỉ có sự lãnh đạo
đúng đắn của giai cấp công nhân mà Đảng ta là đại biểu, chỉ có đường lối cách mạng
khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin mới có thể tạo điều kiện cho nhân dân ta đánh bại
quân thù và giành tự do, độc lập.
3.1.4 Đảng lãnh đạo nhân dân ta tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ

chiến lược (1954-1975)
Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cách mạng Việt Nam
bước vào thời kỳ mới với đặc điểm là đất nước tạm thời chia làm hai miền với hai chế độ
chính trị - xã hội đối lập nhau. Đảng xác định con đường phát triển tất yếu của cách mạng
Việt Nam là tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược:
Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, xây dựng miền Bắc
thành căn cứ địa vững mạnh của cách mạng cả nước.
Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, chống đế quốc
Mỹ và bè lũ tay sai, giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà.
Tuy mỗi miền thực hiện một nhiệm vụ chiến lược khác nhau nhưng có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau; trong đó cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc giữ vai trị quyết
định nhất đối với tồn bộ sự phát triển của cách mạng Việt Nam, cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân ở miền Nam giữ vị trí quan trọng, có tác dụng trực tiếp đối với sự nghiệp
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước với tinh thần “Khơng có gì q hơn độc lập, tự do, “đánh cho Mỹ cút, đánh cho
nguỵ nhào. Trong cuộc đọ sức quyết liệt này, đế quốc Mỹ đã huy động và sử dụng một
lực lượng quân sự và phương tiện chiến tranh khổng lồ hòng tiêu diệt lực lượng cách


mạng nước ta. Trải qua 21 năm chiến đấu kiên cường, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân

dân ta đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ hy sinh, được sự đồng tình ủng hộ của các lực
lượng tiến bộ trên thế giới, đã lần lượt đánh thắng các chiến lược chiến tranh của đế quốc
Mỹ ở miền Nam và chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân ở miền Bắc. Bằng
cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 với thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí
Minh lịch sử, nhân dân ta đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước,
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Thắng lợi oanh liệt mùa Xuân năm 1975 đã
kết thúc vẻ vang 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc; chấm dứt ách
thống trị tàn bạo hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước ta; hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước; bảo vệ thành quả của chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc, mở ra thời kỳ mới - thời kỳ độc lập, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi cả nước.
3.2.

ĐẢNG LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN TA XÂY DỰNG XÃ HỘI MỚI (TỪ
NĂM 1975 ĐẾN NAY)
Bước vào thời kỳ cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cách mạng Việt Nam có

những thuận lợi, song cũng khơng ít khó khăn. Khó khăn lớn nhất là nền kinh tế sản xuất
nhỏ, năng suất lao động thấp, hậu quả nặng nề do chiến tranh để lại. Trong quan hệ quốc
tế, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động bên ngồi tìm mọi cách phá hoại, bao vây,
cấm vận, gây khó khăn cho cách mạng Việt Nam. Trên thế giới, phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế trải qua nhiều diễn biến phức tạp: chủ nghĩa xã hội gặp những khó
khăn, lâm vào khủng hoảng, thối trào, đặc biệt là sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa
ở Liên Xơ và Đơng Âu. Tình hình đó đã tác động, ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong 10 năm (1975 - 1985), cách mạng Việt Nam đã
vượt qua những khó khăn, trở ngại, thu được những thành tựu quan trọng. Chúng ta đã
nhanh chóng hồn thành việc thống nhất đất nước về mọi mặt, đánh thắng các cuộc chiến
tranh biên giới, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trên các lĩnh vực kinh tế,
văn hoá - xã hội, nhân dân ta đã có những cố gắng to lớn trong cơng cuộc khôi phục kinh

tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, bước đầu bình ổn sản xuất và đời sống nhân dân.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, những thành tựu về kinh tế - xã hội đạt được còn
thấp so với yêu cầu, kế hoạch và công sức bỏ ra; nền kinh tế có mặt mất cân đối nghiêm
trọng, tỷ lệ lạm phát cao quá mức, đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, tại Đại
hội VI của Đảng (tháng 12-1986), Đảng đã nghiêm khắc kiểm điểm, khẳng định những


mặt làm được, phân tích rõ những sai lầm, khuyết điểm, đặc biệt là khuyết điểm chủ
quan, duy ý chí trong lãnh đạo kinh tế. Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, mở
ra bước ngoặt trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã thông qua Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Chiến lược ổn định và phát triển kinh
tế - xã hội đến năm 2000 và Nhiệm vụ kinh tế - xã hội 5 năm 1991 - 1995. Đại hội đưa ra
quan niệm tổng quát về xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, phương hướng cơ bản để
xây dựng xã hội đó; khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin, tưtưởng Hồ chí Minh là nền tảng
tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng; khẳng định phát triển nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện và 5 năm thực hiện Nghị quyết
Đại hội VII của Đảng, đất nước ta đã vượt qua một giai đoạn thử thách gay go. Đại hội
VIII của Đảng (từ ngày 22-6 đến ngày l-7-1996) đã nhận định: “Công cuộc đổi mới trong
10 năm qua đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Nhiệm vụ do
Đại hội VII đề ra cho 5 năm 1991-1995 đã được hoàn thành về cơ bản.
Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhưng một số mặt còn chưa vững
chắc.
Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ q độ là chuẩn bị tiền đề cho
cơng nghiệp hố đã cơ bản hoàn thành, cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh
cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: “Tiếp tục sự
nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hố, hiện đại hố vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, văn minh vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội7 và đề ra nhiệm vụ
kinh tế - xã hội từ năm 1996 đến năm 2000 là: tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và
bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội, bảo đảm an ninh, quốc
phòng, cải thiện đời sống của nhân dân, nâng cao tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, tạo tiền
đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn vào thế kỷ XXI .
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (tháng 4-2001) đã kiểm điểm việc
thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII và khẳng định, trong 5 năm 1996-2000, toàn Đảng,
tồn dân, tồn qn ta đã vượt qua những khó khăn, thách thức, đạt được những thành
tựu quan trọng. Tổng kết 15 năm đổi mới, Đại hội đã khẳng định: Thực tiễn phong phú và


những thành tựu thu được qua 15 năm đổi mới đã chứng minh tính đúng đắn của Đảng,
đồng thời giúp chúng ta nhận thức càng rõ hơn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã
hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Thế kỷ XX
là thế kỷ đấu tranh oanh liệt và chiến thắng vẻ vang của dân tộc ta. Thế kỷ XXI sẽ là thế
kỷ nhân dân ta tiếp tục giành thêm nhiều thắng lợi to lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đưa nước ta sánh vai cùng các nước phát triển trên thế
giới.
Đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội IX trong 5 năm (2001-2005), Nghị
quyết Đại hội X của Đảng đã khẳng định: toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã đạt
những thành tựu rất quan trọng.
Một là, nền kinh tế đã vượt qua thời kỳ suy giảm, đạt tốc độ tăng trưởng khá cao và
phát triển tương đối toàn diện.
- Tốc độ tăng trưởng GDP năm sau cao hơn năm trước. Bình quân trong 5 năm
2001-2005 đạt 7,51%, đạt mức kế hoạch đề ra.
Cơ cấu lao động đã có sự chuyển đổi tích cực, gắn liền với quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế. Các thành phần kinh tế tiếp tục phát triển, chuyển dịch theo hướng phát

huy tiềm năng, thế mạnh của mình, đóng góp một cách có hiệu quả vào sự phát triển
chung của đất nước. Hoạt động kinh tế đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế có bước tiến
mới rất quan trọng.
- Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng bước đầu.
Một số loại thị trường mới hình thành, phát triển phù hợp với cơ chế mới.
Hai là, văn hố và xã hội có tiến bộ trên nhiều mặt; việc gắn phát triển kinh tế với
giải quyết các vấn đề xã hội có chuyển biến tốt; đời sống các tầng lớp nhân dân được cải
thiện. Giáo dục và đào tạo, khoa học - công nghệ có bước phát triển khá; cơng tác xố
đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm thu được nhiều kết quả; cơng tác chăm sóc sức khoẻ
nhân dân đạt được kết quả tốt, đã khống chế và đẩy lùi được một số bệnh dịch nguy
hiểm; tuổi thọ trung bình của người Việt Nam tăng.
Ba là, chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng và an ninh được tăng cường; quan hệ
đối ngoại có bước phát triển mới.


Bốn là, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có tiến bộ trên cả ba
lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Sức mạnh khối đại đồn kết tồn dân tộc được
phát huy.
Năm là, cơng tác xây dựng Đảng đạt một số kết quả tích cực.
Đại hội cũng chỉ ra những khuyết điểm và yếu kém:
Một là, tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với khả năng; chất lượng, hiệu quả,
sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp; cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm.
Hai là, cơ chế, chính sách về văn hố - xã hội chậm đổi mới; nhiều vấn đề xã hội
bức xúc chưa được giải quyết tốt, tệ quan liêu tham nhũng, lãng phí vẫn nghiêm trọng, tội
phạm và một số tệ nạn xã hội có chiều hướng tăng.
Ba là, các lĩnh vực quốc phòng an ninh, đối ngoại còn một số mặt hạn chế.
Bốn là, tổ chức và hoạt động của Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân còn
một số khâu chậm đổi mới, bộ máy quản lý nhà nước các cấp, nhất là ở cơ sở cịn yếu
kém; tình trạng nhũng nhiễu, cửa quyền, thiếu trách nhiệm ở một bộ phận công chức
chậm được khắc phục; hoạt động của Quốc hội còn lúng túng; dân chủ trong xã hội còn

bị vi phạm; kỷ cương, kỷ luật ở nhiều nơi không nghiêm.
Năm là, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng chưa đạt yêu cầu. Tình trạng suy thối
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng,
lãng phí trong một bộ phận cán bộ, công chức diễn ra nghiêm trọng. Nhiều tổ chức cơ sở
đảng sức chiến đấu yếu.
Những khuyết điểm, yếu kém trên là do nhiều nguyên nhân. Đại hội X của Đảng đã
phân tích và chỉ ra ngun nhân chủ quan là chính. Đó là, tư duy của Đảng trên một số
lĩnh vực chậm đổi mới; sự chỉ đạo tổ chức thực hiện chưa tốt; một bộ phận cán bộ, đảng
viên, kể cả cán bộ chủ chốt, yếu kém về phẩm chất và năng lực. Đây là những vấn đề cần
sớm được khắc phục.
Nhìn lại 20 năm đổi mới, Đại hội X khẳng định: Với sự nỗ lực phấn đấu của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt được những thành tựu to
lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đại hội đã rút ra 5 bài học kinh nghiệm chủ yếu của quá trình
đổi mới ở nước ta.
Những thành tựu và bài học đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng
đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Qua 20 năm, hệ thống quan điểm lý luận


về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản, ngày càng sáng tỏ hơn.
Chặng đường vẻ vang tám thập kỷ qua của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo
của Đảng đã khẳng định: Sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố quyết
định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã
đạt được những thành tựu kỳ diệu. Tuy nhiên, trong lịch sử, Đảng cũng có lúc phạm sai
lầm, khuyết điểm. Điều quan trọng là Đảng sớm phát hiện ra những sai lầm, khuyết điểm
của mình, đề ra những biện pháp sửa chữa đúng đắn, kịp thời, kiên quyết. Đảng cơng
khai tự phê bình, nhận khuyết điểm trước nhân dân, quyết tâm sửa chữa và sửa chữa có
kết quả. Vì vậy, Đảng ta được nhân dân tin cậy, thừa nhận là người lãnh đạo chân chính,
duy nhất, là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân dao động và của cả dân tộc
Việt Nam.



CHƯƠNG 4: SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG - NHÂN TỐ QUYẾT
ĐỊNH THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM
4.1.

SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CỦA SỰ NGHIỆP CÁCH
MẠNG GIẢI PHĨNG DÂN TỘC
Cách mạng giải phóng dân tộc nhằm đánh đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân,

giành độc lập dân tộc và thiết lập chính quyền của nhân dân. Trong thời đại đế quốc chủ
nghĩa, khi giai cấp tư sản vừa bóc lột giai cấp cơng nhân ở chính quốc, vừa bóc lột nhân
dân thuộc địa, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi triệt để phải đi theo con
đường cách mạng vô sản. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc khơng có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.
Đảng của giai cấp vô sản ở các nước thuộc địa nắm lấy và giương cao ngọn cờ giải
phóng dân tộc, gắn phong trào giải phóng dân tộc trong nước với phong trào cách mạng
thế giới.
Đảng Cộng sản Việt Nam là người duy nhất có thể thực hiện được nhiệm vụ đó vì
Đảng tập hợp được đơng đảo quần chúng nhân dân đi theo mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: Cách mạng trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có đảng cách mệnh, để
trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngồi thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô
sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành cơng, cũng như người cầm lái
có vững thuyền mới chạy”.
Vì vậy, có thể nói cách mạng giải phóng dân tộc đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam là sự lựa chọn của lịch sử Việt Nam, của toàn dân tộc Việt Nam. Sự
lãnh đạo của Đảng đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp giải phóng dân tộc. Thắng lợi của
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 trước hết là thắng lợi của đường lối cách mạng giải
phóng dân tộc đúng đắn của Đảng ta..
4.2.


SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐÁP ỨNG YÊU CẦU BẢO VỆ ĐỘC LẬP DÂN
TỘC VÀ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC
Lênin khẳng định: Giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền cịn khó hơn.
Sau thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc, Đảng Cộng sản là lực lượng duy

nhất có thể tập hợp được đơng đảo quần chúng nhân dân để bảo vệ thành quả cách mạng.
Có được khả năng đó là do Đảng gồm những người tiên tiến nhất của giai cấp và dân tộc
trung thành, kiên định với lợi ích của dân tộc, ln đi đầu, sẵn sàng hy sinh vì nền độc lập
dân tộc nên được nhân dân tin và đi theo.
– Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, Đảng Cộng sản Việt nam có
khả năng to lớn để lãnh đạo nhân dân xây dựng xã hội mới vì con đường cách mạng do


Đảng lãnh đạo phù hợp với thời đại, quy luật phát triển của xã hội. Đảng khơng lợi ích
nào khác ngồi lợi ích của giai cấp cơng nhân, của nhân dân lao động, lợi ích của dân tộc
Việt Nam , lợi ích của nhân dân tiến bộ trên thế giới.
– Lịch sử cách mạng Việt Nam cận, hiện đại đã chứng tỏ khơng có một tổ chức
chính trị nào có thể thay thế được vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thực tế
trong quá trình đấu tranh giai cấp và giữ chính quyền, có những lực lượng chính trị tham
gia cùng với Đảng, nhưng khi cách mạng gặp khó khăn, họ đều chùn bước. Chỉ có Đảng
Cộng sản Việt Nam trung thành với lợi ích của giai cấp vô sản, của dân tộc, sẵn sàng
chiến đấu hy sinh vì lợi ích đó. Biết bao đảng viên và quần chúng của Đảng đã suốt đời
phấn đấu, hy sinh vì lý tưởng cao cả, vì độc lập, tự do của Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội.
Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.


CHƯƠNG 5: NHỮNG KINH NGHIỆM VÀ BÀI HỌC CỦA ĐẢNG
TRONG QUÁ TRÌNH LÃNH ĐẠO CÁCH MẠNG VIỆT NAM
5.1.


NẮM VỮNG NGỌN CỜ ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI.
Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội (CNXH) là một bài học

quan trọng mà Đảng ta giải quyết đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với những điều kiện lịch
sử của thời đại mới về mối quan hệ : Giữa vấn đề dân tộc với giai cấp; giữa con đường
giải phóng dân tộc với con đường giải phóng giai cấp cơng nhân (GCCN) và những
người lao động bị áp bức bóc lột. Đường lối đó đã được Đảng ta thực hiện một cách đúng
đắn, sáng tạo qua các thời kì đấu tranh cách mạng. Trong mấy năm đầu lịch sử, giữa
những người cộng sản Việt Nam có sự nhất trí cao về đường lối độc lập dân tộc gắn liền
với CNXH, nhưng lại khơng nhất trí về sự chỉ đạo chiến lược đặt nhiệm vụ giải phóng
dân tộc lên hàng đầu và nhiệm vụ cách mạng ruộng đất sẽ được thực hiện từng bước. Lý
do là không tiến hành cách mạng ruộng đất đồng thời với nhiệm vụ chống đế quốc, do đó
CMVN khơng vận động và tranh thủ được đông đảo nông dân và cách mạng sẽ khơng
thành cơng.Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã nhận thức được chính đường lối đặt
nhiệm vụ giải phóng dân tộc giành độc lập lên hàng đầu mới đảm bảo thắng lợi của
CMVN. Thời kì Bác Hồ tìm đường cứu nước và chuẩn bị vận động thành lập Đảng đã
nhận thức được rằng : - Trong thời đại mới, sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc chỉ
có thể gắn liền với cuộc cách mạng vơ sản vai trò lãnh đạo là GCCN. Nguyễn Ái Quốc
chỉ rõ : (Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác con đường
cách mạng vơ sản( và (chỉ có CNXH và Chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân
tộc bị áp bức và những người lao động trên tồn thế giới khỏi ách nơ lệ(.- Trong (Chính
cương vắn tắt(, (Sách lược vắn tắt(, (luận cương chính trị( đều xác định : CMVN trước
hết là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân (CMDTDCND), sau đó là cách mạng XHCN,
bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN. Mục đích cuối cùng là xây dựng Chủ nghĩa cộng sản ở
Việt Nam.Từ khi có Đảng, đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH là
ngọn cờ bách chiến bách thắng của CMVN. Đường lối kết hợp độc lập dân tộc và CNXH
của Đảng ta là sản phẩm của sự kết hợp sáng tạo giữa Chủ nghĩa Mác-Lenin và tư tưởng
Hồ Chí Minh với thực tế CMVN. Thực chất của vấn đề giương cao ngọn cờ độc lập dân
tộc và CNXH chính là quan niệm và cách giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc với

giai cấp, giữa cách mạng giải phóng dân tộc với xu thế thời đại của Đảng CSVN.- Dân
tộc bao giờ cũng gắn liền với một giai cấp nhất định và bao giờ cũng được giải quyết theo
quan điểm của từng giai cấp. Từ thế kỉ XVI, XVII, XVIII khi giai cấp tư sản là giai cấp
tiên tiến đại diện cho phương thức sản xuất mới, dân tộc gắn với giai cấp tư sản thì cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc sẽ mang thắng lợi cho chủ nghĩa tư bản.Từ cuối thế kỉ XIX


đầu thế kỉ XX, khi CNTB chuyển sang Chủ nghĩa đế quốc, tạo nên trạng thái thống nhất
thế giới thông qua sự xâm chiếm và bóc lột các nước huộc địa, và hầu hết các dân tộc đều
bị nô dịch, lệ thuộc vào giai cấp tư sản. Từ đó, giai cấp tư sản khơng cịn là giai cấp tiên
tiến của thời đại và trở thành giai cấp phản động, ngăn cản dịng chảy của lịch sử.CNTB
phát triển thì giai cấp vơ sản ra đời, đó chính là GCCN. GCCN đại diện cho phương thức
sản xuất mới, phương thức sản xuất XHCN đã thực sự trở thành giai cấp tiên tiến của dân
tộc. Giai cấp vô sản (GCVS) ra đời thành trung tâm của thời đại, lợi ích của GCVS thống
nhất với thời đại và có khả năng giương cao ngọn cờ dân tộc làm cách mạng vô sản lật đổ
CNTB và xây dựng thành cơng CNXH . Từ đó đã phản ánh rõ nét là GCVS gắn liền
CNXH, lấy Chủ nghĩa Mác-Lenin làm Chủ nghĩa cách mạng, làm lí luận, làm kim chỉ
nam; CNXH lấy chủ nghĩa Mác-Lenin làm mục tiêu : GCVS gắn liền lợi ích của dân
tộc.Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đi tìm con đường cứu nước đã nhận thức rõ : Giải phóng
dân tộc phải đi đơi với giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, xóa bỏ cơ chế người bóc
lột người, đưa cách mạng tiến lên con đường CNXH. Người khẳng định : Muốn cứu nước
và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác là con đường CMVS và (chỉ có giải
phóng GCVS thì mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự
nghiệp của CNCS và của cách mạng thế giới(.Tư tưởng về con đường giải phóng dân tộc
của Chủ tịch Hồ Chí Minh phản ánh chính xác chân lí của thời đại : Ngày nay, vấn đề dân
tộc chỉ được giải quyết đúng đắn theo lập trường của GCCN; công cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc phải gắn bó với cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải
phóng con người. Nói cách khác độc lập dân tộc phải gắn với CNXH. Tư tưởng đúng đắn
của Chủ tịch Hồ Chí Minh được Đảng CSVN, ngay từ khi mới thành lập, tiếp thu và phát
triển thành đường lối giương cao ngọn cờ độc lập và CNXH và Đảng ta đã lãnh đạo

CMVN đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác .

.


5.2.

SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG LÀ CỦA NHÂN DÂN, DO NHÂN DÂN VÀ VÌ NHÂN DÂN
Việc lấy ý kiến góp ý của nhân dân để hoàn thiện đường lối, chủ trương lãnh đạo đất

nước là nét đẹp truyền thống của Đảng ta. Từ khi thành lập đến nay, Đảng luôn nắm bắt kịp
thời, đúng đắn tâm tư, nguyện vọng và đáp ứng những lợi ích chính đáng của mọi tầng lớp,
giai cấp trong xã hội. Đảng đã thể hiện rõ thái độ nghiêm túc, chú ý lắng nghe, không ngừng
phấn đấu, rèn luyện, nâng cao và hoàn thiện sự lãnh đạo của mình. Đảng đã tập hợp được
những ý kiến sáng suốt nhất trong tồn thể nhân dân, biến nó thành những quyết định đúng
đắn có sức thuyết phục quần chúng, tập hợp, lãnh đạo toàn dân làm nên những chiến công
hiển hách.
Với tinh thần dựa vào dân để xây dựng Đảng, để quần chúng nhân dân đóng góp ý
kiến vào dự thảo các văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đạt kết
quả tốt, các cấp ủy đảng, lãnh đạo địa phương, cơ quan, đơn vị cần thông tin những tư tưởng,
quan điểm mới trong dự thảo các văn kiện, cổ vũ, động viên nhân dân, nhất là các đồng chí
lão thành cách mạng, cán bộ hưu trí, nhân sĩ, trí thức, văn nghệ sĩ, chuyên gia, nhà khoa
học... và kiều bào ở nước ngồi tích cực tham gia đóng góp xây dựng dự thảo các văn kiện.
Chủ trương của Đảng ta là luôn mở rộng dân chủ, phát huy trí tuệ, tâm huyết, sự sáng
tạo của các cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên, tầng lớp nhân dân góp ý xây dựng dự thảo các
văn kiện của Đảng. Lấy ý kiến rộng rãi trong nhân dân là một quy trình bắt buộc trong q
trình xây dựng văn kiện cho Đại hội Đảng tồn quốc. Thực tiễn của nhiều nhiệm kỳ Đại hội
Đảng toàn quốc, các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị đã lợi dụng việc lấy ý kiến
quần chúng nhân dân xây dựng dự thảo văn kiện đại hội Đảng để đưa ra những ý kiến, luận
điệu xuyên tạc sự thật nhằm chia rẽ nội bộ Đảng, chống phá chế độ, làm giảm sút lòng tin

của dân với Đảng... Để ngăn chặn hành vi lợi dụng dân chủ, lợi dụng việc góp ý cho văn
kiện Đại hội Đảng nhằm mục đích gây nguy hại cho Đảng, cho dân, các cấp ủy cùng toàn
dân phải kiên quyết đấu tranh, phản bác những thông tin, quan điểm sai trái, bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng; phát hiện và xử lý nghiêm hành vi xuyên tạc dự thảo các văn kiện, chống
phá Đại hội XIII của Đảng.
Quân đội ta là quân đội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, được đặt dưới sự lãnh
đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng. Thời gian qua, cùng với nâng cao năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu, xây dựng Đảng bộ Quân đội trong sạch vững mạnh, gương mẫu,
tiêu biểu; lãnh đạo thực hiện tốt nhiệm vụ quân sự, quốc phịng, Đảng bộ Qn đội và tồn


×