Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Vận dụng nội dung quy luật về sự phù hợp quan hệ sản xuất (QHSX) với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất (LLSX) của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.84 KB, 16 trang )

Đề 2: Vận dụng nội dung quy luật về sự phù hợp quan hệ sản xuất (QHSX)
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất (LLSX) của Đảng Cộng sản
Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG

Chương I: Những cơ sở lý luận về quy luật:”Quan hệ sản xuất phải phù hợp trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất”.
1. Khái niệm phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất.
1.1 Phương thức sản xuất.
1.2 Lực lượng sản xuất.
1.3 Quan hệ sản xuất.
2. Quy luật "Quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất."
Chương II: Vận dụng quy luật “Quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực
lượng sản xuất” vào việc phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay
1. Thực trạng đất nước ta trước khi Đảng tiến hành đổi mới (từ năm 1986 trở về
trước)
2. Công cuộc đổi mới từ năm 1986 đến nay.
C. KẾT LUẬN

A. LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài


a. Thực tiễn
Triết học là một phần không thể thiếu trong đời sống văn hố, xã hội đối với
bất kì một quốc gia nào. Nó liên quan tới tất cả các lĩnh vực từ con người, quan
niệm, khoa học cho đến văn hố. Triết học khơng chỉ đơn thuần góp phần làm hình


thành, phát triển các vấn đề và tư tưởng của con người mà nó cịn tham gia vào cả
việc quá trình phát triển nền kinh tế của một quốc gia. Và Việt Nam cũng vậy, triết
học đã giúp cho những lý luận và quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong thời
kỳ đổi mới càng thêm có tính chặt chẽ, lý luận khiến cho vấn đề nêu ra được thể
hiện một cách rõ ràng hơn, mang tính thực tế cao.
Những hiện tượng lịch sử xuất hiện trong thượng tầng kiến trúc dưới nhiều
hình thái tư tưởng phức tạp: chính trị, pháp lý, tơn giáo, nghệ thuật, triết lý; nhưng
tất cả những hình thái đó, xét tới cùng, là do phương thức sản xuất đời sống vật
chất quy định. Vậy muốn hiểu rõ sự biến chuyển trong thượng tầng kiến trúc, trước
hết phải nghiên cứu sự biến chuyển vật chất trong điều kiện kinh tế của sự sản
xuất, những mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Không chỉ là một trong những vấn đề của triết học Mác-Lênin, lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất còn là một trong bốn bộ phận cấu thành nên hình thái
kinh tế, xã hội. Nếu chúng ta hiểu rõ được mối quan hệ giữa lượng lực sản xuất và
quan hệ sản xuất, điều đó sẽ giúp cho sự vận dụng quy luật này vào việc phát triển
kinh tế, xã hội ngày càng nhanh chóng và dễ dàng hơn.
b. Lý luận
Theo chủ nghĩa Mác-Lênin, sự tác động của "Quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất" tạo ra nguồn gốc và động lực cơ
bản nhất đối với sự vận động, phát triển của nền sản xuất vật chất và do đó là sự
vận động, phát triển của tồn bộ đời sống xã hội; sự vận động, phát triển của lịch
sử nhân loại từ phương thức thấp lên phương thức sản xuất cao hơn. Quy luật này
không chỉ là cơ sở để giải thích về nguồn gốc sâu xa của tồn bộ các hiện tượng xã
hội khác mà cịn là sự biến đổi trong đời sống chính trị, ảnh hưởng đến đời sống xã
hội ở mỗi quốc gia. Vì vậy, việc vận dụng quy luật này trong việc xây dựng, phát
triển đất nước là điều hợp lý, tuy nhiên không phải quốc gia nào cũng vận dụng nó
một cách hiệu quả, việc vận dụng quy luật này cần có sự cân nhắc kỹ lưỡng.
Đất nước ta đã xây dựng nền xã hội chủ nghĩa xuất phát từ một nền kinh tế lạc
hậu và bị tàn phá nặng nề, có nhiều tổn thất từ chiến tranh. Đó là lý do vì sao
chúng ta càng cần phải có nhận thức đúng đắn và sâu sắc hơn trong vấn đề vận

dụng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sao cho phù hợp, đặc biệt là trong thời đại
khoa học, công nghệ đang ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết như hiện
nay.
Ở nước ta, Đảng đã không ngừng nâng cao nhận thức và lý luận, áp dụng linh
hoạt vào việc phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
hoàn thiện hơn nữa về bộ máy lãnh đạo của Đảng đối với toàn thể xã hội. Mục tiêu


hướng tới là đưa nước ta trở thành một đất nước có nền cơng nghiệp hiện đại, khoa
học kĩ thuật phát triển, năng suất lao động không ngừng tăng lên và đời sống của
nhân dân ngày càng cải thiện hơn.
Bài viết của chúng em dưới đây sẽ làm rõ hơn về vận dụng nội dung quy luật
về sự phù hợp quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đối với sự phát triển kinh tế của
đất nước hiện nay. Để làm được bài viết này, chúng em xin cảm ơn sự hướng dẫn
tận tình và q trình truyền đạt những kiến thức của cơ giáo Vũ Thị Mai Lương đã
giúp chúng em có những hiểu biết về vấn đề này. Tuy nhiên, chúng em là sinh viên
năm thứ nhất không thể tránh khỏi những thiếu sót trong q trình thực hiện đề tài
này. Vì vậy, chúng em rất mong được sự góp ý của cơ để chúng em có thể hồn
thiện hơn nữa bài viết này. Chúng em xin trân thành cảm ơn cô.
2. Kết cấu
Chương 1: NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUY LUẬT: "QUAN HỆ SẢN
XUẤT PHẢI PHÙ HỢP TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN
XUẤT".
Chương 2: VẬN DỤNG QUY LUẬT “QUAN HỆ SẢN XUẤT PHẢI PHÙ HỢP
VỚI TRÌNH ĐỘ CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT” VÀO VIỆC PHÁT TRIỂN
LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.
B.NỘI DUNG
CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUY LUẬT: "QUAN HỆ SẢN
XUẤT PHẢI PHÙ HỢP TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN

XUẤT".
1. Khái niệm phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất , quan hệ sản
xuất.
1.1 Phương thức sản xuất.
Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện trong quá trình sản
xuất ra của cải vật chất ở những giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử xã hội
loài người. Mỗi xã hội được đặc trưng bởi một phương thức sản xuất nhất định.
Phương thức sản xuất giữ vai trò quyết định trong hệ thống các điều kiện vật chất
và tinh thần của đời sống xã hội, là biểu hiện đặc trưng cho lĩnh vực hoạt động sản
xuất vật chất của con người, giữ vai trò quyết định trong các lĩnh vực sinh hoạt xã
hội, chính trị và tinh thần nói chung. Sự thay thế kế tiếp nhau của các phương thức
sản xuất trong lịch sử quyết định đến sự phát triển của xã hội loài người từ thấp
đến cao.
Trong sản xuất, con người có mối quan hệ song trùng: một mặt là quan hệ
giữa người với tự nhiên, tức là lực lượng sản xuất , mặt khác là quan hệ giữa người
với người, tức là quan hệ sản xuất.


=> Phương thức sản xuất là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất tương ứng.
1.2 Lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất là biểu hiện của mối quan hệ giữa con người với giới tự
nhiên. Con người với trình độ khoa học kĩ thuật, kĩ năng, kĩ xảo của mình sử dụng
những cơng cụ lao động tác động vào giới tự nhiên nhằm cải biến những dạng vật
chất của tự nhiên tạo ra những sản phẩm vật chất phục vụ cho nhu cầu của con
người. Lực lượng sản xuất chính là sự thể hiện năng lực thực tiễn của con người
trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất.
Lực lượng sản xuất là sự thống nhất hữu cơ giữa người lao động đã tích lũy
(tư liệu sản xuất mà trước hết là công cụ lao động)với lao động sống (những người
sử dụng tư liệu sản xuất để sản xuất của cải nhằm đáp ứng những nhu cầu sinh

sống và phát triển của con người trong mọi xã hội.
Với cách hiểu như trên, ta có thể thấy được kết cấu của lực lượng sản xuất bao
gồm những yếu tố cơ bản sau:
● Người lao động là con người biết sáng tạo, sử dụng công cụ lao động để sản
xuất ra những vật phẩm nhằm thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người trong
đời sống xã hội. Chính người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản
xuất. Trong quá trình sản xuất con người kết hợp sức lao động của mình với
tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động tạo thành sức mạnh khai thác
giới tự nhiên, làm ra sản phẩm cần thiết cho cuộc sống của mình.
● Cơng cụ lao động là khí quan vật chất “nhân”sức mạnh con người trong q

trình biến đổi tự nhiên Cơng cụ lao động là yếu tố động nhất trong lực lượng
sản xuất, nó có vị trí quyết định trong tư liệu sản xuất .Với những sáng chế,
phát minh khoa học trong một thời đại, công cụ không ngừng được cải tiến,
tư liệu sản xuất mở rộng, đối tượng lao động đa dạng hố, ngành nghề mới
xuất hiện dẫn đến phân cơng lao động xã hội ngày càng cao. Trình độ phát
triển của cơng cụ lao động vừa là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của
con người, vừa là tiêu chuẩn phân biệt sự khác nhau giữa các thời đại kinh
tế, kỹ thuật trong lịch sử.
● Đối tượng lao động bao gồm những cái đã có sẵn trong tự nhiên mà người

lao động đã tác động vào nó và cả những cái đã trải qua lao động sản xuất,
được kết tinh dưới dạng sản phẩm Sản xuất ngày càng phát triển, thì con
người phải tìm kiếm, sáng tạo ra những đối tượng lao động mới, bởi những
cái có sẵn trong tự nhiên ngày càng bị con người khai thác đến “cạn kiệt”


Các Mác viết: “những thời đại kinh tế khác nhau khơng phải ở chỗ chúng
sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào,với những tư liệu lao
động nào?

Ngày nay khoa học phát triển đến mức nó trở thành nguyên nhân trực tiếp
của mọi biến đổi to lớn trong sản xuất, quản lý, điều khiển các q trình cơng nghệ,
tạo ra những ngành sản xuất mới ,hiện đại, những lĩnh vực kỹ thuật mũi nhọn,
những phương pháp sản xuất mới, những nguồn năng lượng mới với hàng loạt vật
liệu nhân tạo có tác dụng to lớn, nhiều mặt mà cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật
ở những thế kỷ trước khơng thể có được. Với ý nghĩa to lớn đó, khoa học đang trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp của quá trình sản xuất xã hội. Chưa bao giờ tri
thức khoa học được vật hoá, kết tinh, thâm nhập vào các yếu tố của lực lượng sản
xuất và cả quan hệ sản xuất nhanh và có hiệu quả như ngày nay.
Lực lượng sản xuất do con người tạo ra, song nó vẫn là yếu tố khách quan,
là nền tảng vật chất của toàn bộ lịch sử nhân loại. Lực lượng sản xuất được kế thừa
và phát triển liên tục từ thế hệ này sang thế hệ khác. Mỗi thế hệ sinh ra đều phải
thích ứng với một trình độ của lực lượng sản xuất của thế hệ trước để lại, vì lực
lượng sản xuất là kết quả của năng lực thực tiễn của con người, nhưng bản thân
năng lực thực tiễn này bị quyết định bởi những điều kiện trong đó người ta sống,
bởi những lực lượng sản xuất đã đạt được, bởi hình thái xã hội đã có trước họ,
khơng phải do họ tạo ra mà do thế hệ trước tạo ra.
1.3 Quan hệ sản xuất.
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong q trình sản xuất,
nó bao gồm những mối quan hệ kinh tế cơ bản như: quan hệ đối với sở hữu tư liệu
sản xuất, quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ trong phân phối sản
phẩm sản xuất ra.
Quan hệ sản xuất do con người tạo ra, song nó được hình thành một cách
khách quan không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan, tuỳ tiện của lực lượng sản xuất
ở một giai đoạn lịch sử nhất định. C. Mác viết: “Trong sản xuất, người ta không chỉ
quan hệ với giới tự nhiên. Người ta không thể sản xuất được nếu không kết hợp với
nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau.
Muốn sản xuất được, người ta phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với
nhau; và quan hệ của họ với giới tự nhiên là quan hệ sản xuất”. Quan hệ sản xuất là
hình thức xã hội của sản xuất; giữa ba mặt của quan hệ sản xuất thống nhất với

nhau, tạo thành một hệ thống mang tính ổn định tương đối so với sự vận động, phát
triển không ngừng của lực lượng sản xuất.
Trong quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết
định các quan hệ khác. Địa vị kinh tế của các tập đoàn người trong sản xuất và
trong phân phối sản phẩm đều do chế độ sở hữu và các hình thức chiếm hữu đối
với tư liệu sản xuất quy định. Trong lịch sử phát triển của xã hội lồi người đã từng
tồn tại hai loại hình sở hữu cơ bản đối với tư liệu sản xuất :sở hữu tư nhân (tư hữu)


và sở hữu công cộng (công hữu). Sở hữu tư nhân là loại hình sở hữu mà trong đó
tư liệu sản xuất tập trung vào trong tay một số ít người , cịn đại đa số khơng có
hoặc có rất ít tư liệu sản xuất. Do đó quan hệ giữa người với người là quan hệ
thống trị và bị trị, bóc lột và bị bóc lột. Sở hữu cơng cộng là loại hình sở hữu mà
trong đó tư liệu sản xuất thuộc về mọi thành viên của công đồng. Các hình thức sở
hữu đó quy định các mối quan hệ về tổ chức quản lý và phân phối sản phẩm, quy
định những nét đặc thù của quan hệ kinh tế.
Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất trực tiếp tác động đến quá trình sản
xuất, đến việc tổ chức, điều khiển q trình sản xuất. Nó có thể thúc đẩy hoặc kìm
hãm quá trình sản xuất. Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất do quan hệ sở hữu
quyết định và nó phải thích ứng với quan hệ sở hữu. Tuy nhiên có trường hợp,
quan hệ tổ chức và quản lý khơng thích hợp với quan hệ sở hữu, làm biến dạng
quan hệ sở hữu. Trong sự tác động lẫn nhau của các quan hệ cấu thành quan hệ sản
xuất, quan hệ về tổ chức quản lý và quan hệ phân phối có vai trị rất quan trọng.
Quan hệ tổ chức, quản lý và quan hệ phân phối có thể góp phần củng cố phát triển
quan hệ sản xuất, cũng có thể làm xói mịn, biến dạng quan hệ sở hữu.
Quan hệ sản xuất mang tính ổn định tương đối trong bản chất xã hội và
mang tính phong phú, đa dạng trong hình thức biểu hiện.
2. Quy luật "Quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất."
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản

xuất , chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cánh biện
chứng, tạo thành quy luật, tạo thành quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quy luật cơ bản nhất của sự vận
động và phát triển xã hội.
Khuynh hướng chung của sản xuất vật chất là không ngừng phát triển. Sự
phát triển đó xét đến cùng là bắt nguồn từ sự biến đổi và phát triển của lực lượng
sản xuất, trước hết là công cụ lao động.
Ph. Ăngghen viết: “... giai cấp tư sản ... không thể biến những tư liệu sản
xuất ấy thành những lực lượng sản xuất hùng mạnh mà lại không biến chúng thành
những tư liệu sản xuất xã hội , chỉ có thể được sử dụng chung bởi một số đơng
người”.?
Trình độ lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn lịch sử thể hiện trình độ
chinh phục tự nhiên của con người trong giai đoạn lịch sử đó. Trình độ lực lượng
sản xuất biểu hiện ở trình độ của cơng cụ lao động, trình độ, kinh nghiệm và kỹ
năng lao động của con người, trình độ tổ chức và phân cơng lao động xã hội, trình
độ ứng dụng khoa học vào sản xuất. Trình độ phân cơng lao động biểu hiện trình
độ của lực lượng sản xuất ở một giai đoạn nhất định của lịch sử sản xuất vật chất.
Gắn liền với một trình độ của lực lượng sản xuất là một tính chất của lực
lượng sản xuất. Một tình trạng nhất định của lực lượng sản xuất nói lên cả tính chất


và trình độ của lực lượng sản xuất. Khi cịn sản xuất với những công cụ thủ công,
lực lượng sản xuất mang tính chất cá nhân. Nó thể hiện tính chất của tư liệu sản
xuất là sử dụng công cụ thủ cơng và tính chất lao động là riêng rẽ, tách rời nhau.
Khi sản xuất bằng máy ra đời, lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội hóa. Nó
thể hiện tính chất của tư liệu sản xuất là sử dụng máy móc và tính chất của lao
động là do nhiều người sử dụng tư liệu sản xuất ấy theo kiểu phân công mỗi người
một bộ phận; sản phẩm làm ra là kết quả hiệp tác của nhiều người. Chỉ đến nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất mới đạt tới tính chất xã hội hóa.
Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi

quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó. Đó là sự kết hợp đúng đắn giữa các yếu tố
cấu thành quan hệ sản xuất; giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất đem lại
những phương thức liên kết có hiệu quả cao giữa người lao động với tư liệu sản
xuất. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất cũng ra đời theo. Sự phù hợp của
quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trạng thái mà
trong đó quan hệ sản xuất là “hình thức phát triển” của lực lượng sản xuất. Trong
đó, tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều “tạo địa bàn đầy đủ” cho lực lượng sản
xuất phát triển. Điều này có nghĩa là, nó tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một cách
tối ưu giữa người lao động với tư liệu sản xuất và do đó lực lượng sản xuất có cơ
sở để phát triển hết khả năng của nó.
Quan hệ sản xuất được hình thành, được biến đổi, phát triển dưới ảnh hưởng
quyết định của lực lượng sản xuất
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho
quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Lúc này, quan hệ sản xuất trở thành “xiềng xích”của lực lượng sản
xuất, kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển
lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến sự thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ
sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất để thúc
đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan
hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản
xuất mới ra đời thay thế.
Khi lực lượng sản xuất ở trình độ thấp, cơng cụ lao động cịn thơ sơ thì quan
hệ sản xuất lúc này là quan hệ dựa trên chế độ công xã nguyên thủy. Nhưng với sự
ra đời của công cụ bằng kim loại, thủ công với con người lao động đã biết trồng
trọt và chăn ni, năng suất lao động ngày càng cao hơn,lồi người bắt đầu sản
xuất ra những sản phẩm thặng dư. Do đó quan hệ sản xuất dựa trên chế độ cơng xã
nguyên thủy bị tan rã và thay vào đó là quan hệ sản xuất dựa trên chế độ tư hữu
chủ nô ra đời. Sự xuất hiện của quan hệ sản xuất dựa trên chế độ tư hữu chủ nô
bước đầu phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất lúc bấy giờ đã làm cho quan

hệ sản xuất phát triển. Nhưng, lồi người vẫn tiếp tục cải tiến cơng cụ lao động,


phát triển lực lượng sản xuất; đất đai ngày càng được khai phá nhiều hơn, cùng với
đó là sự xuất hiện của nhiều ngành nghề tiểu, thủ công nghiệp mới, với sự giao lưu
buôn bán các sản phẩm làm ra phát triển hơn. Vì thế, quan hệ sản xuất dựa trên chế
độ tư hữu chủ nơ khơng cịn phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất nữa, lúc
này quan hệ xuất hiện sự đòi hỏi phải thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ
sản xuất mới dựa trên chế độ tư hữu địa chủ. Tuy nhiên lực lượng sản xuất khơng
chỉ dừng lại ở đó. Lồi người vẫn tiếp tục cải tiến công cụ lao động, phát triển lực
lượng sản xuất. Khi công cụ lao động bằng máy móc ra đời cùng với lao động là
những người cơng nhân trong các nhà máy, xí nghiệp, phân cơng lao động mang
tính xã hội. Vì thế, quan hệ sản xuất dựa trên chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa ra
đời. Điều này đã đẩy nhanh sự phát triển của lực lượng sản xuất đạt tới trình độ
chuyên mơn hóa và xã hội hóa cao. Đến lượt nó lại mâu thuẫn gay gắt với quan hệ
sản xuất dựa trên chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa. Để giải quyết mâu thuẫn này tất
yếu phải xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ và xác lập quan hệ sản xuất mới.
Như vậy, sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất là sự phù hợp trong mâu thuẫn, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất
là nội dung thường xuyên biến đổi (động) với quan hệ sản xuất là hình thức xã hội
tương đối ổn định (tĩnh).
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất
cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Quan hệ sản xuất quy định mục đích của sản xuất, khuynh hướng phát triển
của quan hệ lợi ích; từ đó hình thành một hệ thống các yếu tố thúc đẩy, hoặc kìm
hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Tác dụng đó chỉ mang tính tương đối.
Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là động
lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại, quan hệ sản xuất lỗi thời lạc
hậu hoặc “tiên tiến”hơn một cách giả tạo so với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Với sự phát triển là tất

yếu, khách quan của lực lượng sản xuất thì quan hệ sản xuất lỗi thời cuối cùng sẽ
bị thay thế bằng một kiểu quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển mới
của lực lượng sản xuất. Tuy vậy khi mâu thuẫn khách quan giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất đã bộc lộ gay gắt và đòi hỏi con người phải giải quyết nhưng
con người không phát hiện ra, hoặc phát hiện mà không giải quyết được mâu
thuẫn, hoặc do những sai lầm chủ quan trong quá trình giải quyết mâu thuẫn v.v.thì
tác dụng kìm hãm của quan hệ sản xuất sẽ trở thành nhân tố phá hoại đối với lực
lượng sản xuất.
Tuy nhiên, việc giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ
sản xuất không phải giản đơn. Nó phải thơng qua nhận thức và hoạt động cải tạo xã
hội của con người. Trong xã hội có giai cấp phải thông qua đấu tranh giai cấp,
thông qua cách mạng xã hội.


Chính vì thế, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử
nhân loại. Sự thay thế, phát triển của lịch sử nhân loại từ chế độ công xã nguyên
thủy, qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và
đến xã hội cộng sản tương lai là do sự tác động của hệ thống quy luật xã hội, trong
đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
là quy luật cơ bản nhất.
CHƯƠNG II: VẬN DỤNG QUY LUẬT “QUAN HỆ SẢN XUẤT PHẢI PHÙ
HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT” VÀO VIỆC PHÁT
TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.
Biện chứng giữa quy luật mối quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất có tác
động mạnh mẽ vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Lý
luận và thực tiễn cho chúng ta thấy, lực lượng sản xuất chỉ có thể phát triển khi có
một quan hệ sản xuất phù hợp với nó.
1. Thực trạng đất nước ta trước khi Đảng tiến hành đổi mới (từ năm 1986 trở
về trước)

Trước năm 1986, cơ chế nền kinh tế nước ta vẫn còn quan liêu, bao cấp. Vì
thế nó kìm hãm sự phát triển của nền sản xuất vật chất, tạo cho con người thói ỷ
lại. Do đó, nền kinh tế nước ta lúc bấy giờ là nền kinh tế lạc hậu, trì trệ và kém
phát triển.
So với các nước phát triển trên thế giới lúc bấy giờ thì nền kinh tế nước ta đã
tụt hậu xa. Trước tình hình đó đặt ra cho Đảng và nhà nước ta yêu cầu cấp bách là
phải có một chính sách kinh tế sao cho phù hợp với yêu cầu của thời đại và thúc
đẩy được sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, sớm đưa nước
ta thốt khỏi tình trạng kém phát triển.
Tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (12/1976) đã vạch ra đường lối
rằng: “đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa nước nhà, xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội , đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên
thành sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, kết hợp phát triển lực lượng sản xuất với xác
lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới”.
Với phương châm lãnh đạo sáng suốt của Đảng, nhân dân ta đã đạt được
nhiều thành tựu kinh tế đáng kể. Tuy nhiên sai lầm của Đảng ta trong quyết định
này đó là chưa xác định được chặng đường đầu tiên để tiến lên chủ nghĩa xã hội,
nóng vội tả khuynh trong việc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở một
nước vốn có nền nơng nghiệp lạc hậu trải qua mấy chục năm chiến tranh , đất nước
bị tàn phá nặng nề.


Đến tháng 3/1982 tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần V của Đảng đã đề ra
nhiệm vụ chủ yếu về kinh tế-xã hội trong 5 năm: “Để chuyển biến cơ bản thực
trạng kinh tế phải tạo cho được một lực lượng sản xuất mới, năng suất lao động xã
hội cao hơn ngay trong khi chưa có nền cơng nghiệp tương đối phát triển. Đồng
thời phải đảm bảo sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất”.
Đại hội đã có những bước tìm tịi trên con đường đi lên CNXH, trước hết là
về mặt kinh tế. Song đại hội chưa thấy được sự cần thiết phải duy trì nền kinh tế
nhiều thành phần trong suốt thời kỳ quá độ, chưa xác định được những quan điểm

cụ thể về kết hợp kế hoạch với thị trường, công tác quản lý lưu thông, phân phối
vẫn một chiều do kế hoạch nhà nước quyết định, chưa có những chính sách, giải
pháp cụ thể và đồng bộ để giải phóng các lực lượng sản xuất trong nông nghiệp. Đi
kèm những sai lầm trên là những quan điểm chủ quan, nóng vội, đốt cháy giai đoạn
trong việc thực hiện các kế hoạch 5 năm và các cuộc cải cách. Đặc biệt là sai lầm
trong cuộc cải cách giá, tiền lương được tiến hành lần 2 vào ngày 14-9-1985 đã
dẫn đến tình trạng lạm phát “phi mã” trong 3 năm 1986-1988. Chính vì vậy, nhà
nước đã phải lùi lại một bước , thực hiện chính sách 2 giá năm 1985. Đặc điểm của
nền kinh tế nước ta lúc này là trì trệ, kém phát triển. Lực lượng sản xuất Việt Nam
với trình độ chuyên môn thấp, công cụ lao động thô sơ chưa đạt đến trình độ tinh
xảo, tổ chức quản lý không chặt chẽ , quy mô phân tán nhỏ hẹp. Phân phối sản
phẩm còn theo cơ chế bao cấp tràn lan. Hậu quả là tách rời con người với tư liệu
sản xuất, công cụ lao động bị phá hoại một cách nghiêm trọng, đời sống người dân
thấp.
Từ thực tế trên cho thấy tầm quan trọng của việc xác định đúng đắn mối
quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, quy luật chi phối lẫn nhau
của chúng. Qua đó vận dụng một cách đúng đắn và sáng tạo vào công cuộc đổi mới
ở đất nước ta trong thời kỳ tiến lên CNXH.
2. Công cuộc đổi mới từ năm 1986 đến nay.
Trong công cuộc đổi mới, kể từ đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của
Đảng, Đại hội đã đề ra mục tiêu cụ thể về kinh tế xã hội như sau: “xây dựng và
hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất. Củng cố thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm cả khu
vực quốc doanh và khu vực tập thể một cách toàn diện, cả về chế độ sở hữu, chế độ
quản lý, chế độ phân phối làm cho thành phần kinh tế này giữ vai trò chi phối trong
nền kinh tế quốc doanh, thể hiện tính ưu việt về năng suất lao động, chất lượng sản
phẩm, thu nhập của người lao động và tích lũy cho cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Bằng những biện pháp thích hợp sử dụng mọi khả năng của
các thành phần kinh tế khác nhau trong sự nghiệp liên kết chặt chẽ, dưới sự chỉ đạo
của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa...” 4. Yêu cầu đặt ra là phải bố trí lại cơ

cấu sản xuất, điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư. Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất


xã hội chủ nghĩa (XHCN), sử dụng và cải tạo đúng đến các thành phần kinh tế.
“muốn phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi đôi với việc bố trí lại cơ cấu sản
xuất, cơ cấu đầu tư, theo ngành và theo vùng phải xác định đúng cơ cấu thành phần
kinh tế.
Giải pháp này xuất phát từ tình hình thực tế của nước ta và là sự vận dụng
quan điểm của Lênin “coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một vấn đề
đặc trưng của thời kỳ quá độ. Mac Angghen cũng đã từng cho rằng “lực lượng sản
xuất xét đến cùng đóng vai trị quyết định trong việc thay đổi quan hệ sản xuất và
do đó thay đổi các hình thái kinh tế xã hội”. Mac đã từng viết rằng: “ những quan
hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực lượng sản xuất. Do đó có được
những lực lượng sản xuất mới đã thay đổi những phương thức sản xuất của mình
và do đó thay đổi được phương thức sản xuất, cách kiếm sống của mình, thay đổi
được tất cả quan hệ xã hội với mình”.
Chính vì thế, những chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước hết phải xuất
phát từ đặc trưng cụ thể của nền kinh tế, để từ đó đề ra những chủ trương biện pháp
đúng đắn.
Đảng đã chủ trương cải tạo XHCN, xây dựng XHCN phải tiến hành trên cả
3 mặt: xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chế độ quản lý và chế độ
phân phối xã hội chủ nghĩa. Đảng xác định rõ, tuy chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất là nền tảng của của quan hệ sản xuất mới nhưng khi chế độ quản lý và chế độ
phân phối khơng phù hợp thì ngay cả các tổ chức kinh tế thuộc sở hữu toàn dân,
được trang bị kỹ thuật cao hơn cũng sẽ làm ăn kém hiệu quả. “Đẩy mạnh XHCN
phải là mục tiêu thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH với
những hình thức và bước đi thích hợp làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất, ln ln có tác động thúc đẩy sự phát
triển của lực lượng sản xuất”. Phát huy mạnh mẽ động lực khoa học kỹ thuật
(KHKT) trong điều kiện thế giới đang tiến nhanh vào giai đoạn mới của cuộc cách

mạng KHKT . và qua tình hình thực tế nước ta càng thấy rõ sự bức bách phải làm
cho KHKT trở thành một động lực to lớn đẩy nhanh quá trình kĩ thuật xã hội của
đất nước. Sự lựa chọn về phương hướng KHKT phải thống nhất với sự lựa chọn về
mục tiêu, phương hướng XHCN.
Trên cơ sở các đường lối đúng đắn của Đại hội VI, tại đại hội VII, VIII và
lần thứ IX, Đảng ta đã tiếp tục chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính
sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Bên cạnh đó là tiếp
tục phát triển khoa học, cơng nghệ, góp phần đưa trình độ của lực lượng sản xuất
tiến lên một bước cao hơn.
Đối với nước ta, từ một nước nông nghiệp lạc hậu lại bị chiến tranh tàn phá
nặng nề, do vậy trong sự nghiệp xây dựng CNXH thì đi đơi với việc củng cố và
hồn thiện quan hệ sản xuất thì điều cần thiết nhất là phải phát triển lực lượng sản


xuất. Muốn phát triển lực lượng sản xuất thì khơng có con đường nào khác là cơng
nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH) đất nước. Đảng đã khẳng định: “về thực
chất CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản và toàn diện các hoạt động sản
xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội. Chuyển từ lao động thủ cơng
chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương
tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến
bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động cao”.
Đảng và nhà nước đã vận dụng một cách triệt để mối quan hệ biện chứng
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất để phát triển nền kinh tế nước nhà.
Thấy được quy luật tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng, và từ đó áp dụng vào
tình hình thực tế của nước ta, bước đầu tạo lập được sự kết dính giữa người lao
động với tư liệu sản xuất, phát triển mạnh mẽ khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện
đại và tiên tiến vào quá trình sản xuất của xã hội. Qua đó nâng cao thu nhập người
dân cũng như trình độ văn hóa và dân trí cho tồn xã hội.
“Ngày nay trong điều kiện cách mạng khoa học kĩ thuật, khoa học khơng chỉ

tham gia trực tiếp vào q trình sản xuất mà cịn tham gia trực tiếp vào các q
trình phát triển xã hội. Khoa học trở thành một thiết chế xã hội, một sức mạnh, lực
lượng xã hội. Không thể hiểu được gương mặt của xã hội hiện đại nếu thiếu khoa
học, và xã hội hiện đại không thể phát triển được nếu khơng có khoa học. Khoa
học, kể cả khoa học tự nhiên và khoa học xã hội đang được sử dụng để khởi thảo
các kế hoạch và chương trình phát triển kinh tế và xã hội, khoa học làm tăng sức
mạnh của con người trong việc cải tạo hiện thực.” Nhận thức được tầm quan trọng
của khoa học kĩ thuật trong việc phát triển nền kinh tế nước nhà, Đảng đã chủ
trương phát triển khoa học kỹ thuật một cách hợp lí và qua đó nâng cao trình độ
của lực lượng sản xuất. Khoa học đã góp phần lý giải và làm rõ thêm những quan
điểm của Đảng về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; làm rõ cơ sở
khoa học và thực tiễn cho việc lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng của Đảng. Các ngành khoa học cơng nghệ đã gắn bó hơn với
sản xuất và đời sống. Nhiều thành tựu khoa học và công nghệ mới đã được ứng
dụng, góp phần quan trọng vào việc nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả
trong các ngành sản xuất nơng nghiệp, y tế, bưu chính viễn thông, giao thông vận
tải, xây dựng, năng lượng..., xây dựng và củng cố quốc phòng an ninh.
Phương hướng phát triển
Nâng cao trình độ người lao động bằng cách phát triển giáo dục đào tạo đặc biệt là
đào tạo nghề. Nâng cao chất lượng hiệu quả giáo dục đào tạo nghề, nhằm đẩy
mạnh phát triển nguồn lao động cả về số lượng và chất lượng.
Hoàn thiện cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để hoàn thiện
quan hệ sản xuất.
-


Tăng cường những bước cơ bản về cơ sở vật chất cho khoa học – công nghệ, tập
trung xây dựng một số phịng thí nghiệm đạt trình độ tiên tiến trong khu vực trên
các lĩnh vực công nghệ trọng điểm như cơng nghệ thơng tin, cơng nghệ sinh học,
hóa dầu….

Về quản lý, trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải có sự quản
lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế
bằng pháp luật, chiến lược, kế hoạch, chính sách đồng thời sử dụng cơ chế thị
trường, các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý kinh tế thị trường để kích
thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy tính tích cực và hạn chế những
mặt tiêu cực
- Một số thành tựu nổi bật
Có thể nói qua 30 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, tư tưởng, đường lối
phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN đã được thể chế hóa thành pháp
luật, tạo hành lang pháp lý cho nền kinh tế vận hành có hiệu quả. Cụ thể, Quốc hội
đã ba lần sửa đổi và ban hành Hiến pháp, sửa đổi và ban hành trên 150 bộ luật và
luật, trên 70 pháp lệnh. Gần đây nhất, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp 2013 và
hàng loạt bộ luật để thể chế hóa Hiến pháp 2013, cơ bản đã tạo cơ sở pháp lý hình
thành và thúc đẩy việc hồn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN.
So với thời kỳ trước đổi mới, diện mạo đất nước có nhiều thay đổi, kinh tế duy trì
tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng, đời sống nhân dân
từng bước được cải thiện đồng thời tạo ra nhu cầu và động lực phát triển cho tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Giai đoạn đầu đổi mới (1986-1990) với mức tăng trưởng GDP bình quân hằng năm
chỉ đạt 4,4%, qua 30 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã có kết quả tăng trưởng
rất ấn tượng. Giai đoạn 1991-1995, GDP bình quân tăng 8,2%/năm, gấp đơi so với
5 năm trước đó. Giai đoạn 2006-2010, do suy giảm kinh tế thế giới, Việt Nam vẫn
đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 6,32%/năm. Đặc biệt, giai đoạn 2011-2015,
dù chịu tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu (năm 2008) và khủng
hoảng nợ công (năm 2010), tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam vẫn đạt
5,9%/năm, là mức cao của khu vực và thế giới. Lực lượng sản xuất có nhiều tiến
bộ cả về số lượng và chất lượng; chất lượng tăng trưởng có mặt được cải thiện,
trình độ cơng nghệ sản xuất có bước được nâng lên. Đóng góp của yếu tố năng suất
tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng nếu ở giai đoạn 2001-2005 chỉ đạt 21,4% thì trong
giai đoạn 2011-2015 đã đạt 28,94%.

Hiện nay, cơ cấu kinh tế của Việt Nam đã bước đầu chuyển dịch theo hướng hiện
đại. Kinh tế nông thôn, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp, đã chuyển dần từ sản xuất
nhỏ, manh mún sang sản xuất hàng hóa, gắn với nhu cầu thị trường và trên cơ sở
phát huy lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới. Cơ cấu ngành kinh tế chuyển dịch


theo hướng giảm khu vực nông nghiệp, tăng khu vực dịch vụ và cơng nghiệp.
Chúng ta đã hình thành một số vùng kinh tế trọng điểm nhằm tạo động lực và sức
lan tỏa phát triển, trên cơ sở khai thác và phát huy tiềm năng, lợi thế của vùng.
Nhiều khu cơng nghiệp, khu đơ thị lớn được hình thành. Đội ngũ doanh nghiệp,
doanh nhân được tôn vinh và ngày một phát triển; trở thành lực lượng quan trọng
để thực hiện đường lối cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cơ cấu lao động có sự
chuyển đổi tích cực gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cơ cấu hàng
hóa xuất khẩu có cải thiện đáng kể. Kim ngạch xuất khẩu thường xuyên tăng với
tốc độ hai con số, giai đoạn 2011-2015 tăng đến 18%/năm. Xuất khẩu chuyển dịch
theo hướng tăng dần tỉ trọng sản phẩm công nghiệp và giảm dần tỉ trọng sản phẩm
nông nghiệp, giảm dần sản phẩm ngun liệu thơ. Đã hình thành các vùng kinh tế
trọng điểm để làm động lực cho phát triển kinh tế vùng, miền và cả nước.
30 năm đổi mới cũng là chặng đường Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng
trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, theo nguyên tắc và chuẩn mực của thị
trường toàn cầu. Hiện nay đã có 59 quốc gia cơng nhận nền kinh tế Việt Nam là
nền kinh tế thị trường, trong đó có các đối tác thương mại lớn của Việt Nam.
Chúng ta cũng đã tham gia ký kết 10 Hiệp định thương mại tự do khu vực và song
phương (gồm 6 FTA ký kết với tư cách là thành viên ASEAN; 4 FTA đàm phán với
tư cách là một bên độc lập); hoàn tất đàm phán FTA với Liên minh Châu Âu và
TPP; đang tích cực đàm phán 3 FTA khác (ASEAN - Hong Kong; EFTA; RCEP).
Việc tham gia ký kết và đàm phán tham gia các FTA có tác động tích cực tới phát
triển kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm,
đặc biệt đến nay Việt Nam đã tham gia vào 3 chuỗi giá trị có vai trị quan trọng đối
với nền kinh tế tồn cầu đó là chuỗi giá trị lương thực và an ninh lương thực; chuỗi

giá trị năng lượng và an ninh năng lượng (dầu mỏ, khí, than) và chuỗi giá trị hàng
dệt may, da giày.
Tuy nhiên tổng kết chặng đường thực hiện cơng nghiệp hóa hiện đại hóa
những năm qua, Đảng cũng đã chỉ ra được những sai lầm, khuyết điểm yếu kém để
hoàn thiện hơn nữa cơng cuộc đổi mới đất nước. Đó chính là những tư tưởng chủ
quan, nóng vội đi lên hiện đại hóa trong khi chưa phát triển được một quan hệ sản
xuất phù hợp với lực lượng sản xuất ngày càng phát triển. Phải phát triển một cách
đồng bộ quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, vận dụng
một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn đất nước. Đi kèm theo đó là
việc bồi dưỡng, đào tạo những người đủ tài đủ đức phục vụ cho đất nước. Có như
vậy mới có thể đưa nền kinh tế nước ta tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc trên
con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, hoàn thành tâm nguyện của Hồ Chủ Tịch :
“...nhân dân ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành...”. Với những
bước đi nhanh, chắc và vững mạnh, biết tận dụng thời cơ đi tắt đón đầu, việc thực


hiện những mục tiêu trên đối với toàn thể nhân dân ta cùng với sự lãnh đạo của
Đảng và Nhà nước sẽ được thực hiện một cách dễ dàng và nhanh chóng.

C. KẾT LUẬN
Triết học là bộ phận khơng thể thiếu của đời sống xã hội, và lực lượng sản xuất
cũng là một yếu tố hết sức quan trọng trong việc phát triển kinh tế của bất kỳ một
quốc gia nào trên thế giới. Và Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ. Từ sự
nhận thức đúng đắn về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất,
nước ta đã có những khởi sắc đáng kể trong nền kinh tế dưới sự lãnh đạo của Đảng
và chính sách của Nhà nước. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta
đã có nhiều thay đổi đáng kể như trình độ của tư liệu sản xuất, nhất là công cụ lao
động được cải tiến, khoa học công nghệ được ứng dụng nhiều vào sản xuất, trình
độ kĩ năng của người lao động khơng ngừng tăng lên nhưng so với yêu cầu của nền
sản xuất hiện tại, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta vẫn cịn nhiều

hạn chế. Vì vậy, cần phải có những giải pháp thiết thực, hiệu quả nhằm phát triển
lực lượng sản xuất ở nước ta đáp ứng u cầu đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập quốc tế.
Đó là một trong những thành tựu quan trọng mà Đảng cùng nhân dân ta đã đạt
được trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế như ngày nay. Có thể nói giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có mối quan hệ biện chứng khơng thể tách rời
trong đó lực lượng sản xuất giữ vai trò nội dung quyết định, còn quan hệ sản xuất
giữ vai trị hình thức của phương thức sản xuất. Vậy nên chúng ta cần phải hiểu và
vận dụng một cách tốt nhất những quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, trên thực tế không phải lúc nào cũng
có được sự phù hợp tuyệt đối giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, nhưng phải tùy theo tình hình phù hợp mà chọn giải pháp phù hợp.
Đặc biệt sản xuất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất còn nhiều lộn xộn
trong việc nghiên cứu sử dụng và phát triển các phương thức sản xuất. Nếu chúng
ta vận dụng đúng các quy luật trên cộng với điều hòa quan hệ lực lượng sản xuất
thì khơng lâu sau nữa nước ta sẽ tiến nhanh cùng với các quốc gia khác trên con
đường cơng nghiệp hóa-hiện đại hóa mà Đảng và Nhà nước đã hướng tới.
Với những thành tựu mà nước ta đã đạt được, ta thấy hiệu quả của việc Đảng và
Nhà nước ta đã nhạy bén với thời cuộc, xem xét và nắm bắt tình hình nước ta một
cách chính xác để đưa ra các chính sách phù hợp và không thể phủ nhận hiệu quả
của việc vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng
sản xuất của nước ta trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay. Những thực tế


trên đã cho thấy tầm quan trọng của quy luật “quan hệ sản xuất phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất”. Mối quan hệ giữa chúng khơng chỉ góp phần
vào việc phát triển nền kinh tế mà cịn có những đóng góp to lớn cho cơng cuộc đổi
mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Tóm lại, quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là hai mặt không thể thiếu của quá
trình sản xuất vật chất, tạo ra sản phẩm phục vụ cho đời sống của, có mối quan hệ

chi phối những quá trình khác trong đời sống của con người. Và nhất là quan hệ
sản xuất và lực lượng sản xuất nếu phù hợp với nhau sẽ tạo ra tiền đề phát triển
mạnh mẽ trong nền kinh tế. Hiểu được quy luật giữa chúng là hiểu được quy luật
phát triển của tồn xã hội, từ đó có những biện pháp để phát triển đất nước một
cách toàn diện và mạnh mẽ.

Danh mục tài liệu tham khảo
1. Giáo trình triết học Mác-Lênin, bộ giáo dục và đào tạo, NXB Chính trị quốc gia
Hà Nội,2007
2. Hỏi đáp triết học Mác-Lênin, trường đại học kinh tế TP. Hồ Chí Minh
3. Tìm hiểu học thuyết Mác-Lênin về hình thái kinh tế xã hội, NXB Chính trị Quốc
gia Hà Nội, 1997
4. C.Mác và Ăngghen tồn tập, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 1994
5. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV, NXB Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1976
6. Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ V,NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1986
7. Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VI, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội,
1991
8. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,NXB Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1997
9. Văn kiện hội nghị lần 2 ban chấp hành trung ương Đảng khóa VII
10. Tìm hiểu triết học Mác-Lênin tập 3, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 2000
11. Ngồi ra bài viết còn tham khảo một số tài liệu từ các trang
Bachkhoatoanthu.gov.vn
Dangcongsan.vn




×