Chuong VI
CÁC TƯ TƯỞNG TÂM LÝ HỌC NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX
1. KHÁI QUÁT CHUNG
- Đầu thế kỷ XIX, kinh tế của các nhà nước tư bản
châu Âu đạt được những thành tựu đáng kể. Những phát
kiến trong các lĩnh vực khoa học khác nhau, đặc biệt là
trong sinh lý học, vật lý, hố học... đã làm cho chính xác
hơn cách nhìn của con người về các hiện tượng thuộc đời
sống tâm hồn, kích thích các nghiên cứu về tâm hồn, tâm
lý con người phát triển, đặc biệt là các nghiên cứu trong
lĩnh vực nhận thức.
- Sự
phát triển các tư tưởng tâm lý học thời kỳ này
là đáng kể. Nổi bật trong đó là Học thuyết về phản xạ;
Học thuyết về các cơ quan cảm giác; Học thuyết về đại
não
và
các
thành
tựu
nghiên
cứu
về
tâm
lý học
liên
tưởng. Điều đáng chú ý là nhiều thành tựu kể trên đã
có sự tham
gia đồng thời của nhiều nhà khoa học ở
nhiều nước, có thành tựu đạt được cùng một lúc ở nhiều
nơi. Tâm
lý học đã có tên gọi riêng. Khoa
học tâm
lý
đang trên đường trưởng thành trở thành một khoa học
độc lập.
111
II.CÁC THÀNH TỰU TÂM LÝ HỌC NỦA ĐẦU THẾ KỶ XIX
1. Học thuyết phản xạ
- Quan niệm về phản xạ đã có từ các thế kỷ trước, từ
Descartes (thế kỷ thứ XVID, nhưng những hiểu biết về sự
kiện này còn chưa rõ. Những năm đầu thế kỷ XIX đã có
nhiều cơng trình nghiên cứu tiếp tục làm rõ về vấn đề này:
* Một trong những người đi tiên phong nghiên cứu về
giải phẫu thần
kinh là nhà thần
kinh học người
Anh
Charles Bell (1774-1842), người chuyên nghiên cứu sâu về
sự truyền dẫn của các dây thần kinh tuỷ sống. Các tác
phẩm của ông gồm có: Phác thảo giải phẫu mdi vé nao
(1811)
và Về các dây thần kinh
(1821).
Các cơng
trình
nghiên cứu của Ch.Bell đã phát hiện:
+ Dây thần kinh, trên thực tế là bó các dây thần kinh
khác
nhau,
có tính
chất riêng.
Tính
chất
này
được
xác
định bởi phần não mà sợi thần kinh tham gia vào. Từ đó,
C. Bell da theo dõi tất cả các sợi thần kinh đi vào não
nhằm phát hiện cấu trúc của não. Với đại não, ông khơng
thành cơng. Với tuỷ sống ơng đã có các phát kiến quan
trọng. Ông đã thiết lập được sự khác nhau về chức năng
của các rễ trước và rễ sau của thần kinh tuỷ sống. Ông đã
chứng minh bằng thực nghiệm cho thấy các sợi thần hình
của rễ sau làm nhiệm uụ tiếp nhận các xung động thần
kinh truyền tới (dây nhận cảm ) còn các sợi dây thần kinh
rễ trước làm nhiệm uụ điêu khiển uận động. Ông đã tiến
hành chuyển xung động theo các dây thần kinh hướng tâm
thông qua tuỷ sống tới các dây thần kinh ly tâm. Các điều
nêu ra này đã được C. Bell chứng minh bằng thực nghiệm.
112
* Điều đặc biệt là các nghiên cứu của C. Bell chưa
được cơng bố thì cùng vào những năm này, nhà sinh lý học
Pháp tên là F.Magendie (1783-1855) một nhà nghiên cứu
sinh lý học người Pháp chuyên nghiên cứu về sinh lý học
hệ thần kinh cũng đã đi đến những kết luận tương tự.
Trong nhiều năm Magendie đã cố gắng phát hiện qui luật
của việc sắp xếp. phân chia các sợi thần kinh cảm giác và
vận
kinh
Việc
tâm
động trong tuỷ sống. Qui luật chuyển xung động thần
như vậy về sau này được gọi là qui luat Bell - Magendie.
phát hiện này có ý nghĩa to lớn đối với sinh lý học,
lý học tương tự như việc phát hiện ra hệ tuần hoàn
ở con người. Từ các cơng trình này, biểu tượng về định vị
các con
thành.
đường
thần
kinh
người
dẫn
dần
được
hình
* Học thuyết về phản xạ được phát triển nhất quán,
triệt để do một bác sĩ người Anh là M.Hall và Miller J.P.
((nhà sinh lý học Đức, 1801-1858) thực hiện. J.P.Mũller là
giáo sư tại Trường Đại học Beclin (Đức), viện sĩ thơng tấn
nước ngồi của viện hàn lâm khoa học Pêtécbua (1832)
Ông là người chuyên nghiên cứu về sinh lý học thân kinh
trung ương và các cơ quan cảm giác. Các tác phẩm của ông
tập trung vào phản ánh kết quả phân tích tìm hiểu hệ
thống thần kinh, các cơ quan cảm giác, giải phẫu so sánh,
các vấn để về sự phát triển phơi. Ơng cũng là một trong
những người sáng lập nên cái gọi là chủ nghĩa duy tâm sinh
lý học. Các nghiên cứu của M.Hall và J.P.Mũller đã đi đến
kết luận, các rễ sau và rễ trước của thần kinh tủy sống bao
gồm từ hai loại thần kinh khác nhau là cảm giác và vận
động. Trong một nghiên cứu của M. Hall (1837), ông viết:
“Phan xa được gây ra bởi kích thích khơng phải là các bó
cảm nhận mà là từ các bó thần kinh vận động không phụ
113
thuộc vào các bó nhận cảm”. Năm
1833 J.P. Miillerda cho
ra mắt cuốn “Giáo khoa sinh lý người”.
2. Học thuyết về các cơ quan cảm giác
Nửa đầu thế kỷ XIX xuất hiện nhiều cơng trình nghiên
cứu về hoạt động của các cơ quan cảm giác đưa đến
những kết luận quan trọng về các qui luật tâm- sinh lý
giác quan người. Những người đóng góp cơng sức to lớn
trong lĩnh vực này có thể kể đến Ch.Bell (1774-1842), nhà
sinh lý học, thần kinh học người Anh; F.Magendie (1783-
1855), nhà sinh lý học thần kinh Pháp; J.Mũller (1801-
1858),
nhà sinh lý học Đức; Thomas Young
nhà vật lý học và là bác sĩ người Anh;
(1773-1829),
Ch. Wheatstone
(1802-1875), nhà vật lý học người Anh; I.Prochaska (1749-
1820), nhà sinh lý học, nhà giải phẫu học người Tiệp Khắc;
J.Purkyne
(1787-1869),
nha sinh ly hoc, nha tương lai học
người Tiệp Khác; E.H.Weber (1795-1875), nhà giải phẫu,
nhà sinh lý học người Đức...
Các thành tựu trong lĩnh vực này có thể kể đến:
- Nghiên cứu hoạt động của thị giác (mắt) uới tư cách
là một hệ thống sinh lý học mang chức năng sống. Liên
quan đến khía cạnh này có cơng trình nghiên cứu về lý
thuyết 3 thành phần sự nhìn màu của Thomas Young, nhà
vật lý học và là bác sĩ người Anh và H,Helmholtz (1821-
1894), nhà sinh lý học, nhà khoa học tự nhiên người Đức.
T.Young (1773-1829) là nhà bác học người Anh, một trong
những người sáng lập ra lý thuyết sóng về ánh sáng. Ông
đã đưa ra qui luật giao thoa của sóng ánh sáng (1801), nêu
ra tư tưởng về thiết diện ngang của sóng ánh sáng (1817).
114
Ông cũng đã đưa ra luận điểm giải thích về sự điều tiết,
thích ứng của mắt. T.Young cũng đã soạn thảo về lý thuyết
nhìn màu.Ơng cũng đưa vào áp dụng "suất đàn hồi” được
mang tên ông. Các tác phẩm của ông liên quan khá nhiều
đến cả lĩnh vực âm học, thiên văn học cũng như sự giải mã
các chữ khó đọc của Ai Cập.
Cơng trình của Stênbyx ( nhà sinh lý học người Đức)
đã đi đến kết luận: Trỉ giác của con người được hình thành
dần dần nhờ uào quan hệ giữa các sản phẩm của hoạt
động của các cơ quan cảm giác uà phản ứng uận động.
Nghiên cứu của Ch.Bell đã khẳng định: Hình ảnh khơng
gian của vật thể được hình thành nhờ vào hoạt động phản xạ
củacơ mắt từ đó có thể phát biểu về tính phụ thuộc của hình
ảnh chủ quan vào cơ chế khách quan thần kinh cơ bắp.
Ch.Wheatston (1802-1875), nhà vật lý học người Anh,
người đã phát minh ra máy điện báo được mang tên ông
(1858), phát hiện ra sự tự kích thích của máy điện (1867),
đưa ra phương pháp đo điện và trưng bày nhiều dụng cụ
máy móc khác nhau. Ơng cũng đã có những kết luận có
giá trị về hoạt động của mắt. Chẳng hạn, các quan hệ thần
kinh- tâm lý trong hệ thống thị giác khơng có được ngay từ
khởi đầu
nghiệm
mà
được
luyện tập.
hình
thành
dần
€hính
Wheatston
dần
nhờ
đã nghiên
vào kinh
cứu thị
giác bằng kính lập thể tự sáng chế. Xêtrênốp đã có sự
đánh giá cao các kết quả nghiên cứu của Wheatstone và
coi các kết quả này như là sự khởi đầu của tâm lý học như
là một khoa học kinh mghiệm.
- Một hướng nghiên cứu khác về thị giác ở thời kỳ này
có thể kể đến là các nghiên cứu hoạt động của các cơ quan
cảm giác khác liên quan đến thị giác, chẳng hạn, biểu
115
tượng không gian về vật thể liên quan rất chặt tới biêu
tượng của xúc giác... (cơng trình của Stênbyx).
- Nghiên
Thomas Young
cứu
sâu
về cấu
(1773-1829)
trúc
thần
kinh
thị
giác
do
tiến hành. Ông đã đưa ra giả
thuyết võng mạc chứa 3 loại sợi thần kinh trong đó mỗi sợi
điều khiển một tia sáng cho ta cảm giác về màu đỏ, màu
xanh lá cây, màu xanh da trời (1801).
- Thời kỳ:này có một cơng trình nghiên cứu khá thú vị
về cảm giác màu sắc do J.W.Goethe (1749-1832) là nhà
thơ, nhà khoa học tự nhiên và là nhà tư tưởng vĩ đại người
Đức thực hiện trong cơng trình mang tên “Về lý thuyết
màu sắc” viết từ năm 1805-1810 mà ông cho rằng còn giá
trị cao hơn các sáng tác thơ ca của ơng. Trong cơng trình
này, Goethe cho rằng màu đen và màu trắng là các màu cơ
bản. Các môi trường khoảng cách (như không kh?) tham
gia tạo thành các mầu cịn lại. Mặt trời phụ thuộc vào mơi
trường khơng khí mờ đục được tiếp nhận khi là màu trắng,
da cam và thậm chí là màu đỏ. Các kết luận của Goethe là
không đúng song các phát hiện này của ông đã kích thích
cho việc quan sát kỹ đằng sau các trải nghiệm trực tiếp về
màu sắc ở con người. Dưới ảnh hưởng của Goethe, Miiller
cũng
bắt
tay
vào
nghiên
cứu
cảm
giác
màu
sắc.
Còn
J.Purkyne (Puakine) (1787-1869) là nhà tưỡng lai học, nhà
khoa học tự nhiên người Tiệp Khắc, viện sĩ thơng tấn
người nước ngồi của Viện Hàn lâm khoa học Pêtécbua
(1836) tiếp theo các nghiên cứu của Goethe đã đi sâu khảo
cứu sinh lý học tri giác thị giác và đã khám phá ra một
loạt các tri thức trong cảm giác thị giác. Ông đã phát hiện
ra sự biến đổi các màu xanh da trời và màu đỏ khi nhìn
lúc hồng hơn cùng nhiều kết quả nghiên cứu khác của
ông đã tạo nên cái gọi là “Các hiện tượng kỳ lạ Puakine”.
116
- Một
kết quả
nữa
phải
kể đến
là sự xuất
hiện
giả
thuyết “Vong than kinh” hop nhat não với co bắp và cơ
bắp với não. Điều này liên quan đến các cơng trình của
Ch.Bell lần đầu tiên đã đưa ra tư tưởng liên hệ uòng giữa
các q
trình cảm
giác và cơ bắp... đã được
đánh
giá là
một phỏng đốn tuyệt vời về bản chất phản xạ của nhận
thức cảm tính.
- Nghiên cứu bằng thực nghiệm tính nhạy cảm của da
va co được B.H.Weber (1795-1878) thực hiện. Ông là nhà
bác học, nhà giải phẫu, nhà sinh lý học người Đức, viện sĩ
thơng tấn người nước ngồi của Viện hàn lâm khoa học
Pétécbua (1869). Weber là một trong những người đặt nền
móng cho tâm lý học thực nghiệm. Các cơng trình của ông
liên quan nhiều đến sinh lý học của các cơ quan thị giác,
thính giác, xúc giác. Lần đầu tiên, ông đã đưa ra ngưỡng
phân
biệt của cảm
giác da, bằng cách cố định 2 điểm xác
định trên bể mặt của da và tiến hành các kích thích cho
đến khi chủ thể nhận ra có sự khác nhau ở các kích thích
này. Tư tưởng xác định ngưỡng của các cảm giác là tư
tưởng trung tâm đối với tâm sinh lý học lúc đó.
3. Học thuyết về đại não
Nửa đầu thế kỷ XIX đã xuất hiện ngày càng nhiều các
cơng trình nghiên cứu về hoạt động của đại não, từ đó đi
đến xác định bản thể của hoạt động tâm lý. Các công trình
nghiên cứu này hồ chung với dịng tâm lý học năng lực.
* Nổi lên trong số đó là một loạt các cơng trình nghiên
cứu của F.J.Gall (1758-1828) nhà giải phẫu, bác sĩ người
Áo, người đã đề xuất ra lý thuyết định khu chức năng tâm
117
lý trên vỏ các bán cầu đại não (từ 1810 đến 1819). Các kết
luận của Gall có một số điểm đáng lưu ý:
e Vỏ não chứ không phải là các buồng não được xem là
bản thể của hoạt động tâm lý. Gall và các cộng sự đã giới
thiệu bản đồ của não, trên đó ơng đã chỉ các vùng não
riêng biệt đối với mỗi loại năng lực hoặc vùng cho một loại
hiện tượng tâm lý như: vùng yêu thương, vùng thù ghét,
vùng khả năng toán học, khả năng sáng tạo, thì ca...
e Gall nêu ra luập điểm: Sự phát triển khác nhau của
các vùng trên vỏ não dẫn đến ảnh hưởng tới hình thức của
xương sọ. Bởi vậy nếu nghiên cứu bề ngồi của xương sọ sẽ
cho phép chẩn đốn các đặc trưng cá nhân của nhân cách.
Theo Gall, các vùng tâm lý trên não phát triển thì phần bề
ngồi của xương sọ chỗ đó sẽ lỗi lên mà ơng gọi là “bướu”
năng khiếu. Độ lớn của bướu ăn khớp với mức độ phát
triển của năng lực tương ứng. Ông là người sáng lập ra
một khoa học gọi là “Phrinôlôghia”- Một lý thuyết phản
khoa học về mối quan hệ của các phẩm chất
đạo đức và
tâm lý của con người với cấu trúc của xương sọ. Vào thời
điểm lúc đó, lý thuyết của Gall đã được hưởng ứng khá
rộng rãi trong dân chúng. Dẫu sao lý thuyết Phrinôlôghia
của Gall đã làm cho vấn để định khu chức năng tâm lý
trên não trở thành
hấp
dẫn, kích thích các cơng trình
nghiên cứu thực sự mang tính khoa học về cấu trúc thần
kinh não bộ.
* Các nghiên cứu về bán cầu đại não và tiểu não của
Pierre Flourens (1794-1876) nhà sinh lý học người Pháp:
Các cơng trình thực nghiệm khoa học nghiên cứu về
não của P.Flourens, bác sĩ, nhà sinh lý học người Pháp,
viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học Pháp (1840), viện sĩ thông
118
tấn người nước ngoài của Viện Hàn lâm khoa học Pêtécbua
(1856). Ông đã dùng phương pháp loại trừ một số phần
nào đó của hệ thần kinh trung ương và trong một loạt các
trường hợp tác động vào trung tâm não, nơi khu vực nghiên
cứu, bằng thuốc mê và đi đến các kết luận: Các quá trình
tâm - sinh lý cơ bản là tri giác, trí tuệ, ý chí là sản phẩm
của não như là một cơ quan hoàn chỉnh. Tiểu não phối hợp
vận động. Trong hành não có trung tâm hô hấp điều khiển
sự sống (phát hiện năm
1822). Thị giác có quan hệ với củ
não sinh tư. Chức năng của tuỷ sống là tiến hành thúc đẩy
kích thích thần kinh. Các cơng trình của Pierre Flourens
giữ vai trị quan trọng góp phần phá vỡ bức tranh thần
thoại phản khoa học về hoạt động của não và “bướu” năng
khiếu mà Gall đã đề ra.
4. Tâm lý học liên tưởng
Dòng Tâm lý học liên tưởng đã có từ thế kỷ XVII,
sang thế kỷ này vẫn được tiếp tục phát triển nhưng đã có
những biến đổi để phù hợp với những tiến bộ mới của khoa
học tự nhiên. Thuyết liên tưởng muốn tôn tại, tất yếu phải
có các cách giải thích mới, trong đó cần phải từ bỏ các
quan niệm tư biện trừu tượng về bản thể của cơ thể.
Chẳng hạn, quan niệm rung động của các sợi thần kinh như
rung động của sợi dây đàn theo quan niệm của D.Hartley
(1705-1757) nhà vật lý là bác sĩ người Anh là không thể
đứng vững.
Các cơng trình mới của dịng phái này là liên quan đến
các đóng góp của Thomas Braun (1778-1820),nhà giáo dục,
giáo sư triết học của Trường Đại học Êđinbua, nhà thơ.
Quan niệm của T.Braun nhấn mạnh, liên tưởng cần phải
119
hiểu như là thuộc tính nội tại, như là hoạt động của trí tuệ
chứ khơng được cất nghĩa theo thuộc tính cơ thể. Trong bài
giảng “Các bài giảng về triết học của trí tuệ con người”
(1820) ơng đã phê phán các quan niệm liên tưởng cũ và
cho rằng, nguyên tắc tính chất kế tiếp trong khơng gian và
trong thời gian quyết định việc chuyển một quá trình cơ
thể này sang một q trình cơ thể khác là hồn tồn
khơng đầy đủ để hiểu các mối quan hệ tư duy trong ý thức
con người, đó là chưa
xuất.hiện ở con người.
kể đến
các hoạt động sáng tạo đã
Ngược lại với ý kiến của T.Braun là quan điểm của
D.MiHI (1773-1836) nhà triết học, nhà lịch sử và kinh tế
học người Anh. Về mặt triết học D.MiI tuyên bố là người
kế tục triết học duy tâm của Hium. Trong xã hội học, ông
đã phủ nhận lý thuyết luật fự nhiên. Năm
1829, D.Mill
công bố tác phẩm “Phân tích các hiện tượng đặc biệt của
trí tuệ con người” trong đó tỏ rõ quan điểm chủ nghĩa liên
tưởng “cứng rắn” của mình, xem xét liên tưởng theo quan
điểm cơ học.
Có một tác gia đáng quan tâm đến sự phát triển tâm
lý học liên tưởng thời kỳ nửa đâu thế kỷ XIX phải kể đến
là J.F. Herbart (1776-1841). Ông là nhà triết học, nhà tư
tưởng, nhà tâm lý học và giáo dục học người Đức, người
sáng lập trường phái giáo dục học Đức thế kỷ XIX, đại
biểu của chủ nghĩa đa nguyên. Herbart quan niệm cơ sở
của thế giới là tập hợp của các hiện tượng khơng thể biết.
Ơng mưu toan xây dựng tâm lý học như là một hệ thống
các khoa học dựa trên phép siêu hình, kinh nghiệm và toán
học. Trong giáo dục, huấn luyện Herbart đã đưa ra 4 mức độ
(4 nguyên tắc) của việc dạy học (huấn luyện): a. Tính sáng
rõ, b. Tính liên tưởng, c. Tính hệ thống, d. Phương pháp.
Herbart cũng được xem là người sáng lập, đặt nền móng cho
120
cái gọi là mỹ học chính thơng trong đó bàn về cội nguồn
của cái đẹp, cái tỉ lệ, cái hài hoà cân đối...
Trong tác phẩm (đm lý học được luận giải theo một
cách mới đối uới phép siêu hình, bình nghiệm uà toán học
(1816), Herbart đã bộc lộ các quan điểm chính của mình
về tâm lý học liên tưởng như sau:
+ Phép siêu hình là một phạm
của một hệ thống tâm lý học mới.
trù triết học, tiền đề
+ Tâm hồn là cái không thể nhận biết được. Trong tâm
hồn không có cái gì là khởi đầu. Sự thống nhất giữa cuộc
sống tâm lý và nguồn gốc khởi đầu của tính tích cực của
tâm lý là khơng thể có. Tâm hồn không thể là đối tượng
của khoa học.
+ Mỗi một biểu tượng khơng chỉ có một số nội dung mà
là đại lượng “mang năng lượng”. Xuất phát từ tiền đề này,
Herbart đã soạn thảo học thuyết “Trạng thái tĩnh và năng
động của các biểu tượng”.
+ Herbart
đã chống
lại quan
niệm
của
Kant
về tri
giác. Theo ông, khối lượng tri giác bao gồm từ các biểu
tượng và mỗi một trong chúng lại có được trong kinh
nghiệm cá nhân, có thể được cải biến, được “chương trình
hố” bởi nhà giáo dục.
Phấn chấn vì khát vọng muốn đưa vào tâm lý học một
cái gì đó tựa như sự tìm tòi phát hiện của các khoa học tự
nhiên, Herbart đã nêu giả thuyết về các biểu tượng với tư
cách là các đại lượng phát lực có khả năng chịu sự phân
tích về lượng. Mặc dầu các tìm tịi lập luận của Herbart
cịn nhiều khiếm khuyết nhưng giả thuyết của ơng về khả
năng có tính ngun tắc phân tích bằng tốn học các quan
hệ giữa các sự kiện tâm lý học đã được G.T.Fechner (1801-
1887) và H.Ebinghaus thừa nhận. Tính chất tư biện trừu
121
tượng của các biểu tượng cũng như quan niệm về cơ chế
sinh lý học của các liên tưởng, niểm khát vọng chỉ ra tính
độc đáo của các q trình đặc trưng cho cuộc sống tâm lý
khác thật sự với cuộc sống cơ thể đã dẫn học thuyết về liên
tưởng đến chỗ được xem là học thuyết uê nguyên tắc nội tại
của ý thức. Ư đây, tư tưởng về tính ngun nhân tâm lý
được khẳng định. Hoạt động tình thần là có tính qui luật
riêng của nó. Các qui luật này không đồng nhất với các qui
luật sinh lý học. Những điều này dẫu sao cũng đã tham
gia vào việc kích thích cho sự phát triển mạnh
khoa học tâm lý trong nửa cuối của thế kỷ này.
mẽ của
ee
Nửa đầu thế kỷ XIX với các thành tựu của khoa học tự
nhiên đem lại trên nhiều lĩnh vực đã làm cho tâm lý học có
những bước phát triển mới. Thành
tựu của thời kỳ này
trên các lĩnh vực nghiên cứu về phản xạ của hệ thần kinh,
về hoạt động của các cơ quan cảm giác, hoạt động của
não... là rất lớn. Các cơng trình nghiên cứu được tiến hành
cùng một lúc ở nhiều nước, cùng đem lại các kết quả như
nhau đã khẳng định tính chân thực khách quan khoa học
của các hiện tượng tâm lý cần nghiên cứu.
Các phương pháp nghiên cứu tâm lý học thời kỳ này
đã có những bước tiến rõ rệt, nổi lên là các phương pháp
thực nghiệm, thử nghiệm có sự hỗ trợ của các phương tiện,
cơng cụ nghiên cứu riêng và có sử dụng các phương
:_ thống kê xử lí của tốn học.
pháp
Tâm lý học được tiếp tục khẳng định, có điểu kiện
phát triển để trở thành một khoa học độc lập. Điều này sẽ
được phân tích tiếp ở các chương sau.
122
Chuong VII
SU RA DOI CUA TAM LY HOC
VGI TU CACH LA MOT KHOA HOC DOC LAP
I. KHÁI QUÁT CHUNG
Từ nửa sau thế kỷ XIX, những thành tựu của khoa học
Tâm lý học trên tất cả các lĩnh vực đã phá vỡ về căn bản
những quan niệm trước đó về kết cấu và thuộc tính của vật
chất và do thế đã ảnh hưởng rất lớn đến việc nhìn nhận thế
giới tình thần của con người. Những nghiên cứu đã đi đến
chứng minh sự chuyển động quay tròn của trái dat (1851);
phát hiện ra sự quay vi phân của mặt trời và các vụ nổ mặt
trời (1857); phát hiện ra trung tâm vận động ngôn ngữ ở
người (1860); công bố lý thuyết về điện tử ánh sáng và định
luật di truyền (1865); cơng bố bảng tuần hồn các ngun
tố hố học (1869); chế tạo ra động cơ đốt trong bốn ky(1876);
phát minh ra đèn dây tóc nóng sáng (1878) v.v...Thời kỳ này
người ta cũng phát hiện ra rằng nguyên tử có cấu trúc phức
tạp và có thể phân chia được, phát hiện điện tử có khối lượng
biến đổi v.v...
Sự kiện có ý nghĩa quyết định đến sự hình thành tâm
lý học như một khoa học độc lập là việc áp dụng các
phương pháp thực nghiệm vào nghiên cứu các hiện tượng
123
tâm
lý người.
Những
thực nghiệm
tâm sinh
lý học các cơ
quan cảm giác cũng như tâm vật lý học đã tiến hành việc
đo đạc, tính tốn đưa ra những số liệu khách quan tựa như
những nghiên cứu ở các lĩnh vực khoa học khác, đồng thời
khẳng định sự tơn tại có thật của các hiện tượng tâm lý.
Đây là một bước tiến vượt bậc trong việc tìm kiếm, làm rõ
đối tượng của tâm
lý học. Trước hết, đó là đóng góp của
những nhà nghiên cứu tâm- sinh lý học, tâm vật lý học như
H.Helmholtz (1821-1894), Dubois Reymond,
(1801-1887),
E.H.
Weber
(1795-1878),
1889) và nhiều người khác...
Vào năm
thế giới, một
F.
1879, tại Leipzig (Đức),
phòng thực nghiệm
tâm
G. T. Fechner
Donders
(1818-
lần đầu tiên trên
lý học được
thành
lập theo sáng kiến của nhà tâm lý học người Đức tên là
W&Wundt
(1832-1920).
phịng thực nghiệm
Ngay
từ những
ngày
khởi
đầu,
của ơng đã đi vào hoạt động có hiệu
quả, phát huy ảnh hưởng to lớn của nó đến hoạt động
nghiên cứu tâm lý học của nhiều nước cả về nội dung
nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu. Sự kiện này đã
có một ý nghĩa vơ cùng to lớn, được ghi nhận như là mốc
khởi đầu xuất hiện tâm lý học với tính cách là một khoa
học độc lập.
II. CÁC THÀNH TỰU KHOA HỌC LÀ TIỀN ĐỀ CHO
VIỆC TÂM LÝ HỌC RA ĐỜI VỚI TƯ CÁCH LÀ MỘT
KHOA HỌC ĐỘC LẬP
Các thành tựu khoa học được coi là điều kiện trực tiếp
cho sự ra đời của tâm lý học với tính cách là một khoa học
độc lập trước hết phải kể đến:
124
- Tam
sinh lý học
- Tam
vat ly hoc.
giác quan,
- Nghién cứu thời gian phan ứng.
1. Tâm sinh lý học giác quan
Tám sinh lý học giác quan là một dòng các nghiên cứu
nhằm làm rõ mối quan hệ giữa kích thích uật lý, các q
trình xảy ra trong hệ thần khinh
ồ các q trình cảm tính
(cảm giác, tri giác) của con người. Đại biểu của lĩnh vực
nghiên cứu này trước tiên phải kể đến công lao của nhà.
sinh lý học người Đức tên là H.L.F. Helmholtz (1821-1894)
và nhà nghiên cứu tâm sinh lý học người Pháp Dubois
Reymond.
phú.
Các kết quả thu được trên lĩnh vực này vô cùng phong
Vào thời kỳ này, nhờ sự tiến bộ của nhiều
lĩnh vực
khoa học tự nhiên đã có nhiều nhà khoa học vốn khơng
phải thuộc chun ngành
nghiên
tâm
lý học nhưng cũng lao vào
cứu các hiện tượng liên quan
đến đời sống tỉnh
thần của con người. Phần lớn trong số này là các nhà vật
lý học, sinh lý học. Họ đã cố gắng đi sâu để lý giải hình
ảnh cảm tính xuất hiện ở con người như thế nào? Nguyên
nhân của các hiện tượng này? Cái gì đã xẩy ra trong
thần
kinh?
Các
kích
thích
bên
ngồi;
hoạt
hệ
động của hệ
thần kinh; các hình ảnh cảm tính được xuất hiện trong
não có mối tương quan như thế nào?
H. Helmholtz đã có cơng nghiên cứu bằng thực nghiệm
nhằm chứng minh các tác động bên ngoài tác động đến các
giác quan của con người làm xuất hiện các hình ảnh về sự
125
vật, hiện tượng trong não. Ơng đã tiến hành cơng trình
nghiên cứu tri giác các vật thể và đi đến khẳng định hoạt
động của các giác quan giữ 0ai trò quan trọng quyết định
q trình nhận
biết sự uật. Ơng
cũng đặc biệt quan
tâm
tới sự khác nhau giữa hình ảnh mà mắt người ghi nhận
được
với việc vẽ hình ảnh đó trên giấy hoặc chụp lại các
vật thể đó. Ơng đã nhận thấy rằng mắt "nhìn thấy” sự vật
nhiều hơn hình ảnh phẳng được ghi lại trên giấy hoặc ống
kính máy ảnh chụp lại vật thể đó, bởi vì mắt cảm nhận
được, phát hiện được các quan
hệ đằng sau cái nhìn
đó,
chẳng hạn, độ lớn thực sự của vật, chiều sâu của vật...và
những lần tri giác sau thì khác những lần tri giác trước vì
ít nhiều con người đã có cái mà H.Helmholtz gọi đó là
“hinh nghiệm”.
Các phát hiện của ơng hồn
tồn đúng,
nhưng khi giải thích ngun do của sự kiện đó, ơng đã
mắc sai lầm là quay về với luận điểm duy tâm của “?huyết
năng lượng chuyên biệt" của J.P. Mũller (1801-1858). Theo
thuyết này, khi có một tác động vật lý vào một giác quan
nào đó thì kích thích này đã làm cho các năng lượng riêng
chứa đựng trong các giác quan ấy phóng ra làm cho ta cảm
nhận được các kích thích ấy.
Chính theo phương hướng nghiên cứu thực nghiệm do
Helmholtz tiến hành mà nhiều năm về sau và cả trong
những
năm
đầu
thế kỷ XX
đã xuất
hiện
một
phương
hướng duy vật lôi kéo nhiều nhà khoa học đi vào nghiên
cứu sự phối hợp của các giác quan trong q trình tạo ra
hình ảnh cảm
tính, đặc biệt là vai trò của cơ quan vận
động đối với việc tạo thành hình ảnh cảm
người.
tính ở con
Các cơng trình nghiên cứu của H.Helmholtz đã cho ta
thấy rõ, khi tri giác mắt người nhìn sự vật tác động vào nó
126
khơng phải chỉ có một lần mà mắt nhìn sự vật nhiều lần,
vận động xung quanh vật thể. Rõ ràng là có sự phối hợp
của các cơ quan vận động và chính nhờ thế mà con người
có biểu tượng khơng gian 3 chiều về sự vật. Hình ảnh cảm
tính thu được trong tri giác sự vật không đơn thuần chỉ do
một cơ quan cảm giác đem lại mà có sự phối hợp vận động
của nhiều cơ quan cảm giác khác như nghe (thính giác), sờ
mó
(xúc giác) v.v...Cảm
giác, trị giác là
các hiện tượng
tâm lý phản ánh thế giới tự nhiên bên ngồi con người
thơng qua hoạt động của não, là hình ảnh chủ quan về
hiện tượng khách quan bên ngoài. Các giác quan của con
người cùng với đường thần kinh hướng tâm, ly tâm và
trung ương thần kinh tương ứng mà sau này được gọi là
“bộ máy phân tích” của các cơ quan cảm giác chính là cơ sở
sinh lý của các hiện tượng tâm lý. Các thực nghiệm của H.
Helmholtz cing nhu nhiều thực nghiệm khác ở thời ky
này đã dẫn con người đi đến kết luận tất yếu là: mỗi giác
quan khơng có cái gọi là "năng lượng chun biệt” mà chỉ
có vấn để là mỗi giác quan có liên quan uà thích ứng uới
một
loại kích
thích, chẳng
hạn:
ánh
sáng
liên quan
đến
mắt, âm thanh liên quan đến tai...
Như thế là các cơng trình nghiên cứu của H. Helmholtz
đã giúp ta đi đến những kết luận quan trọng:
1.
Kích thích từ thế giới khách
quan bên ngoài tác động
trực tiếp vào các giác quan của con người tạo ra những
xung
động
thần
kinh
trong
các
giác
quan.
Đây
là
nguyên nhân làm xuất hiện hình ảnh cảm tính ở con
người.
2.
Nhờ hoạt động của các giác quan mà con người có được
những hình ảnh tương ứng với sự vật hiện tượng khách
127
quan
bên ngồi.
Hoạt động của các giác quan
giữ vai
trị quan trọng quyết định quá trình nhận biết sự vật.
3.
Kinh nghiệm đã tham gia tích cực vào việc tạo thành
hình ảnh cảm tính ở con người.
Rõ ràng là có một loại hiện tượng tỉnh thần mà từ
trước đến nay chưa có một khoa học nào chuyên tâm
nghiên cứu. Hiện tượng mà từ hàng nghìn năm trước đó
Socrate, Platon, Democrite, Aristote va sau nay la Descartes
đã nói tới. Hiện tượng đó là hiện
tượng tâm lý người là có thật.
tượng
tâm
lý. Hiện
Cùng với các kết quả đạt được của Helmholtz, nhiều
người đã buộc phải để tâm tới một vấn để có ý nghĩa to lớn
hơn là xác định đối tượng của khoa học tâm lý. Hmholtz
đã lần lượt cơng bố các kết quả nghiên cứu của mình trong
các cơng trình mang tên “Học thuyết cảm giác nghe là
cơ sở sinh lý học của lý thuyết âm nhạc” (1863), “Quang
học sinh lý học” (1863).
Hoạt động tâm lý có các quy luật diễn biến riêng, cần
phải
nghiên
cứu
bằng
đây, công lao của
các
phương
Helmholtz
pháp
đối với tâm
khách
quan.
6
lý học quả là
không nhỏ. Đúng như Xêtrênov, nhà sinh lý học nổi tiếng
người Nga đã
nhận xét: “Vinh quang
thuộc về Helmholtz,
người đã có một bước tiến trong lĩnh vực tâm lý học. Nhờ
vậy mà một phần tâm lý học, sinh lý học hiện đại được
nghiên cứu kỹ hơn cả”0),
+® 1M. Xêtrênov,
Tuyển
tr.347, (tiếng Nga)
128
tập Triết học uà Tâm
ly hoc,
M.
1947,
2. Tam vat ly hoc
Tam
quan
vật lý học là một dòng nghiên cứu đi sâu làm rõ
hệ giữa
cường
độ bích
thích
với hình
ảnh
tâm
lý
xuất hiện 0à biểu thị chúng bằng cơng thức tốn học.
Các nhà bác học nghiên cứu tâm lý học ở hướng này
cho rằng:
Các quá trình tâm lý cũng giống như các hiện
tượng của khoa học tự nhiên, có thể biểu đạt được bằng
các cơng thức tốn học. Hai đại biểu lớn nhất của dòng
phái
này
là G.Fechner
(1801-1887)
và
E.Weber
(1795-
1878) (cả hai đều là người Đức). Khi nghiên cứu phản
ứng
của
da và cơ bắp,
E. Weber
đã
tìm
ra cơng
thức
biểu thị mối tương quan giữa phản ứng cảm tính và tác
nhân
phát
trên
nhất
cảm
thích
tính
kích thích từ bên
ngồi
vào.
Đồng
thời ơng cũng
hiện ra ngưỡng cảm giác sai biệt của cảm giác ép
da, tức là cần thêm bao nhiêu vào kích thích thứ
để có được một cảm giác mới, phân biệt được với
giác trước đó. Kết quả là tương quan giữa kích
vật
quy
lý và
luật.
phản
Với
ứng
cảm
giác
từng loại cảm
là tương
giác,
ngưỡng
quan
có
sai biệt
(phần thêm vào kích thích đã có để nhận ra có sự thay
đổi về cảm giác) là một hằng số. Ví dụ: Ơng tìm ra
ngưỡng sai biệt của cảm giác trọng lượng ( cảm giác ép
lên bề mặt da) là 1/30; của cảm
giác ánh sáng là: 1/100;
của cảm giác nghe là 1⁄10 v.v... Cùng với Weber,
Fechner cũng tiến hành các nghiên cứu tương tự và tìm
ra cơng thức biểu thị mối tương quan giữa kích thích và
cảm giác. Đó là: cường độ của cảm giác tỷ lệ thuận uới
logarit cường độ khích thích.
129
C=K.lgS
(trong đó C là cường độ cảm giác, S là cường độ kích thích, k
là một hằng số tuỳ thuộc vào từng loại kích thích)
Cơng thức này được gọi là công thức Fechner- Weber ,
mang tên hai nhà bác học để ghi nhớ cơng lao những
người đã tìm ra nó.
Ngày nay, rõ ràng là tốn học đã đóng vai trị quan
trọng trong việc định lượng các kết quả nghiên cứu. Cần
phải thấy rằng, ý định dùng toán học để biểu thị, lượng
hố các hiện tượng tâm lý đã có từ thế kỷ trước liên quan
đến tên tuổi của một nhà triết học, nhà tư tưởng, nhà tâm
lý học và giáo dục học người Đức tên là
1841). Nhưng
Herbart
(1776-
Herbart đã không thành công. Đương nhiên,
không thể cắt nghĩa đây đủ các hiện tượng tâm lý nếu chỉ
dừng lại ở mặt số lượng.
Trong việc khám
phá ra đối tượng của tâm
lý học,
trong việc hình thành tâm lý học với tư cách là một khoa
học độc lập thì tâm vật lý học đã có những đóng góp
kể ở chỗ:
đáng
Thứ nhất: Các kết quả do tâm vật lý học đem lại đã
minh chứng cho việc khẳng định các q trình tâm lý là có
thật, có thể biểu đạt được nó qua các cơng thức tốn học.
Thứ
hai:
Có
thể nghiên
cứu
các
hiện
tượng
tâm
lý
bằng phương pháp thực nghiệm tức là bằng các phương
pháp khách quan. Phương hướng này cần được ủng hộ, vì
đây chính là các tư tưởng duy vật trong nghiên cứu các
hiện tượng tâm lý người.
130