Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Tiến tới xác lập đường hướng dạy học tiếng Nga với nội dung dựa trên năng lực giao thoa văn hóa trong xu thế đối thoại văn hoá giữa các dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.2 KB, 6 trang )

v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI

TIẾN TỚI XÁC LẬP ĐƯỜNG HƯỚNG
DẠY-HỌC TIẾNG NGA VỚI NỘI DUNG
DỰA TRÊN NĂNG LỰC GIAO THOA
VĂN HÓA TRONG XU THẾ ĐỐI THOẠI
VĂN HOÁ GIỮA CÁC DÂN TỘC
PGS.TS. DƯƠNG QUỐC CƯỜNG1
1
Đại học Ngoại ngữ Đà Nẵng ✉
Ngày nhận: 05/10/2016; Ngày hoàn thiện: 08/11/2016; Ngày duyệt đăng: 15/11/2016
Phản biện khoa học: TS. VŨ QUỐC THÁI

TÓM TẮT
Trong xu thế đối thoại văn hoá giữa các dân tộc ngày nay, cách tiếp cận ngôn ngữ từ góc độ văn
hoá làm cho bức tranh nghiên cứu ngôn ngữ học trở nên đa dạng hơn bao giờ hết. Giá trị văn hóa
như là nội dung ý nghĩa “ẩn” làm cơ sở cho sự hoạt động của ngôn ngữ và những khác biệt về văn
hóa trong hệ thống giá trị có ảnh hưởng tới quá trình giao tiếp bằng ngôn ngữ. Yếu tố văn hóa
trong quá trình giao tiếp bằng ngôn ngữ và giảng dạy ngôn ngữ cần phải bao hàm nội dung giá trị
văn hóa. Càng có nhiều khác biệt giao thoa văn hoá và ngôn ngữ loại hình bao nhiêu thì sinh viên
lại càng phải đương đầu với nhiều khó khăn bấy nhiêu. Như vậy, đối với người sử dụng ngoại ngữ,
bất kỳ một cuộc hội thoại với người bản ngữ của một ngôn ngữ đích nào đều là hình thức đương
đầu về giao thoa văn hoá. Bài viết tập trung trình bày giao thoa văn hoá và những tác động của
giao thoa văn hoá đối với dạy-học tiếng Nga trong xu thế đối thoại văn hoá giữa các dân tộc.
Từ khóa: dạy và học, dân tộc, diễn đạt, giao tiếp, giao thoa, ngôn ngữ, văn hoá.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngày nay, hội nhập quốc tế đang là một xu thế lớn
trên thế giới, bước vào thiên niên kỷ thứ ba, Việt Nam
cũng như nhiều nước ngày càng quan tâm đến văn
hoá và đối thoại văn hoá giữa các dân tộc, dẫn tới việc
ra đời một chuyên ngành mới có tính độc lập, đó là


ngành ngôn ngữ văn hoá học, nằm tại điểm giao nhau
của ngôn ngữ và văn hoá. Đặc biệt, gần đây nhất các

56

KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ

Số 4 - 11/2016

khái niệm giao thoa văn hoá, đối thoại văn hoá giữa
các dân tộc làm cho bức tranh nghiên cứu ngôn ngữ
học trở nên đa dạng hơn bao giờ hết, mặt khác lại có
không ít những đường biên giới không rõ ràng trong
cách tiếp cận ngôn ngữ từ góc độ văn hoá. Bởi thế,
chúng ta “buộc phải nhìn lại một cách có hệ thống toàn
bộ các xu hướng nghiên cứu ngôn ngữ có đụng chạm
đến văn hoá như một “hiện tượng luận” trong bối cảnh
chung của ngôn ngữ học hiên đại” (Trương Hoàng Lê,


NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v

2009, tr.19). Nội dung bài viết của chúng tôi đề cập
đến vấn đề giao thoa văn hoá và tác động của giao
thoa văn hoá với dạy-học tiếng Nga trong xu thế đối
thoại văn hoá giữa các dân tộc.
2. NỘI DUNG
2.1. Văn hoá và việc sử dụng ngôn ngữ thông qua hệ
thống giá trị văn hoá
Có rất nhiều định nghĩa về văn hóa, bởi vì văn hoá là

khái niệm có nội hàm rộng với nhiều cách hiểu khác
nhau. GS.Trần Ngọc Thêm cho rằng, “Văn hoá là hệ
thống hữu cơ những giá trị vật chất và tinh thần, do con
người sáng tạo ra và tích luỹ qua quá trình hoạt động
thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi
trường tự nhiên và xã hội” (Nguyễn Lân Trung, 2000,
tr.10). Còn ngôn ngữ lại chính là sản phẩm văn hoá
của nhân loại giống như tất cả những sản phẩm văn
hoá khác, nói cho chính xác, ngôn ngữ là một hiện
tượng văn hoá, nằm trong văn hoá. Văn hoá có ngoại
diên lớn, trong khi đó ngôn ngữ có ngoại diên hẹp
hơn, nhưng có những đặc tính nội hàm rộng lớn hơn.
Mối quan hệ giữa văn hoá và ngôn ngữ là mối quan
hệ giao thoa. Giữa chúng có những chỗ khác nhau,
giao nhau và giống nhau.
Như vậy, văn hoá là phạm trù rất đa diện, nhân tố
văn hoá bao trùm lên ngôn ngữ và các sự kiện ngôn
ngữ ở tất cả các bình diện và các cấp độ đơn vị ngôn
ngữ, ở tổ chức cấu trúc nội ngôn ngữ và ở những hoạt
động sử dụng ngôn ngữ như một công cụ giao tiếp
của con người – tổ chức cấu trúc ngoại ngôn ngữ. Tuy
nhiên, cũng có thể thấy rằng, không phải tất cả các
khía cạnh trên đều có thể tác động tới quá trình giao
tiếp bằng ngôn ngữ. Các ý niệm, nhất là các giá trị văn
hóa, có tác động sâu sắc đến diện mạo của ngôn ngữ
với tư cách là một phương tiện giao tiếp.
Còn trong xu thế đối thoại văn hoá giữa các dân tộc,
xu thế hội nhập quốc tế giao lưu văn hoá ngày nay
càng diễn ra mau lẹ cả bề rộng lẫn chiều sâu. Giao
thoa văn hoá là sự áp đặt, ảnh hưởng của hệ thống

thói quen, cách hành xử thuộc mô hình văn hoá này
đối với một hệ thống thói quen, cách hành xử của
một mô hình văn hoá khác, ở những người tham gia
giao tiếp – những thành viên của các hệ thống văn
hoá. Do vậy đã dẫn đến việc bóp méo hoặc hiểu sai
cái mô hình văn hoá mà mình chưa rõ. Từ đó xuất hiện
những hành xử văn hoá sai lạc trong một hệ thống

văn hoá nhất định. Theo nghĩa hẹp của thuật ngữ,
thì giao thoa văn hoá luôn bao gồm 2 dạng: những
cách hành xử sai lạc trong giao tiếp phi ngôn ngữ và
những cách hành xử sai lạc trong giao tiếp có tính
ngôn ngữ. Ở dạng thứ hai, dạng sau, người ta thường
đề cập đến các hiện tượng giao thoa do việc quen
áp đặt, sử dụng những quy tắc nói năng (như trong
lời chào hỏi, trong cách mở đầu hoặc kết thúc câu
chuyện, trong hệ thống các cách sử dụng từ xưng
hô...) của một ngôn ngữ (tiếng mẹ đẻ) sang một ngôn
ngữ khác (ngoại ngữ) (Nguyễn Văn Chiến, 2000, tr.38).
Quan niệm của nhiều nhà ngôn ngữ là văn hóa có
một vị trí rất quan trọng và phong phú, song vẫn cần
làm sáng tỏ thêm vai trò của yếu tố văn hóa trong quá
trình này. Ngôn ngữ vừa là một bộ phận của văn hóa
và đồng thời là sự phản ánh của một nền văn hóa. M.
Clyne đã nhận xét một cách xác đáng rằng: Ngôn ngữ
là sự thể hiện sâu sắc nhất một nền văn hóa, hệ thống giá
trị bao gồm cả những giá trị thừa hưởng từ cộng đồng,
và có một vai trò to lớn tác động đến cách thức sử dụng
không chỉ ngôn ngữ thứ nhất mà cả những ngôn ngữ
được tiếp thu sau đó (Phạm Thị Anh Nga, 2009, tr. 33-35).

2.2. Tác động của giao thoa văn hoá với dạy-học
tiếng Nga
Khi nói rằng, người dạy và người học cần phải có ý
thức về văn hoá hay các khác biệt về văn hóa, người ta
thường chú trọng đến mặt kiến thức hơn là hệ thống
các giá trị văn hóa… Có thể thấy rằng, các giá trị văn
hóa thường hay bị bỏ qua. Tuy nhiên, cũng cần phải
nhấn mạnh điểm quan trọng là khi dạy cho người học
một hệ thống giá trị của ngôn ngữ đích thì mục đích
không phải là họ phải chấp nhận hệ thống mới và
từ bỏ hệ thống giá trị của mình. Điều cốt yếu là giúp
người học hiểu rằng, người bản ngữ có thể có một
hệ thống giá trị khác và cần phải tôn trọng hệ thống
mới đó. Dĩ nhiên, khi giao tiếp trong ngôn ngữ với tư
cách là một ngoại ngữ hay ngôn ngữ thứ hai, người
học cần phải “chuyển hệ” để có thể thích ứng được với
hoàn cảnh mới. Theo ý kiến của một số nhà nghiên
cứu khác, chỉ khi giao tiếp trong hoàn cảnh một ngôn
ngữ quốc tế (như tiếng Anh chẳng hạn), thì hệ thống
giá trị mới có một vai trò nhỏ đi.
Tuy kiến thức văn hóa là một nội dung thường được
đưa vào chương trình dạy tiếng, song chính các giá trị
văn hoá mới có vai trò dẫn dắt hành động giao tiếp.
Chẳng hạn như, người Việt Nam thường coi trọng
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ

Số 4 - 11/2016

57



v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI

tính “hòa hợp” và giữ “thể diện” của người giao tiếp.
Cho nên, họ thường không thích tham gia vào các
tình huống phải giải quyết xung đột, bởi lẽ như vậy là
thể hiện sự không tôn trọng đối với người cùng tham
gia giao tiếp. Và điều này đã được thể hiện qua một số
cách diễn đạt được gọi là “gián tiếp’’.
Theo J.B. Grize (tr.61-68) thì có 5 yếu tố chính yếu
đảm bảo cho sự vận hành của quá trình giao tiếp
ngôn ngữ: tính đối thoại, hoàn cảnh giao tiếp, quá
trình tái hiện, kiến thức văn hoá định sẵn, quá trình
tạo dựng thực tại khách quan. J.B.Grize cho rằng, quá
trình giao tiếp là quá trình tương tác không ngừng
giữa hai đối tác giao tiếp, là quá trình nhận thức và
nhận thức lại về chính mình, về đối tác, nội dung và
hình thức văn bản giao tiếp. Đặc biệt trong quá trình
đó, có sự tương tác giữa hai khối văn hóa định sẵn
khác nhau của hai đối tác (Nguyễn Hòa, 2000, tr. 8794). Trong thực tế giao tiếp tiếng Nga, ta thấy có một
độ lệch văn hóa đáng kể giữa một đối tác xem như là
người bản ngữ, ở đây muốn chỉ người sử dụng ngôn
ngữ giao tiếp như là tiếng mẹ đẻ hoặc là ngôn ngữ
thứ hai và đối tác sử dụng ngôn ngữ giao tiếp như
là ngoại ngữ. Trường hợp này, việc hai đối tác cùng
thỏa thuận để đạt được sự chia sẻ một khối kiến
thức văn hóa chung định sẵn tối thiểu không phải
là đơn giản. Khối kiến thức văn hóa chung tối thiểu
này không những là cùng có kiến thức hiểu biết nhất
định về các lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã

hội-nhân văn, cùng chia sẻ kiến thức hiểu biết những
tập tục, tập quán tư duy và sinh hoạt của cộng đồng
thuộc hai nền văn hóa khác nhau để bảo đảm việc
nhận thông tin và xử lý thông tin, tránh những hiểu
lầm, hay sốc văn hóa trong khi giao tiếp.
Sinh viên Việt Nam học tiếng Nga thích giao tiếp
nhưng lại rụt rè: khi giao tiếp trong cộng đồng những
người quen luôn vui vẻ, xởi lởi, nhưng trước giảng
viên người Nga thì rụt rè, e ngại. Chính vì vậy, trong
giờ học nói tiếng Nga sinh viên Việt Nam phần lớn
là ngồi im, thụ động. Họ chỉ trả lời khi được giảng
viên gọi đích danh. Thêm vào đó, do tiếng Nga thuộc
ngôn ngữ biến hình với 6 cách biến đổi phức tạp, chặt
chẽ, hoàn toàn khác vói tiếng mẹ đẻ – ngôn ngữ đơn
lập, nên sinh viên rất dễ nói sai. Điều đó khiến sinh
viên càng sợ nói. Hơn nữa sinh viên hay pha trộn giữa
cách diễn đạt theo văn hóa giao tiếp bằng tiếng Việt
và cách diễn đạt theo văn hóa giao tiếp bằng tiếng
Nga đang học, do sinh viên lấy quy chuẩn từ các quy
ước hay quy định của các thể loại văn bản tiếng Việt

58

KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ

Số 4 - 11/2016

thay thế hoàn toàn hay một phần các quy ước hay
quy định của các thể loại văn bản của tiếng Nga đang
học. Đó chính là hiện tượng giao thoa văn hoá giao

tiếp ngôn ngữ.
Trong các lớp học tiếng Nga, những nguyên tắc giao
văn hoá có những thể hiện sau:
 Mục tiêu dạy học là rèn luyện cho người học cả năng
lực ngôn ngữ, năng lực văn hoá và năng lực giao văn
hoá. Học tiếng Nga cũng là tiếp cận một nền văn hoá
Nga, học cách nhận biết môi trường thiên nhiên và xã
hội Nga, những ứng xử, quan niệm và nhận định khác
với mình và dân tộc Việt. Nó hướng đến sự thấu hiểu
nền văn hoá Nga, một nền văn hoá luôn ở trong trạng
thái động, giao thoa và tương tác với cả nền văn hoá
khác (Trần Ngọc Thêm, 1999, tr. 118).
  Không dừng lại ở chỗ hiểu biết, tính giao văn hóa
trong lớp học tiếng Nga còn thể hiện ở sự trải nghiệm
giao văn hoá, ở đó văn hoá Nga không là cái để mà
biết, mà còn là “kẻ khác” đặt trong thế giao tiếp,
tương tác với người học, thể hiện qua năng lực giao
tiếp, sử dụng tiếng Nga đang học để giao tiếp với
người Nga cũng như các hoạt động phù hợp với quy
tắc ứng xử của xã hội và văn hoá Nga, và những cảm
nhận, nhận định, phê phán…có tính chủ kiến của
người học đối với những yếu tố thuộc văn hoá Nga,
trong thế tương quan với văn hoá Việt. Ví dụ, để chỉ
mối quan hệ sếp với nhân viên người Nga có câu: “Ты
начальник- я дурак, Я начальник - ты дурак” (Anh
là lãnh đạo thì tôi là thằng ngốc. Tôi là lãnh đạo thì
anh là thằng ngốc). Điều này thể hiện rõ trong giao
tiếp nơi công sở: xưng hô theo lối hành chính-văn
phòng qua ngôi Я-Вы, xưng hô theo chức trách như:
Товарищ, Господин + danh từ chỉ chức vụ; Господин,

Гражданин + tên, tên lót. Ví dụ: Товарищ ректор;
Господин президент; Товарищ, Гражданин Павел
Борисович. Đôi khi người ta thêm các tính từ biểu thị
sự kính trọng trước các đại từ chỉ chức vụ hay danh
từ riêng, như: Уважаемый товарищ председатель...;
Дорогая Анна Петровна!
  Năng lực giao văn hoá không chỉ chú trọng mối
quan hệ giữa sinh viên tiếng Nga với văn hoá Nga,
mà cả mối quan hệ giữa người học với văn hoá Việt.
Chính trong tiếp cận với văn hoá Nga, văn hoá đích
mà mỗi sinh viên tiếng Nga ý thức rõ rệt hơn về văn
hoá Việt, văn hoá gốc. Trong quá trình học tiếng Nga,
những hiểu biết và trải nghiệm về văn hoá Nga góp


NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v

phần củng cố văn hoá Việt, và ngược lại. Hai nền văn
hoá Nga – Việt có thể xem như được đặt trong thế
tương quan soi chiếu lẫn nhau. Ví dụ, người Việt khi
gặp nhau tùy thuộc vào tuổi tác, địa vị xã hội, quan
hệ huyết thống, mức độ thân quen mà xưng hô trong
chào hỏi. Người Nga cũng vậy, song bên cạnh đó họ
rất hay chào nhau theo thời gian trong ngày như :
“Доброе утро; Добрый день; Добрый вечер (Chào
buổi sáng, Chào buổi chiều, Chào buổi tổi tốt lành),
nhưng người Việt không có lối chào như vậy nên
trong giao tiếp sinh viên rất ít sử dụng kiểu chào này.
Một lỗi thường gặp ở sinh viên Việt Nam trong văn
hóa chào hỏi là: khi chào các thầy cô giáo bằng tiếng

Nga nhưng lối nói lại theo người Việt: chào + thầy +
tên: Здравствуйте преподаватель Донд. Nói như thế
người Nga tiếp nhận như là một điều thiếu tôn trọng.
Trong giao tiếp ứng xử thưa hỏi người Việt không gọi
hết cả họ tên, vì như vậy là xúc phạm, người Nga thì
ngược lại: thưa gọi đầy đủ cả họ, tên đệm và tên là tỏ
sự kính trọng, lịch sự.
 Tính giao thoa văn hoá có thể được thể hiện trong
mọi nội dung, mọi môn học, giảng viên cần phải biết
kết hợp năng lực giao tiếp với ý thức, sự thể hiện và
trải nghiệm về giao thoa văn hoá của sinh viên. Ngôn
ngữ Nga, nền văn hoá Nga có những quy luật, chuẩn
mực của mình, có điểm tương đồng cũng có điểm
khác biệt so với ngôn ngữ Việt và văn hoá Việt. Việc
tiếp cận tiếng Nga trong dạy và học ở mọi khía cạnh,
góc độ cần tuân thủ tính khác biệt này và cần khơi gợi
cho sinh viên ý thức trong nhận thức và trải nghiệm
đối với tiếng Nga đang học. Cần đan xen những khía
cạnh giao thoa văn hoá vào từng giai đoạn, từng nội
dung chi tiết của chương trình, từng thao tác lên lớp
của giảng viên.
3. TIẾN TỚI XÁC LẬP ĐƯỜNG HƯỚNG DẠY-HỌC
TIẾNG NGA VỚI NỘI DUNG DỰA TRÊN NĂNG LỰC
GIAO THOA VĂN HOÁ TRONG XU THẾ ĐỐI THOẠI
VĂN HOÁ GIỮA CÁC DÂN TỘC
Lịch sử phát triển của giáo học pháp ngoại ngữ cho
chúng ta thấy, bất kỳ một phương pháp, một đường
hướng nào khi xây dựng lên đều phải lấy cơ sở là sự
lựa chọn một nội dung ưu tiên nào đó. Mỗi phương
pháp với nội dung làm nền tảng đều có những ưu

điểm của nó. Tuy nhiên, xét cho cùng, làm chủ một
ngoại ngữ là xuất phát từ khả năng ngôn ngữ và kinh
nghiệm sống của một chủ thể đang thuộc về một
cộng đồng xã hội nào đó để đi đến lĩnh hội và tạo lập

những thói quen mới về khả năng ngôn ngữ nhằm có
thể từng bước du nhập về tinh thần vào một thực tế
mới, với mục đích cuối cùng là hiểu được người khác
và làm cho người khác hiểu mình, cả trong thực tế
mình đang sống và thực tế mình mới tiếp cận. Trên
quan điểm đó, “đường hướng chức năng giao tiếp tỏ
ra hữu hiệu và có vai trò chủ đạo nhất. Tuy nhiên, việc
chưa chú ý đầy đủ đến mặt văn hoá – văn minh của
các ngữ liệu đưa ra đã làm cho các tình huống giảng
dạy nghèo nàn đi, mất hứng thú, mất cái mặt nội dung
nhân bản của nó. Chúng ta đã quá thiên về mặt sử dụng
của ngôn ngữ mà bỏ qua mặt tâm sinh và văn hoá của
hoạt đông ngôn ngữ” (Балыхина Т. М., Игнательва О.
П., 2010, tr. 348). Đã đến lúc phải xem xét lại giá trị văn
hoá-giáo dục trong giảng dạy ngoại ngữ trước những
tác động của giao thoa văn hóa, trong đó có dạy-học
tiếng Nga?
Tình huống lớp học tiếng Nga cũng là tình huống gặp
gỡ, tiếp xúc, giao tiếp, giao thoa văn hoá với đầy đủ
các đặc trưng của giao tiếp, giao thoa văn hoá thực sự,
ở đó người học là “cái tôi” tiếp xúc với “đối tượng khác”
là ngôn ngữ, văn hoá, văn học Nga… và giảng viên
tiếng Nga đóng vai trò trung gian, trợ thủ và tổ chức.
Sinh viên tiếng Nga cũng cần có tâm thế chủ động,
có thái độ đúng mức đối với văn hoá dân tộc Nga.

Tiếp nhận văn hoá và bản sắc văn hoá Nga: Trước
ngôn ngữ Nga và văn hoá Nga, mỗi con người được
các học giả văn hoá xem là “người lai văn hoá” và bản
sắc văn hoá của mỗi cá nhân được hình thành qua
quá trình trải nghiệm, tiếp xúc và tương tác. Nhưng
tiếp nhận đến mức nào là hợp lý, đâu là giới hạn cuối
cùng chấp nhận được của những ảnh hưởng từ văn
hoá Nga? Sinh viên tiếng Nga hiện nay còn được học
thêm các ngôn ngữ khác như tiếng Anh, tiếng Hàn,
tiếng Trung, tiếng Nhật, tiếng Pháp…. Vậy làm sao để
tránh căn bệnh quá ưa chuộng phương Tây về văn
hoá mà đã từng cảnh báo? Có không ít người sau một
thời gian học các ngoại ngữ trong ứng xử đã tỏ ra “tây
hơn cả tây”, “bảo hoàng hơn cả vua”. Bản lĩnh của mỗi
con người là ở chỗ trong xu thế đối thoại văn hoá
giữa các dân tộc dù tiếp xúc với nhiều nền văn hoá
khác, nhiều người thuộc các dân tộc khác, dù ít nhiều
có ảnh hưởng trong nhận thức, hiểu biết và ứng xử,
nhưng vẫn còn chủ động giữ được bản sắc văn hoá
riêng. Trong giao tiếp với người nước ngoài, điều cần
tinh tế tránh va vấp hơn cả là những điều cấm kỵ trong
ứng xử hay hội thoại: hỏi tuổi phụ nữ, hỏi mức lương
hay thu nhập cá nhân, hỏi về tình trạng gia đình.
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ

Số 4 - 11/2016

59



v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI

Chúng tôi nhận thấy rằng, giảng viên tiếng Nga cần
giúp sinh viên tránh càng nhiều càng tốt việc mắc
phải hiện tượng tiêu cực gây nên bởi giao thoa văn
hóa giao tiếp ngôn ngữ trong khi giao tiếp bằng
tiếng Nga. Việc tránh những lỗi này sẽ giúp quá trình
giao tiếp diễn ra suôn sẻ hơn và tạo thuận lợi cho hai
đối tác dễ dàng hiểu nhau hơn vì giữa sinh viên và
người đối thoại đã tìm được một khối kiến thức văn
hóa chung định sẵn tối thiểu được huy động và được
tham chiếu để thực hiện tốt quá trình tái hiện, tức là
quá trình tiếp nhận, xử lý và tổng hợp thông tin cần
trao đổi.
Tuy kiến thức văn hóa Nga giúp cho sinh viên tiếng
Nga hiểu biết thêm về nền văn hóa Nga, song các giá
trị văn hóa Nga có vai trò quyết định trong việc định
hình ngôn ngữ giao tiếp. Để có thể giảng dạy và giao
tiếp giao thoa văn hóa Việt-Nga một cách thành công,
chúng cần phải được đưa vào nội dung dạy tiếng
Nga, và ngoài phần kiến thức văn hóa-văn minh Nga
ra, người giao tiếp cần phái nắm được hệ thống giá
trị của ngôn ngữ Nga. Và điều hiển nhiên là cần phải
có thêm nhiều công trình nghiên cứu khả năng đưa
yếu tố văn hóa giá trị này vào tài liệu giảng dạy cũng
như làm thế nào có thể áp dụng được giá trị văn hóa
Nga trong việc giảng dạy tiếng Nga và giao tiếp liên
ngôn ngữ.
Từ kinh nghiệm giảng dạy tiếng Nga mà tác giả đã có,
một số biện pháp có thể được đưa ra như sau:

Ngay từ giờ học tiếng Nga đầu tiên sinh viên cần
được làm quen với văn hoá Nga trong giao tiếp ứng
xử cũng như trong ăn, mặc, xưng hô…và thể hiện
điều này qua giao tiếp bằng tiếng Nga để tránh sốc
về văn hoá khi các các em có điều kiện tiếp xúc, sống
với người Nga. Giảng viên cần kiên trì trong việc rèn
luyện sinh viên những mẫu câu, lối nói ứng xử theo
nghi thức lời nói của người Nga, tạo ra ngữ cảnh sống
động, đa dạng, phù hợp để người học tham gia hội
thoại với nhau.
Ngoài năng lực ngôn ngữ, giảng viên còn cần phải
có kiến thức sâu rộng, toàn diện về văn hoá, đất nước
học của hai dân tộc Việt-Nga. Và giảng viên là người
hơn ai hết biết được những hiện tượng giao thoa văn
hoá nào đã trở thành trở ngại cho chính mình và sinh
viên trong dạy-học tiếng Nga để tìm cách khắc phục.
Trong môi trường phi bản ngữ, dạy-học tiếng Nga đòi
hỏi giảng viên tích cực áp dụng phương pháp nghe-

60

KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ

Số 4 - 11/2016

nhìn thường xuyên. Những thước phim về đất nước,
con người, thiên nhiên Nga, văn hóa nghệ thuật Nga
cũng như làn điệu dân ca Nga, những bản nhạc Nga
bất hủ…sẽ là con đường ngắn nhất, tự nhiên nhất và
sinh động nhất đưa sinh viên đến với văn hoá Nga.

Để sinh viên tiếng Nga hiểu và nắm vững cách diễn
đạt và diễn nghĩa trong giao tiếp giống như cách
người Nga và sẽ thực hành trong thực tế công việc
sau ngày, chúng ta cần phải thiết kế chương trình
thực hành tiếng sao cho trong đó sinh viên tiếng
Nga được tiếp xúc và làm quen nhiều thể loại văn
bản khác nhau trong giao tiếp thường ngày, cũng
như trong giao tiếp nghề nghiệp. Bằng cách tiếp
cận như thế, sinh viên tiếng Nga sẽ tự tin khi giao
tiếp các tình huống khác nhau và làm chủ được hoạt
động giao tiếp của mình. Với phương pháp giảng
dạy giao tiếp này, sinh viên có nhiều cơ hội xây dựng
và rèn luyện phát triển hai kỹ năng không thể thiếu
trong giao tiếp: kỹ năng ngôn ngữ xã hội và kỹ năng
ngữ dụng.
4. KẾT LUẬN
Trong xu thế giao lưu và đối thoại văn hoá giữa các
dân tộc quá trình giao tiếp dựa trên nền tảng giao
văn hoá sẽ là thành công nếu những người tham gia
vào quá trình này tìm được những nét tương đồng,
biết chấp nhận những khác biệt và biết vượt qua
những đối kháng giữa hai hoặc nhiều nền văn hoá.
Trong quá trình đó, khi “những giá trị trùng khớp” –
tức sự giao văn hoá được xác định, kỹ năng giao tiếp
càng được củng cố và càng tạo điều kiện cho sự tăng
cường các giá trị chung của kỹ năng giao văn hoá. Ta
không thể nói tới sự thành công trong dạy học ngoại
ngữ nếu không ý thức đầy đủ những khác biệt giao
thoa văn hoá và không đạt tới một mức độ nhất định
trong quá trình văn hoá hoá. Trong quá trình dạy-học

tiếng Nga theo đường hướng giao tiếp, qua từng giai
đoạn, các yếu tố ngôn ngữ Nga, nhìn chung ngày
càng ít nổi trội và các yếu tố văn hoá Nga ngày càng
được và cần được quan tâm hơn. Do vậy, nâng cao
nhận thức của sinh viên về những khác biệt giữa văn
hoá Việt và văn hoá Nga trong hoạt động giao tiếp là
thực sự cần thiết. Tuy nhiên, điều cần lưu ý ở đây là các
yếu tố văn hoá và ngôn ngữ hoàn toàn không đối lập
nhau mà có quan hệ tương tác. Song, trong quá trình
dạy-học tiếng Nga, liều lượng của các yếu tố đó thay
đổi theo hướng ưu tiên ngôn ngữ Nga sang ưu tiên
văn hoá Nga. Sự quan tâm trước tiên của người giảng


NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v

viên tiếng Nga là tạo điều kiện cho cuộc hành trình
dọc theo quá trình tiệm tiến văn hoá này và sinh viên
tiếng Nga nên tự quyết định cái đích cuối cùng cho
mình. Những người làm công tác giảng dạy tiếng Nga
không nên tự hạn chế mình trong khuôn khổ hạn hẹp
của các cấu trúc ngôn ngữ Nga và khẳng định rằng, ta
đang phát triển các kỹ năng giao tiếp. Sản phẩm tốt
của chúng ta cần là những người không chỉ biết đặt
các câu đúng ngữ pháp tiếng Nga, mà còn phải biết
nói những câu đó với ai, ở đâu và thế nào trong môi
trường nội văn hoá hay giao thoa văn hoá Nga -Việt./.

9. Косянова О. М. (2015), Вьетнамцы в Оренбужье:
проблемы языковой, социальной и культурной

адаптации, Русский язык во Вьетнамме,
Российский центр науки и культуры в г. Ханой,
5/2015, с 58-63.
10. Масалкова Э. В. (2014), Учебно – ситуативные
роли в обучении устно – речевому иноязычному
общению, Теория и практика современной науки,
М., c. 199.

Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn Văn Chiến (2000), Ngôn ngữ học và ngôn
ngữ giao văn hoá, Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia
“Thành tố văn hoá trong dạy và học ngoại ngữ”, Trường
ĐH Ngoại ngữ – ĐHQG Hà Nội.
2. Trương Hoàng Lê (2009), Giao thoa văn hoá trong
giao tiếp ngôn ngữ, Thông báo Khoa học, Trường ĐH
Ngoại ngữ – ĐH Huế.
3. Nguyễn Hoà (2000), Giá trị văn hoá và giao tiếp ngôn
ngữ, Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia “Thành tố văn
hoá trong dạy và học ngoại ngữ”, Trường ĐH Ngoại
ngữ – ĐHQG Hà Nội.
4. Phạm Thị Anh Nga (2009), Tính liên văn hoá trong
dạy và học ngoại ngữ, Thông báo Khoa học, Trường
ĐH Ngoại ngữ – ĐH Huế.
5. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hoá Việt Nam,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
6. Nguyễn Lân Trung (2000), Các yếu tố văn hoá và văn
minh trong giảng dạy ngoại ngữ, Kỷ yếu hội thảo khoa
học quốc gia “Thành tố văn hoá trong dạy và học ngoại
ngữ”, Trường ĐH Ngoại ngữ – ĐHQG Hà Nội.
7. Балыхина Т. М., Игнательва О. П. (2010),

Лингводидактическая теория ощибки и пути
преодоления ощибок в речи иностранных
учащихся. “РУДН”, М.
8. Доценко М. Ю., Ильина Н. О. (2015), Речевые
ситуации на занятиях по русскому языку на
начальном
этапе
обучения
иностранных
студентов, Русский язык во Вьетнаме, Российский
центр науки и культуры в г. Ханой, 5/2015, с 5-11.

TOWARDS THE ESTABLISHMENT OF
RUSSIAN TEACHING APPROACHES BASED
ON CROSS-CULTURAL COMPETENCE IN
THE TREND OF CULTURAL DIALOGUE
BETWEEN THE NATIONS
DUONG QUOC CUONG
Abstract: In the trend of cultural dialogue
between the nations today, the linguistic
approaches from cultural perspective make
linguistic studies more diverse than ever
before. Cultural values as the contents of
‘hidden’ meaning form the basis for linguistic
activity and linguistic difference in the system
of value has had an influence on the process
of linguistic communication. Cultural factors in
the process of linguistic communication and
language teaching must include the contents
of cultural values. The more difference

between culture and typo of languages there
is, the more problems the students must face.
Therefore, for foreign language speakers, any
dialogue with native speakers of the target
language confront with the forms across
cultures. The article focuses cross-cultural
presentation and its effects on Rusian teaching
and learning in the trend of dialogue between
the nations.
Keywords: teaching and learning, ethnic,
expression,
communication,
interference,
language, culture.

KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ

Số 4 - 11/2016

61



×