Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Tieu luan mon cong tac can bo cua Dang - Phân tích những phát triển mới trong nhận thức quan điểm của đảng về cán bộ và công tác cán bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (341.17 KB, 30 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VIỆN XÂY DỰNG ĐẢNG

TIỂU LUẬN
(Điều kiện)
MÔN: CÔNG TÁC CÁN BỘ CỦA ĐẢNG TRONG
THỜI KỲ ĐỔI MỚI
ĐỀ TÀI:
PHÂN TÍCH NHỮNG PHÁT TRIỂN MỚI TRONG NHẬN THỨC,
QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ CÁN BỘ VÀ CÔNG TÁC CÁN BỘ

Họ và tên học viên: Lê ………..
Mã số học viên: MP22……………….
Lớp: Cao học XDĐ&CQNN, …………………

ST – 202..


i

MỤC LỤC
*
MỞ ĐẦU........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.................................................................................1
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu..........................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.......................................................2
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu..........................................2
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu..........................................2
6. Kết cấu tiểu luận..................................................................................2
NỘI DUNG.....................................................................................................3
CHƯƠNG 1. NHỮNG PHÁT TRIỂN MỚI TRONG NHẬN THỨC


CỦA ĐẢNG VỀ CÁN BỘ VÀ CÔNG TÁC CÁN BỘ...............................3
1.1. Khái niệm cán bộ và vai trò của cán bộ...........................................3
1.2. Về khái niệm, vai trò và nội dung của công tác cán bộ....................10
1.3. Về phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác cán bộ của
cả hệ thống chính trị................................................................................16
CHƯƠNG 2. BƯỚC PHÁT TRIỂN TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐẢNG
VỀ CÔNG TÁC CÁN BỘ TẠI VĂN KIỆN ĐẠI HỘI XIII......................19
2.1. Tầm quan trọng của công tác cán bộ tại Đại hội XIII của Đảng......19
2.2. Đột phá về tách nội hàm cán bộ.......................................................20
2.3. Đột phá về phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ
cán bộ......................................................................................................21
2.4. Đột phá về “tinh hoa dẫn dắt” đất nước phát triển...........................22
KẾT LUẬN....................................................................................................26
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................28


1

MỞ ĐẦU
*
1. Lý do chọn đề tài
Cán bộ là “gốc” của mọi công việc, đội ngũ cán bộ các cấp là lực lượng
rường cột quyết định chất lượng, hiệu quả hoạt động của tổ chức Đảng, bộ máy
Nhà nước, hệ thống chính trị và các tổ chức xã hội; quyết định sự thành công
của công cuộc đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong
hồn cảnh quốc tế, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, vừa tạo cơ
hội, thời cơ, vừa nảy sinh khó khăn, thách thức, nhất là an ninh truyền thống và
an ninh phi truyền thống mang tính tồn cầu. Trong những năm qua, Đảng, Nhà
nước ta thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức,
nhất là cán bộ cấp chiến lược theo yêu cầu phát triển của thực tiễn cách mạng,

đã giành được những kết quả rất quan trọng, với những bước chuyển biến tích
cực trong công tác tổ chức, cán bộ từ Trung ương đến địa phương.
Tuy nhiên, trước đòi hỏi của thực tiễn trong bối cảnh quốc tế hóa được tăng
cường, sự tác động mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, công
tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là cán bộ cấp chiến lược
vẫn còn một số bất cập, hạn chế, cần phải khắc phục. Nghị quyết Đại hội lần thứ
XIII của Đảng chỉ rõ: “Cơng tác cán bộ cịn có mặt hạn chế, việc thực hiện một
số nội dung trong các khâu của cơng tác cán bộ ở một số nơi cịn hình thức.
Tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chủ nghĩa cá nhân,
“lợi ích nhóm”, bệnh lãng phí, vơ cảm, bệnh thành tích ở một bộ phận cán bộ,
đảng viên chưa bị đẩy lùi”.
Chính vì vậy, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định rõ ba nhiệm vụ
trọng tâm của công tác xây dựng Đảng, Nhà nước trong nhiệm kỳ 2021 – 2026,
trong đó có nhiệm vụ về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, đó là: “Đổi mới
mạnh mẽ và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cán bộ; tập trung xây dựng
đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, người đứng đầu các cấp đủ
phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”. Đây là địi hỏi cấp thiết từ


2

thực tiễn cách mạng Việt Nam; yêu cầu nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng và
hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Qua việc học tập môn Công tác cán bộ của Đảng trong thời kỳ đổi mới, đễ
làm sâu sắc hơn vấn đề lý luận và thực tiễn, người viết lựa chọn đề tài “Phân
tích những phát triển mới trong nhận thức, quan điểm của Đảng về cán bộ và
công tác cán bộ” để làm bài tiểu luận điều kiện.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài làm rõ những phát triển mới trong nhận thức của Đảng về cán bộ và
công tác cán bộ trong thời kỳ đổi mới.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là lý luận về nhận thức, quan điểm của
Đảng về cán bộ và công tác cán bộ.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài là những nhận thức mới, quan điểm mới
của Đảng về công tác cán bộ trong thời kỳ đổi mới đất nước.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài dưa trên cơ sở lý luận là phương pháp luận duy vật biện chứng của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, chủ trương,
chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về cán bộ và công tác cán bộ của nước
ta thời kỳ đổi mới.
Bên cạnh đó đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như phân
tích, thống kê, tổng hợp….
5. Ý nghĩa của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài giúp người học nắm rõ hơn các vấn đề phát triển
nhận thức, quan điểm của Đảng ta về cán bộ, công tác cán bộ trong thời kỳ đổi
mới. Có thể vận dụng những lý luận về sự phát triển nhận thức này vào việc
thực hiện nhiệm vụ tại cơ quan, đơn vị và địa phương.
6. Kết cấu tiểu luận
Tiểu luận được kết cấu thành 2 chương.


3

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. NHỮNG PHÁT TRIỂN MỚI TRONG NHẬN THỨC CỦA
ĐẢNG VỀ CÁN BỘ VÀ CÔNG TÁC CÁN BỘ
1.1. Khái niệm cán bộ và vai trò của cán bộ
1.1.1. Về khái niệm cán bộ
Trước năm 1998, khái niệm cán bộ được hiểu là tất cả những người làm


việc trong các cơ quan, tổ chức của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức chính trị - xã hội, các doanh nghiệp nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, các
lực lượng vũ trang, khơng phân biệt có chức vụ hay khơng có chức vụ. Do
chưa phân biệt giữa cơng chức và viên chức, nên trong cả các cơ quan nhà nước
và trong các đơn vị sự nghiệp đều gọi chung là cán bộ hoặc cán bộ, công
chức.
Trong các đơn vị sự nghiệp và doanh nghiệp nhà nước thường dùng khái
niệm cán bộ, cơng nhân viên chức và có sự phân biệt tương đối cán bộ là người
có chức vụ lãnh đạo, quản lý, cịn những người khơng là cán bộ lãnh đạo, quản
lý được gọi là nhân viên. Ở các vùng nông thôn, nhất là vùng núi, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số, đồng bào thường gọi tất cả giáo viên, bác sĩ và y sĩ làm
việc ở trạm y tế xã, những người đảm nhiệm một việc công gì đó, thậm chí các
đảng viên, là cán bộ.
Để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước về nguồn nhân lực, nhất là để có cơ
chế tuyển dụng, quản lý, thực hiện chế độ chính sách, trong thời kỳ đổi mới
Đảng và Nhà nước từng bước định hình hóa khái niệm cán bộ. Thực hiện Nghị
quyết Trung ương 8 khóa VII và nghị quyết Đại hội VIII, năm 1998 Ủy ban
Thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh Cán bộ, công chức. Pháp lệnh xác
định, cán bộ, công chức là công dân Việt Nam, trong biên chế và hưởng lương từ
ngân sách nhà nước, gồm:
- Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong các
cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội;


4

- Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ
thường xuyên làm việc trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội;
- Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao giữ một công vụ
thường xuyên, được phân loại theo trình độ đào tạo, ngành chun mơn, được

xếp vào một ngạch hành chính, sự nghiệp trong các cơ quan nhà nước; mỗi
ngạch thể hiện chức và cấp về chun mơn nghiệp vụ, có chức danh tiêu chuẩn
riêng;
- Thẩm phán Tòa án nhân dân, Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân;
- Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao nhiệm vụ thường
xuyên làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không
phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, cơng nhân quốc phịng; làm việc
trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ
sĩ quan chuyên nghiệp.
Ưu điểm nổi bật của Pháp lệnh là đã khu biệt cán bộ, công chức với viên
chức - những người làm việc trong các đơn vị sự nghiệp (sự nghiệp giáo dục đào tạo, sự nghiệp khoa học công nghệ, sự nghiệp y tế, sự nghiệp thơng tin - báo
chí, sự nghiệp thể dục thể thao, sự nghiệp văn hóa - nghệ thuật, sự nghiệp bảo
tồn bảo tàng… Tuy nhiên, Pháp lệnh chưa tách biệt giữa cán bộ và công chức và
chưa bao gồm cán bộ cơ sở.
Qua thực tiễn thực hiện Pháp lệnh Cán bộ, cơng chức, xuất phát từ nhu cầu
hình thành cơ chế quản lý đặc thù đối với các đơn vị sự nghiệp và thực hiện
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa IX về đổi mới và nâng cao chất lượng
hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn, năm 2008 Quốc hội đã thông qua
Luật Cán bộ, công chức và năm 2010 Quốc hội đã thông qua Luật Viên chức.
Với Luật Cán bộ, công chức, lần đầu tiên Nhà nước ta tách riêng khái niệm
cán bộ, quy định cụ thể những đối tượng được coi là cán bộ; phân biệt rõ giữa
cán bộ chuyên trách và cán bộ khơng chun trách trong hệ thống chính trị ở cơ
sở; cán bộ bao gồm cả cán bộ cơ sở xã, phường, thị trấn, nhưng tách biệt giữa
cán bộ xã, phường, thị trấn với công chức xã, phường, thị trấn.
Trong Luật Cán bộ, cơng chức năm 2010, có hai loại cán bộ:


5

Loại thứ nhất: công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ

chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong các cơ quan của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương, ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, trong biên chế và
hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Loại thứ hai: cán bộ xã, phường, thị trấn - công dân Việt Nam, được bầu
cử, bổ nhiệm giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân
(chủ tịch và các phó chủ tịch Hội đồng nhân dân), Ủy ban nhân dân (chủ tịch và
các phó chủ tịch Ủy ban nhân dân), Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu
tổ chức chính trị - xã hội (xã khơng có chủ tịch Cơng đồn, phường và thị trấn
khơng có chủ tịch Hội Nơng dân).
Theo đó, hầu hết cán bộ là những người có chức vụ lãnh đạo, quản lý và
chỉ công tác ở các tổ chức thuộc hệ thống chính trị. Những người làm cơng việc
quản lý ở các doanh nghiệp và các lực lượng vũ trang không thuộc đối tượng
điều chỉnh của Luật Cán bộ, công chức, mà do Luật Doanh nghiệp, Luật Sĩ quan
Quân đội nhân dân Việt Nam, Luật Công an nhân dân Việt Nam điều chỉnh.
Hội nghị Trung ương 9 khóa X (tháng 01-2009) tổng kết 10 năm thực hiện
Chiến lược cán bộ do Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII thơng qua đã xem xét
vấn đề khái niệm cán bộ và kết luận: "khái niệm "cán bộ" được hiểu một cách
tổng thể, theo nghĩa rộng là cán bộ, công chức, viên chức; không phân biệt cán
bộ và công chức theo Luật Cán bộ, công chức".
Quan niệm này của Đảng không trái với các quy định của Nhà nước, vì
khái niệm cán bộ trong Luật Cán bộ, công chức chỉ đề cập cán bộ trong các tổ
chức thuộc hệ thống chính trị, đồng thời với Luật Cán bộ, cơng chức cịn có
Luật Viên chức, Luật Doanh nghiệp, Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam,
Luật Công an nhân dân Việt Nam…
Khái niệm cán bộ được sử dụng trong văn bản của Đảng bao quát tất
cả các cán bộ thuộc đối tượng điều chỉnh của nhiều văn bản luật khác. Mặt
khác, Đảng tôn trọng các quy định của Nhà nước về cán bộ phục vụ công tác
quản lý nhà nước về nhân lực, song với trách nhiệm của tổ chức chính trị duy



6

nhất cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội, thống nhất lãnh đạo công tác cán
bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, Đảng phải chăm lo xây dựng đội ngũ đông đảo
những người làm việc trong các tổ chức thuộc hệ thống chính trị, các đơn vị sự
nghiệp, các doanh nghiệp, các lực lượng vũ trang; cả các cán bộ lãnh đạo, quản
lý và những người làm công tác chun mơn nghiệp vụ, Đảng có thể mở rộng
khái niệm cán bộ để có chủ trương, giải pháp xây dựng, quản lý.
Như vậy, theo quan niệm của Đảng, cán bộ là các công dân Việt Nam đủ 18
tuổi trở lên công tác ở các cơ quan đảng, nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ
chức chính trị - xã hội, các đơn vị sự nghiệp, các doanh nghiệp nhà nước, các
lực lượng vũ trang từ cấp Trung ương đến cấp cơ sở, khơng phân biệt có chức vụ
lãnh đạo, quản lý hay khơng có chức vụ lãnh đạo, quản lý, trong biên chế và
hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
1.1.2. Về vai trò của cán bộ
Trong các giai đoạn cách mạng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Đảng ta luôn
đặc biệt quan tâm chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu trước mắt
và lâu dài của cách mạng. Ngay trong những năm đầu có chính quyền, trong tác
phẩm Sửa đổi lối làm việc viết năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định:
"cán bộ là cái gốc của mọi công việc"; "công việc thành công hoặc thất bại đều
do cán bộ tốt hay kém"; v.v…
Từ thực tiễn công cuộc đổi mới, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa
VIII (tháng 6-1997) khẳng định: "Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của
cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu
then chốt trong công tác xây dựng đảng". Việc lúc này Trung ương nhấn mạnh
một trong những vai trò của cán bộ là “gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất
nước và chế độ” là do sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước
Đông Âu sụp đổ, các đảng cộng sản và công nhân ở những nước này mất chính
quyền, tan rã; ở nước ta, vấn đề kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa

xã hội, con đường xã hội chủ nghĩa, vai trò lãnh đạo của Đảng trở thành vấn đề
sống còn, cốt tử, trong đó đội ngũ cán bộ có vai trị đặc biệt quan trọng.


7

Kết luận của Hội nghị Trung ương 9 khóa X (tháng 02-2009) một lần nữa
khẳng định: "cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, là khâu
then chốt trong công tác xây dựng Đảng". Trong kết luận của Hội nghị Trung
ương 9 khóa X, Trung ương khơng nhắc lại vai trị cán bộ “gắn liền với vận
mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ” là do sau hơn 20 năm đổi mới, định
hưỡng con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đã được khẳng định vững chắc, tuyệt
đại đa số nhân dân tin tưởng và kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, không mơ hồ về con đường phát triển khác.
Quan niệm của Đảng ta về vai trò của cán bộ xuất phát từ các mối quan hệ
chủ yếu sau:
Một là, với đường lối, chính sách, pháp luật (bao gồm Cương lĩnh, Chiến
lược, Nghị quyết của Đảng; Hiến pháp, pháp luật, các chính sách của Nhà nước;
chủ trương, nghị quyết, kế hoạch công tác của địa phương, cơ quan, đơn vị),
cán bộ vừa là người tham gia xây dựng, hoàn thiện, vừa là những người giữ vai
trò quyết định trong tổ chức thực hiện. Trong cơng cuộc đổi mới, chính đội ngũ
cán bộ các cấp, các ngành, các địa phương là những người trực tiếp và có vai trị
thiết thực trong việc xây dựng, hoàn thiện, vừa là những người giữ vai trò
quyết định trong tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của các cấp ủy đảng,
chính sách và pháp luật của Nhà nước, chương trình, kế hoạch cơng tác của
chính quyền, lãnh đạo các cấp.
Hai là, với các tổ chức (bao gồm cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo, cơ
quan nhà nước, đoàn thể, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp, đơn vị lực lượng vũ
trang...), chất lượng cán bộ ảnh hưởng lớn đến chất lượng nội bộ và chất lượng
hoạt động của tổ chức. Cán bộ là nhân tố cấu thành tổ chức, nên chất lượng cán

bộ ảnh hưởng đến chất lượng tổ chức.
Ba là, với nhân dân (bao gồm cả cán bộ, công chức, viên chức trong các
cơ quan, đơn vị; hạ sĩ quan và chiến sĩ trong các lực lượng vũ trang; công
nhân, người lao động trong các doanh nghiệp), cán bộ là "cầu nối” giữa Đảng,
Nhà nước với nhân dân, là người tuyên truyền, phổ biến đường lối của
Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, chủ trương công tác cuảt cấp


8

ủy, chính quyền, đồn thể đến người dân và nắm bắt, phản ảnh ý kiến, tâm tư,
nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân để phản ánh với cơ quan lãnh đạo
đảng, cơ quan nhà nước nghiên cứu tiếp thu, giải quyết. Nhân dân hiểu, làm theo
và tin tưởng vào Đảng, Nhà nước thông qua đội ngũ cán bộ.
1.1.3. Những yêu cầu mới đối với đội ngũ cán bộ
Một là, bảo đảm đủ số lượng cán bộ, trẻ hóa, tính chuyển tiếp liên tục và
vững vàng giữa các thế hệ cán bộ, không bị thiếu, hẫng hụt cán bộ.
Trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế có nhiều lĩnh vực mới địi hỏi phải có đủ
cán bộ để đảm nhiệm, gánh vác nhiệm vụ. Trong đội ngũ cán bộ, đặc biệt chú
trọng xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ đầu ngành, cán bộ có
trình độ cao trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Mặt khác, bản thân đội ngũ
cán bộ các tổ chức trong hệ thống chính trị cũng có sự chuyển tiếp thế hệ, nếu
khơng tích cực chuẩn bị sẽ dẫn đến hẫng hụt cán bộ. Để có sự chuyển tiếp liên
tục, vững vàng giữa các thế hệ cán bộ lãnh đạo, quản lý và cán bộ chun mơn
nghiệp vụ phải có sự chuẩn bị tích cực, chủ động.
Hai là, có cơ cấu hợp lý.
Đội ngũ cán bộ phải đủ về số lượng, cán bộ phải có chất lượng tốt, nhưng
phải có cơ cấu hợp lý. Đổi mới tồn diện đất nước địi hỏi cơ cấu đội ngũ cán bộ
phải cân đối, đồng bộ, hợp lý theo yêu cầu của chiến lược phát triển kinh tế - xã

hội của cả nước, của từng địa phương và từng ngành, từng lĩnh vực. Cán bộ phải
được phân bố đồng đều và phù hợp vói sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, ngành
nghề, lao động; khơng để xảy ra tình trạng ở nơi nào đó vừa thừa, vừa thiếu cán
bộ. Xây dựng đồng bộ đội ngũ cán bộ các cấp, đặc biệt chú trọng đội ngũ cán
bộ cấp Trung ương, cấp chiến lược.
Ba là, bảo đảm tính đồng bộ của đội ngũ cán bộ trong tất cả các tổ chức
thuộc hệ thống chính trị; giữa các cấp, các ngành, các lĩnh vực.
Cả việc xây dựng và việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách và
pháp luật của Nhà nước đều phải huy động sự tham gia của cả hệ thống chính
trị; của các cấp, các ngành, các lĩnh vực. Do đó, phải bảo đảm tính đồng bộ của


9

đội ngũ cán bộ giữa cán bộ đảng với cán bộ nhà nước, cán bộ Mặt trận Tổ quốc
và các tổ chức chính trị - xã hội ở các cấp từ Trung ương đến cơ sở.
Bốn là, chất lượng đội ngũ cán bộ phải được nâng lên, thích ứng với tình
hình mới, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước và hội nhập quốc tế.
Về phẩm chất chính trị, cán bộ trong thời kỳ hiện nay phải có tinh thần yêu
nước sâu sắc, tận tụy phục vụ nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, phấn đấu thực hiện có kết quả đường lối của Đảng, chính sách
và pháp luật của Nhà nước.
Về phẩm chất đạo đức, lối sống, cán bộ trong điều kiện phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế phải thật sự cần,
kiệm, liêm, chính, chí cơng, vơ tư; khơng tham nhũng và kiên quyết đấu tranh
chống tham nhũng; có ý thức tổ chức kỷ luật; trung thực, khơng cơ hội, gắn bó
mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm, thực hiện tốt việc học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Về trình độ, năng lực, cán bộ trong thời kỳ hiện nay phải có trình độ hiểu

biết về lý luận chính trị, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật
của Nhà nước; có trình độ văn hóa, chun mơn, đủ năng lực và sức khỏe để làm
việc có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Về phong cách công tác, cán bộ trong thời kỳ hiện nay phải có tác phong
làm việc khoa học, sâu sát thực tiễn ở cơ sở, nói đi đơi với làm, gương mẫu
trước nhân dân.
Về quan hệ với nhân dân, cán bộ trong thời kỳ hiện nay phải thật sự trọng
dân, tin dân, gần dân, nói cho dân hiểu, làm cho dân tin; thực hiện đúng lời dạy
của Chủ tịch Hồ Chí Minh: việc gì lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì hại cho
dân phải hết sức tránh.
Như vậy, xét về mặt “định tính”, các yêu cầu đối với đội ngũ cán bộ trong
thời kỳ đổi mới là sự kế tục các yêu cầu đối với đội ngũ cán bộ trước đây, nhưng
về nội dung, tính chất có những khía cạnh được nhấn mạnh hơn, với những sắc
thái mới.


10

1.2. Về khái niệm, vai trò và nội dung của công tác cán bộ
1.2.1. Về khái niệm công tác cán bộ
Trước đổi mới, khái niệm công tác cán bộ được hiểu chung là những công
việc liên quan đến xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ, chủ yếu là việc bố trí, sử
dụng cán bộ.
Trong thời kỳ đổi mới, quan niệm của Đảng về cơng tác cán bộ có sự phát
triển, hoàn thiện hơn. Qua các văn kiện của Đảng trong thời kỳ đổi mới có thể
quan niệm: Cơng tác cán bộ của Đảng là toàn bộ các hoạt động lãnh đạo, chỉ
đạo, tổ chức thực hiện của cấp ủy, tổ chức đảng có thẩm quyền nhằm phát huy
cao nhất mọi tiềm năng của toàn Đảng, các tổ chức trong hệ thống chính trị và
tồn xã hội; xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý đáp ứng yêu cầu của
từng thời kỳ cách mạng.

Trong quan niệm công tác cán bộ này có các khía cạnh cần chú ý:
Một là, công tác cán bộ không chỉ là hoạt động lãnh đạo, mà bao gồm cả
các hoạt động chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức thực hiện, làm thí điểm, kiểm tra,
giám sát, tổng kết, rút kinh nghiệm…
Hai là, công tác cán bộ không đơn thuần chỉ là công tác nhân sự; mà bao
gồm đầy đủ, đồng bộ tất cả các khâu trong công tác cán bộ.
Ba là, mục tiêu cao nhất của công tác cán bộ không chỉ là chuẩn bị đủ số
lượng và sử dụng đội ngũ cán bộ hiện có, mà là chuẩn bị đội ngũ cán bộ cho cả
trước mắt và lâu dài. Công tác cán bộ không chỉ hướng vào đội ngũ cán bộ
đảng, mà phải phát huy cao nhất mọi tiềm năng nhân lực của tồn Đảng, các tổ
chức trong hệ thống chính trị và tồn xã hội, khơng chỉ là việc sử dụng cán bộ,
tức là không chỉ giới hạn trong bộ máy của Đảng, của Nhà nước, mà phải quan
tâm đào tạo, sử dụng cán bộ của các đoàn thể, các đơn vị sự nghiệp, các doanh
nghiệp, các lực lượng vũ trang, cả người ngoài Đảng và người Việt Nam định cư
ở nước ngoài.


11

Bốn là, Đảng phải quan tâm xây dựng tất cả các loại cán bộ, nhưng tập
trung xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, trước hết là cán bộ cấp trung
ương, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Cơng tác cán bộ của Đảng bao gồm hai lĩnh vực: một là, xây dựng đội ngũ
cán bộ của các tổ chức đảng, trước hết là cấp ủy đảng và các cơ quan tham
mưu, giúp việc của cấp ủy các cấp; hai là, Đảng chăm lo xây dựng đội ngũ cán
bộ và lãnh đạo công tác cán bộ của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội, các lực lượng vũ trang, các doanh nghiệp nhà nước, các đơn vị
sự nghiệp công lập. Đảng không trực tiếp làm thay công tác cán bộ của cơ quan
Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, nhưng Đảng phải

lãnh đạo công tác cán bộ của cơ quan, tổ chức này bảo đảm theo đúng quan
điểm, đường lối của Đảng. Bởi vì, Đảng ta là Đảng duy nhất cầm quyền, Đảng
chịu trách nhiệm cao nhất về sự phát triển của đất nước, Đảng thống nhất
lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ.
1.2.2. Những yêu cầu mới đối với công tác cán bộ
Một là, công tác cán bộ phải góp phần xây dựng được đội ngũ cán bộ
ngang tầm địi hỏi của cơng cuộc đổi mới tồn diện, cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, hội nhập quốc tế.
Cơng tác cán bộ khơng chỉ là làm sao có được đủ cán bộ bố trí vào các
cương vị cơng tác của hệ thống chính trị và các tổ chức, cơ quan khác, mà phải
hình thành đội ngũ cán bộ với chất lượng cao, thích ứng với những yêu cầu mới
của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
Hai là, công tác cán bộ đáp ứng cả yêu cầu trước mắt và yêu cầu lâu dài về
cán bộ cho sự phát triển của đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Đương nhiên, công tác cán bộ phải lo có đủ đội ngũ cán bộ cho những yeu
cầu trước mắt về cán bộ. Nhưng với trách nhiệm của một đảng duy nhất cầm
quyền, Đảng phải chủ động chuẩn bị cán bộ cho những nhiệm kỳ tiếp theo, tránh
"tư duy nhiệm kỳ", cấp ủy khóa nào chỉ lo cán bộ cho khóa đó. Để có cán bộ đủ
phẩm chất và năng lực đảm đương các chức vụ trung cao cấp, nhất là cấp Trung


12

ương, phải có q trình chuẩn bị lâu dài, cơng phu và hết sức khoa học, tạo điều
kiện để cán bộ trưởng thành từ thấp lên cao và tổ chức đảng theo dõi, thử thách
cán bộ qua nhiều vị trí, lĩnh vực cơng tác khác nhau.
Ba là, bảo đảm tính đồng bộ và chất lượng cao trong tất cả các khâu của
công tác cán bộ.
Bản thân các khâu trong công tác cán bộ có mối quan hệ ràng buộc lẫn
nhau, khâu này làm tiền đề cho khâu khác. Vì vậy, phải tiến hành đồng bộ, với

chất lượng cao tất cả các khâu, làm cho các khâu hợp thành chất lượng chung
của công tác cán bộ.
Bốn là, công tác cán bộ của Đảng không chỉ xây dựng đội ngũ cán bộ đảng,
mà Đảng phải lãnh đạo công tác cán bộ của các cơ quan nhà nước, các đồn thể
chính trị - xã hội, các đơn vị sự nghiệp, các doanh nghiệp, các lực lượng vũ
trang.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, một mặt, Đảng phải chăm lo xây dựng
đội ngũ cán bộ của các tổ chức trong hệ thống chính trị và các tổ chức khác, phải
lãnh đạo chặt chẽ công tác cán bộ của các tổ chức đó; mặt khác, phải làm tốt
công tác cán bộ đối với cán bộ đảng, đảng viên công tác trong các tổ chức
này. Nếu cán bộ trong các cơ quan nhà nước, các đoàn thể chính trị - xã hội, các
đơn vị sự nghiệp, các doanh nghiệp, các lực lượng vũ trang yếu kém, công tác
cán bộ của Đảng có phần trách nhiệm.
Năm là, cơng tác cán bộ của Đảng không chỉ phát huy năng lực đội ngũ
cán bộ của các cơ quan đảng, mà còn phải phát huy tốt nguồn nhân lực của cả hệ
thống chính trị và cả xã hội, cả những người ngồi Đảng, các dân tộc, tơn giáo,
người Việt Nam định cư ở nước ngồi.
Sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa khơng chỉ dựa vào đội ngũ cán
bộ đảng, mà phải dựa vào sức mạnh của tất cả các loại cán bộ, của nhân dân.
Bằng lịng u nước, gắn bó với Đảng, với chế độ, tài năng và sự sáng tạo của
mình, các cán bộ khơng phải là đảng viên có thể có những đóng góp to lớn.
Cơng tác cán bộ của Đảng phải khơi dậy, động viên và tập hợp được những
người đó bằng các hình thức khác nhau: đưa họ vào các cơ quan dân cử, các tổ


13

chức tự quản; tranh thủ ý kiến đống góp và hoạt động giám sát của họ đối với tổ
chức đảng, cơ quan Nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội…
Sáu là, phải dựa vào nhân dân để phát hiện, kiểm tra và giám sát cán

bộ.
Cả lý luận và thực tiễn đều chứng minh, nhân dân không chỉ là những
người thực hiện đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, mà
còn là lực lượng phát hiện, kiểm tra và giám sát cán bộ. Dựa vào nhân dân để
xây dựng đội ngũ cán bộ là một phương thức giúp các cấp ủy đảng, cơ quan
nhà nước làm tốt công tác cán bộ. Những ý kiến nhận xét, đóng góp của nhân
dân giúp cáp ủy, cơ quan tham mưu cho cấp ủy về công tác cán bộ có thêm
thơng tin để đánh giá và sử dụng đúng cán bộ.
Bảy là, cơng tác cán bộ có tác dụng thúc đẩy cán bộ tự giác phấn đấu vươn
lên.
Xét đến cùng, chất lượng đội ngũ cán bộ tùy thuộc vào sự tự rèn luyện,
phấn đấu của bản thân từng cán bộ và cả đội ngũ cán bộ. Công tác cán bộ không
tạo động viên, khơi dậy được ý thức tự rèn luyện của cán bộ là chưa đạt yêu
cầu, sẽ chỉ là hình thức. Cơng tác cán bộ tiến hành đúng ngun tắc, đúng quy
trình, quy định, dân chủ, cơng tâm, khách quan, khơng có tiêu cực sẽ động
viên cán bộ hăng hái phấn đấu và phấn đấu theo đúng định hướng của Đảng;
ngược lại, công tác cán bộ tiến hành sai nguyên tắc, có tiêu cực, những cán bộ
chân chính sẽ nản chí, khơng muốn phấn đấu…
1.2.3. Về vai trị của cơng tác cán bộ
Vai trị của cơng tác cán bộ thể hiện ở ba mối quan hệ chủ yếu:
Một là, cơng tác cán bộ có vai trị quyết định đến việc tự rèn luyện, phấn
đấu của cá nhân cán bộ, qua đó góp phần nâng cao chất lượng cả đội ngũ cán
bộ.
Hai là, công tác cán bộ là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng,
tức là "khâu then chốt của nhiệm vụ then chốt".
Công tác cán bộ quan hệ, chi phối mạnh mẽ đối với tất cả các lĩnh vực xây
dựng Đảng: công tác tư tưởng; công tác tổ chức; công tác kiểm tra, giám sát;


14


công tác dân vận, công tác đảng viên; công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng;
công tác bảo vệ chính trị nội bộ…), bởi sản phẩm của cơng tác cán bộ là con
người - các cán bộ tham gia thực hiện các công việc cụ thể của công tác xây
dựng Đảng ở từng cơ quan, đơn vị, địa phương.
Ba là, công tác cán bộ là khâu trọng yếu trong phương thức lãnh đạo của
Đảng.
Đảng lãnh đạo bằng công tác cán bộ, thơng qua việc giới thiệu cán bộ có
đủ tiêu chuẩn để nhân dân bầu vào các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính
trị - xã hội và bằng sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên công tác các cơ quan
nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
1.2.4. Về nội dung của công tác cán bộ
Nếu như trước đổi mới, công tác cán bộ được hiểu chủ yếu bao gồm các
cơng việc đào tạo, bố trí sử dụng và thực hiện chế độ chính sách đối với cán bộ,
thì trong những năm đổi mới Đảng ta xác định công tác cán bộ có nội dung rộng
hơn, tồn diện hơn.
Một là, xác định quan điểm, chiến lược, đường lối, chủ trương, chính sách,
tiêu chuẩn, quy chế, quy định, phân cấp quản lý cán bộ và công tác cán bộ.
Đây là những nội dung có vai trị cực kỳ quan trọng, tạo cơ sở để tiến hành
các công việc cụ thể trong công tác cán bộ; xa rời, nắm không đẩy đủ, thực
hiện không đúng những nội dung này sẽ dẫn đến những sai sót trong các khâu
của cơng tác cán bộ.
Hai là, các khâu của công tác cán bộ.
Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII về Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đề cập 11 khâu: quy hoạch cán bộ; đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ; đánh giá cán bộ; tuyển chọn cán bộ; bầu cử; bổ nhiệm và
miễn nhiệm; luân chuyển cán bộ; việc nhân dân tham gia xây dựng và giám sát
cán bộ; chế độ kiểm tra; công tác bảo vệ chính trị nội bộ; phân cơng, phân cấp
quản lý cán bộ.
Báo cáo của Bộ Chính trị trước Hội nghị Trung ương 9 khóa X đề cập

thành tựu và hạn chế, yếu kém của 8 khâu: đánh giá cán bộ; quy hoạch cán bộ;


15

luân chuyển cán bộ; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; quản lý, bố trí và sử dụng cán bộ;
bảo vệ chính trị nội bộ; chính sách cán bộ; tổ chức bộ máy làm công tác cán bộ.
Quy định số 45-QĐ/TW ngày 01-11-2011 của Ban Chấp hành Trung ương
khóa XI cụ thể hóa khoản 2 điều 41 Điều lệ Đảng xác định: "quản lý cán bộ bao
gồm các nội dung chính sau đây:
1). Tuyển chọn, bố trí, phân cơng, điều động và luân chuyển cán bộ,
phân cấp quản lý cán bộ.
2). Đánh giá cán bộ.
3). Quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
4). Bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ.
5) Khen thưởng, kỷ luật cán bộ.
6). Thực hiện chế độ, chính sách cán bộ.
7) Kiểm tra, giám sát công tác cán bộ; giải quyết khiếu nại, tố cáo về cán
bộ.
Mỗi văn bản có yêu cầu riêng, nên đề cập các khâu của công tác cán bộ
theo cách tiếp cận riêng. Trong một số văn bản khác của Đảng còn đề cập đến
các cơng việc, như: kiện tồn tổ chức, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tham
mưu về công tác cán bộ; tổ chức để nhân dân tham gia phát hiện, giám sát, bồi
dưỡng cán bộ; giải quyết khiếu nại, tố cáo về cán bộ và công tác cán bộ.
Chung quy lại, công tác cán bộ gồm các khâu chủ yếu sau:
- Đánh giá cán bộ;
- Quy hoạch cán bộ;
- Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ;
- Luân chuyển, điều động cán bộ;
- Bố trí, sử dụng cán bộ (bằng các hình thức bầu cử, bổ nhiệm, bổ nhiệm

lại, giới thiệu ứng cử, phân công phụ trách, chỉ định, biệt phái, miễn nhiệm…);
- Quản lý cán bộ;
- Khen thưởng, kỷ luật cán bộ;
- Thực hiện chế độ, chính sách cán bộ.


16

- Kiểm tra, giám sát công tác cán bộ; giải quyết khiếu nại, tố cáo về cán
bộ và công tác cán bộ.
Các khâu nêu trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, làm tiền đề, điều kiện
cho nhau. Vì vậy, các cấp ủy, tổ chức đảng phải tiến hành đầy đủ, đồng bộ tất cả
các khâu trong công tác cán bộ.
1.3. Về phương thức lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác cán bộ của cả
hệ thống chính trị
Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ theo
nguyên tắc tập trung dân chủ, đi đôi với phát huy trách nhiệm của các tổ chức và
người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị" vừa là quan điểm, vừa là
nguyên tắc, cũng là nội dung chính trong phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với công tác cán bộ của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội.
Trong những năm qua, Đảng ta đã chỉ đạo đổi mới và qua đó hồn thiện
dần phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác cán bộ của Nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
Một là, Đảng đề ra và lãnh đạo bằng các quan điểm, chiến lược, đường lối,
chủ trương, chính sách, tiêu chuẩn, quy chế, quy định, phân cấp quản lý cán bộ
và công tác cán bộ.
Trong các tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở, đương nhiên công tác
cán bộ thực hiện theo đúng các quan điểm, chiến lược, đường lối, chủ trương,
chính sách, tiêu chuẩn, quy chế, quy định, phân cấp quản lý cán bộ và công tác
cán bộ do Đại hội Đảng, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư

đề ra và nghị quyết của các cấp ủy, tổ chức đảng.
Các cơ quan nhà nước tiến hành công tác cán bộ theo quy định của pháp
luật (Luật cán bộ, công chức; Luật tổ chức Quốc hội; Luật tổ chức Chính
phủ; Luật tổ chức Tòa án nhân dân; Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân; Luật
tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân; Luật Kiểm toán nhà nước và
các quy định khác của pháp luật có liên quan); Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội tiến hành công tác cán bộ theo các quy định của Nhà nước và


17

điều lệ của từng tổ chức. Đảng không can thiệp trực tiếp vào các công việc về
công tác cán bộ của các cơ quan, tổ chức này, nhưng Đảng phải lãnh đạo và các
công tác cán bộ của các cơ quan, tổ chức này phải tuân thủ quan điểm, chiến
lược, đường lối, chủ trương, chính sách, tiêu chuẩn, quy chế, quy định, phân cấp
quản lý cán bộ và công tác cán bộ của Đảng. Đảng sử dụng chiến lược cán bộ;
đường lối, chủ trương, chính sách về cơng tác cán bộ; tiêu chuẩn cán bộ trong hệ
thống chính trị; các quy chế, quy định, phân cấp quản lý cán bộ và công tác
cán bộ để lãnh đạo công tác cán bộ của các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
Hai là, Đảng tiến hành công tác cán bộ trong các tổ chức đảng thông qua
các cấp ủy đảng và các cơ quan tham mưu của cấp ủy đảng.
Trong nội bộ đảng, công tác cán bộ được tiến hành thông qua hoạt
động của các cấp ủy, tổ chức đảng và các cơ quan tham mưu của cấp ủy đảng ở
từng cấp theo phân cấp về công tác cán bộ và quản lý cán bộ. Về tổng qt, có
hai loại: một là, cơng tác cán bộ đối với cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí
thư trực tiếp quản lý; hai là, công tác cán bộ đối với cán bộ thuộc diện Bộ Chính
trị phân cấp cho các ban, bộ, ngành, địa phương. Đối với cán bộ thuộc diện được
phân cấp quản lý, cấp ủy từng cấp tổ chức thực hiện và quyết định các vấn đề về
công tác cán bộ, với sự tham mưu, giúp việc của các cơ quan tham mưu của cấp

ủy đảng. Bí thư cấp ủy, các thành viên cấp ủy phatý huy cao nhất trách nhiệm
của mình trong công tác cán bộ.
Ba là, Đảng lãnh đạo công tác cán bộ trong các cơ quan nhà nước, Mặt trận
Tổ quốc và các đồn thể chính trị - xã hội thơng qua và phát huy trách nhiệm
của đảng đồn, ban cán sự đảng, cấp ủy đảng và đảng viên là người đứng đầu
các cơ quan, tổ chức này.
Trong các cơ quan nhà nước Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị xã hội đều có tổ chức đảng (đảng đoàn, ban cán sự đảng, đảng bộ, chi bộ) và
đảng viên. Chính các tổ chức đảng và các đảng viên này là người trực tiếp tiến
hành công tác cán bộ đối với cơ quan, tổ chức mình theo đúng đường lối, quy
định của Đảng, sự lãnh đạo, chỉ đạo và hướng dẫn của cấp ủy cấp trên và chịu


18

trách nhiệm trước cấp ủy cấp trên về chất lượng công tác cán bộ ở cơ quan, đơn
vị, địa phương mình. Các đảng viên là cấp ủy viên, thành viên đảng đoàn, ban
cán sự đảng, cán bộ lãnh đạo, quản lý là những người trực tiếp thực hiện các
công việc cụ thể trong công tác cán bộ và chịu trách nhiệm trước cấp ủy, tổ chức
đảng về các công việc được giao, tyheo chức trách, nhiệm vụ được phân công.
Bốn là, Đảng tiến hành công tác kiểm tra, giám sát các cơ quan nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị - xã hội trong việc thực hiện các
quyết định, chủ trương của Đảng về công tác cán bộ.
Trong hoạt động kiểm tra, giám sát nói chung, các cấp ủy đảng và ủy ban
kiểm tra các cấp đặc biệt chú trọng kiểm tra, giám sát các cơ quan nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong việc thực hiện các quyết
định, chủ trương của Đảng về cán bộ và công tác cán bộ. Thông qua kiểm tra,
giám sát, cấp ủy biểu dương những cấp ủy, tổ chức đảng thực hiện tốt; kịp thời
phát hiện, uốn nắn những lệch lạc, tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn của
các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và từng tổ chức chính trị - xã hội; tổng
kết thựch tiến, đề xuất với Trung ương đề ra các chủ trương, giải pháp để thực

hiện tốt công tác cán bộ.


19

CHƯƠNG 2. BƯỚC PHÁT TRIỂN TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐẢNG VỀ
CÔNG TÁC CÁN BỘ TẠI VĂN KIỆN ĐẠI HỘI XIII
2.1. Tầm quan trọng của công tác cán bộ tại Đại hội XIII của Đảng
Dựa vào nền tảng nguyên tắc của công tác xây dựng Đảng, với tư duy lý
luận đột phá, đổi mới, sáng tạo của Đảng về công tác cán bộ - “then chốt của
then chốt”; tất cả các khâu và các quy trình của cơng tác cán bộ đều được đổi
mới. Công tác cán bộ được quan tâm một cách xứng tầm, thực sự là công việc
“then chốt của then chốt”. Điều này giúp cho các cấp ủy nâng cao sức chiến đấu
và năng lực lãnh đạo để phát huy tốt hơn vai trị của mình trong nhiệm kỳ mới,
xứng đáng hơn với niềm tin và kỳ vọng của nhân dân.
Tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; xây dựng và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định; phấn đấu đến
giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa”. Để Nghị quyết của Đảng đi vào thực tiễn cuộc sống, việc nhận thức,
quán triệt các quan điểm, tư duy lý luận của Đảng trong hệ thống các văn kiện
và chỉ đạo tổ chức thực hiện là vấn đề vô cùng quan trọng đối với các cấp, các
ngành và mỗi cán bộ, đảng viên.
Bằng cơ sở lý luận khoa học, thực tiễn vững chắc, với “tất cả sự khiêm tốn
của người cộng sản”, có thể khẳng định rằng: “Đất nước ta chưa bao giờ có
được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Thật vậy, những
thành tựu của đất nước những năm qua là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết
quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ
của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội của dân tộc là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực
tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại. Tất yếu khẳng định rằng, tư duy

lý luận đột phá, đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo. Trong
phạm vi bài viết, chúng tôi xin đề cập vấn đề xây dựng Đảng về cán bộ, “then
chốt của then chốt” - một trong những bước đột phá tư duy lý luận của Đảng tại
Đại hội XIII.


20

2.2. Đột phá về tách nội hàm cán bộ
Không phải ngẫu nhiên, Đại hội XIII quyết định tách nội hàm cán bộ từ xây
dựng Đảng về tổ chức, mà xuất phát từ yêu cầu, đòi hỏi cần tập trung xây dựng
đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, có chất lượng, ngang tầm nhiệm
vụ; đồng thời, đây cũng là kết quả sự đúc kết từ những kinh nghiệm của công tác
tổ chức xây dựng Đảng trong nhiều nhiệm kỳ, với nhiều cách làm mới, sáng tạo,
hiệu quả.
Thấm nhuần sâu sắc lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò của cán
bộ và tầm quan trọng của công tác cán bộ “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”
và “Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền khơng tốt, khơng
chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là những
người đem chính sách của Chính phủ, của Đồn thể thi hành trong nhân dân, nếu
cán bộ dở thì chính sách hay cũng khơng thể thực hiện được”; suốt quá trình
lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đặc biệt quan tâm đến công tác cán bộ, coi đây là
khâu “then chốt của then chốt” - nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Nhìn lại lịch sử của việc tách nội hàm trong công tác xây dựng Đảng, từ
Đại hội III, Đảng ta đã xác định công tác xây dựng Đảng trên 3 mặt: chính trị, tư
tưởng và tổ chức. Và từ Đại hội III đến Đại hội XII bổ sung nội dung “xây dựng
Đảng về đạo đức”. Khi xác định xây dựng Đảng trên ba mặt chính trị, tư tưởng
và tổ chức, nội hàm về đạo đức đã nằm trong nội hàm tư tưởng. Trước thực tiễn
một bộ phận khơng nhỏ cán bộ đảng viên suy thối về tư tưởng chính trị và đạo
đức lối sống, Đại hội XII đã quyết định tách nội dung đạo đức trong xây dựng

Đảng về tư tưởng thành một nội hàm riêng. Nên Đại hội XII xác định xây dựng
Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Trong nhiệm kỳ Đại hội XII,
thực tế cho thấy công tác cán bộ có vai trị đặc biệt quan trọng, nên ngày
19/5/2018 Trung ương ra Nghị quyết 26 - NQ/TW về công tác cán bộ và xây
dựng đội ngũ cán bộ. Đây chính là “chiến lược về cán bộ của thời kỳ phát triển
mới”.
Theo đó, đến Đại hội XIII quyết định tách nội hàm cán bộ từ “xây dựng
Đảng về tổ chức” ra riêng để tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, giải quyết vấn


21

đề cán bộ: “Đặc biệt coi trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cán bộ nội dung then chốt trong cơng tác xây dựng Đảng”. Chính vì vậy, Nghị quyết
Đại hội XIII yêu cầu phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa công tác xây
dựng chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Đây là
bước đột phá tư duy lý luận của Đảng trong nhìn nhận, cân nhắc vấn đề xây
dựng Đảng với trọng tâm, trọng điểm là công tác cán bộ.
2.3. Đột phá về phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng đội
ngũ cán bộ
Tiếp tục thực hiện hai trọng tâm và năm đột phá xác định trong Nghị quyết
26 - NQ/TW, nhất là đột phá “Hoàn thiện cơ chế để cán bộ, đảng viên thật sự
gắn bó mật thiết với nhân dân và phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây
dựng đội ngũ cán bộ”, Đại hội XIII khẳng định: “Trong mọi công việc của Đảng
và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân
là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân
giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi
mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất
phát từ yêu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân
dân; thắt chặt mối quan hệ mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây

dựng Đảng”.
Từ đó, Đảng yêu cầu, cán bộ phải tăng cường tiếp xúc, đối thoại, lắng nghe
tâm tư, nguyện vọng của nhân dân; chăm lo đầy đủ và sâu sát đến đời sống, lợi
ích của nhân dân; xây dựng mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân; lấy kết
quả cơng việc, sự hài lịng và tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí quan trọng để
đánh giá chất lượng tổ chức bộ máy và chất lượng cán bộ, đảng viên.
Đó là bước đột phá trong tư duy lý luận của Đảng về phát huy vai trò của
Nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ. Đúng vậy, công tác tổ chức xây
dựng Đảng về cán bộ luôn là vấn đề hệ trọng, liên quan trực tiếp tới sự thành bại
của cách mạng, sinh mệnh của Đảng và sự tồn vong của chế độ. Hơn nữa, đây là
nhiệm vụ rất khó khăn, hết sức tinh tế và nhạy cảm vì tác động đến tổ chức, con


22

người, địi hỏi những người làm cơng tác tổ chức xây dựng Đảng phải luôn nỗ
lực, lao tâm khổ tứ, đau đáu, trăn trở, cơng tâm, trong sáng, giữ mình…, mới có
thể hồn thành được nhiệm vụ. Bài học thực tiễn sâu sắc từ việc tổng kết nhiệm
kỳ 2015 - 2020, công tác xây dựng Đảng nỗ lực vượt qua nhiều khó khăn, thách
thức, gặt hái được nhiều thành tựu; đặc biệt có những cách làm mới, sáng tạo,
quyết liệt, từ Trung ương đến cơ sở, mọi vấn đề hệ trọng trong công tác cán bộ
đều xuất phát từ nhân dân.
Với quan điểm chăm lo cán bộ phải từ gốc, ngay từ đội ngũ cán bộ cơ sở,
những người hằng ngày, hằng giờ tiếp xúc và trực tiếp giải quyết những cơng
việc liên quan tới lợi ích sát sườn của nhân dân, Tỉnh ủy Quảng Ninh sáng tạo,
phát động từ cuối nhiệm kỳ 2010 - 2015 và tổ chức thực hiện thành công ở
nhiệm kỳ 2015 - 2020 với mô hình 100% số bí thư chi bộ đồng thời là trưởng
thơn, bản, khu phố trong tồn tỉnh, lựa chọn nhân sự theo phương thức: “Dân có
tin rồi Đảng mới cử”. Cụ thể là, chọn những đảng viên được nhân dân tín nhiệm
bầu làm trưởng thơn, bản, khu phố trước, rồi sau đó giới thiệu cho chi bộ bầu

làm bí thư chi bộ. Sự tin cậy và hài lòng của người dân chính là hàn thử biểu đo
chất lượng cán bộ, dựa vào nhân dân để lựa chọn và xây dựng đội ngũ cán bộ;
đồng thời, “lòng dân” được đặt ở vị trí trước tiên, thể hiện sự tơn trọng nhân
dân, xem nhân dân ở vai trò chủ thể, trung tâm của mọi quyết sách phát triển…
Do vậy, đã hoàn thành mục tiêu 100% số bí thư chi bộ đồng thời là trưởng
thôn, bản, khu phố, trên cơ sở thực hiện quy trình nhân sự “Dân tin - Đảng cử”.
Đây là một giải pháp nhằm cụ thể hóa một cách sáng tạo các chủ trương, đường
lối của Đảng, không chỉ tạo ra đợt sinh hoạt chính trị rộng khắp, ngày hội của
tồn dân, mà quan trọng hơn chính là nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
cơ sở và thúc đẩy, làm tốt hơn nữa việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở.
2.4. Đột phá về “tinh hoa dẫn dắt” đất nước phát triển
Đảng ta chỉ rõ, “tinh hoa dẫn dắt” đất nước, dân tộc là đội ngũ cán bộ cấp
chiến lược. Cán bộ cấp chiến lược có vai trị, vị trí đặc biệt quan trọng, là những
người chèo lái tuyến đầu con thuyền phát triển đất nước. Bởi vậy, trong Nghị
quyết 26-NQ/TW, Trung ương đề ra chiến lược về cán bộ của thời kỳ phát triển


23

mới, với những nội dung đặt ra về công tác cán bộ không chỉ thực hiện trong
một thời gian ngắn, mà trong một thời gian dài, đến năm 2030 và tầm nhìn đến
năm 2045, với hàm ý chuẩn bị đội ngũ cán bộ chiến lược ngang tầm nhiệm vụ,
đủ năng lực gánh vác trọng trách phát triển đất nước với những mục tiêu rất lớn
được xác định ở cột mốc trọng đại năm 2030 (tròn 100 năm thành lập Đảng) và
năm 2045 (trịn 100 năm thành lập nước).
Từ đó, Đại hội XIII tiếp tục khẳng định: “Tập trung xây dựng đội ngũ cán
bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm
nhiệm vụ. Hồn thiện thể chế, quy định về cơng tác cán bộ, tiêu chuẩn chức
danh, tiêu chí, cơ chế đánh giá cán bộ. Xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là
người đứng đầu có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, năng

lực nổi bật, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới
sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hành động vì lợi ích
chung, có uy tín cao và thực sự tiên phong, gương mẫu, là hạt nhân đoàn kết”.
Việc xây dựng và quy hoạch cán bộ cấp chiến lược được làm lần đầu từ
khoá XI. Qua tổng kết, rút kinh nghiệm, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
XII tiếp tục thực hiện một cách căn cơ, bài bản, chặt chẽ hơn. Khác với các
nhiệm kỳ trước, để chuẩn bị nhân sự khóa XIII, Ban Chấp hành Trung ương làm
cơng tác quy hoạch từ rất sớm.
Theo đó, công tác chuẩn bị nhân sự cấp chiến lược được quan tâm ngay từ
đầu nhiệm kỳ khóa XII, được Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí
thư lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, toàn diện, thường xuyên, chặt chẽ, bảo đảm đúng
nguyên tắc tập trung dân chủ, đoàn kết, thống nhất cao. Đồng thời tiến hành
khoa học, bài bản, khách quan, toàn diện theo phương châm làm từng bước,
từng việc, từng khâu; làm thận trọng, chặt chẽ, kỹ lưỡng, làm đến đâu, chắc đến
đó.
Cơng tác quy hoạch cán bộ cấp chiến lược gắn chặt với đào tạo, bồi dưỡng
(Trung ương tổ chức 5 lớp cho cán bộ quy hoạch cấp chiến lược khóa XIII) và
tiến hành luân chuyển (ln chuyển 27 bí thư tỉnh ủy khơng là người địa
phương, tăng 11 người so với nhiệm kỳ trước) để rèn luyện. Có thể nói, sự


×