Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Không thể tách rời vấn đề nguồn gốc tiếng nói Việt Nam khỏi vấn đề nguồn gốc dân tộc được

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (646.74 KB, 9 trang )

Y KIEN TRAO DOL.

KHÔNG THẺ TÁCH RỜI

vàn đẻ nguồn goc tieng noi Viet-nam
khỏi vấn

đề nguồn

|

gốc dân

VƯƠNG

tộc được

HOÀNG TUYẾN

| TM
tác phẩm Các đân tộc thiển sở ở Việt-nam mới xuầt bàn
hồi tháng 6 năm rgso, trong phần tình hình và đặc điểm các
đân tộc, có xếp tiếng Việt Mường vào ngữ hệ
tập san Dán tộc nghiên cứu số 7 ân hành
hồi tháng

và trong
của

Viện


Nghiên

cứu

dân

vào

ngữ

hệ

Tạng.

tộc trung

ương

bài của đồng chí Lã Văn Lơ nói về
Việt-nam. Trong phẩn phân loại của
Hán

khơng

thể tách

rời khỏi

vần


Bác-kinh

có đăng

khái qt các dân tộc thiểu sd ở
tài liệu này có xếp tiêng Lạc-Việt

Vần để nguồn góc tiêng Việt-nam

những

Trung-qufÊ%

Hán Tạng;
7 năm 1959

là một vân

để nguồn gưc

để phức

dân

tạp, khơng

tộc Việt-nam,

cịn phải đặt nó vào khuôn khổ vân để nguồn gỗc dân tộc Việt-nam


nghiên cứu, Về vần để nguồn gộc dân tộc Việt-nam ở tập san
cứu lịch sử số ọ, ông Văn Tân đã đưa ra một giả thuyết, sau khi
cứu nhiều khia cạnh của vẫn để. Ở' bài nghiên cứu này, chúng
xét về mặt lịch sử tiểng Việt-nam để trên cơ sở đó mà giả đốn về
gpộc dân tộc Việt-nam.
ˆ
\





Wghiên
nghiên
tơi chỉ
nguồn

ss

I. NHUNG Y KIEN VE NGUON GOC TIENG VIET-NAM
Vân để

nguồn

gộc tiềng Việt-nam là một

vân

để hết sức


và khó khăn mà các nhà học giả Tây phương cũng như
nay dang tiép tục nghiên cứu trước khi đi đền một kết

kỳ

như

phức

Liên-xơ trước
luận rõ ràng.

tạp


ˆ

Nhìn lại trong những thời gian qua, chúng ta thây đã hơn một thề
nay tiéng Viét-nam đã được nhiều nhà nghiên cứu ngữ ngôn học
Logan,

(i)









Forbes,

Logan

1852,

Schmidt,

; Ethnology

page 658),

forbes:

Schmidt:

Przyluski:

of

Comparative

Przyluski

the

indopacific

Grammar


`

langues

du

vào

[siunde

of Further

Grundzuge einer Lautlehere

Les

xếp

monde.

34

der Mou

ngữ

hệ

(Journal


India.

Môn

of

India,

London,

Whiner Sprachen

lére édilian,

(¡). Nhưng

Archipelago

1882.
Vien.

1994, page 39d.

1905, page 5.


từ mây chục năm lại đây, một nhà Đông phương học trứ danh là Henri
Maspéro bác ý kiền của những nhà nghiên cứu trên đây cho rang tiéng

Việt-nam không thuộc

hệ

Thái.

với uy

Với

tin của

cách

về ngữ hệ Mơn

lập

ơng

luận

của

mà.phải



ta, nên

lập


luận này được

lại được

nêu

lại

1952 trong tap Những ngôn ngữ

của Henri ¡ Maspéro

Khmer

Maspéro

vẻ

coi

vững

thé giúi xuâầt bản
một

cách

xềp nó vào ngữ

vàng




nhất

là có giá trị

rõ ràng

lấn



và năm

thứ hai,

ý kiền

hơn,

May nam gan day, cac nha dân tộc học vàingữ ngồn học Xô-viết đã
bắt đầu quan tâm đân vân để. nguồn gốc tiêng Việt-nam. Trong tập san
Đồng phương học Xó-uiễt sồ
nam 1956, déng chi A. I. Blinov trong bai

«Về sự tồn

khơng


tại của

thuộc

khơng

về

họ

ngữ

tiên hành

ngữ

hệ

ngơn

Mơn

Nam

Khmer,

khảo sát kỹ càng

Á»


cho

nhưng

mà chủ u

rằng

tiềng

tiệc thay

là dựa

nói Việt-nam

đồng

chi

Blinov

vào ý kiền và

lập

đả động đền tiếng Việt và cho rằng hiện náy tiểng Việt thuộc về ngữ
Môn Khmer hay Hán Tạng còn là vân để cần được bàn luận thêm,

hệ


luan cha Henri Maspéro. Gan đây,
đồng chí N. D. Andreyev trong tap
chí Đồng phương học X6- -viét số 2 năm 1958 có viềt một bài cho rằng tiếng
Việt--iam thuộc vào ngữ tộc Asioanie. Trong tạp chí Dân tộc học X6- ~viet
sơ 3 năm 1958, đồng chí Arioutchiounov trong bài « Lịch sử Khmer» cũng

TIENG VIET:NAM

THUOC

VE NGU

HE NAO?

Nguoi chi tri y kién cho rang tiéng Viét-nain thudc vé ngit hé Han
là Henri: Maspéro.
Vào nam 1912, trong một bài đăng trên tạp chí của Trường Viễn đông
bác cổ (rI), Henri Maspéro nêu lên chủ trương tiềng Việt khơng. thuộc về

Thái

ngữ

Mơn

Khmer'

thổ ngữ Mơn


Khmer,

« Đgữ

hệ



phải

ngơn Tiền: Việt xuất

xếp

hiện

vào

ngữ

hệ

Thái.

do kết quả của sự

Maspéro

hỗn hợp


một thô ngữ Thái và có thể cả một

đã

viết:

của một

ngữ ngơn thứ

ba mà hiện nay chưa biềt được, và sau đó tiếng Việt-nam đã mượn một
số lớn những tr Han. Nhung cái ngôn ngữ mà ảnh hưởng chủ đạo của
nó đã cho tiếng Việt- nam hình thái ngày nay, theo ý tơi, chắc chan là
tiềng Thái, và tôi ‘cho rang tiéng Viét-nam phải được xếp vào ngữ hệ
Thai» (Le pré-annamite est né de la fusion d'un dialecte Mén. Khmer,
đun dialecte ‘Thai et peut-étre méme d’une troisigéme langue encore inconnue; et postérieurement, l’annamite a emprunteé une masse énorme de
mots chinois, Mais la langue dont linfluence dominante a donné 4: I'annamite sa forme moderne était certainement 4 mon avis une ‘langue Thai
et c’est, je pense, a la famille Thai
que fa langue annamite doit Être
rattachée) (2).
Ba mươi năm
lan thứ hai vào năm

sau, trong tập Những
ngữ ngôn thê giới xuat bản
1952, Maspéro lai trinh bay ý kiền một cách rõ ràng

hơn: +Tiêng Việt-nam được cầu tạo căn cứ trên một thổ ngữ Thái
và chịu ảnh hưởng rát, men của cái cơ sở (substrat) Môn Khmer » (3).
đây


chúng

ta cô

một

(1)

BEFEO

XU,

page

114.

(2)

BEFEO

XI,

page

11:

(3)

Les


langues

duomonde,

thê

tom

tat lai

kết luận trên nhu

A.

Maillet

et

85

Coben,

lap

luận

sau :

cia


Henri

Maspéro

|

ca

eo
nat,

Dưới

đã đưa rạ đẻ đi đến

1952,


1. Tiềng



khơng

Việt

tuy có nhiều

từ Mơn


Khmer

nhưng

khơng

đẩy du va tat cả đều xen lẫn vào một số lớn từ mà

là Thái.

có hệ

thơng

nguồn: gộc

.

2. Hệ thông thanh điệu là một bộ phận rât quan trọng trong việc
tạo của ngữ ngôn, Tiêng Việt-nan- cũng như tiềng Thái đều có thanh

cầu

điệu

trong

khi tiêng


Mơn

Khmer

thì khơng

có.

3. Tiêng Mơa Khmer có từ đầu (préfixe) trong khi tiềng Việt-nam
thì khơng có và tiềng Việt cũng như tiêểng Thái có nhiều chỗ giông nhau
như tiểng Việt dùng chữ con và cái đề chỉ các vật hoạt động hay không
hoạt

động

là sao

lại

quán

từ

Bay giờ chúng ta hãy
có đúng hay khơng.

Thái.

.


xét từng

điểm

để

xem

luận

cứ

của Maspéro

A. Về từ Việt nam, Maspéro đã viết: s Điểu không thể phủ
là chẳng những những từ Mơn Khmer đều rầt nhiéu trong

được
Việt



cịn

là- những

và trong tật cả
néu tir (răng,
Thái. Nêu rủ,
là Môn Khmer

Khmer nhưng
tmà gạo

nha

1a

Thai.

nhận

Tir

chim

1a Thai,

xét

từng điểm:
a) Có

thơng dụng...

Nhưng

khơng




loại

nào đẩy đủ,

đều xen lẫn vào một số lớn từ nguồn gốc Thái. Tỷ dụ
mưa, gió, nước là gỗồc Mơn Khmer thì từ móc, mùa là
sơng là Mơn Khmer, thì đổng, rẩấy, mỏ là Thái. Mắt, chân
nhưng lưng, bụng, ức, cẩm, bí, cơ là Thái. Từ áo là Mơn
nhíp là Thái. Trong hai từ lúa, gạo thì lúa là Mơn Khmer

1a ga, vt
Đẻ

từ

nhận
tiéng

1& Mon

ý kiền

phải

từ

hệt

chúng


Khmer,

v. v... »

Việt

này

của

Maspéro,

gỗc

Mơn

Khmer

nhưng

hai con vật

chúng

tơi

là khơng

thây




hệ

can

ni

trong

trình

thồng

bày



rời

mờ

của

rạc xen lẫn vào một sồ lớn từ Thái không ? Chúng tôi khẳng định rằng

không.

Trước


ta

hãy

hai tiềng gồc

Môn

vạch

trần

cái

lỗi

lập

luận

mập

Maspéro. Để dẫn chứng các từ chỉ bộ phận cơ thể con người thì Maspéro
chỉ

nêu

lên

Khmer


trong

lờ đi biết bao nhiêu tiếng gộc là Môn
mắt, mit, tay, tõ ràng là Môn Khmer:
¡

-

Việt

Mường
Mơn

Banar

Khmer
Những

bộ



Tóc

Thak
Sok

,


Sok

Sak.

phận

khdc

ca

Mắt

|

Mat
Mat

|

|

Mat

co thé nhw

sáu tiểng

Khmer

|


|
tréc

khác.

là Thái, cịn

Tỷ

Mit

Mus:
Muh

Muh

dụ

như

bỏ

: fóc,

Tay

Tai
Tai


Tai `

-

Tat

(d4u), tai, mdi,

miéng,

rang,

lưỡi, cổ, môi, cảm đã được nhà học giả Haudricburt chứng mỉnh là những

từ đó

tiéng

de

đều

Thai



(1).

liên


hệ đến

ngữ

ngơn 'Á An

. (1) Haudricourt: La place du Vietnamien
la Socisté de linguistique. Tome 49, page

86

dans
125.



les

khơng

langues

có liên

quan

gì đến

anstro-asiatiques.


Bulletin


4
s

Bây giờ ta hãy xét đền sồ đêm: Ta thầy rằng tat ch sé dém cia
Viét-nam đều là nguồn gộc Mơn Khmer, trừ con số 6 là gốc Tibétain

Việt

Một

Mường

Hai

Móch

Mén

Khmer

Santali

Bồn

Pei

Mua)


Ha; Bar

Pi

Mit

Bar

Pe

Mui -



Ba

Har-Hal

Pir, Bar

Pén

Beitj

Pan

-

Buén (Puén)

Pén

Trong ngữ ngôn Môn Khmer và Santali, hệ thằng sô đêm đểu xây dựng
trên SỐ 4 và 2o, vì vậy sự giơng nhau của bồn sồ đẩu có ý nghĩa quyết
định, Chúng ta khơng cịn nghỉ ngờ gì nữa mà thầy rằng tiéng Việt Mường
và Môn Khmer về số đềm là chung một nguồn gốc, còn tiếng Thái thì

thuộc

về một

Các

nguồn gỗồc hồn



đêm

tồn

Việt

Năm

Mường :

Tăm

Banar

Khmer
Mơn

Pơđăm
Prdm

Bảy

Tám

con

Topoh

To-ngam

Việt

Tibétain:

ra có nhiều từ chỉ những

- Môn Khmet:

người

|




Việt

cổ đại

(con ca)

Mường | Ka
Khmer
Banar

Ka `,
Ka

'Stieng
Môn
Cham

Ka

Chữ

Nước : tiềng

Khmer: Dák,

Qua
ý kiền

những


của

Chin

.

°

To-xin

Con

Kon

rời rạc, không
chiềm một địa
khi con người
mắt, mũi, tay,
thủy như: đất,

Lolo: cu.

để

con chim),

nói,

thì


Chim | Ngày

Kum
Ko

Th-ngay
Sem | Th-ngay

Kon

Chim
Cim | T-ngat
T-ngai

Việt



hay

đều

Trung-bộ

ngày

cho

cứ trên đây, chúng
rằng


những

từ



Khrner

gốc

Dat

Tém

Tat

Dey
Téh

Téh
Be-tam | Ti
Taneh

Hi-tém
nay:

Nác.

Udaka.


ta có thẻ sơ bộ
Mơn

nguồn

|

Dém

và đều xuất phát từ gộc Sanskrit:

chứng

Maspéro

cru;

sinh hoạt trong đời sồng hàng ngày,

dùng

Indonésien

Mơn,

Chín

Thảm
Tecam


Ngồi

khi

hẳn.

‘Bday

Con sd 6 1a géc Tibétain. Sdu,



khác

khác:

trong

Mường,

kết luận
tiềng

rằng

Việt




có hệ thơng là khơng đúng. Ngược lại, chúng ta thầy nó
vị rầt quan trọng trong đời sông của người Việt cỗ đại
dùng tiềng để đềm, để gọi các phẩn trong cơ thê như:
chân; đề chỉ những vật tiệp xúc trong cuộc sông nguyên
nước, ngày, đêm, con chim, con cá.

&7


dẫn

đại



lưng,

b) Bây giờ chúng ta hãy xét đên những từ Thai ma Maspéro di
ra làm chứng cứ như đã trích dẫn ở phần trên. Chúng tơi thầy rằng

bộ

phận

hoặc

những

chữ


là nguồn

Maspéro

đã

nêu

bụng, ức,

Thái

tnà

1s

tiềng

góc Mơn Khmer,
ra

cảm,

cơ,

nhíp,

Maspéro

dẫn


hoặc

ra đều

khơng

là nguồn góc

gộc Thái:

bị, gạo,

móc,

gà,

mùa,

vịt,

phải

tiếng

Hán

đồng,

là Thái


cỏ.
ray,

:

mo,

Từ Móc khơng phải là Thái mà là chữ Hán cổ: : Mộc XR
ie là sương mit.
Mita:

gdc

la

Sanskrit:

Đồng : gồc là tiếng

Mỏ : nghĩa

Masa.

Indonésien: Lađang,

là nguồn

thì Thái


tiềng Indonésien:
gọi là Maw. -

Lưng: tiéng
‘Bang: tiéng
là Dưn.

Mariyaw

Ức: thì gốc

là tiềng

Stieng:

Hán

Kan;

cơ:

cổ, cẩm

thì



và bí là cổ chân

thì


là gơc Thái : nhập,

thu

chữ

nhận

vào,

chứ

ràng

Ứk

là nguồn

không phải

là gộc

chữ

Bồ

Pa-đang.

tiéng Thai


Shan

Pun,

khi

trong

cũng

là gốc từ.

& Dién-dién

tiêng Thái

lại

fii .

Thai:

Cô : Môn : Ké; Thai: Gé.
Hải

ma

Indonésien: Labang.
Khmer: Bun; Samré:


Cam: Banar,

Ben-đang,

là: Bỏ, nhưng

Gan.

gơc

Thái.

Mơn

Cịn

Khmer

chữ

và tiêng

nhíp

Dioi



tiêng


(nghĩa

là gnỉp.

Thái

là khâu)

Cịn chữ tia ma Maspéro cho là Thái thì cũng khơng đúng. Chữ
Thái chỉ có một từ chung để chỉ cả lúa lẫn gạo là khaw. Tỷ dự gánh
lúa: hap khaw, gạo nếp: khaw nuo. Trong khi đó các tiéng Nam phương
déu có hai từ để chỉ trạng thái lúa và Ba0


Việt

Ì—

Mường
Mơn

Lúa

'

Khmer

Gạo


Lo
Sro

-

Cao
Sriu -

Sra

Nka

Cịn hai từ gà và 1t là chữ Hán cỗ chứ không phải là Thái. Gở : Thái
là cáy thì chữ Hán cỗ là kề mà tiềng Quảng-đông ngày nay vẫn gọi là

cáy

(cháo

hầu

Qua phần nay ta thay rang tat cd từ Thái tà Maspéro đưa ra thì
hét là gịc Mơn Khmer hay Hán cơ, chì có hai từ nhíp và bí là Thái

MB mà ra.

thì

trong




vịt: cáy

tiéng

ạp

Viét-nam

chúc).

khơng

Vịt:

bao

Thái #14

giờ

dùng

lập luận thir nhat cla Maspéro là hồn tồn
Bay giờ ta có thể kết luận như sau:
thổ

thi


đến

cả.

khơng

. Ý của Maspéro cho rằng tiềng Việt là do
âm Môn Khmer và thổ âm Thái và tiéng Thai

đã đẻ ra tiễng Việt là hốn tồn khơng
niệm

pit

một ngữ

ngơn

sinh

ra

là do

sự

đúng. Thứ
hỗn

hợp


do



chi

Han

chứng

có căn cứ...

cé pi

to

rang

một sự hỗn hợp của
chiém địa vị chủ đạo

nhật ta thầy rằng quan

của

các

ngữ


ngơn

khác

thì quan
` niệm này rất sai lạc và khơng thể có được. Ta thảy rằng tiéng
Viét-nam tao thành do : cơ sử (substrat) Môn Khmer mà phần thượng tầng

(saperstrat) là tiếng Hán uà phần thêm ào (adstrat) thì chẳng những
tiếng Thải mà: có thể có nhiều tiềng khác nữa.

88




2. Qua

phản

trên,

chúng

ta thầy

rằng

tiêng


Thái

cũng

như

tiếng

Việt cá một số từ giỗng nhau nhưng đi sâu vào nguồn géc ta thay nó
xt pĐẪt từ tiêng Hán cơ. Điều đó chẳng lạ gi vi cA hai dan toc Thai

và Việt ngay từ buôi đầu công nguyên đã trải qua hàng nghìn năm chịu,
gián tiếp hoặc trực tiếp, sự thông trị của phong kiên Trung-hoa, tat nhiên




ảnh

cổ, Nhưng

luận

lầm

như

lẫn

hưởng


lớn

lao

Mĩaspéro



tiếng

lớn.

B. Bây
của Maspéro
Maspéro cho
lắn đầu tiên
loại ngữ

đền

ngơn

ngữ

của người

tiềng

Thái


Thái

hay

người

Việt

một

điều

khơng nên thầy những từ Thái và Việt giỗng nhạu mà để lập

hệ

Việt

do



ra

giờ chúng ta hãy xét đến ý kiên thứ hai
về phản thanh điệu của tiếng Việt-nam,
là có vẻ vững vàng nhất trong lập luận
Maspéro tun bộ rắng tiếng Việt-nam
Thái


thì Maspéro

cũng

dựa

vào

luận



thanh

thì

lại là

trong phần lập luận
Đây là ý kiên mà
của ông ta. Chỉnh
phải được xếp vào

cứ

này:

dù ring


tiéng

"Việt có nhiều từ gỗc là Môn Khmer đi chăng nữa cũng không thể nào
cắt nghĩa được tại sao tiểêng Việt cững như tiêng Thái có thanh điệu mà
trong khi đó tiếng Miơn
ta lý luận sau đây :

Khmer

lại không

điệu.

Maspéro

đã

đưa

i. Hệ thông thanh điệu là một bộ phận khăng khít trong những đặc
điểm của ngữ ngơn cùng một họ vì nó có liên quan qua lại vẻ thanh

điệu

giữa

các

ngơn


ngữ

cùng

một

họ,

và giữa các thổ ngữ Trung-hoa,
2.

Một

ngơn

ngữ

khơng



tỷ dụ

thanh

điệu

như

khi


giữa



các thổ

vay

của một ngơn ngữ có thanh điệu, nó khơng vay mượn
dụ những sự vay mượn Thái trong tiếng Khmer,
3. Quan hệ giữa thanh
Thái đều giỗng nhau... (1).

điệu

và âm

mượn

thanh

ngữ

Thái

những

điệu.


từ

Tỷ

tiềt thì trong tiềng Việt và tiềng

Quan điểm về thanh điệu này của Maspéro đã bị các nhà nghiên cứu
ngữ ngơn học nghĩ: vân. Chính J. Przyluskt đã nhận xétý ý kiền này như
. sau : « Một khi người ta vẫn chưa biết đên những hồn cảnh trong đó
những ngữ ngơn nhật định mât hay giữ được một hệ thơng thanh điệu,
thì điều cẩu phải thận trọng mà đừng vội căn cứ vào cái sự kiện cịn

giữ được

hay bỏ mát một hệ thơng thanh điệu để xác định sự liên hệ về

dòng họ của các ngữ ngôn + (Aussi. longtemps qu ‘onignorera les circonstances oti une langue donnée perd ou conserve un systéme de tons, il sera
prudent de ne pas faire état de la disparition ou du maintien d’un tel

systéme, lorsqu’on voudra déterminer

la généralogie des langues)

Ý kiền về quá trình hình thành của quá trình thanh điệu

trình bày trong một bài nghiên cứu
- khi khảo sát và phân tích từ vị các

Dao


đã đi đền

a) Thời

của cơng

đã được

rầt có giá trị của Haudricourt Sau
từ Thái, Khmer, Hán cổ và Miêu

một kết luận:

kỳ đầu

(2).

nguyên,

ngữ

ngôn

Việt

cổ,

Hán

cũng


như

Thái đều không cỏ thanh điệu.
b) Thanh điệu của tiềng Việt hiện đại là do quá trình phát triển.
mà những âm đẩu va 4m cudi biển đi ở trong tiêng tiển Việt (proto-.
(1)

BEFEO

(2)

Przyluski,

XII,

pages

Les

114-116.

langues

du

monde,

feére


389

édition.

Page

395.


vietnamien) mà chuyển hóa
một kết luận như sau :

Cơng sguyện |
Khơng
pa

. 3 thanh

điệu

bah

trường

những

điệu
ba

la



bả
1a

.

pa

ba

_




đã




pa
la

tiếng

Mường

khơng


,

ba
la

xt sắc của Haudricourt

giải quyết hồn bị triệt để về vẫn
như

Hiện may



ba
la

hợp

đã đi đền

pa


hl4

nghiên cứu

!


la


pả
la



baX ba
la la,

trình

và Haudricourt

6 thanh

ba

,

paX pa ?
slaX hia 2

Công

điệu,

"


bla
ba
la `

bla

las lah

là cách

điệu

pa

sla, bla
ba ‘la
pas pah
slas, klah
bas

thanh

Thừ kỳ VI | Thề kỷ XH



thanh

thành


tuy chưa

để thanh



thê xem

điệu vì có những

có thanh

điệu

chuyển

sang

từ Việt có thanh điệu. Tuy nhiên cơng'trình nghiên cứu này là một bằng

cứ chắc chắn để ›kết luận rằng : sự xuầt hiện của các thanh điệu ở trong
tiềng Việt và trong tiếng Mlường không phải là một căn cứ để xếp nó
vào

trong

nhóm

Thái


(I).

C. Bây giờ chúng ta để cap dén ý kiên cuỗi cùng trong phẩn lập
luận của Maspéro: tiêng
' Việt khơng có tử đầu mà trong các tiềng Mơn
Khmer lại có và trong tiểng Việt sao lại cách dùng để chỉ vật hoạt động
và khơng

hoạt

động

bằng

chữ

con

và cái,

cũng

như

để chì một hành

lập

luận


động

sắp hồn thành bằng chữ đương (chữ này Maspéro cho là mượn của tiềng
Hán), việc đã hoàn thành bằng chữ rồi, đã. Maspéro cho rằng những hình
thức này là do ảnh hưởng Thái mà tiêng Việt-nam tiềp thu,
Chúng

ta.hãy

đi từng

điểm

để

nhận

xét

của Maspéro.

I. Tiéng Việt-nam có từ đầu khơng? Chúng -tơi trả lời rằng có,
Chúng ta hãy nghiên cứu tiểng Việt-nam hồi thể kỷ thứ XVI và tiÊng

Mường

của
lại

ngày nay thì thầy cịa những


Alexandre

trên

Cũng

như

so

từ

de Rhodes


nghiên

từ

cứu

viét về tiêng

đầu : b, t, m:

tiềng

Mường


là tiền, chữ giăng thì tiềng Mường

đây

Đây là những

L1 Một
tiểng

ngày

uởi

bằng

có từ đầu, Một
bằng

cứ dân

Việt-nam: tiếng

cả

điều

tộc

Việt-nam


cứ

đáng
học

ta thường

phải

đề

chú

biời,

ta thây

là z lăng.

chứng

ý

là tiểng

chứng

nình quả

ngày


nay

nói cà



ngd va dấu huyền lấn lộn làm một,

Việt về thể kỷ

như

cụ thể đề

nạn chỉ có 4 thanh điệu : đấu sắc
người

dầu vẻt rầt rõ ràng, Trong từ điển



sảu

thanh

huyền

đi,


90



lẫn

chữ

thứ

miời,

miớn,

rrăn

minh

Việt-nam

là tiềng Việt
trải

chuyền

điệu

những




Cũng

nh

lâm

cịn

thộn,

thì tiềng

trình

có cuống.

XVI

qua

hóa

Mường

một

thanh

ghi


v.v...

trước

điệu

thời
của

Nghệ-an,

Nghi-lộc

trưởng

hợp dấu

một. Đề phản

biệt chit ca

|


kỳ biển hóa đã theo một guy luật rút ngắn

rắt mạnh.

rầt


tiếng

ngắn

từ

khó

khơng

này

nhận.

phải

làm

cho các

Chúng

là đơn

ta

âm

từ đầu




khẳng

và cuồi biển

định

rằng

là đa âm,

nhưng

Khuynh

đi và ngày

chính

nay

Việt-nam

hướng trút.
chúng

nguyên


vì trải qua

ta

thủy

một

thời

kỳ phát triên theo quy luật dồn ép rút ngắn tnà biền hóa đi, Nghiên cứu
tiềng Banar so sánh với tiếng Việt, chúng ta có thể tìm được những bằng
cứ về quá

trình

rút ngắn

này:

tỷ dụ

ngam. Rõ vàng là cùng một nguồn

tiếng Việt đám,

gôc như

tiềng Banar


tiéng Banar

con

là (0ơ-

git được

trạng thái nguyên thủy hơn tiểng Việt. So sánh tiéng Banar va tiéng Việt,
ching ta thay sy chuyển hóa giữa tiêng Việt và tiềng Banar như thành một
quy luật. Một sô lớn từ Banar bỏ bớt đi phần: a, ad, an, bơ, ch, go, ha,
po, to, xo thi thành tiêng Việt. Tỷ dụ chữ họng thì Banar là halong; chữ Việt :sot, Banar: sorol; Việt : tám, Banar : tơ-ngam ; Việt : chạm, Banar : acham v.v...

Bây giờ chúng ta hãy tim trong tiếng Việt
đảu cịn lại. Chúng tơi xin đưa ra đây rnột sô
sau: Tỷ dụ từ ép là dôn lại, thu lại, nó là từ
nép, lép, bẹp, kẹp, xẹp, hẹp, ghép, khép là do từ

vào.

Ta

thầy rõ

những

hiện đại dâu vẻt của từ ý kiên nghiên cứu như
căn mà những từ. như :
căn ép cộng thêm từ đầu


Âm tiết b, k, 1, s, kh, gh, là những

hình

thức

cầu tạo của từ đầu và từ ý nghĩa ép lại tạo ta những trạng thái khác nhau

để chỉ sự dồn lại. Nêu ta so sánh với từ Santali‡ /etep mà

ép bỏ vỏ ra
Santali hẳn
chứng minh
dụ khác: từ

từ mà

nghĩa

nó nghĩa



thì ta có thể cho rằng từ căn ép của Việt-nam so với tir letep
có một nguồn gỏc xa xơi nào đó và nêu thể thì nó lại càng
các biên dạng của từ đầu trong tiềng Việt là đúng. Một tỷ
ứp nghĩa là bọc lây và chụp, từ đầu là ch làm thành một
cũng

là bọc


chặt thì rõ ràng chặt, ngất

lầy nhưng

có khác

hơn.

do cất mà ra chỉ các

Trong

các

từ

cải, ngắt,

trạng thái của nghĩa cắt.

2. Bay giờ chúng ta hãy xét đên các quán từ chỉ vật hoạt động và không

hoạt động: con, cái mà Maspéro cho rằng sao lại quán từ của tiếng Thái,
- Về: ý kiền này của Maspéro, đổng chí Andreyev đã cho là khơng
đúng. Theo Andreyev thi: trong thực tẻ thì tiếng Thái khơng có quán
từ, từ (ưo mà Maspéro cho là quán từ thì bản thân nó là một tir chi để
đềm đổi với các sinh vật và nó làm thành hậu từ (postposition) khác
với quán từ con của Việt-nam, Thứ nhất con không dùng có sồ từ vì vậy
khơng thể xem con là một từ để đêm, thự hai nó là tiến từ (prépositif)

của

một

đanh

từ

đã

được

quy

định. Cịn

chỉ hành động đang phát triển như

chữ

về

đang

những

hoặc

dâu hiệu


đương

Việt-nam

thì Maspéro

cho là tiềng Việt vay mượn của tiếng Hán. Chúng tôi không đồng ý
với lập luận của Maspéro, ching tdi thây ý kiền của Andreyev có vẻ
xác đáng hơn: chữ đương trong tiềng Hán Aghia là: là, trở nên, thành
cái

gì.

Nều



chỉ

thể (verbe

sau nó là động

sau



từ thì

modal)




danh

nó chỉ

chứ

từ

khơng

thì

nghĩa

của

là một cái bán


nghĩa



là một

triên, Nều để biểu thị ý này thì trong tiếng Hán
khâu hiệu khác hẳn. Andreyev cho rằng từ đang


Indonésien. ở trong tiềng Indonésien,
"biểu hiện bằng dầu hiệu se đang. Cũng

là:

cản

phải;

nều

động

đang

phát

hệ từ hay một động
hành

từ

người ta dùng một
là nguồn gỏc tiểng

một hành động đang phát triển
như dầu hiệu dé chi thi tương

lai sé cua Viét-nam va sem cua Khmer là giông nhau. Dầu hiệu để chỉ thì

đã qua của Việt-nam rổi Maspéro gin nd vao tiéng Thai lev (Maspéro
phiên âm là ieo) về phát âm thì tuy có giồng nhau nhưng theo Andreyev
cần phải đem so sánh đổi chiều nó với dâu hiệu trong tiềng Khmer chỉ

91


-thì

q

khứ

đã

hưàn

thành

bằng:

hoi.

Andreyev

két

luận




hệ

thơng

dâu hiệu của động từ Việt-nạm về vật chat và chức năng là hồn tần
là Asioanie. Theo ý chúng tơi thì ý kiên này xác đáng hơn là lập luận của
Maspéro gắn nó vào tiéng Thai.
Tuy nhiên ở đây chúng tơi cũng thay trong y kién của Andreyev có

chỗ cần phải xét lại: đó
thỗng qn từ Việt-nam

này. Andreyev
xương

là u tơ Miêu Dao trong tiéng Viét ciing. nhu hé
là Miêu Dao. Chúng tơi khơng đồng ý với ý kiên

có cho rằng trong từ Việt có u

đề dẫn

chứng.

Nhưng

chữ

xương


tơ Miêu

Việt-nam

Dao

theo

chúng

và đưa từ:
tơi





_gỗc Mơn Khmer, Việt: xương, ĐBanar: kơxeng, Khmer: cha-eng, Santali:
jaang. Nhưng có điểu là rong cộng
Miêu Dao cũng có phản nào giỗng:
Khai-dao:

Dao

thuẫn

Cũng

sang,


như

thì chúng

với

Khai-miêu :

Andreyev

cho

rang

tơi cho rằng khơng

mình trong khi

cát là theo lơi Thái, thì đồng

quan

ttr

đúng.

Thứ

Viét-nain


nhất

con,

là đồng

cdi

chí

la

bác bỏ ý kiền của Maspẻro cho quán
chỉ lại chứng

minh nó

Miéu

tự mâu

từ con,

l3 Miêu Dao. Nhưng

Miêu Dao hay Thái đều thuộc về ngữ hệ Hán Tạng cả. Thứ hai, trong từ

Việt có một số từ giơng Miêu Dao mà đồng chi cho rang Miéu Dao có
trong tiềng Việt và đặt nó vào phần thêm vào (adstrat).. Chúng tôi cho

rằng không phải như thê. Giữa tiếng Việt cũng như Thái và Miêu Dao
có một sở từ giơng nhau
như. từ xương đã chứng

nhưng xét cho cùng
mỉnh ở trên, ở đây

là nguồn góc Mơn Khmer,
vân để đặt ra khơng phải

là tiềng Miêu Dao có trong tiếng Việt mà phải đặt vần để là tiềng Thái
cũng như Miêu Dao thuộc ngữ hệ Hán Tạng đã thu hút một số từ Môn
Khmer trong trường hợp nào. Theo chúng tôi đặt vần để như thê đúng bơn.

_

KẾT

LUẬN

Nguồn gốc tiềng Việt-nam tuy rât phức tạp và khó khăn nhưng với
những ý kiền trình bày trên đây, chúng ta thay rang tiéng Việt-nam phải
thuộc về ngữ hệ Môn Khmer. Hơn 3o năm trước đây, khi ý kiển của

Maspéro gan tiếng Việt vào ngữ hệ Thái thì nhà học giả Przyluski đã nói:
« Tiêng Việt-nam nhất định phải thuộc về ngữ hệ Môn Khmer, thời gian

sẽ chứng
cho rằng
được


mỉnh điều đó+ (r). Ngày nay, mây chục năm đã qua, ý kiền
tiếng Việt-nam thuộc về ngữ hệ Môn Khmer càng ngày càng

chứng

thực



ràng

hơn.

Bài

«Bàn

gép

vào cơng

trình

tìm

tịi

nguồn gộc dân tộc Việt-nam» của ông Ván Tân ở tập san Nghiên cứu
lịch sử số o là một bằng cớ. Có điểu là nguồn gồc tiềng Việt-nam rầt phức


tạp khó khăn, mong rằng rồi đây các nhà ngữ ngôn học: Việt-nam sẽ ngày
càng làm sáng tỏ. vân để này.
Hơn nữa, vần để nguồn gồc tiếng Việt
cịn đi đơi với vân để nguồn goc dan tộc Việt-nam, Ngày nay, nêu những
thuyét cho rang nguồn goc người “Việt-nam từ sông Dương- tử hay Giang~-

nam di cư đền, nguồn góc người Việt-nam là người Lạc-Việt đã bị hồi
nghỉ và nều các nhà cô sử Việt-nam càng ngày càng chứng mỉnh rằng nền
văn minh cỗ đại Việt-nam: văn hóa Đơng-sơn, văn mình trơng đồng ở
Viét-nam

cd đại

là của

thời gian

sẽ chứng

người

bản

địa

thuộc

gidng


Indonésien

thì

no

lại, -

_ thêm: một bảng cá đề chứng minh thêm tiềng Việt-nam thuộc.về ngữ hệ
Môn Khmer. Ở đây cô sử trợ lực cho ngữ ngôn. Chúng tôi chắc rằng

(1)

Przuluski.

minh

L'annamite.

những

Les

điểm này là đúng.
Hà-nội, ngày 10

langues

>


du

92

monde.

/ére

tháng

édition.

r1

năm 1950



×