Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Tieu luan mon LL CHUNG VE NN va XDCQNN phân tích làm rõ luận điểm của hồ chí minn về nước ta là nước dân chủ do dân cử ra

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (292.99 KB, 23 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VIỆN XÂY DỰNG ĐẢNG

TIỂU LUẬN
MÔN: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ XÂY DỰNG
CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC
ĐỀ TÀI:
PHÂN TÍCH LÀM RÕ LUẬN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH:
“NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ. BAO NHIÊU LỢI ÍCH ĐỀU VÌ DÂN.
BAO NHIÊU QUYỀN HẠN ĐỀU CỦA DÂN… CHÍNH QUYỀN TỪ XÃ
ĐẾN CHÍNH PHỦ TRUNG ƯƠNG DO DÂN CỬ RA”
Họ và tên học viên: Lê …………….
Mã số học viên: MP22 ………………..
Lớp: Cao học XDĐ&CQNN………………………..

ST – 202……


i

MỤC LỤC
*
MỞ ĐẦU........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.................................................................................1
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu..........................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.......................................................2
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu..........................................2
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu..........................................2
6. Kết cấu tiểu luận..................................................................................2
NỘI DUNG.....................................................................................................3
CHƯƠNG 1. PHÂN TÍCH LUẬN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY


DỰNG NHÀ NƯỚC DÂN CHỦ..................................................................3
1.1. Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước dân chủ.3
1.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước của nhân
dân, do Nhân dân và vì Nhân dân..........................................................7
CHƯƠNG 2. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG XÂY
DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY...........................................................................................12
2.1. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa trong công cuộc đổi mới đất nước....................12
2.2. Sự kế thừa và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo Văn kiện Đại hội XIII của
Đảng........................................................................................................15
2.3. Tiếp tục vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong thời gian tới.....................................18
KẾT LUẬN....................................................................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................21


1

MỞ ĐẦU
*
1. Lý do chọn đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân thể
hiện trình độ kết hợp nhuần nhuyễn quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin với
việc kế thừa, tiếp thu có chọn lọc kho tàng tri thức, kinh nghiệm của nhân loại,
vận dụng sáng tạo vào điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam. Tư
tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và xây dựng Nhà nước của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân là một trong những di sản tư tưởng bao trùm và xuyên suốt
cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Đồng thời, đây cũng là tư tưởng có ý

nghĩa chỉ đạo đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng
trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp đổi mới, xây
dựng đất nước hiện nay.
Do đó chúng ta có thể thấy tư tưởng của Người về xây dựng một nhà nước
dân chủ, của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; có nền dân chủ lập hiến,
quản lý đất nước bằng pháp luật luôn được Đảng ta vận dụng sáng tạo, ngày một
hoàn thiện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam,
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng qua các thời kỳ. Việc thấm nhuần sâu sắc
và quán triệt đầy đủ tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền của dân, do
dân và vì dân có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong tổ chức và vận hành nhà nước
kiến tạo, phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội, góp phần xây dựng và hoàn thiện
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. Đối với từng cán bộ,
đảng viên, đó là góp phần nắm vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, chống lại
các luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực phản động, thù địch, giữ vững
bản lĩnh chính trị - tư tưởng của người cán bộ, đảng viên.
Do đó, sau khi tiếp thu và nghiên cứu các chuyên đề của môn học Lý luận
chung về nhà nước và xây dựng chính quyền nhà nước, người viết chọn đề tài:
“Phân tích làm rõ luận điểm của Hồ Chí Minh: "Nước ta là nước dân chủ.
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân... Chính quyền
từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra"” để làm tiểu luận hết môn.


2

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài làm rõ luận điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng một Nhà nước dân
chủ; Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Qua đó đề tài cũng phân tích sự vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng ta trong xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là là tư tưởng Hồ Chí Minh và sự vận
dụng của Đảng ta trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
- Phạm vi nghiên cứu là quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài dưa trên cơ sở lý luận là phương pháp luận duy vật biện chứng của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, chủ trương của
Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân và vì dân.
Bên cạnh đó đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như phân
tích, thống kê, tổng hợp….
5. Ý nghĩa của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài giúp người học nắm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng một Nhà nước dân chủ, Nhà nước của dân, do dân và vì dân ở nước ta.
Sự vận dụng tư tưởng của Người trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở nước ta qua các thời kỳ cách mạng. Qua đó giúp cho người học
nâng cao kiến thức, bản lĩnh chính trị, tư tưởng vững vàng trong q trình đấu
tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
6. Kết cấu tiểu luận
Tiểu luận được kết cấu thành 2 chương.


3

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. PHÂN TÍCH LUẬN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH
VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC DÂN CHỦ
1.1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
NHÀ NƯỚC DÂN CHỦ
1.1.1. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh

Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm tất yếu của cách mạng Việt Nam, ra
đời do yêu cầu khách quan, đáp ứng những nhu cầu bức thiết do cách mạng Việt
Nam đặt ra từ đầu thế kỷ XX đến nay. Tư tưởng Hồ Chí Minh gắn bó với tồn
bộ tiến trình cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Từ Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng năm 1951, Đảng ta kêu gọi “Toàn
Đảng hãy ra sức học tập đường lối chính trị, tác phong và đạo đức cách mạng
Hồ Chủ tịch”. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, lần đầu tiên
Đảng ta đã nêu lên khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh, khẳng định lấy chủ nghĩa
Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng.
Đến Đại hội lần thứ XI (năm 2011), khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh được
Đảng ta hồn thiện như hiện nay. Theo đó, Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ
thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt
Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào
điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn
và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng
của nhân dân ta giành thắng lợi.
1.1.2. Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước dân chủ
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước, có thể thấy, Người chưa sử
dụng thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền”. Song, ngay từ trong hành trình tìm
đường cứu nước cũng như trong suốt thời gian giữ vị trí đứng đầu Nhà nước,
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chú trọng xây dựng Nhà nước Việt Nam trên cơ sở
xây dựng và thực hiện pháp luật, coi trọng việc quản lý, điều hành xã hội bằng


4

pháp luật và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Những giá trị của tư tưởng
Hồ Chí Minh trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
hiện nay được thể hiện trên những nét cơ bản nhất về nhà nước.

Ngay từ những năm đầu đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã sớm tiếp
nhận tư tưởng về xây dựng một nhà nước pháp quyền. Năm 1919, Nguyễn Tất
Thành cùng với những người Việt Nam yêu nước đã gửi bản “Yêu sách của
nhân dân An Nam” tới Hội nghị Véc xây. Bản yêu sách gồm 8 điều, trong đó có
2 điều liên quan trực tiếp tới vấn đề pháp quyền. Đó là:
“Điều 2: Cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản
xứ hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như người châu Âu.
Điều 7: Thay thế chế độ ra sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật”.
Và từ những năm 20 (thế kỷ XX), Nguyễn Ái Quốc đã phê phán một cách
quyết liệt bản chất của bộ máy nhà nước thực dân. Người vạch trần bản chất xấu
xa của chế độ thực dân đế quốc bên trong cái vỏ hào nhống khai hóa văn minh
trước cơng luận; và qua đó, Người chuẩn bị cho mình những cơ sở lý luận và
thực tiễn để hình thành nên tư tưởng về một nhà nước kiểu mới, thật sự dân chủ.
Điều này thể hiện rõ trong tác phẩm Đường Cách mệnh. Người viết: "Chúng ta
đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh
rồi thì quyền giao cho dân chúng sớ nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người.
Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới hạnh phúc". Quan điểm
quyền lực chính trị thuộc về nhân dân và phục vụ cho lợi ích của nhân dân là cốt
lõi và xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước, tư tưởng về dân chủ - với ý
nghĩa là bản chất của quyền lực nhà nước và phương thức tổ chức, triển khai
quyền lực nhà nước là một nét đặc sắc. Theo Người, dân chủ hiểu một cách
chung nhất là quyền lực chính trị thuộc về nhân dân. Ở nước ta, chính quyền là
của nhân dân, do nhân dân làm chủ; và, "Nhân dân là ông chủ nắm chính quyền.
Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy. Thế là dân
chủ".


5


Địa vị làm chủ của người dân, tức là quan hệ của người dân với quyền lực
nhà nước, được Hồ Chí Minh làm rõ trong quan hệ với đội ngũ cán bộ nhà nước
- những người trực tiếp thi hành quyền lực nhà nước. Người viết: Nước ta là
nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ. Trong bộ máy cách mạng, từ
người quét nhà, nấu ăn cho đến Chủ tịch nước đều là phân công làm đày tớ cho
dân. Người căn dặn: Phải nhớ rằng dân là chủ. Dân như nước, mình như cá. Lực
lượng bao nhiêu là nhờ ở dân hết. … Nếu dân là chủ thì nhà nước, cán bộ nhà
nước là cơng bộc của dân. Đây là một sáng tạo độc đáo của Hồ Chí Minh. Chính
tư tưởng này đã chỉ rõ sự đối lập về chất của nhà nước nhân dân với nhà nước
phong kiến, nhà nước thực dân. Ở đây, Hồ Chí Minh đã chỉ ra nội hàm của khái
niệm "cơng bộc của dân", và có thể hiểu đây là một định nghĩa của Người về
chức năng của Nhà nước mà ý nghĩa sâu sắc của nó vẫn cịn giữ ngun tính
thời sự và cần được qn triệt trong cơng cuộc xây dựng Nhà nước ta hiện nay.
Khái niệm dân chủ cịn được Hồ Chí Minh làm rõ trong quan hệ với khái
niệm chuyên chính. Người viết: "Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân,
chuyên chính là cái khóa, cái cửa để đề phịng kẻ phá hoại, nếu hịm khơng có
khóa, nhà khơng có cửa thì sẽ mất cắp hết. Cho nên có cửa phải có khóa, có nhà
phải có cửa. Thế thì dân chủ cũng cần phải có chun chính để giữ gìn lấy dân
chủ"; và "Nhà nước ta cũng là nhà nước của đại đa số nhân dân, để thống trị
thiểu số phản động, để giữ gìn lợi ích của nhân dân, bằng cách dân chủ chuyên
chính của nhân dân”.
Khi bàn về vai trò của Nhà nước, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm về
nhân dân quản lý nhà nước. Điều đáng lưu ý là việc nhà nước tiến hành các hoạt
động nhằm mục đích phục vụ lợi ích của nhân dân, thì đồng thời, đó cũng chính
là nhằm tạo điều kiện để nhân dân có thể tham gia quản lý nhà nước. Người viết:
"... chỉ có chế độ của chúng ta mới thật sự phục vụ lợi ích của nhân dân, trước
hết là nhân dân lao động, bảo đảm mọi quyền lợi của nhân dân, mở rộng dân
chủ để nhân dân thật sự tham gia quản lý Nhà nước. Vì vậy cho nên nhân dân ta
đưa hết khả năng làm tròn nhiệm vụ người chủ nước nhà để xây dựng chủ nghĩa
xã hội, làm cho nước ta mạnh, dân ta giàu".



6

Ln có ý thức và quan điểm rõ ràng về việc thiết lập quyền lực của nhân
dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, chỉ có nhà nước do nhân dân bầu ra mới là
một nhà nước hợp hiến, hợp pháp. Bởi vậy, đối với Người, việc sớm xây dựng
Hiến pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là đặc biệt cần thiết và quan
trọng. Coi nhân dân là những người chủ thực sự của đất nước, Người khẳng định
rằng, mọi người dân, không phân biệt đảng phái, tôn giáo, giàu nghèo, gái trai...
đều có quyền bầu những người đại diện cho mình tham gia Quốc hội và có
quyền ứng cử. Trong tư tưởng về xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân,
do nhân dân và vì nhân dân, Hồ Chí Minh ln nhấn mạnh đến quan hệ về trách
nhiệm giữa đại biểu Quốc hội với cử tri. Người cho rằng, nhân dân có quyền
kiểm sốt, giám sát và bãi miễn đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân
khi những đại biểu ấy khơng cịn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân; với
tư cách người đại diện cho nhân dân, những đại biểu của cơ quan dân cử các cấp
phải liên hệ mật thiết với quần chúng, lắng nghe ý kiến, nắm được yêu cầu và
phản ánh đúng nguyện vọng của nhân dân.
Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, theo tư tưởng Hồ Chí
Minh, phải là nhà nước thực hiện chức năng quản lý, điều hành xã hội bằng
pháp luật; các quyền làm chủ của nhân dân phải được thể chế hoá. Một vấn đề
quan trọng khác của nhà nước pháp quyền mà Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm là
tính hiệu quả, tính nghiêm minh trong thực thi pháp luật. Sự hiện diện của pháp
luật mới chỉ là điều kiện cần, nhưng chưa đủ để bảo đảm ổn định xã hội. Một xã
hội muốn ổn định và phát triển khơng những phải có hệ thống pháp luật của
mình, mà cịn phải có cơ chế thực hiện pháp luật bảo đảm tính nghiêm minh và
cơng bằng. Nhận thức sâu sắc điều đó, Hồ Chí Minh địi hỏi pháp luật xã hội chủ
nghĩa phải đủ mạnh, được thực hiện nghiêm minh, việc xét xử phải khách quan,
công bằng, không thiên vị. Chúng ta đang phấn đấu đến một xã hội trong đó

khơng có người bóc lột người, khơng có sự xâm phạm và làm hại đến lợi ích
chính đáng của người khác, mọi người sống và làm việc theo Hiến pháp, pháp
luật...; do vậy, đối với những kẻ bất liêm, theo quan điểm của Người, dù kẻ đó ở
địa vị nào và làm nghề gì, pháp luật cũng phải thẳng tay trừng trị.


7

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền, Người ln đề cao
vai trị và tầm quan trọng của pháp luật, song khơng vì thế mà tuyệt đối hố
pháp luật hoặc coi đó là biện pháp duy nhất để tổ chức và quản lý xã hội. Ý
nghĩa nhân văn trong triết lý pháp luật của Hồ Chí Minh là ở chỗ, đối với Người,
tất cả mọi quyền lực nhà nước đều phải thuộc về nhân dân; nhân dân vừa là mục
đích mà nhà nước hướng tới phục vụ, vừa là chủ thể của nhà nước. Do đó, thấm
nhuần và vận dụng sáng tạo quan điểm về sự kết hợp đạo đức cách mạng với
pháp luật theo tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở bảo đảm cho việc xây dựng, củng
cố và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân hiện nay.
1.2. NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NHÀ
NƯỚC CỦA NHÂN DÂN, DO NHÂN DÂN VÀ VÌ NHÂN DÂN
Trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, kinh nghiệm của các nước tiên
tiến trong tổ chức mơ hình nhà nước và dựa vào điều kiện cụ thể, đặc thù của
Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thiết kế và trực tiếp chỉ đạo xây dựng mơ
hình Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam, với tiêu chí hàng đầu là Nhà nước thực sự
vì dân, vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc của Nhân dân. Từ đây, nội dung tư tưởng
của Người về xây dựng một Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân được hình thành và hồn thiện.
Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước dân chủ được phản
ánh một cách chắt lọc, cô đọng, cụ thể, dễ hiểu, dễ thực hành, biểu hiện ở ba vấn
đề cốt lõi sau:

Thứ nhất, khẳng định vai trò, địa vị của nhân dân trong chế độ chính trị
dân chủ - thông qua Nhà nước.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân. Nó
được hình thành trong q trình dựng nước và giữ nước của dân tộc. Đồng thời,
nó phản ánh mối quan hệ cơ bản giữa Nhà nước và nhân dân trong chế độ chính
trị - xã hội nhất định. Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành
cơng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định xây dựng một Nhà nước Việt Nam kiểu
mới, đó là nước “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”.


8

Người tuyên bố dứt khoát: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, nghĩa là nhân dân làm
chủ”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao
nhất là dân, vì dân là chủ”. Theo Người, ở nước ta, mọi quyền hành và lực lượng
đều là của nhân dân, từ nhân dân mà ra. Người nhấn mạnh rằng: “NƯỚC TA LÀ
NƯỚC DÂN CHỦ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của
dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng
chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung
ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm
lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”.
Như vậy, nội dung cơ bản và cốt lõi nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh về
dân chủ là: Nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị  - xã hội, thể chế chính
trị dân chủ phải bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, nhân dân là
người có quyền quyết định vận mệnh của quốc gia - dân tộc; nhân dân phải có
trách nhiệm và nghĩa vụ xây dựng, củng cố và thực hành quyền lực của mình
thơng qua hệ thống chính trị và thể chế chính trị dân chủ, xây dựng và củng cố
bộ máy quản lý nhà nước nhằm hướng tới phục vụ lợi ích của mình. Chủ tịch Hồ
Chí Minh khẳng định: “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan Chính phủ từ tồn

quốc cho đến các làng, đều là cơng bộc của dân... Việc gì có lợi cho dân, ta phải
hết sức làm. Việc gì có hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải u dân,
kính dân thì dân mới u ta, kính ta”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định rõ mối quan hệ giữa nhân dân và Nhà
nước: “Nếu khơng có nhân dân thì Chính phủ khơng đủ lực lượng. Nếu khơng
có Chính phủ, thì nhân dân khơng ai dẫn đường. Vậy nên Chính phủ với nhân
dân phải đồn kết thành một khối. Ngày nay, chúng ta đã xây dựng nên nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhưng nếu nước độc lập mà dân khơng hưởng
hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
Thứ hai, xây dựng Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Ngay từ năm 1927, trong cuốn “Đường Kách mệnh”, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã xác định: “Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến


9

nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ
để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng
mới được hạnh phúc”.
Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước cách mạng được
thành lập, Người nhấn mạnh: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu quyền hạn
đều của dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân... Nói tóm lại, quyền hành và lực
lượng đều ở nơi dân”. Đây là điểm khác biệt về bản chất giữa nhà nước dân chủ
nhân dân với các nhà nước của giai cấp bóc lột từng tồn tại trong lịch sử.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà nước của dân là nhà nước mà ở đó tất cả
quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước. Nhân
dân là gốc, là chủ của quyền lực nhà nước, bao nhiêu quyền hạn của Nhà nước
đều là của nhân dân. Do đó, đội ngũ cán bộ của chính quyền các cấp là đầy tớ
trung thành của nhân dân, là công bộc của nhân dân, chứ không phải là cha mẹ
dân, cai trị dân như nhà nước của chế độ bóc lột trước đây. Nhân dân là người có

quyền quyết định các vấn đề hệ trọng liên quan đến vận mệnh quốc gia dân tộc.
Ngay trong Điều 32 Hiến pháp năm 1946 đã nêu rõ: “Những việc liên quan đến
vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra cho nhân dân phúc quyết”. Thực chất ở đây là
trưng cầu ý dân, một hình thức dân chủ trực tiếp được đề ra ở nước ta khá sớm.
Nhân dân bầu ra Quốc hội và chính quyền các cấp, có quyền kiểm sốt nhà
nước, giám sát và có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân
các cấp. Nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước cho nên nhân dân có
quyền kiểm sốt quyền lực nhà nước.
Nhà nước do dân là nhà nước do nhân dân lựa chọn, bầu ra những đại biểu
của mình, những đại biểu này thay mặt nhân dân tổ chức, điều hành các cơ quan
nhà nước từ Trung ương đến địa phương thông qua chế độ tổng tuyển cử phổ
thông đầu phiếu. Đồng thời, Nhà nước do dân cũng là nhà nước mà nhân dân
tham gia vào công việc của Nhà nước, ủng hộ, giúp đỡ cả về vật chất và tinh
thần cho hoạt động của bộ máy nhà nước, thực hiện các nghĩa vụ và quyền hạn
đối với Nhà nước trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Mặt khác, nhân dân tham
gia góp ý xây dựng Nhà nước, kiểm sốt và giám sát quyền lực của Nhà nước.


10

“Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”, nghĩa là Nhà
nước khơng đáp ứng được nhu cầu và lợi ích chính đáng của nhân dân thì nhân
dân có quyền bãi miễn Chính phủ.
Nhà nước vì dân là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng chính đáng
của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Nhà nước
khơng có đặc quyền, đặc lợi, đứng trên nhân dân mà phải thực sự trong sạch,
cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng, vơ tư. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhắc
nhở: Việc gì có lợi cho dân thì dù nhỏ cũng cố gắng làm. Việc gì có hại cho dân
thì dù nhỏ cũng cố gắng tránh. Nhà nước vì dân là Nhà nước ln đề cao ý thức
trách nhiệm chính trị trước nhân dân. Người cho rằng: Nếu dân đói, Đảng và

Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt, Đảng và
Chính phủ có lỗi.
Thứ ba, giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân trên tinh thần
dân chủ.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân là
mối quan hệ mật thiết, gắn bó chặt chẽ với nhau. Nhân dân cần Nhà nước để
lãnh đạo và tổ chức lực lượng xây dựng, phát triển đất nước. Mặt khác, Nhà
nước phải dựa vào mọi nguồn lực của nhân dân để phục vụ nhân dân. Trong tư
tưởng của Người, nguyên tắc cơ bản trong hoạt động của Nhà nước là nguyên
tắc tập trung dân chủ. Nhà nước phát huy dân chủ đến cao độ mới động viên
được tất cả các lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên. Đồng thời, phải
tập trung cao độ để thống nhất lãnh đạo nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Bên cạnh việc đề cao dân chủ, Hồ Chí Minh cũng nêu rõ vai trị của chun
chính: Chế độ nào cũng có chun chính. Vấn đề là chun chính với ai? Dân
chủ là của quý báu của nhân dân, chuyên chính là cái khóa, cái cửa để đề phịng
kẻ phá hoại... Có dân chủ thì cũng cần phải có chun chính để giữ gìn dân chủ.
Chính vì lẽ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến xây dựng
một Nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ. Sau khi Cách mạng
Tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ lâm thời
đọc Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với quốc dân đồng bào cả nước và toàn thế


11

giới về sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa, khẳng định tính hợp
pháp của Chính phủ lâm thời. Sau đó, Người tiến hành xây dựng Hiến pháp dân
chủ, tổ chức Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu, thành lập Ủy ban
dự thảo Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 2-3-1946, Quốc
hội họp phiên đầu tiên và bầu Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Chính phủ Liên hiệp
kháng chiến. Đây là Chính phủ hợp hiến đầu tiên do nhân dân bầu ra, có đầy đủ

tư cách và hiệu lực trong việc giải quyết mọi vấn đề đối nội và đối ngoại của đất
nước. Cũng vào năm 1946, bản Hiến pháp đầu tiên ra đời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh chú trọng đến việc xây dựng luật pháp, quản lý đất nước bằng luật pháp và
làm cho luật pháp có hiệu lực trong thực tế. Theo Người, trong Nhà nước dân
chủ nhân dân, dân chủ và pháp luật phải đi đôi với nhau, bảo đảm cho chính
quyền hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.
Một nội dung rất quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà
nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là tập trung xây dựng
một nền pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện quyền lực của nhân dân.
Để xây dựng một nền pháp chế xã hội chủ nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt
quan tâm đến việc đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức phải được đào tạo chính
quy, am hiểu pháp luật, thành thạo nghiệp vụ quản lý hành chính ở tất cả các
lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký
Sắc lệnh số 197 thành lập Ban Pháp lý học tại Trường Đại học Việt Nam; năm
1950, ký Sắc lệnh số 76 ban hành “Quy chế công chức” để bảo đảm công bằng
trong thi tuyển, bổ nhiệm vào ngạch bậc hành chính. Đây là cơ sở quan trọng để
xây dựng nền móng cho pháp quyền Việt Nam.
Bên cạnh việc tập trung xây dựng thể chế quản lý đất nước thông qua pháp
luật, xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chú ý đến
công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao trình độ giác ngộ
và chấp hành pháp luật của nhân dân, nhấn mạnh sự nêu gương của đội ngũ thực
thi pháp luật. Trong thư gửi Hội nghị tư pháp toàn quốc (tháng 1 -1946), Người
căn dặn: Các bạn là những người thi hành pháp luật, lẽ tất nhiên các bạn phải
nêu cao tấm gương “Phụng công, thủ pháp, chí cơng, vơ tư!”.


12

CHƯƠNG 2. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NHÀ
NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI
MỚI ĐẤT NƯỚC
Với những giá trị khoa học to lớn, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc,
tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân chính là cơ sở, định hướng cho việc xây dựng, củng cố và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta xác định là một nhiệm vụ
trọng tâm của quá trình đổi mới hệ thống chính trị từ khi đất nước ta tiến hành
đổi mới. Q trình đó có thể luận chứng được qua các mốc thời gian và nội dung
như sau.
Ngay từ Hội nghị Trung ương 2 khóa VII năm 1994, lần đầu tiên Đảng đã
đề cập đến thuật ngữ “xây dựng Nhà nước pháp quyền”. Đến Hội nghị đại biểu
toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII năm 1994 và các Đại hội VIII, IX, X, X, XI,
XII, Đảng tiếp tục xác định nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và xác định rõ những đặc trưng chủ yếu của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng. Đó là:
Một là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân. Đây là đặc trưng cơ bản, được ghi nhận trong Hiến pháp nước ta và được
thể hiện trong các quy định về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước từ Trung ương đến địa phương.
Tư tưởng nhà nước của dân, do dân, vì dân đã có từ sớm trong lịch sử tư
tưởng chính trị nhân loại. Tuy nhiên, nét đặc trưng của tư tưởng này ở Việt Nam
được thể hiện ở chỗ nó là thành quả của cuộc đấu tranh lâu dài và bền bỉ chống
lại ách thống trị của phong kiến, thực dân, đế quốc để giải phóng dân tộc Việt
Nam, kết thúc bằng một trong những sự kiện vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc, đó


13


là cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 với sự ra đời của nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa - mà ngay từ khi thành lập, chính quyền mới đã thể hiện tính nhân
dân và cách mạng sâu sắc.
Khẳng định quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân không chỉ là khẳng định
một nguyên tắc cơ bản được ghi nhận trong Hiến pháp mà còn khẳng định sự
cần thiết phải lập ra cơ chế đảm bảo thực hiện quyền lực thực sự của nhân dân.
Nhân dân là người chủ của quyền lực, không chỉ tạo lập nên nhà nước, trực tiếp
và thông qua các cơ quan đại diện để thực thi quyền lực, mà cịn thơng qua các
hình thức khác để tham gia vào hoạt động quản lý của nhà nước, tác động mạnh
mẽ đến quá trình hoạch định đường lối, chính sách, cũng như tham gia vào các
hoạt động khác. Từ đó, có thể đánh giá hiệu quả hoạt động của Nhà nước là khả
năng phục vụ nhân dân, là công cụ để nhân dân làm chủ về kinh tế, chính trị, xã
hội, sử dụng tốt và có hiệu quả các quyền và nghĩa vụ của mình.
Hai là, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng và phối hợp
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp. Đây là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta.
Quan điểm về tính thống nhất của quyền lực, về sự phân công, phối hợp
giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là một quan điểm chính trị - pháp
lý có tính khái qt cao. Nói quyền lực nhà nước thống nhất khơng có nghĩa là
sự tập trung quyền lực cao độ vào một nhánh quyền lực nào mà là sự thống nhất
ở mục tiêu chung là sự phục vụ lợi ích của dân tộc, của đất nước, của nhân dân.
Ba là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thừa nhận Hiến
pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các quan hệ thuộc tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; tổ chức và hoạt động của Nhà nước thực
hiện trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật.
Trong Nhà nước pháp quyền, ý chí của nhân dân và sự lựa chọn chính trị
được xác lập một cách tập trung nhất, đầy đủ nhất và được thể hiện trong Hiến
pháp. Chính vì lẽ đó mà Hiến pháp được coi là đạo luật cơ bản của Nhà nước, có
hiệu lực pháp lý cao nhất, quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,

quốc phịng, an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên


14

tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước. Hiến pháp, pháp luật của
Nhà nước là điều kiện quan trọng nhất bảo đảm sự ổn định xã hội và sự an toàn
của người dân. Hệ thống pháp luật thể hiện đầy đủ, đúng đắn ý chí của nhân dân,
phù hợp với hiện thực khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Nghĩa vụ tuân theo
Hiến pháp, pháp luật là của tất cả công dân, không loại trừ đối với bất cứ ai.
Bốn là, Nhà nước ta tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công
dân; nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, thực hành dân
chủ, đồng thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật.
Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và
vì dân, do vậy, tư tưởng “trọng dân” phải được quán triệt toàn bộ tổ chức và hoạt
động của Nhà nước. Tư tưởng “trọng dân” hồn tồn khơng mâu thuẫn với tư
tưởng “trọng pháp”, mà nó thống nhất, quan hệ chặt chẽ với nhau bởi “trọng dân
thì phải trọng pháp và trọng pháp là để trọng dân”.
Thông qua pháp luật mà các cơ quan nhà nước thực hiện trách nhiệm bảo
đảm dân chủ và công bằng xã hội, chịu trách nhiệm pháp lý về những vi phạm
của mình trong quan hệ với cơng dân; chịu sự giám sát của nhân dân. Về phần
mình, cơng dân phải thực hiện trách nhiệm của mình trong việc chấp hành pháp
luật, thể hiện tính tích cực trong đời sống chính trị đất nước, chịu trách nhiệm
pháp lý về những hành vi của mình.
Năm là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do một đảng duy
nhất lãnh đạo, có sự giám sát của nhân dân, sự phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận.
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một tất yếu khách quan. Đảng
với tư cách là đảng cầm quyền được tổ chức và hoạt động với tính chất là một
nhân tố quan trọng của cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước.

Sáu là, xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức vừa có đức, vừa có tài, là
“cơng bộc” của nhân dân.
Bộ máy nhà nước có trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả hay
khơng, phụ thuộc trước hết vào những con người trong tổ chức bộ máy đó. Do
vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, xây dựng nhà nước mới phải bắt đầu từ công


15

việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ vừa có đức, vừa có tài, vừa hồng, vừa
chuyên, “là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Người khẳng định:
“Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho
dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo
cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng”, đáp ứng yêu cầu
và lợi ích chính đáng của nhân dân. Cán bộ là gốc của mọi cơng việc, “Có cán
bộ tốt, việc gì cũng xong. Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt
hoặc kém”. Vì vậy, “huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”. Từ đây,
Người đã nghiêm khắc phê bình một bộ phận cán bộ, đảng viên thối hóa, biến
chất, bị chi phối bởi chủ nghĩa cá nhân nên “có thái độ xa quần chúng”, khơng
muốn học hỏi quần chúng mà chỉ muốn làm thày quần chúng, “quên rằng dân
bầu mình ra là để làm việc cho dân”, “quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan,
tham ô, lãng phí...”. Do vậy, Người yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải không
ngừng học tập, tu dưỡng, tự sửa chữa để tiến bộ mãi. Công tác cán bộ phải dựa
vào dân, phát hiện, tuyển chọn cán bộ từ phong trào cách mạng của nhân dân;
đưa cán bộ thâm nhập vào hoạt động thực tiễn và thông qua sự giúp đỡ, kiểm
soát của nhân dân để đào tạo, rèn luyện cán bộ.
2.2. SỰ KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA THEO
VĂN KIỆN ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG
Tổng kết, đánh giá việc thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng,

trên cơ sở nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn
35 năm đổi mới, Đại hội lần thứ XIII của Đảng rút ra 5 bài học lớn, trong đó bài
học về “Dân” thể hiện rõ nét sự kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh khi bổ sung thêm
hai vấn đề lớn “dân giám sát, dân thụ hưởng” trở thành một phương châm: “Dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; và bài học
về xây dựng Nhà nước.
Về xây dựng Nhà nước, Đảng nêu lên định hướng: “Xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn,
hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất


16

nước”. Để xây dựng Nhà nước thực sự vì Nhân dân, vấn đề nâng cao năng lực,
hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước; kiểm soát quyền lực nhà nước,
chống các hiện tượng lạm quyền, lộng quyền, vi phạm quyền công dân, chống
tham nhũng, tiêu cực trong bộ máy nhà nước đang được đặt ra rất cấp thiết.
Đại hội lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh: “Tăng cường công khai, minh
bạch, trách nhiệm gắn với giải trình, kiểm sốt quyền lực gắn với siết chặt kỷ
cương trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức”; đẩy
mạnh đấu tranh phịng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu; xác định rõ hơn
vai trò, chức năng, vị trí, quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền và nhiệm vụ được phân công. Đây là sự kế thừa và phát triển tư
duy tiến bộ về xây dựng Nhà nước pháp quyền của Đảng ta, trong đó quyền lực
nhà nước phải được pháp luật quy định rõ ràng; làm căn cứ để thực thi và bảo vệ
quyền của người dân (dân quyền) trên thực tế và xác định quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của Nhân dân “làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo” tổ
chức và các hoạt động của Nhà nước.
Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng cũng yêu cầu phải tiếp tục đổi
mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, phát huy dân chủ pháp quyền, tăng tính

chuyên trách trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội; tôn trọng và bảo đảm,
bảo vệ quyền con người, quyền cơng dân; hồn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp,
cơ chế giám sát lấy phiếu, bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ
do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn. Nghị quyết còn đặt ra yêu
cầu phải “thiết lập đồng bộ” và “gắn kết” cơ chế giám sát, phản biện của Mặt
trận Tổ quốc, các tổ chức - chính trị xã hội và Nhân dân nhằm phát huy cao nhất
quyền dân chủ của Nhân dân.
Đối với Chính phủ, Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII nêu định hướng: xây
dựng bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, có
năng lực kiến tạo phát triển, liêm chính, với các giải pháp: “Đẩy mạnh phân cấp,
phân quyền, xác định rõ trách nhiệm Chính phủ với các bộ, ngành; giữa Chính
phủ, các bộ, ngành với các chính quyền địa phương, khắc phục triệt để tình trạng
chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn” và “Nâng cao chất lượng dịch vụ


17

công; tiếp tục sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng tinh
gọn, bảo đảm chất lượng, hoạt động hiệu quả”.
Đối với các cơ quan tư pháp, Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII nêu rõ: “Xây
dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính,
phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”. Hoạt động tư pháp có vai trị quan trọng
trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người. Do vậy, cần tiếp tục đổi mới
tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp, xứng
đáng là cơ quan giữ vai trò “trọng yếu” trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của Nhân dân.
Đối với chính quyền địa phương, tiếp tục hoàn thiện tổ chức phù hợp với
từng địa bàn nơng thơn, đơ thị, hải đảo. Chính quyền địa phương là cấp gần dân,
trực tiếp giải quyết công việc hàng ngày, liên quan đến lợi ích thiết thực của
Nhân dân, vì vậy Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định quan điểm đẩy

mạnh phân cấp, nâng cao tính chủ động, tự chủ của địa phương, để các địa
phương kịp thời giải quyết các vấn đề cụ thể phát sinh trong thực tiễn của địa
phương.
Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng còn nêu rõ vấn đề trọng tâm là
xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ
phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, gắn bó mật thiết với Nhân
dân và khẳng định đó là nhân tố có ý nghĩa quyết định thành cơng trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Có thể nói, tất cả yêu cầu, nhiệm vụ nêu trên đều thể hiện tinh thần xây
dựng Nhà nước dân chủ thực sự gắn bó với dân, phục vụ lợi ích của Nhân dân
nhằm “khơng ngừng cải thiện tồn diện đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân” theo phương châm mà Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: “Việc gì có
lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”.


18

2.3. TIẾP TỤC VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY
DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG THỜI
GIAN TỚI
Thứ nhất, tiếp tục nghiên cứu và quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về dân
chủ và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân. Đây là một tài sản có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn cần
được học tập, vận dụng và triển khai nghiêm túc trong toàn bộ hoạt động của cơ
quan nhà nước và xã hội, tạo động lực tinh thần mạnh mẽ để xây dựng, phát
triển bền vững đất nước.
Thứ hai, tiếp tục cụ thể hóa, hồn thiện thể chế thực hành dân chủ theo tinh
thần Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013. Thực hiện nghiêm
túc và có hiệu quả trong thực tế dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, dân chủ ở cơ

sở theo phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát,
dân thụ hưởng”. Quán triệt quan điểm của Đảng trong xử lý các vi phạm pháp
luật theo ngun tắc mọi cơng dân bình đẳng trước pháp luật, khơng có vùng
cấm, khơng có ngoại lệ. Thực hiện nhất quán chủ trương thực hành dân chủ một
cách đồng bộ và toàn diện; phát huy tinh thần tích cực, chủ động của nhân dân
trong việc tham gia thực hành dân chủ, tham gia xây dựng bộ máy nhà nước
trong sạch, liêm chính, hiệu lực, hiệu quả.
Thứ ba, tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội và hội đồng
nhân dân các cấp, nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác lập pháp, giám sát
tối cao và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Tăng cường sự gắn
kết của các hoạt động giám sát của Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp với
kiểm tra, giám sát của Đảng, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và
giám sát của nhân dân. Tăng cường các hoạt động kiểm tra, thanh tra, giám sát
trong các hoạt động của Chính phủ. Tập trung xây dựng chính quyền điện tử, cắt
bỏ những thủ tục hành chính rườm rà, khắc phục tối đa các khoảng trống dẫn
đến tham nhũng, hối lộ. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của tòa án


19

nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, hoạt động luật sư và hỗ trợ
tư pháp.
Thứ tư, đẩy mạnh xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức liêm
chính, có bản lĩnh chính trị, có phẩm chất đạo đức, năng lực, uy tín, tính chuyên
nghiệp cao, sức khỏe tốt, tận tụy phục vụ nhân dân. Chuẩn hóa đội ngũ cán bộ,
cơng chức, viên chức theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, trách nhiệm, phát huy
dân chủ gắn liền với siết chặt kỷ cương, kỷ luật, khuyến khích đổi mới, sáng tạo,
có khát vọng vì lợi ích chung của nhân dân, của đất nước. Cải thiện môi trường
làm việc, chính sách tiền lương, nhà ở, cơng vụ. Kiên quyết loại bỏ những phần
tử thối hóa, biến chất ra khỏi bộ máy nhà nước. Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập

và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.


20

KẾT LUẬN
*
Pháp quyền và Nhà nước pháp quyền là những giá trị có tính phổ qt trên
thế giới, cả trong nghiên cứu lý luận và thực tiễn chính trị - pháp lý. Những tư
tưởng, giá trị phổ biến và tiến bộ của nhà nước pháp quyền đó là đề cao vai trị
của pháp luật trong tương quan của nó với quyền lực của nhà nước. Theo đó,
nhà nước phải đặt mình dưới pháp luật, chịu sự ràng buộc của pháp luật; tư
tưởng về chủ quyền nhân dân với tính cách là nguồn gốc tính chính đáng, tính
hợp pháp của nhà nước; đề cao các giá trị công bằng, công lý, quyền con người.
Để biến những ý tưởng, tư tưởng, giá trị phổ biến, được thừa nhận chung của
nhà nước pháp quyền vào thực tiễn tổ chức và hoạt động của nhà nước và xã
hội, địi hỏi phải có hiến pháp và sự thượng tơn hiến pháp; tính minh bạch của
pháp luật và của việc thực hiện pháp luật; pháp luật phải dễ tiếp cận và được
thực hiện kịp thời, phải có sự phân quyền, phân cơng, phối hợp quyền lực nhà
nước, trong đó phải bảo đảm sự độc lập của quyền tư pháp, tơn trọng nhân dân
và vì nhân dân.
Ở Việt Nam, những giá trị cốt lõi của nhà nước pháp quyền về chủ quyền
nhân dân, về tư tưởng đề cao giá trị công bằng, công lý, quyền con người đã
được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh hướng tới từ những ngày đầu lập nước; trở
thành tư tưởng xuyên suốt của cách mạng Việt Nam; thể hiện trong nhiều bài
viết, bài nói chuyện của Hồ Chí Minh, trong Cương lĩnh của Đảng và Hiến pháp
của đất nước. Vì vậy có thể thấy tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước
pháp quyền của dân, do dân và vì dân vẫn mãi có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn
sâu sắc. Ngày nay, trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và hội nhập, Đảng ta
tiếp tục kế thừa tư tưởng của Người để xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân

dân, do nhân dân và vì nhân dân là điều vô cùng cần thiết và đúng đắn. Quán
triệt tư tưởng đó, Nghị quyết Đại hội đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của
Đảng tiếp tục khẳng định và vận dụng nhằm phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng nhà nước vì dân đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ lãnh đạo phát triển đất
nước trong bối cảnh hiện nay./.


21

TÀI LIỆU THAM KHẢO
*
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 7, Nxb CTQGST, H.2000.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn q́c lần thứ
IX. Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội 2001.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn q́c lần thứ
XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2016.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021.
5. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình Nhà nước và pháp
luật Việt Nam (Dùng cho hệ đào tạo Cao cấp lý luận chính trị), Nxb.Lý luận
chính trị, H.2021.
6. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG-ST, H.2011.
7. Quốc hội, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb.
Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021.
8. Văn phịng Quốc hội, Văn kiện Q́c hội toàn tập, tập 1 (1945-1960),
Nxb CTQG-ST, H.2006.




×