Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Đề bài phân tích luận điểm của ăng ghen chủ nghĩa xã hội muốn trở thành khoa học phải đặt nó trên mảnh đất hiện thực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.81 KB, 21 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
---------------

--------------

BÀI TẬP LỚN
MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Đề bài: Phân tích luận điểm của Ăng
Ghen “Chủ nghĩa xã hội muốn trở
thành khoa học phải đặt nó trên mảnh
đất hiện thực”
Họ và tên: Đào Anh Sơn
Lớp: Khoa học quản lý 61B
Mã sinh viên: 11194544

Hà Nội, ngày 17 tháng 2 năm 2021

1


TIEU LUAN MOI download :


Mục Lục

LỜI NÓI ĐẦU.................................................................................................................................. 2
PHẦN I: Ý NGHĨA CỦA LUẬN ĐIỂM TRONG XÂY DỰNG LÝ
LUẬN..................................................................................................................................................... 3
A. PHÂN TÍCH LUẬN ĐIỂM.................................................................................................... 3
B. DIỄN GIẢI NỘI DUNG HỌC THUẬT VÀ MONG MUỐN CỦA ĂNG


GHEN TRONG LÝ LUẬN THỰC TIỄN................................................................................ 4
C. HƯỚNG ÁP DỤNG KHOA HỌC LÝ LUẬN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRONG
THỜI ĐIỂM HIỆN NAY TẠI NƯỚC TA................................................................................. 7
PHẦN II: Ý NGHĨA TRONG THỰC TIỄN VIỆT NAM............................ 9
A. ĐIỀU KIỆN ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM...................................9
B. CHỦ TRƯƠNG ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG SAU ĐẠI HỘI VI................................. 13
C. XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI SÁNG TẠO, PHÁT TRIỂN Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY........................................................................................................................... 16
KẾT LUẬN..................................................................................................................................... 17
TÀI LIỆU THAM KHẢO:.................................................................................................... 18

2

TIEU LUAN MOI download :


LỜI NĨI ĐẦU
Tun ngơn của Đảng Cộng sản do C.Mác và Ph.Ăngghen viết tháng 02 năm
1848 cách đây đã hơn 172 năm nhưng tác phẩm kinh điển ấy vẫn còn giữ nguyên giá
trị lý luận cũng như giá trị thực tiễn của nó. Ngày Tun ngơn của Đảng Cộng sản ra
đời đã đánh dấu cho chủ nghĩa cộng sản từ bóng ma trở thành khoa học cịn hơm nay
chủ nghĩa cộng sản khoa học ấy đã thành hiện thực ở Việt Nam, đã, đang và sẽ có
sức sống mãnh liệt, là lương tri, là lý trí và là chân lý của loài người tiến bộ trên toàn
thế giới.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã viết trong “Lời tựa” của “Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản” cho bản tiếng Đức (xuất bản năm 1872): “Mặc dầu hoàn cảnh đã thay
đổi nhiều trong hai mươi lăm năm qua, nhưng cho đến nay, xét về đại thể, những
ngun lý tổng qt trình bày trong Tun ngơn vẫn cịn hồn tồn đúng”; và
“Chính ngay Tun ngơn cũng đã giải thích rõ rằng bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào,
việc áp dụng những nguyên lý đó cũng phải t>y theo hoàn cảnh lịch sử đương thời,

và do đấy, không nên quá câu nệ vào những biện pháp cách mạng nêu ra ở cuối
chương II. Đoạn này, ngày nay mà viết lại thì về nhiều mặt, cũng phải viết khác đi”.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa ra một phác thảo về xã hội mới đó trên những nét chủ
yếu và đồng thời chỉ rõ, xã hội mới này không phải đã được xác lập ngay lập tức, mà
sẽ chỉ được xác lập trong tiến trình cải tạo dần dần xã hội cũ. Không chỉ thế, khi
vạch ra những biện pháp mà nhà nước vô sản cần phải thực hiện để chuẩn bị cơ sở
cho công cuộc cải tạo cách mạng đó, các ơng đã khơng coi những biện pháp ấy là
tuyệt đối, đầy đủ, không thể thay thế, mà cho rằng, bản thân thực tiễn xây dựng xã
hội mới và những điều kiện lịch sử – cụ thể của thực tiễn ấy sẽ

3

TIEU LUAN MOI download :


mang lại những sửa đổi tương ứng, thích hợp cho những biện pháp ấy và “trong
những nước khác nhau, những biện pháp ấy dĩ nhiên sẽ khác nhau rất nhiều”.
Ph.Ăngghen đã một lần nữa khẳng định: “Muốn làm cho chủ nghĩa xã hội
thành một khoa học thì trước hết phải đặt chủ nghĩa xã hội trên một cơ sở hiện
thực” và “ngày nay, vấn đề trước hết là phải nghiên cứu thêm, trong mọi chi tiết và
mọi mối liên hệ của nó”. Việt Nam từ thực tế lịch sử đã đặt chủ nghĩa xã hội trên
mảnh đất hiện thực và nó có sức sống, sức lơi cuốn mãnh liệt.

Phần I: Ý nghĩa của luận điểm trong xây dựng lý luận
A. Phân tích luận điểm
Sự đổ vỡ của mơ hình xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô, không có
nghĩa là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội với tư cách một học thuyết cách mạng và
khoa học duy nhất đúng trong lịch sử tư tưởng nhân loại, một học thuyết đã vạch
đường cho sự giải phóng hồn tồn, triệt để giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động,
các dân tộc bị áp bức và cho việc xây dựng một xã hội phồn vinh, công bằng, văn

minh thực sự - xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Sự đổ vỡ này là do sai lầm
của những người lãnh đạo đứng đầu của đảng cộng sản ở các quốc gia nêu trên;
thêm vào đó, là sự phản bội của một số kẻ cơ hội bên trong kết hợp với những kẻ thù
địch bên ngoài.
Chúng ta biết rằng, các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác, như chính C.Mác
đã từng nhấn mạnh, chỉ là “kim chỉ nam” định hướng cho hành động.
Ph.Ăng Ghen đã chỉ rõ: “Chủ nghĩa xã hội muốn trở thành khoa học thì phải
đặt nó trên mảnh đất hiện thực”; từ khi nó trở thành khoa học thì phải đối xử với nó
như mọi khoa học, nghĩa là phải nghiên cứu nó trên mọi chi tiết. Bên cạnh đó cịn
nhìn nhận chủ nghĩa xã hội như một cơ thể sống, nó tất yếu phải thường xuyên biến
đổi, phải đổi mới và phát triển. Một cách nhìn động chứ khơng tĩnh, mờ chứ khơng
khép kín về chủ nghĩa xã hội do Mác – Ăng Ghen nêu ra là phù hợp trong giai đoạn
hiện nay. Vậy nên, áp dụng một cách rập khn, máy móc các nguyên lý đó là trái
với tinh thần của Mác. Các ngun lý đó địi hỏi phải được vận dụng một cách sáng
tạo vào điều kiện lịch sự cụ thể ở từng nơi từng lúc. Bởi vậy, chế độ xã hội chủ
4

TIEU LUAN MOI download :


nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu với những hạn chế của nó chỉ là một mơ hình của chủ
nghĩa xã hội, hơn nữa, mơ hình này lại phản ánh không đầy đủ, thếu sáng tạo những
ý tưởng của học thuyết Mác – Lênin
Trong Lời tựa viết cho bản Tuyên ngơn xuất bản năm 1972, Mác đã viết:
“Chính ngay tun ngơn cũng giải thích rõ ràng, bất kỳ ở đâu, và bất kỳ lúc nào việc
áp dụng những nguyên lý đó cũng phải tuỳ theo hồn cảnh lịch sử đương thời…”.
Cịn Lênin thì viết: “Tất cả các dân tộc đều sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội đó là điều
khơng thể tránh khỏi, nhưng tất cả các dân tộc đều đi lên chủ nghĩa xã hội khơng
phải hồn tồn giống nhau. Mỗi dân tộc sẽ đưa các đặc điểm của mình vào hình thức
này hay hình thức khác của chế độ dân chủ, vào loại này hay loại khác của chun

chính vơ sản, vào nhịp độ này hay nhịp độ khác của việc cải tạo xã hội chủ nghĩa với
các mặt khác nhau của đời sống xã hội”. Điều này cho thấy, ngay trong quan điểm
của các nhà kinh điển, chủ nghĩa xã hội phải gắn với điều kiện cụ thể của mỗi quốc
gia, dân tộc.

B. Diễn giải nội dung học thuật và mong muốn của Ăng Ghen trong
lý luận thực tiễn
Trong tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên”, Ph. Ăng-ghen cịn bàn đến những
điều kiện hình thành tư duy lý luận. Cụ thể như sau:
Một là, tư duy lý luận phải được hình thành trên cơ sở kinh nghiệm. Điểm xuất phát
của tư duy lý luận chính là những kinh nghiệm được con người tích lũy trong cuộc
sống hằng ngày. Khơng có kinh nghiệm thì sẽ khơng có sự khám phá của con người
về những quy luật vận động nội tại, tất yếu của các sự vật, hiện tượng. Những kinh
nghiệm được tích lũy đã địi hỏi phải có sự hệ thống hóa và phải tìm ra một sự liên
hệ bên trong tất yếu của nó. Thực hiện được điều đó cũng có nghĩa là tư duy đã
chuyển qua được giai đoạn kinh nghiệm lên giai đoạn mới cao hơn - giai đoạn tư duy
lý luận. Ph. Ăng-ghen mô tả q trình đó như sau: “Khoa học tự nhiên kinh nghiệm
đã tích lũy được một khối lượng tài liệu chính diện to lớn đến nỗi ngày nay tuyệt đối
bức thiết phải sắp xếp những tài liệu ấy lại một cách có hệ thống và dựa vào mối liên
hệ nội tại của chúng trong lĩnh vực nghiên cứu riêng biệt. Người ta cũng thấy không
kém cần thiết phải sắp xếp những lĩnh vực khác nhau của tri thức
5

TIEU LUAN MOI download :


theo một liên hệ đúng đắn giữa lĩnh vực nọ với lĩnh vực kia. Nhưng làm thế thì khoa
học tự nhiên đã chuyển sang lĩnh vực lý luận và trong lĩnh vực này những phương
pháp kinh nghiệm trở nên bất lực, chỉ có tư duy lý luận mới có thể giúp ích được” (4).
Những mơ tả khá cụ thể đó của Ph. Ăng-ghen đồng nghĩa với việc khẳng định tư

duy lý luận khơng phải tự nhiên mà có; nó chính là một giai đoạn phát triển cao của
tư duy con người dựa trên việc tích lũy kinh nghiệm và bắt nguồn từ nhu cầu phải
khái quát những kinh nghiệm đó thành hệ thống và tìm ra mối liên hệ của tri thức ở
các lĩnh vực nghiên cứu khác nhau.
Hai là, tư duy lý luận phải gắn liền với khoa học, nhất là khoa học tự nhiên. Theo
Ph. Ăng-ghen, việc gắn với sự phát triển khoa học sẽ giúp cho tư duy nắm được
những quy luật và các mối liên hệ bên trong giữa các sự vật, hiện tượng. Vì vậy, thật
dễ hiểu tại sao trước khi bắt tay vào nghiên cứu những vấn đề triết học, Ph. Ăngghen và C. Mác đều nghiên cứu những vấn đề của khoa học, đặc biệt là khoa học tự
nhiên. Ph. Ăng-ghen đã chỉ rõ: “Những thành tựu khoa học tự nhiên hiện đại đã
chẳng bắt buộc bất kỳ một người nào nghiên cứu các vấn đề lý luận cũng phải thừa
nhận chúng, bắt buộc với một sức mạnh khiến các nhà khoa học tự nhiên hiện đại,
dù họ muốn hay không - phải tiến tới những kết luận chung, đó sao?” (5). Điều đó có
nghĩa là khoa học tự nhiên đưa lại những cơ sở khách quan cho tư duy lý luận. Trên
cơ sở đó, Ph. Ăng-ghen phê phán những quan điểm nửa vời, chiết trung về triết học.
Ông cho rằng, một trong những nguyên nhân của sự nửa vời đó là do nửa vời về tư
duy lý luận, trong đó quan trọng nhất là sự nửa vời về khoa học tự nhiên. Ông viết:
“Nếu những nhà lý luận là những người nửa thơng thái trong lĩnh vực khoa học tự
nhiên thì các nhà khoa học tự nhiên ngày nay, trong một mức độ như thế, cũng thực
sự là những người nửa thông thái trong lĩnh vực lý luận, trong lĩnh vực của cái mà
cho tới nay người ta gọi là triết học”(6).
Ba là, tư duy lý luận không thể tách rời tư duy biện chứng duy vật. Theo Ph. Ăngghen, tư duy biện chứng duy vật chính là hình thức cao nhất của tư duy lý luận. Ph.
Ăng-ghen rất đề cao vai trò của phép biện chứng đối với tư duy lý luận. Ông cảnh
báo: “Trong thực tế, khinh miệt phép biện chứng thì khơng thể khơng bị trừng phạt.
Dù người ta tỏ ý khinh thường mọi tư duy lý luận như thế nào đi nữa, nhưng không
6

TIEU LUAN MOI download :


có tư duy lý luận thì người ta cũng khơng thể liên hệ hai sự kiện trong giới tự nhiên

với nhau được, hay không hiểu được mối liên hệ giữa hai sự kiện đó... sự khinh
thường lý luận là con đường... đưa chúng ta đến chỗ suy nghĩ theo lối tự nhiên chủ
nghĩa, tức là suy nghĩ sai”(7). Luận điểm nêu trên của Ph. Ăng-ghen đã khẳng định,
phép biện chứng giúp cho tư duy của con người thấy được bản chất của giới tự nhiên
là mối liên hệ tác động qua lại nhau. Điều đó tránh được những sai lầm trong hoạt
động nhận thức. Cũng trong tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên”, cùng với việc
phân tích những hạn chế của phương pháp tư duy siêu hình, Ph. Ăng-ghen khẳng
định: “Trên thực tế, ở đây, ngày nay khơng cịn một lối thốt, khơng cịn một khả
năng nào để có thể nhìn thấy ánh sáng nếu khơng từ bỏ tư duy siêu hình mà quay trở
lại với tư duy biện chứng, bằng cách này hay cách khác” (8), và “chỉ có phép biện
chứng mới có thể giúp cho khoa học tự nhiên vượt khỏi những khó khăn về lý
luận”(9). Thơng qua việc chỉ ra những hạn chế của phép biện chứng thời cổ đại và
trong triết học cổ điển Đức, Ph. Ăng-ghen đã đề cao vai trò của C. Mác trong việc
cải tạo lại phép biện chứng duy tâm của Hê-ghen trên lập trường duy vật. Cùng với
việc đề cao phép biện chứng, Ph. Ăng-ghen còn đi đến một khẳng định quan trọng
là, nhờ có phép biện chứng mà tư duy lý luận được hình thành một cách tự giác, dễ
dàng và được rút ngắn hơn nhiều.
Bốn là, muốn có tư duy lý luận phải có sự nghiên cứu một cách nghiêm túc toàn bộ
lịch sử triết học. Theo Ph. Ăng-ghen, tư duy lý luận ở mỗi chúng ta chỉ tồn tại dưới
dạng năng lực tiềm tàng, không phải tự nhiên mà có, nên việc nghiên cứu một cách
nghiêm túc lịch sử triết học của nhân loại sẽ làm cho năng lực đó trở thành hiện
thực. Ơng viết: “Nhưng tư duy lý luận chỉ là một đặc tính bẩm sinh dưới dạng năng
lực của người ta mà có thơi. Năng lực ấy cần phải được phát triển hoàn thiện, và
muốn hoàn thiện nó thì cho tới nay, khơng có một cách nào khác hơn là nghiên cứu
toàn bộ triết học thời trước”(10).
Như vậy, với việc chỉ ra bốn điều kiện cơ bản cho việc hình thành tư duy lý
luận, Ph. Ăng-ghen đã cung cấp cho chúng ta những phương pháp luận đúng đắn và
cần thiết trong việc hình thành tư duy lý luận trong nhận thức và trong hoạt động
thực tiễn. Khơng chỉ có vậy, trong tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên”, ơng cịn
7


TIEU LUAN MOI download :


chỉ ra vai trò to lớn của tư duy lý luận bằng một luận điểm nổi tiếng: “Một dân tộc
muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì khơng thể khơng có tư duy lý
luận”(11). Luận điểm này chứng tỏ tư duy lý luận chính là thước đo trình độ phát triển
khoa học của một quốc gia, một dân tộc. Tư duy lý luận là điều kiện tiên quyết phản
ánh sự phát triển khoa học của mỗi thời đại. Vì vậy, thơng qua những gương mặt tiêu
biểu có tầm cao về tư duy lý luận, như Can-tơ, Hê-ghen, C. Mác, Ph. Ăng-ghen...,
chúng ta cũng có thể lý giải được tại sao Đức là một trong những nước có trình độ
khoa học phát triển bậc nhất ở châu Âu vào thế kỷ XIX.

C. Hướng áp dụng khoa học lý luận chủ nghĩa xã hội trong thời điểm
hiện nay tại nước ta
Từ chủ nghĩa yêu nước chân chính, Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc đã
đến với chủ nghĩa Mác - Lênin; từ khát vọng độc lập dân tộc, giải phóng đất nước,
Người đã tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam. Sự lựa
chọn con đường cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH của Nguyễn Ái
Quốc dựa trên cơ sở lý luận và khoa học, trên thực tiễn vận động và đòi hỏi của
phong trào cách mạng Việt Nam. Từ nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, Hồ Chí
Minh đi đến kết luận: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, khơng có con đường
nào khác con đường cách mạng vơ sản”. Thực tiễn vận động và phát triển của cách
mạng Việt Nam hơn 90 năm qua là minh chứng và khẳng định chắc chắn lựa chọn
con đường cách mạng vô sản, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là sáng suốt, duy
nhất đúng đắn với vai trò to lớn của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, người
tìm đường, mở đường và dẫn đường cho dân tộc Việt Nam. Độc lập dân tộc gắn liền
với CNXH là mục tiêu, là sợi chỉ đỏ, là đường lối chiến lược nhất quán; là bài học
lớn cho cách mạng Việt Nam; là cội nguồn dẫn đến mọi thắng lợi của cách mạng
Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và công cuộc xây dựng

CNXH, tiến hành công cuộc đổi mới đất nước. Qua các giai đoạn cách mạng khác
nhau, khuynh hướng chính trị bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tiến lên CNXH
ở nước ta đã trở thành một sức mạnh vật chất to lớn, ăn sâu bám rễ trong lòng xã hội
Việt Nam. Chúng ta đã khẳng định chắc chắn sự vận dụng sáng tạo luận điểm “phát
triển rút ngắn” con đường đi lên CNXH của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn
Việt Nam là đúng đắn, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Tư tưởng Hồ
8

TIEU LUAN MOI download :


Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam, là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và
quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của
Đảng và nhân dân ta”
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “con đường đi lên của nước ta là quá độ
lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”. “Đây là sự nghiệp rất khó khăn, phức
tạp và do vậy, tất yếu phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng
đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế - xã hội có tính chất quá độ”. Tuy nhiên, phải
hiểu rằng, sự “phát triển rút ngắn”, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta vẫn là
quá trình lịch sử - tự nhiên. Nội dung của con đường quá độ lên CNXH bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam được Đảng ta xác định: “Bỏ qua việc xác lập vị trí
thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa nhưng tiếp
thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa để
phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”.
Theo đó, con đường “phát triển rút ngắn” trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở
Việt Nam, là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc
thượng tầng tư bản chủ nghĩa; là rút ngắn q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa;
tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đạt được dưới chủ nghĩa tư bản, đặc
biệt là khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền

kinh tế hiện đại; là bỏ qua chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa và tình trạng áp bức, bóc
lột chứ khơng bỏ qua những thành tựu văn minh vật chất và tinh thần mà loài người
đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa. Đó là những vấn đề có tính ngun tắc cần
thiết được nhận thức và vận dụng trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta hiện nay.

Phần II: Ý nghĩa trong thực tiễn Việt Nam

9

TIEU LUAN MOI download :


A. Điều kiện đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (TKQĐ) lên CNXH (bổ
sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay
của thời đại là các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn
tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc
đấu tranh của nhân dân các nước vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và
tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới.
Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới CNXH”. Trong xu
thế vận động chung đó của thế giới, thì việc Việt Nam “đi lên CNXH là khát vọng
của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch
Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử… Đây là một quá trình cách
mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến
đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một
TKQĐ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan
xen”. Điều đó được lý giải bởi những lẽ sau:
Thứ nhất, lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch sử phát triển và thay thế
nhau của các hình thái kinh tế - xã hội (HTKTXH). Song, không phải HTKTXH này

kết thúc hoàn toàn rồi HTKTXH tiếp sau mới ra đời. Giữa HTKTXH cũ bị thay thế
và HTKTXH mới sẽ thay thế nó bao giờ cũng có một giai đoạn chuyển tiếp, đó là
TKQĐ. Xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa với giai đoạn đầu là CNXH, một chế độ
xã hội mới hoàn toàn về chất so với các chế độ xã hội trước đó lại càng địi hỏi phải
trải qua một TKQĐ lâu dài, đầy khó khăn, thử thách, khó tránh khỏi những va vấp,
đổ vỡ tạm thời. Trong “Phê phán Cương lĩnh Gô-ta”, các nhà sáng lập chủ nghĩa
Mác đã chỉ rõ “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ
cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một
TKQĐ chính trị...”
Thứ hai, học thuyết Mác - Lênin chứng minh rằng, lồi người với tính cách một
chỉnh thể nhất thiết phải trải qua 5 HTKTXH. Nhưng, do đặc điểm lịch sử - cụ thể
về không gian và thời gian, do những điều kiện đặc thù khách quan và chủ quan, bên
ngoài và bên trong chi phối, không phải quốc gia nào cũng tuần tự trải qua tất
10

TIEU LUAN MOI download :


cả các HTKTXH từ thấp đến cao theo một trình tự sơ đồ chung. Có những nước có
thể bỏ qua một hoặc vài HTKTXH nào đó trong tiến trình phát triển của mình tùy
thuộc điều kiện lịch sử cụ thể đặc thù của từng nước. Điều đó hồn tồn phù hợp
quy luật khách quan.
Thứ ba, cũng như lịch sử xã hội lồi người nói chung, trong thời đại ngày nay, việc
bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN quá độ lên CNXH ở Việt Nam là hoàn toàn phù
hợp với yêu cầu khách quan của nền kinh tế. Điều đó được quy định bởi:
1) Sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ làm cho lực
lượng sản xuất thế giới phát triển đã đạt đến trình độ cao, đã mở đầu giai đoạn mới
của quá trình xã hội hóa sản xuất, tạo ra cuộc cách mạng trong lĩnh vực kinh tế, tạo
điều kiện hiện thực để nước ta có thể tranh thủ vốn, cơ sở vật chất - kỹ thuật, kinh
nghiệm quản lý của thế giới cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH,

HĐH) đất nước. Trong điều kiện kinh tế thế giới có bước nhảy vọt về cơ sở vật chất
- kỹ thuật, xã hội lồi người địi hỏi phát triển lên một xã hội mới của nền văn minh
cao hơn - đó là nền văn minh của kinh tế tri thức. Do đó, quá độ lên CNXH là con
đường phát triển hợp quy luật khách quan. Sau CNTB nhất định phải là một chế độ
xã hội tốt đẹp hơn - chế độ XHCN mà sự lựa chọn của Việt Nam là hoàn toàn đúng
đắn. Nước ta là nước đã giành được độc lập dân tộc, có chính quyền dân chủ do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Với những thắng lợi đã giành được trong hơn 80
năm qua, đặc biệt là những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử của hơn 30 năm
đổi mới, đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, bước vào
nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh CNH, HĐH, có
quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế quốc tế ngày càng quan trọng trong khu vực và
trên thế giới. Đây là điều kiện tiên quyết, quyết định con đường quá độ lên CNXH ở
nước ta.
2) Sự lựa chọn xu hướng phát triển. Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước, từ nền nơng nghiệp lạc hậu, mang nặng tính chất tự cung tự cấp, nền kinh tế
nước ta nảy sinh một yêu cầu khách quan là: chuyển kinh tế tự nhiên lên kinh tế
hàng hóa và thúc đẩy sản xuất hàng hóa nhỏ phát triển lên thành sản xuất lớn dựa
trên cơ sở kỹ thuật, công nghệ hiện đại. Nếu để nền kinh tế phát triển tự phát
11

TIEU LUAN MOI download :


chuyển thành nền kinh tế TBCN, trên cơ sở phân hóa những người sản xuất hàng
hóa nhỏ, do tác động của quy luật giá trị thì sẽ hình thành CNTB, dẫn đến những
hậu quả như: Chính quyền do chính nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam, đã phải tốn bao xương máu mới giành được, sẽ bị mất; và chính nhân
dân lao động lại rơi xuống địa vị người làm thuê, bị bóc lột và khó có thể thực hiện
được mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng con người, hướng tới mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Chúng ta khơng đi theo con đường

TBCN vì thời đại ngày nay không phải là thời đại của CNTB, mặc dù CNTB đang
có sự Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở
liên minh giữa cơng nhân với nơng dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài
hịa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của
các thành phần kinh tế, của tồn xã hội...” điều chỉnh để thích nghi với cuộc cách
mạng khoa học - công nghệ, nhưng CNTB vẫn không thể khắc phục được những
mâu thuẫn, bất công xã hội thuộc về bản chất của chế độ TBCN. Theo quy luật phát
triển của lịch sử thì CNTB khơng thể khơng bị phủ định. Vì thế, Đảng ta đã lựa chọn
hướng đi phù hợp với lịch sử cụ thể của Việt Nam là thực hiện quá độ lên CNXH bỏ
qua chế độ TBCN dựa trên cơ sở củng cố chính quyền của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân; dựa vào khối liên minh cơng - nơng - trí thức để tổ chức và huy động
mọi tiềm lực của các tầng lớp nhân dân, tiến hành CNH, HĐH đất nước, phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, tạo lập cơ sở vật chất - kỹ thuật cho
CNXH. Con đường này hồn tồn mới mẻ và khơng ít khó khăn, nhưng giảm bớt
được đau khổ cho nhân dân lao động. “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là
đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa cơng nhân với nơng dân và trí thức
do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hịa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy
mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội...”.

Những thành tựu đã đạt được qua hơn 30 năm đổi mới đã chứng tỏ sự lựa chọn đó là
đúng hướng, phù hợp với lợi ích của cả dân tộc và hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nước
ta, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Toàn bộ lịch sử cách mạng Việt Nam
đã chứng minh: quy luật của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Muốn cứu nước và giải phóng
12

TIEU LUAN MOI download :


dân tộc khơng có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Và trong thực

tiễn, CNXH không những đã trở thành động lực tinh thần, mà còn là sức mạnh vật
chất to lớn góp phần đưa sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở nước ta
đến thắng lợi. Quá trình cách mạng do Đảng ta lãnh đạo đã tạo những tiền đề cả vật
chất và tinh thần để có thể “rút ngắn” tiến trình phát triển lịch sử - tự nhiên của xã
hội. Vì thế, dân tộc ta đã chọn con đường quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN.
Đó là con đường phù hợp cả về lý luận và thực tiễn, cả về đặc điểm lịch sử - cụ thể
trong nước và hoàn cảnh quốc tế.
Nói “nước ta quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN” chỉ có nghĩa là trong lịch sử
nước ta khơng có một giai đoạn, trong đó giai cấp tư sản nắm chính quyền và quan
hệ sản xuất TBCN giữ địa vị thống trị trong nền kinh tế quốc dân. “Con đường đi lên
của nước ta là sự phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tức là bỏ qua
việc xác lập vị thế thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN,
nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ
TBCN, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất,
xây dựng nền kinh tế hiện đại”(5). Con đường đi lên CNXH ở nước ta, gọi là TKQĐ
với ý nghĩa là đất nước ta phải trải qua một trạng thái xã hội mang tính trung gian,
chuyển tiếp giữa HTKTXH cũ và HTKTXH mới, trong đó nền kinh tế là nền kinh tế
quá độ gồm nhiều thành phần kinh tế. Những thành tựu của cuộc cách mạng khoa
học - công nghệ hiện đại, sự hợp tác kinh tế quốc tế đa phương, đa dạng cho phép
chúng ta tận dụng đại cơng nghiệp của cả thế giới để có thể “rút ngắn” quá trình phát
triển kinh tế đất nước. Sự phát triển “rút ngắn” chỉ có nghĩa là đẩy nhanh tương đối
quá trình phát triển lịch sử tự nhiên, bằng những khâu trung gian, những hình thức,
bước đi quá độ - được coi là cực kỳ cần thiết và có tác dụng sắc bén đối với những
nước mà sản xuất nhỏ là phổ biến đi lên CNXH. Đồng thời, phải tơn trọng và vận
dụng sáng tạo những tính quy luật của quá trình phát triển từ sản xuất nhỏ lên sản
xuất lớn XHCN.
Thứ tư, lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách nơ lệ thực dân của nước ta
chứng minh rằng, trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, có nhiều phong trào
đấu tranh chống Pháp thấm đượm tinh thần yêu nước, bất khuất, song đều lâm vào
13


TIEU LUAN MOI download :


bế tắc và cuối cùng thất bại. Đó là sự bế tắc và thất bại về đường lối chiến lược. Và
như vậy, tất cả các phương án chính trị của các giai cấp, từ đường lối cứu nước theo
hệ tư tưởng phong kiến, đến những đường lối theo lập trường nông dân, lập trường
tiểu tư sản, tư sản, đều được lịch sử khảo nghiệm nhưng rốt cuộc đều thất bại. Trong
bối cảnh đó, Đảng ta ra đời, nhanh chóng gương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và
CNXH đưa sự nghiệp Cách mạng Việt Nam không ngừng phát triển đi lên.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đã tiến
hành thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945; tiến hành 9 năm kháng
chiến trường kỳ, gian khổ chống thực dân Pháp và 20 năm hy sinh đầy xương máu
chống đế quốc Mỹ. Với chiến thắng oanh liệt mùa Xuân năm 1975, cả nước độc lập,
thống nhất, bước vào thời kỳ xây dựng, từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

B. Chủ trương đổi mới của Đảng sau Đại hội VI
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển 2011) được thông qua tại Đại hội XI của Đảng đã nêu ra 8 phương
hướng cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta như sau:
Một là, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế
tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Hai là, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người,
nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hữu nghị, hợp tác
và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc,
tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.

Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
14

TIEU LUAN MOI download :


*)Khái quát việc thực hiện các phương hướng cơ bản: Ưu điểm, hạn chế và
nguyên nhân.
Ưu điểm và nguyên nhân:
Tám phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội được thực
hiện đồng bộ, toàn diện trong mối liên hệ với việc giải quyết 9 quan hệ lớn và đã đạt
được những thành tựu rất quan trọng:
Kinh tế vĩ mơ ổn định, tăng trưởng kinh tế nhìn chung năm sau cao hơn năm
trước, quy mô nền kinh tế tăng nhanh, nước ta trở thành nước có thu nhập trung
bình. Mơi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện. Năng xuất, chất lượng, hiệu quả
và sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên. Các đột phá chiến lược được đẩy
mạnh triển khai. Mơ hình tăng trưởng bao trùm lấy con người làm trung tâm, không
để ai tụt lại phía sau; dựa vào phát huy trí lực con người để phát triển và vì con
người bước đầu được hình thành, khẳng định, củng cố. Cơ chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng được khẳng định. Các lĩnh vực văn hóa, xã
hội, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ được chỉ đạo thực hiện đồng bộ,
quyết liệt và có những kết quả chuyển biến tích cực nhất là xóa đói, giảm nghèo, xây
dựng nông thôn mới. Những năm gần đây, nhân dân đang trở thành trung tâm của sự
phát triển. Tiềm lực quốc phịng, an ninh được tăng cường, chính trị - xã hội ổn định;
trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm. Dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng được phát
huy và trở thành động lực phát triển đất nước. Đại đoàn kết toàn dân tộc được củng
cố vững chắc hơn. Xây dựng Đảng được triển khai đồng bộ, toàn diện, gắn xây dựng
Đảng về tư tưởng, chính trị, tổ chức với đạo đức. Đấu tranh phịng, chống tham

nhũng, lãng phí được chỉ đạo quyết liệt, đạt nhiều kết quả thiết thực, góp phần củng
cố niềm tin của nhân dân vào Đảng, vào chế độ. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị đạt kết quả khả quan, bộ máy bước đầu được tinh
giản, chính phủ liêm chính, kiến tạo, xây dựng được củng cố. Đối ngoại và hội nhập
quốc tế đạt nhiều thành tựu nổi bật. Vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế
không ngừng được nâng cao. Những kết quả trên khẳng định sự đúng đắn, phù hợp
thực tiễn của các phương hướng cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

15

TIEU LUAN MOI download :


Có được những kết quả trên là do Đảng ta đã đề ra được những phương hướng
xây dựng chủ nghĩa xã hội đúng đắn, phù hợp thực tiễn nước ta, phù hợp với nguyện
vọng, lợi ích của nhân dân, được tồn Đảng, tồn dân, tồn qn đồng lịng, quyết
tâm thực hiện. Nhà nước Việt Nam đã kịp thời cụ thể hóa, thể chế hóa các phương
hướng này thành các chính sách cụ thể phù hợp tình hình thực tiễn từng giai đoạn.
Đồng thời các bạn bè quốc tế nhiệt tình ủng hộ, hợp tác, giúp đỡ. Điều kiện trong
nước, khu vực và quốc tế cũng thuận lợi cho việc tổ chức thực hiện các phương
hướng này.
Hạn chế và nguyên nhân:
Cùng với những thành tựu đạt được trên thì việc thực hiện các phương hướng
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong thời gian qua vẫn còn những hạn chế:
Nền kinh tế phát triển chưa bền vững, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao.
Cơ chế bao cấp biến tướng, trá hình vẫn tồn tại. Chúng ta không đạt mục tiêu trở
thành nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020. Kinh tế tri thức chưa được quan tâm
phát triển. Bảo vệ môi trường, đa dạng sinh học cịn nhiều bất cập. Văn hóa, xã hội
cịn có những mặt bất cập; giáo dục và đào tạo; khoa học và công nghệ chưa thực sự
trở thành quốc sách hàng đầu. Xây dựng, phát triển con người Việt Nam toàn diện,

cịn có mặt, nhất là đạo đức, nhân cách chưa đáp ứng yêu cầu. Xây dựng Đảng về
đạo đức chưa đạt mong muốn và yêu cầu. Bộ máy hành chính cịn cồng kềnh, cải
cách hành chính chưa được như mong muốn và chưa đạt u cầu. Tình trạng suy
thối về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, lãng phí cịn nghiêm
trọng. Niềm tin của nhân dân vào Đảng, vào chế độ được nâng lên nhưng chưa bền
vững. Chưa kiểm soát tốt quyền lực trong bộ máy Đảng và chính quyền, mơ hình,
phương thức kiểm sốt quyền lực trong bộ máy Đảng và Nhà nước cũng chưa rõ.
Nội dung, phương thức của đảng cầm quyền, mơ hình bộ máy nhà nước tinh giản,
hiệu lực, hiệu quả còn chưa thật rõ.
Những hạn chế trên có những nguyên nhân chủ yếu: Nhận thức lý luận của
chúng ta về một số vấn đề như tiêu chí của nước cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa; tiêu
chí nền kinh tế tri thức; hệ tiêu chí giá trị văn hóa Việt Nam; hệ tiêu chí con người
mới Việt Nam chưa thống nhất. Những nội dung, phương thức của đảng cầm quyền,
mơ hình bộ máy nhà nước tinh giản, hiệu lực, hiệu quả còn chưa rõ. Mô
16

TIEU LUAN MOI download :


hình, phương thức kiểm sốt quyền lực trong bộ máy Đảng và Nhà nước còn chưa
rõ. Lý luận về phát triển kinh tế tri thức hướng tới đáp ứng cách mạng công nghiệp
4.0 chưa rõ. Điều này dẫn đến lúng túng trong triển khai, tổ chức thực hiện và kết
quả chưa được như mong muốn.
Chúng ta cịn có biểu hiện chủ quan trong thực hiện mục tiêu cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Việc xây dựng Đảng về đạo đức cịn có biểu hiện chưa thật quyết liệt,
chưa thật quyết tâm. Việc cụ thể hóa, thể chế hóa các chủ trương của Đảng còn
chậm. Việc triển khai, tổ chức thực hiện nghị quyết, chủ trương của Đảng chậm, việc
tổng kết, đánh giá, rút ra bài học kinh nghiệm chưa kịp thời. Đội ngũ cán bộ lãnh
đạo chủ chốt, nhất là cán bộ cấp chiến lược chưa ngang tầm nhiệm vụ.


C. Xây dựng chủ nghĩa xã hội sáng tạo, phát triển ở Việt Nam hiện
nay
Một là, đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với mơ hình tăng trưởng bao trùm - mơ
hình phát triển bao gồm cả kinh tế, tài chính, văn hóa - xã hội, trong đó con người
phải là trung tâm. Trong mơ hình phát triển này mọi người đều có cơ hội thể hiện hết
tài năng, sáng tạo, năng lực của mình và mọi người cũng như mỗi người đều được
hưởng lợi, bảo đảm “không bỏ ai lại phía sau” và phải hướng tới “nhu cầu của những
đối tượng dễ bị tổn thương nhất đều được đáp ứng”. Mơ hình phát triển bao trùm sẽ
phát huy được vai trị con người, từ đó giải quyết được điểm nghẽn về nguồn nhân
lực chất lượng cao, từ đây sẽ giải quyết được điểm nghẽn về thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và điểm nghẽn về kết cấu hạ tầng của nền kinh
tế. Đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn với cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
nơng nghiệp, nơng thơn; từng bước phát triển kinh tế tri thức; phát triển các ngành
kinh tế biển phù hợp điều kiện cụ thể. Tạo đột phá trong năng xuất, sức cạnh tranh
của nền kinh tế. Tập trung phát triển nông nghiệp công nghệ cao; công nghiệp hóa
dược và kinh tế du lịch. Quản lý, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ đa
dạng sinh học và hệ sinh thái. Chủ động ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu,
an ninh phi truyền thống.
Hai là, tạo bước đột phá trong đổi mới giáo dục và đào tạo, phát triển khoa học và
công nghệ; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là nguồn nhân lực lãnh
đạo, quản trị đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghiệp 4.0. Tăng cường xây dựng
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, văn hóa thực sự trở thành
sức mạnh nội sinh phát triển đất nước. Phải “làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ
đời sống xã hội…”. Xây dựng, phát triển con người Việt Nam toàn diện, là trung
tâm, mục tiêu, động lực của sự phát triển đất nước.
17

TIEU LUAN MOI download :



Ba là, kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn
lãnh thổ, chú trọng bảo vệ chủ quyền biển, đảo; bảo vệ nhân dân, bảo vệ Đảng, bảo
vệ chế độ. Giữ vững an ninh, an toàn trật tự xã hội cho phát triển đất nước. Chủ
động ứng phó với những vấn đề an ninh phi truyền thống. Quốc phòng, an
ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, xuyên xuốt cả thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, là nhiệm vụ sống còn của đất nước và dân tộc, trong đó mục tiêu,
nhiệm vụ bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn biển, đảo và giữ vững an
ninh chính trị là nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn hiện nay.
Bốn là, chủ động thực hiện các cam kết quốc tế, các hiệp định thương mại thế hệ
mới; xử lý tốt các mối quan hệ với các nước lớn, các nước láng giềng, khu vực. Chủ
động, tích cực hội nhập quốc tế vì sự phát triển bền vững của đất nước. Chúng ta nên
bắt đầu phát triển tư duy đối ngoại theo hướng định vị Việt Nam là “ quốc gia phát
triển” vào năm 2045.
Năm là, thực hành và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa; phát huy quyền làm chủ
của nhân dân gắn với kỷ cương, kỷ luật. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc; xây dựng, khơi dậy niềm tin, khát vọng, niềm tự hào dân tộc của người Việt
Nam. Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận tổ quốc và các
tổ chức chính trị - xã hội. Tạo đột phá trong phát huy các nguồn lực và sức sáng tạo
của nhân dân; khơi dậy niềm tin, khát vọng phát triển của mỗi người Việt Nam; phát
huy sức mạnh mềm của dân tộc cho phát triển. Giải quyết dứt điểm những vấn đề
bức xúc, kéo dài; ngăn chặn, đẩy lùi sự xuống cấp về đạo đức xã hội; phát triển xã
hội lành mạnh. Lấy con người Việt Nam làm trung tâm của mọi sự phát triển.
Sáu là, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, liêm chính,
hành động vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển đất nước trên tất cả các mặt lập
pháp, hành pháp, tư pháp và xây dựng đội ngũ. Xây dựng nền hành chính cơng khai,
minh bạch, liêm chính, từng bước xây dựng Chính phủ điện tử; quản trị thơng minh;
xây dựng cơ chế kiểm soát hiệu quả quyền lực.
Bảy, tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao sự lãnh đạo tồn
diện của Đảng; xây dựng hệ thống chính trị tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, đội ngũ cán
bộ, cơng chức liêm khiết, có phẩm chất đạo đức, năng lực, trình độ chun mơn

ngang tầm nhiệm vụ.
Đồng thời tiếp tục quán triệt và xử lý tốt 9 quan hệ lớn theo tinh thần Đại hội XII và
chủ động nhận thức, giải quyết tốt một số quan hệ phát sinh khác. Đó là quan hệ
giữa mục tiêu chiến lược và mục tiêu sách lược; quan hệ giữa phát huy nội lực và
phát huy ngoại lực; quan hệ giữa thực hành dân chủ và thực hiện kỷ cương, pháp
luật; quan hệ giữa dân tộc và quốc tế trong điều kiện mới.

Kết luận

18

TIEU LUAN MOI download :


Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển 2011), tiếp tục xác định những đặc trưng cơ bản của mơ hình xã hội
chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây
dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân
dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hố tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn diện;
các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp nhau
cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với
các nước trên thế giới”.
Chúng ta đủ tự tin để khẳng định rằng, những đặc trung về chủ nghĩa xã hội
như trên sẽ được hiện thực hóa ở Việt Nam. Hiện tại, hằng ngày, hằng giờ, trên từng
lĩnh vực cụ thể, những đặc trưng đó đang được hiện thực hoá: Thực hiện chiếc lược
phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2030, xây dựng, chỉnh đốn Đảng, sửa đổi
Hiến pháp 1992… là những bước đi trong lộ trình hiện thực hố những đặc trưng

của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Cương lĩnh xác định

Tài liệu tham khảo:
- C.Mác và Ph.Ăngghen: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1995, t.19, tr.33, 3536, 36.
- C. Mác và Ph.Ăngghen: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1997, t.37, tr.632,
641.
-Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2000, t.9, tr.314.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb.
Chính trị quốc gia, H, 2001, tr.23, 21
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI,
Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr.70, 67.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XII, Nxb.

Chính trị quốc gia - Sự thật, H, 2016, tr. 66.
19

TIEU LUAN MOI download :


/> /> /> />_contentpublisher_WAR_viettelcmsportlet_urlTitle=quan-diem-cua-ph.-ang-ghenve-tu-duy-ly-luan-va-y-nghia-doi-voi-viec-doi-moi-tu-duy-ve-phat-trien-kinh-tethi-truong-hien-dai-o-viet-nam-hien-nay

20

TIEU LUAN MOI download :



×