Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của đảng cộng sản việt nam trong thời kỳ đổi mới cơ hội, thách thức và một số vấn đề đặt ra hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.52 KB, 15 trang )

CHỦ TRƯƠNG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI- CƠ HỘI,
THÁCH THỨC VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA HIỆN NAY
TS. Vương Thị Bích Thủy
Trường ĐH Sư phạm, Đại học Đà Nẵng
1.

Đặt vấn đề

Việt Nam thực hiện đường lối đổi mới xây đất nước trong bối cảnh toàn cầu
hóa kinh tế phát triển mạnh mẽ trên thế giới. Gần 30 năm qua, mặc dù tình hình thế
giới và khu vực có những diễn biến nhanh chóng, phức tạp nhưng trong các kỳ đại hội
của Đảng, Đảng ta luôn có những nhận thức, đánh giá đúng đắn về thời đại, về toàn
cầu hóa kinh tế và những tác động của nó đến các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội để trên cơ sở đó hoạch định đường lối chiến lược và thực thi các chủ trương, chính
sách, giải pháp nhằm đưa đất nước chủ động hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế
giới, bảo đảm đúng định hướng XHCN. Để nhận diện rõ hơn về quá trình phát triển
đất nước trong 30 năm qua, bài viết tập trung làm rõ Chủ trương Hội nhập kinh tế
quốc tế của Đảng cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới- cơ hội, thách thức và một
số vấn đề đặt ra hiện nay.
2. Nội dung
2.1. BẢN CHẤT CỦA TOÀN CẦU HÓA KINH TẾ VÀ TÍNH TẤT YẾU
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
2.1.1. Bản chất của toàn cầu hóa kinh tế
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế nổi bật của kinh tế thế giới
đương đại. Toàn cầu hóa kinh tế là quá trình tăng lên mạnh mẽ sự tác động, phụ thuộc
lẫn nhau giữa các quốc gia, dân tộc, các khu vực trên thế giới; là kết quả tất yếu của
quá trình xã hội hóa sản xuất, của tốc độ phát triển nhanh của lực lượng sản xuất, bắt
nguồn tự sự thúc đẩy của khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại; nó là kết quả tất
yếu của sự phát triển sâu rộng nền kinh tế thị trường trên toàn thế giới, sự gia tăng
phân công lao động quốc tế, sự mở rộng hơn nữa các mối quan hệ giao lưu phổ biến


của loài người. Nói cách khác, toàn cầu hóa là kết quả của các quá trình tích lũy về số
lượng đã tạo ra một khối lượng tới hạn để lượng biến thành chất mới [1, tr 71]. Nó là
một trong những xu thế lịch sử tất yếu do quy luật phát triển của lực lượng sản xuất
chi phối, không thể đảo ngược, cũng không thể chối từ.
Phải thừa nhận là, toàn cầu hóa kinh tế như nó đang diễn ra hiện nay đang bị
các nước tư bản phát triển chi phối, thao túng, thúc đẩy vì lợi ích của mình. Tuy nhiên,
cũng cần phải thấy rằng, toàn cầu hóa kinh tế– về bản chất – không hoàn toàn thuộc
về CNTB, cũng không hoàn toàn thuộc về một số nước tư bản phát triển ở phương
Tây, mà là yêu cầu nội tại để lực lượng sản xuất của loài người phát triển . Lực lượng
sản xuất phát triển tất yếu đòi hỏi một quan hệ sản xuất tương thích với nó. Nhưng, từ
trong bản chất của nó, toàn cầu hóa kinh tế mà các nước tư bản khởi xướng hiện nay
chỉ là mượn toàn cầu hóa lực lượng sản xuất để đẩy mạnh toàn cầu hóa quan hệ sản
1

1


xuất TBCN. Đây cũng là quá trình áp đặt lợi ích và các giá trị phương Tây trên phạm
vi toàn cầu, kéo theo việc phổ biến hóa những mâu thuẫn căn bản của CNTB. Cuộc
đấu tranh của nhân dân thế giới vì một trật tự mới, công bằng, vì một toàn cầu hóa
bình đẳng, dân chủ và tiến bộ - vì thế - sẽ càng gay gắt và khốc liệt hơn. Điều đó cho
thấy, toàn cầu hóa kinh tế còn là một quá trình chính trị - xã hội và văn hóa mang tính
giai cấp, tính lịch sử cụ thể. Sự đan xen giữa những lợi ích khác nhau đã làm cho toàn
cầu hóa – về thực chất – trở thành một quá trình hết sức phức tạp, đầy mâu thuẫn,
chứa đựng cả mặt tích cực lẫn tiêu cực đối với từng quốc gia cũng như toàn thể nhân
loại. Đại hội IX của Đảng xác định “Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan,
lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia;… vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực,
vừa có hợp tác vừa có đấu tranh”[6, tr. 64].
Như vậy, có thể thấy, toàn cầu hóa kinh tế hàm chứa nhu cầu tự thân của một
sự tiến hóa lịch sử, của sự công bằng, dân chủ, bình đẳng và văn minh, nhưng nó cũng

là một quá trình kinh tế - xã hội chứa đựng những bất bình đẳng, bất công và nghịch
lý. Do đó, chúng ta chỉ quan niệm toàn cầu hóa kinh tế hiện nay như một tất yếu xã
hội mang tính lịch sử, cụ thể; nó có thể thay đổi vì lợi ích và do hoạt động của con
người [11, tr 182].
Trước xu thế của toàn cầu hóa kinh tế, không một quốc gia nào có thể đứng
tách ra khỏi cộng đồng quốc tế. Sự xã hội hóa mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, sự
phát triển vượt bậc của khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại đã làm nảy sinh nhu
cầu hợp tác đa dạng, nhiều chiều, ổn định và bền vững trên phạm vi toàn cầu. Mỗi
nước trở thành một bộ phận hữu cơ của thế giới, nền kinh tế của mỗi nước đặt trong
sự phụ thuộc và mối quan hệ qua lại với nền kinh tế khu vực và thế giới. Vì vậy, toàn
cầu hóa đòi hỏi phải mở cửa và hội nhập quốc tế. Đó là xu thế chung, phổ biến cho tất
cả các quốc gia.
2.1.2. Tính tất yếu hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Hội nhập kinh tế quốc tế là một tiến trình khách quan phát sinh và phát triển từ
xu thế toàn cầu hóa kinh tế, là kết quả tất yếu của sự phát triển sâu rộng nền kinh tế thị
trường trên thế giới. Đó là quá trình các quốc gia thực hiện chính sách mở cửa, mở
rộng quan hệ hợp tác kinh tế, gia nhập, trở thành thành viên của các tổ chức kinh tế,
tài chính quốc tế và tham gia giải quyết những vấn đề toàn cầu. Đó cũng là quá trình
loại bỏ dần các rào cản trong thương mại quốc tế, thanh toán quốc tế để tạo điều kiện
thuận lợi cho việc lưu chuyển các nhân tố sản xuất giữa các nước.
Cơ sở khách quan của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là dựa trên sự phân
công lao động quốc tế. Sự phân công này qua nhiều cầu nối trung gian đã liên kết nền
kinh tế giữa các quốc gia tạo thành sự phát triển quốc tế hóa sản xuất, trao đổi và tiêu
thụ. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ hiện đại cùng với việc mở rộng
không ngừng thị trường thế giới đã làm cho phân công lao động quốc tế vừa phổ cập
trên diện rộng lại vừa phát triển theo chiều sâu. Yêu cầu nội tại của sự phát triển kinh
tế đã thúc đẩy các nước thông qua trao đổi, tín dụng và đầu tư để liên kết với nhau,
hình thành các mối quan hệ phụ thuộc, ràng buộc, nương tựa và chế ước lẫn nhau.
Đặc trưng nổi bật nhất của hội nhập kinh tế quốc tế là các nguồn lực cho phát
triển kinh tế (nguồn vốn, khoa học và công nghệ, nguồn nhân lực, tài nguyên thiên

2

2


nhiên…) ngày càng vượt ra khỏi biên giới quốc gia, chuyển dịch, lưu động và phát
triển ngày càng tự do trong khu vực và trên toàn cầu. Sự lưu động của các nguồn lực
này ngày càng toàn diện, bao gồm trong đó tất cả các loại hàng hóa thương phẩm, dịch
vụ, tài chính, lao động, kĩ thuật… Việc hình thành các phương thức lưu động quốc tế
về các nguồn tài nguyên cho sản xuất giữa các nước đã đẩy tới việc hình thành các tổ
chức kinh tế - tài chính chung. Xu thế khu vực hóa, nhất thể hóa nền kinh tế thế giới
với các quan hệ song phương và đa phương ngày càng trở nên nổi bật. Việc hình
thành tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ tiền tệ
quốc tế (IMF), Diễn đàn hợp tác Á – Âu (ASEM), Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á –
Thái Bình Dương (APEC), Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và hàng trăm tổ
chức khác nhau đã trở thành những chiếc cầu nối liên kết các nền kinh tế trên thế giới
với nhau.
Như vậy, hội nhập kinh tế quốc tế về bản chất là một trạng thái vận động, phát
triển của các yếu tố sản xuất, là quá trình liên kết chặt chẽ nền kinh tế giữa các nước
trên thế giới.Xu hướng phát triển của hội nhập là ngày càng phá vỡ tính hạn hẹp, tình
trạng biệt lập, đóng cửa của nền kinh tế các dân tộc để vươn ra rộng hơn trong không
gian toàn cầu. Hội nhập thúc đẩy các nước đẩy nhanh quá trình mở cửa nền kinh
tế;theo đó, mức độ phụ thuộc vào nhau giữa các quốc gia ngày càng sâu sắc, lợi ích
của họ gắn liền, ràng buộc, đan xen chặt chẽ với nhau.Nhìn từ tầng sâu, hội nhập kinh
tế quốc tế là xu thế tất yếu, không thể tránh khỏi, đó là một tiến trình hai mặt, vừa hợp
tác toàn diện, vừa đấu tranh và cạnh tranh gay gắt, vừa đem đến nhiều cơ hội, đồng
thờivừa ẩn chứa nhiều thách thức và rủi ro.
Do sự khác nhau về thể chế chính trị và mô hình phát triển kinh tế - xã hội, cho
nên các nước tham gia vào hội nhập vừa có lợi ích chung, vừa có mưu đồ, tính toán
riêng. Lợi ích chung là chất kết dính tạo động lực thúc đẩy các nước tăng cường hợp

tác quốc tế, còn mâu thuẫn, sự đối lập về lợi ích là căn nguyên dẫn đến xung đột. Vì
vậy, các nước đứng trước những lựa chọn khác nhau về giải pháp chiến lược để phát
triển, trong đó điều hòa và thỏa hiệp đang trở thành biện pháp chủ yếu để các nước
giải quyết mâu thuẫn và đấu tranh với nhau nhằm xây dựng một trật tự kinh tế thế giới
mới công bằng, bình đẳng, văn minh và tiến bộ.
Trên con đường xây dựng đất nước theo định hướng XHCN, trong bối cảnh
toàn cầu hóa kinh tế phát triển mạnh mẽ, tác động đến tất cả các quốc gia, dân tộc trên
thế giới, Việt Nam không có sự lựa chọn nào tốt hơn là mở rộng quan hệ đối ngoại,
từng bước đưa nền kinh tế đất nước hội nhập với khu vực và toàn cầu.
2.2. CHỦ TRƯƠNG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA ĐẢNG VÀ
NHÀ NƯỚC TA TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
2.2.1. Chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước ta từ
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đến Đại hội X (2006)
Chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã được đề cập đến trong
nhiều nghị quyết quan trọng của Đảng và Nhà nước ta. Tại Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ VI (12/1986), trên cơ sở phân tích bối cảnh quốc tế và tình hình đất nước,
Đảng ta đã chủ trương phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong
điều kiện mới. Đại hội VI đã đề ra yêu cầu mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với các
3

3


nước ngoài hệ thống xã hội chủ nghĩa, với các nước công nghiệp phát triển, các tổ
chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi.
Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng, bước khởi đầu cho tiến trình hội nhập kinh
tế quốc tế của Việt Nam được đánh dấu bằng chủ trương thực hiện đường lối đối
ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế được
triển khai từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (tháng 6 năm 1991). Với chính sách
đối ngoại rộng mở, Đại hội VII chủ trương “hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất

cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị-xã hội khác nhau trên cơ sở nguyên tắc
cùng tồn tại hòa bình. Với phương châm “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước
trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”[4, tr 147]. Thực
hiện chủ trương này, Việt Nam đã tích cực thúc đẩy mối quan hệ với các nước, chủ
động tham gia vào các tổ chức hợp tác quốc tế.
Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam được đánh dấu từ ba sự kiện
lớn trong năm 1995: đó là đàm phán Hiệp định thương mại với Hoa Kỳ (BTA), gia
nhập Hiệp hội các nước Đông Nam Á, tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN và
nộp đơn xin gia nhập WTO; trong đó đàm phán Hiệp định thương mại tự do với Hoa
Kỳ (BTA) là mũi đột phá quan trọng giúp Việt Nam vượt qua một rào cản lớn để từng
bước tiến vào thị trường thế giới. Tháng 07 năm 1995, Việt Nam gia nhập ASEAN.
Từ sân chơi khu vực, Việt Nam nộp đơn xin đàm phán gia nhập WTO để tham gia vào
sân chơi rộng lớn toàn cầu.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (tháng 06/1996), sau 10 năm thực hiện
đường lối đổi mới, đất nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội, chủ trương hội
nhập kinh tế quốc tế của Đảng mới được thể hiện rõ ràng và mạnh mẽ hơn. Với
phương châm đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại, Đảng đã nhấn mạnh chủ
trương xây dựng nền kinh tế mở, hướng mạnh về xuất khẩu và kêu gọi đầu tư nước
ngoài. Tại Đại hội này Đảng quyết định “tiếp tục đổi mới cơ chế kinh tế đối ngoại,
đẩy nhanh quá trình hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới”.
Cụ thể hóa một bước chủ trương nêu trên, Nghị quyết Trung ương 4, khóa VIII
(tháng 12-1997) đã nêu rõ nguyên tắc hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta là tích cực
và chủ động thâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế, đồng thời đề cao nhiệm vụ
“Chủ động chuẩn bị các điều kiện cần thiết về cán bộ, luật pháp và nhất là về những
sản phẩm mà chúng ta có khả năng cạnh tranh để hội nhập thị trường khu vực và thị
trường quốc tế”. Lần đầu tiên các thuật ngữ như “hội nhập quốc tế”, “tích cực và chủ
động hội nhập” hoặc “chủ động tham gia cộng đồng thương mại thế giới” hay “gia
nhập các tổ chức APEC, WTO” được khẳng định mạnh mẽ, tạo ra một chỗ dựa tin cậy
cho toàn bộ đối ngoại của nước ta trong thời kỳ này.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế ngày càng phát triển mạnh mẽ, chủ trương

hội nhập kinh tế quốc tế của Đại hội VIII đã được Đại hội IX (2001) phát triển và
nâng lên một tầm cao mới với phương châm “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và
khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo
đảm độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh
quốc gia, giữ vững bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường” [6, tr 120].Cũng tại
Đại hội này, lần đầu tiên Đảng và Nhà nước ta đưa ra chủ trương xây dựng nền kinh tế
4

4


độc lập tự chủ và chủ trương gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ với
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Với chủ trương này, chúng ta đã tích cực chủ động đẩy mạnh quá trình cải
cách, đổi mới trong nước, tích cực chuẩn bị các điều kiện về cơ cấu lại nền kinh tế,
hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách phát triển kinh tế, cải thiện môi
trường đầu tư, nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam. Nghị
Quyết 07 của Bộ chính trị về Hội nhập kinh tế quốc tế (ngày 27/11/2001) đã nêu rõ
những nguyên tắc nhất quán chỉ đạo quá trình hội nhập kinh tế của đất nước. Nghị
quyết quán triệt: Hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân, của các thành
phần kinh tế, của toàn xã hội, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; đó là quá
trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh và cạnh tranh gay gắt, vừa có nhiều cơ hội, vừa
không ít thách thức… Kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu
giữ vững an ninh, quốc phòng, thông qua hội nhập để tăng cuờng sức mạnh tổng hợp
của quốc gia, cảnh giác với những mưu toan thông qua hội nhập để thực hiện ý đồ
"diễn biến hòa bình" đối với nước ta.
Đại hội IX của Đảng đã khẳng định trước mắt chúng ta có nhiều cơ hội lớn và
những thách thức lớn. Chúng ta cần nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức, đẩy nhanh
sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên, làm được điều đó thật không dễ, bởi cơ hội tồn
tại khách quan nhưng không tự nhiên đến. Cũng cần phải nhận thức rõ ràng, khi có cơ

hội, thì cũng thấy đó là một thách thức. Chúng ta cần phát huy tối đa nội lực, tăng
cường thực lực kinh tế, tích cực và chủ động tham gia, hội nhập vào nền kinh tế khu
vực và thế giới, đồng thời phải có bản lĩnh cân nhắc một cách cẩn trọng các yếu tố bất
lợi để vượt qua.
Phát triển đường lối của Đại hội IX, Đại hội X (năm 2006) của Đảng kiên trì
chính chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế.
Phát triển tư tưởng được nêu ra trong các đại hội trước, Đại hội X một lần nữa nhấn
mạnh “Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế” đồng
thời khẳng định rõ mong muốn của Việt Nam “tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác
quốc tế và khu vực”. Trong bối cảnh nước ta đang đứng trước ngưỡng cửa của sự hội
nhập đầy đủ, hoàn toàn vào nền kinh tế thế giới (với việc nỗ lực hoàn tất các thủ tục
để gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới – WTO), Đại hội X nêu cao nhiệm vụ “Tạo
bước ngoặt về hội nhập kinh tế quốc tế và hoạt động kinh tế đối ngoại…, chủ động,
tích cực hội nhập kinh tế sâu hơn và đầy đủ hơn với khu vực và thế giới” [7, tr 112].
Hiện nay tình hình thế giới đang diễn biến phức tạp, cuộc khủng hoảng tài chính-kinh
tế bắt đầu từ năm 2008 vẫn chưa kết thúc, Đại hội XI của Đảng vẫn nêu cao quyết tâm
“Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế ngày càng sâu rộng” [8, tr 71].
Như vậy là, từ Đại hội VI đến Đại hội X, tư tưởng và chủ trương hội nhập kinh
tế quốc tế đã có những bước phát triển quan trọng với những nội dung mới, vừa đáp
ứng đòi hỏi trong nước vừa phù hợp với xu thế chung của thời đại: từ hội nhập – đến
chủ động hội nhập; tích cực và chủ động hội nhập – đến chủ động, tích cực hội nhập
kinh tế sâu hơn và đầy đủ hơn với khu vực và thế giới; từ hội nhập kinh tế quốc tế đến hội nhập quốc tế.
2.2.2. Những điểm mới trong chủ trương hội nhập quốc tế của Đảng từ
5

5


Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (2011) đến nay

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (2011) trên cơ sở phân tích, đánh giá tình
hình quốc tế và điều kiện trong nước đã bổ sung, phát triển đường lối, chính sách đối
ngoại của Việt Nam trong giai đoạn mới. Nhìn chung, đường lối đối ngoại của Đại hội
XI là sự kế thừa, tiếp nối đường lối đối ngoại của các Đại hội trước, đồng thời, có
những bước phát triển mới ở tầm cao hơn. Trong tổng thể, Hội nhập quốc tế đã trở
thành định hướng đối ngoại lớn. Đây là bước phát triển rất quan trọng đánh dấu sự
thay đổi về chất trong tư duy đối ngoại của Đảng, phù hợp với những thay đổi trong
quan hệ quốc tế hiện nay, phù hợp với thế và lực của đất nước sau 25 năm đổi mới.
Phương châm của hội nhập vẫn là “tích cực và chủ động”, nhưng điểm mới
củaĐại hội XI là đã nhấn mạnh tính chất, trình độ hội nhập quốc tế của nước ta trong
những năm tới. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định tiếp tục: “Thực hiện nhất quán đường
lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng
hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì
lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn,
đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự
nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới” [8, tr 236]. Ở
đây Đảng đã phát triển chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế,
đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực khác” của Đại hội X sang chủ
trương “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”.
Thực hiện chủ trương hội nhập quốc tế một cách toàn diện và ngày càng sâu
rộng hơn, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020của Đảng xác định rõ
nhiệm vụ: “Phải không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế và sức mạnh tổng hợp của
đất nước để chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng và có hiệu quả”.Tiềm lực
kinh tế là yếu tố căn bản, cốt lõi của nền kinh tế. Có tiềm lực kinh tế mạnh, nền kinh
tế mới có khả năng độc lập, tự chủ, mới đứng vững trong hội nhập quốc tế. Trong bối
cảnh kinh tế thế giới đang đối mặt với những khó khăn, thách thức mới (như nợ công
ở Mỹ, Nhật Bản và các nước trong Liên minh Châu Âu; lạm phát tăng nhanh ở hầu
hết các nước, giá cả nguyên vật liệu, năng lượng, lương thực, thực phẩm tăng; bất ổn
chính trị-xã hội có nguy cơ lan rộng…) thì việc giữ vững và tăng cường tiềm lực kinh

tế càng có ý nghĩa quan trọng hơn bao giờ hết. Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh vai trò
quyết định của tiềm lực kinh tế quốc gia trong việc nâng cao trình độ hội nhập quốc tế
có lợi cho đất nước. Chỉ bằng cách đó chúng ta mới có đủ sức mạnh vững bước tiến
vào thị trường thế giới, mới hội nhập quốc tế một cách sâu rộng và có hiệu quả.
Từ “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác
quốc tế trên các lĩnh vực khác” đến “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” cho thấy
một sự thay đổi mạnh bạo, đầy quyết tâm của Đảng và nhà nước ta trong lộ trình hội
nhập. Với chủ trương này phạm vi của hội nhập được mở rộng, không còn giới hạn
trong lĩnh vực kinh tế mà hội nhập mang tính toàn diện hơn; trên cơ sở hội nhập kinh
tế, lấy hội nhập kinh tế làm trọng tâm, Đảng chủ trương từng bước mở rộng hội nhập
sang các lĩnh vực chính trị, quốc phòng - an ninh, văn hóa -xã hội và hội nhập ở mọi
cấp độ: song phương, khu vực, đa phương và toàn cầu.
6

6


Khi hội nhập quốc tế mở ra ở tất cả các lĩnh vực sẽ mang đến cho chúng ta
nhiều cơ hội, nhất là khả năng tranh thủ hiệu quả hơn các nguồn lực bên ngoài để đẩy
nhanh quá trình tự do hóa thương mại, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đây là xu thế tất
yếu, là con đường nhanh nhất để đưa nước ta tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá
trị toàn cầu trên cơ sở phát huy lợi thế cạnh tranh, cho phép chúng ta thu hút ngoại lực
và phát huy nội lực, tạo động lực thúc đẩy quá trình chuyển dịch, tái cấu trúc nền kinh
tế, tăng tốc phát triển, “đi tắt, đón đầu” rút ngắn khoảng cách so với các nước trong
khu vực và trên thế giới. Hội nhập kinh tế là nội dung then chốt, là nền tảng vững chắc
của quá trình hội nhập quốc tế toàn diện của Việt Nam. Việt Nam sẽ tiếp tục hội nhập
kinh tế ở nhiều tầng cấp khác nhau, từ đơn phương đến đa phương, song phương; liên
kết tiểu vùng, hội nhập khu vực và toàn cầu.
Cùng với hội nhập kinh tế, hội nhập trong các lĩnh vực chính trị, văn hóa, quốc
phòng-an ninh sẽ tạo cơ hội lớn hơn trong việc tiếp cận tri thức khoa học tiên tiến,

công nghệ hiện đại của nhân loại, tham gia ngày càng sâu rộng vào phân công lao
động quốc tế, có vị thế ngày càng cao trong quan hệ quốc tế. Hội nhập còn tạo ra động
lực mạnh mẽ để chúng ta tiếp tụccải cách sâu rộng bên trong, đổi mới toàn diện đất
nước, hướng tới xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh, xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa; giúp chúng ta tranh thủ các điều kiện duy trì an ninh, hòa
bình và ổn định để phát triển, đồng thời mở rộng khả năng hợp tác với các nước khác
giải quyết những vấn đề quan tâm chung của khu vực và thế giới.
Sự kiện Việt Nam gia nhập WTO là dấu mốc quan trọng trong tiến trình hội
nhập quốc tế của Việt Nam. Dấu mốc này mở ra những cơ hội lớn nhưng đồng thời
cũng đặt ra những thách thức không nhỏ mà Việt Nam sẽ gặp phải khi hội nhập quốc
tế sâu rộng. Vì vậy, ngay sau khi gia nhập WTO, Đảng ta đã ban hành Nghị quyết số
08-NQ/TW ngayf05/02/2007 về “Một số chủ trương chính sách lớn để nền kinh tế
phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế
giới”. Nghị quyết đã đề ra chương trình hành động để tận dụng cơ hội, vượt qua thách
thức, bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Tiếp tục thực hiện chủ trương hội nhâp quốc tế sâu rộng của Đại hội XI, ngày
10/4/2013, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW về hội nhập quốc tế.
Đây là văn kiện có ý nghĩa chiến lược quan trọng, làm rõ và thống nhất nhận thức
trong toàn Đảng, toàn dân về hội nhập quốc tế trong tình hình mới, khẳng định hội
nhập kinh tế vẫn là trọng tâm trong nội dung hội nhập toàn diện. Nghị quyết 22 đề cập
và xác định rõ các vấn đề lớn liên quan đến hội nhập quốc tế của nước ta hiện nay, từ
mục tiêu, quan điểm chỉ đạo, đến các nội dung cơ bản của hội nhập quốc tế trong các
lĩnh vực và các định hướng giải pháp lớn để triển khai thực hiện. Gần đây nhấtThủ
tướng Chính phủ cũng đã ban hành Quyết định số 596/QĐ-TTg ngày 23/4/2014 về
việc thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia về hội nhập quốc tế.Ban Chỉ đạo có nhiệm vụ
giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đề ra định hướng, chiến lược, các giải pháp lớn
liên quan đến hội nhập quốc tế; đề xuất những nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm về hội
nhập quốc tế cần tập trung chỉ đạo, điều hành trong từng giai đoạn.
Nhìn chung, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở;
đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, hội nhập kinh tế của nước ta đã không

ngừng phát triển và mở rộng. Tiến trình này diễn ra trên nhiều cấp độ: từ đơn phương
7

7


(nỗ lực tiến hành những cải cách kinh tế-xã hội trong nước), đến song phương và đa
phương (chủ động thúc đẩy hợp tác kinh tế khu vực và toàn cầu). Đến nay Việt Nam
đã thoát khỏi tình trạng nước nghèo, tiềm lực kinh tế, sức mạnh và vị thế của đất nước
được nâng cao trong khu vực và trên thế giới. Cùng với việc gia nhập các tổ chức
ASEAN, ASEM, APEC, WTO và ký các hiệp định thương mại tự do (FTA) với các
nước, các đối tác quan trọng trên thế giới đã tạo ra bước ngoặt mới trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế của đất nước, giúp nâng quan hệ kinh tế, thương mại của nước ta
với các đối tác lên một tầm cao mới. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trong 30 năm
qua đã thu được nhiều thành tựu quan trọng, tạo nên nền tảng để Việt Nam tiếp tục
đẩy mạnh hội nhập quốc tế sâu rộng hơn trong giai đoạn tiếp theo.
2.3.CƠ HỘI, THÁCH THỨC VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RAHIỆN NAY
2.3.1. Những cơ hội
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã lựa chọn chiến lược phát triển
nhanh và bền vững. Đó là chiến lược phát triển cân bằng giữa phát triển kinh tế, xã hội
và bảo vệ môi trường, hướng tới một xã hội phát triển giàu có, công bằng, dân chủ và
văn minh. Cùng với quá trình đổi mới đất nước, chúng ta ngày càng hội nhập sâu hơn
vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Với tiến trình này, Việt Nam đang đứng trước
nhiều cơ hội to lớn cho sự phát triển nhanh và bền vững.
Trước hết, nhờ hội nhập kinh tế quốc tế chúng ta tranh thủ được nguồn vốn,
khoa học kĩ thuật, công nghệ hiện đại và tiếp thu kinh nghiệm tổ chức, quản lý sản
xuất của các nước tiên tiến để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất
nước.Theo báo cáo của Bộ ngoại giao, sau 30 năm thực hiện đường lối đổi mới và hội
nhập quốc tế, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 170 nước, trong đómở
rộng quan hệ thương mại với hơn 155 nước, xuất khẩu hàng hoá tới trên 230 thị

trường của các nước và vùng lãnh thổ, ký kết trên 90 Hiệp định thương mại song
phương, gần 60 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 54 Hiệp định chống đánh
thuế hai lần và nhiều Hiệp định hợp tác về văn hoá song phương với các nước và các
tổ chức quốc tế [Xem: 2].
Với chiến lược phát triển kinh tế hướng về xuất khẩu và thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài, chúng ta đã bù đắp một cách có hiệu quả tình trạng thiếu vốn xây dựng
trong nước, tăng cường xây dựng tiềm lực kinh tế và cơ sở vật chất – kĩ thuật cho một
nước công nghiệp.Theo nguyên Bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển [12] sau
khi nước ta gia nhập WTOthì dòng vốn đầu tư FDI đã tăng mạnh. Trong năm 2007,
vốn FDI đăng ký tăng lên 21 tỷ 350 USD và năm 2008 đạt mức kỷ lục là trên 71,7 tỷ
USD. Đến năm 2012 vốn đầu tư nước ngoài đã chiếm 24% tổng đầu tư toàn xã hội,
khu vực FDI tạo ra 46,3% tổng giá trị sản xuất công nghiệp, 63,1% tổng giá trị xuất
khẩu cho nền kinh tế.
Trước xu thế toàn cầu hóa kinh tế, tích lũy vốn và tiến bộ nhanh về khoa học
công nghệ là cái gốc của sự tăng trưởng kinh tế. Tiếp tục duy trì mở cửa nền kinh tế sẽ
có điều kiện tăng cường hợp tác về khoa học và công nghệ. Thông qua giao lưu, hợp
tác để học tập, tiếp thu khoa học kĩ thuật, nhằm nâng cao trình độ và tiềm lực khoa
học công nghệ của đất nước.
8

8


Thứ hai,cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu. Việt Nam đã và đang tranh thủ
được nhiều cơ hội trong việc tự do hoá thương mại và mở cửa thị trường. Thời kỳ
2001-2010, tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa bình quân 17,42%, cao hơn
2,42% so với chỉ tiêu đề ra trong Chiến lược phát triển xuất khẩu 2001-2010.Tính
riêng trong giai đoạn từ 2007-2010, là giai đoạn sau khi gia nhập WTO, xuất khẩu
tăng bình quân 14% năm, nhập khẩu tăng bình quân 11% năm. Đến năm 2011, theo số
liệu của Tổng cục Thống kê, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 96,3 tỷ USD là mức

cao nhất từ trước tới nay, tăng 33,3% so với kỷ lục đạt được trong năm 2010. Cơ cấu
mặt hàng xuất khẩucủa Việt Nam giai đoạn 2001-2010 đã có sự chuyển dịch khá tích
cực theo hướng tăng dần tỷ trọng nhóm hàng chế biến và giảm dần hàng xuất khẩu
thô. Thị trường ngoài nước ngày càng mở rộng, đa dạng. Số lượng thị trường xuất
khẩu đã tăng gấp hơn 1,4 lần sau 10 năm, từ 160 thị trường lên trên 230 thị trường
[Xem: 12].
Năm 2015 là một thời điểm rất đặc biệt cho hội nhập kinh tế của Việt Nam với
những sự kiện quan trọng như: cuối năm 2015Việt Nam chính thức tham gia vào cộng
đồng kinh tế ASEAN (AEC). Đây là một khu vực kinh tế rộng lớn, phát triển năng
động với với quy mô thị trường hơn 600 triệu người, tạo nên một khu vực kinh tế lớn
gấp gần 7 lần thị trường Việt Nam hiện nay.Việt Nam đang nỗ lực với hy vọng hoàn
tất đàm phán Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương(TPP). Đây là Hiệp định
thương mại tự do lớn nhất khu vực, gồm 12 nước, bao trùm gần 40% GDP và 30%
thương mại toàn cầu. Hiệp định TPP sẽ mang lại nhiều cơ hội cho hàng hóa Việt Nam,
nhất là nhóm ngành dệt may, da giày, đồ gỗ, nông sản - những ngành vốn đang là thế
mạnh xuất khẩucủa Việt Nam trong nhiều năm qua- để mở rộng thị trường, gia tăng
xuất khẩu do thuế suất giảm sâu. Đầu năm 2015 chúng ta đã hoàn tất vòng đàm phán
cuối cùng về Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu
(EVFTA).Hiệp định Việt Nam-EU đang được đánh giá là có thể giúp Việt Nam tăng
GDP thêm từ 10-15% và giúp xuất khẩu của Việt Nam sang EU tăng từ 30-40%, nhập
khẩu vào Việt Nam tăng từ 20-25%.
Thứ ba, hội nhập kinh tế quốc tế thúc đẩy mạnh mẽ quá trình cải cách kinh tế,
đổi mới xã hội trong nước, nhất là những thay đổi trong chính sách phát triển kinh tế xã hội, những đổi mới về phương thức lãnh đạo của hệ thống chính trị, về cơ chế quản
lí kinh tế, quản lí xã hội của nhà nước và nhất là về thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng sẽ làm gia tăng
sự điều hòa chính sách kinh tế giữa nước ta và các nước. Đồng thời, tạo cơ hội cho
nước ta tham gia ngày càng nhiều vào các diễn đàn đa phương, góp phần bảo vệ lợi
ích dân tộc trên trường quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế giúp Việt Nam có điều kiện thúc đẩy điều chỉnh cơ
cấu sản xuất trong nước, nâng cao quy mô, hiệu quả kinh tế, tăng cường sức cạnh

tranh cho nền kinh tế để tham gia ngày càng nhiều hơn vào phân công lao động quốc
tế. Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tăng nhanh sự lưu thông của hàng hóa, dịch vụ, lao
động, kĩ thuật và các yếu tố sản xuất khác giữa các nước. Nó tạo điều kiện tốt cho sự
phát huy lợi thế của các ngành sản xuất trong nước, mở rộng thị trường, để tăng nhanh
xuất khẩu, tìm kiếm những đối tác mới phục vụ mục tiêu thay thế nhập khẩu một cách
có hiệu quả nhất. Điều đó sẽ giúp khai thác có hiệu quả nhất các nguồn lực trong nước
9

9


cho sự phát triển kinh tế nhanh và bền vững, giảm đáng kể việc sử dụng không hợp lý
trong bố trí lao động và sử dung các nguồn tài nguyên.
Như vậy, hội nhập kinh tế quốc tế đưa lại nhiều cơ hội để duy trì tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao. Từ khi tham gia hội nhập kinh tế khu vực và thế giới kinh tế nước
ta luôn giữ được đà tăng trưởng khá GDP tăng bình quân hàng năm 7%, giá trị sản
xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng bình quân 5,7% công nghiệp tăng bình quân 13,5%
các ngành dịch vụ tăng bình quân 6,8%. Tỉ lệ hộ nghèo từ trên 30% giảm xuống còn
10%.Thực tế, chúng ta đã tận dụng được những cơ hội do mở cửa hội nhập đưa lại,
góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế trong ba mươi năm đổi mới vừa qua, đưa nước ta
trở thành quốc gia có mức thu nhập trung bình; bên cạnh đó là thành tích ấn tượng về
xóa đói, giảm nghèo, ổn định xã hội và nâng cao mức hưởng thụ các giá trị văn hóa
cho người dân.Tuy nhiên, để hội đủ các yếu tố của chiến lược phát triển nhanh và bền
vững thì những thành tựu trên chưa thực sự vững chắc, vì nước ta đang đối mặt với
những thách thức to lớn.
2.3.2. Những thách thức
Trước hết, tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước tuy khá nhưng chất lượng tăng
trưởng chưa cao. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện thuận lợi cho nền
kinh tế nước ta tăng trưởng khá. Nhưng trong thời đại ngày nay sự giàu có của mỗi
quốc gia không phải được đo bằng tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh hay chậm mà chủ

yếu dựa vào chất lượng của sự tăng trưởng. Đây thực sự là một mâu thuẫn lớn trong
phát triển, một thách thức không dễ vượt qua đối với nước ta.
Nhìn tổng thể, tăng trưởng knh tế của nước ta hiện nay chủ yếu là do đầu tư,
khai thác tài nguyên và do nguồn vốn đóng góp đem lại. Nếu kéo dài tình trạng này
tăng trưởng kinh tế của nước ta sẽ không bền vững, vì sự tăng trưởng kinh tế nếu
không gắn liền với tiến bộ kỹ thuật mà chỉ đơn thuần dựa vào đầu tư tài nguyên thì tất
yếu sẽ bị chế ước bởi quy luật giảm dần về thu lợi. Hiện nay, quỹ đầu tư ở nước ta
phát triển nhanh, song nền kinh tế tăng trưởng chậm nên tỉ lệ thu về của đầu tư là rất
thấp. Trong nhiều năm qua tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nước còn chậm,
ngành dịch vụ được coi là một động lực thúc đẩy tăng trưởng nhưng tốc độ phát triển
quá chậm, chất lượng dịch vụ chưa được cải thiện, giá thành các ngành điện lực, bưu
chính viễn thông, giao thông… cao hơn rất nhiều so với thu nhập trung bình của
người lao động.
Tăng trưởng kinh tế làm giảm đói nghèo nhưng khoảng cách giàu nghèo giữa
các vùng và trong các tầng lớp dân cư đang có xu hướng gia tăng cùng với sự phân
tầng xã hội. Tình trạng bất bình đẳng trong các cơ hội đầu tư, giáo dục và chăm sóc
sức khỏe đang cản trở quá trình phát triển; việc bảo vệ môi trường sinh thái chưa được
chú ý. Tình trạng ô nhiễm ở đô thị, hồ, ao, sông, biển và nạn chặt phá rừng, cháy rừng
đã đến mức báo động, để lại những hậu quả khôn lường. Đây là những yếu tố đang
cản trở quá trình phát triển bền vững ở nước ta.Trên lộ trình đi tới hội nhập một cách
toàn diện, Việt Nam vẫn còn phải đối mặt với nhiều thách thức, nhiều bất cập khác
trong phát triển kinh tế-xã hội như năng suất lao động chưa cao, các cân đối vĩ mô
chưa vững chắc; về thu hẹp khoảng cách phát triển, vượt qua “bẫy” thu nhập trung
bình trong bối cảnh của dư chấn khủng hoảng tài chính toàn cầu còn diễn biến phức
tạp.
10

10



Thứ hai, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam còn thấp trong khi điều
kiện cạnh tranh trên thế giới nhày càng gay gắt.Chất lượng tăng trưởng do nhiều yếu
tố tạo nên, trong đó năng lực cạnh tranh là yếu tố then chốt. Nhìn chung, năng lực
cạnh tranh của nền kinh tế nước ta còn thấp. Khác với Nhật Bản và NICs châu Á ở
thập niên 1970 – 1980, do phát triển muộn nên khi tham gia hội nhập kinh tế, Việt
Nam chịu sức ép lớn hơn cạnh tranh quốc tế. Lợi ích cạnh tranh ngày nay không còn
là tài nguyên thiên nhiên hoặc lao động rẻ mà nghiêng về tiềm lực tri thức, công nghệ
và nguồn nhân lực chất lượng cao. Trong khi đó, Việt Nam tham gia cạnh tranh trên
thị trường thế giới với những đối thủ có lợi thế hơn về nhiều mặt từ trình độ công
nghệ, vốn, đến các mối quan hệ bạn hàng. Vì vậy, nếu không có sự chuẩn bị tích cực,
chu đáo thì Việt Nam sẽ bị thua thiệt trong hội nhập.
Hiện nay chất lượng hàng hóa, dịch vụ là một trở ngại lớn khi Việt Nam hội
nhập với quốc tế,bởi vì quy mô sản xuất của doanh nghiệp Việt vẫn rất nhỏ lẻ, việc
quản lý, kiểm định chất lượng hàng hóa còn nhiều khó khăn đã hạn chế sức cạnh tranh
của doanh nghiệp và ngành hàng.Theo Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF), năm 2014,
Việt Nam xếp thứ 68 về năng lực cạnh tranh,trong khu vực ASEAN chúng ta chỉ cao
hơn Lào, Campuchia và Myanmar. Trong khi đó, xếp hạng về thể chế lại rất thấp. Cụ
thể, về luật sở hữu, Việt Nam xếp thứ 104/144 quốc gia; về gánh nặng quy định của
Chính phủ, Việt Nam xếp thứ 101/144 quốc gia …
Hiện nay, “Việt Nam đang đàm phán 6 Hiệp định mậu dịch tự do mới: TPP,
FTA Việt Nam-EU, FTA Việt Nam-Liên minh thuế quan Nga, Kazakhstan, Belarus,
FTA Việt Nam-Hiệp hội mậu dịch tự do Châu Âu (EFTA), FTA Việt Nam-Hàn Quốc,
Hiệp định mậu dịch tự do ASEAN+6 (RCEP). Đây đều là những hiệp định có mức độ
tự do hoá cao hơn các hiệp định trước đây mà Việt Nam đã tham gia, trong đó TPP và
FTA Việt Nam-EU được coi là những hiệp định mậu dịch tự do thế hệ mới” [12].
Tham gia các Hiệp định này sẽ là sức ép rất lớn, đặt ra những thách thức nặng nề đối
với Việt Nam.
Thứ ba, chất lượng nguồn nhân lực còn hạn chế, chua đáp ứng tốt yêu cầu của
hội nhập. Xét về cả trước mắt và lâu dài, đây là nguồn lực quan trọng nhất, là “điểm
tựa” cho quá trình phát triển bền vững của Việt Nam. Để hội nhập quốc tế ngày càng

sâu rộng, Việt Nam phải có một nguồn nhân lực có chất lượng cao, có tri thức khoa
học, có khả năng tiếp thu, ứng dụng và làm chủ các công nghệ mới. Đây thực sự là
một thách thức lớn.
Việt Nam là một quốc gia có nguồn nhân lực trẻ, dồi dào nhưng tỉ lệ lao động
qua đào tạo còn thấp, chỉ chiếm khoảng 20%. Nguồn lao động này còn một số hạn chế
như trình độ chuyên môn nghề nghiệp chưa cao, chưa có kĩ năng và thói quen công
nghệ cần thiết, còn thiếu kiến thức về kinh tế thị trường. Nước ta đang phải đối mặt
với các vấn đề thiếu hụt nghiêm trọng lao động kĩ thuật cao, thiếu chuyên gia đầu
ngành thuộc các lĩnh vực kinh tế mũi nhọn, thiếu lao động thay thế những vị trí của
lao động nước ngoài đang làm việc tại Việt Nam. Các thể chế, chính sách về phát triển
và quản lý nguồn nhân lực, giải quyết vấn đề lao động và việc làm hiện nay vẫn còn
nhiều bất hợp lý. Tỷ lệ thất nghiệp càng cao, sự chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra
chậm, nhất là ở nông thôn. Đây chính là những lực cản làm giảm khả năng cạnh tranh
của nền kinh tế hiện nay.
11

11


Ngoài ra còn có những thách thức mới nảy sinh khi hội nhập đi vào chiều
sâu.Quá trình hội nhập càng đi vào chiều sâu sẽ kéo theo những tác động mạnh mẽ
đến nền kinh tế và nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Trước hết là yêu cầu
khắc phục những điểm nghẽn cản trở quá trình phát triển (như những yếu kém về kết
cấu hạ tầng, về giáo dục đào tạo nguồn nhân lực, về hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường, cải cách và hiện đại hóa nền hành chính nhà nước...) được đặt ra nhanh hơn
với mức độ và nội dung ngày càng sâu rộng hơn.
Hội nhập làm tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế nước ta vào thị trường bên
ngoài và, do vậy, khiến nền kinh tế dễ bị tổn thương trước những biến động của thị
trường quốc tế. Hội nhập có thể tạo ra một số thách thức mới đối với quyền lực Nhà
nước. Những bất ổn về an ninh, chính trị, văn hóa, xã hội từ bên ngoài sẽ nhanh chóng

tác động tới nước ta như các loại tội phạm xuyên quốc gia, tình trạng khủng bố quốc
tế, buôn lậu có tổ chức, dịch bệnh, nhập cư bất hợp pháp…và các thách thức an ninh
phi truyền thống khác có thể gây tác hại đến mọi mặt của an ninh quốc gia. Phạm vi
và tốc độ lây lan của các cú sốc từ bên ngoài cũng gia tăng nhanh hơn. Để giảm bớt
các tác động tiêu cực từ hội nhập quốc tế, Đảng cần xác định lộ trình hội nhập trong
các lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh và văn hóa - xã hội phù hợp với thế và lực
mới của đất nước, sao cho hội nhập quốc tế phục vụ hiệu quả nhất mục tiêu phát triển,
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Cũng cần nói thêm làhội nhập quốc tế với phạm vi mức độ liên kết ngày càng
sâu rộng như hiện nay đang làm nảy sinh thêm những thách thức mới mà Việt Nam
phải đối diện. Các đối tác trong các FTA thế hệ mới không chỉ yêu cầu mức độ cam
kết sâu hơn đối với những nội dung truyền thống như hàng hóa và dịch vụ mà còn yêu
cầu cam kết cả những nội dung phi truyền thống như nợ công với các khoản mua sắm
của chính phủ, khả năng chống tham nhũng, lao động, môi trường, thương mại điện
tử, doanh nghiệp nhà nước… Đây đều là các lĩnh vực mới, khó và nhạy cảm đối với
Việt Nam.
Như vậy, để phát triển bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu
rộng, nước ta đứng trước yêu cầu phải đầu tư theo chiều sâu để nền kinh tế đủ sức
cạnh tranh trên thị trường khu vực và thế giới. Ngoài ra, còn đứng trước những thách
thức trong việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, điều chỉnh hệ
thống pháp luật, cơ chế, chính sách để vừa đảm bảo cho hội nhập thành công, bảo đảm
cho nền kinh tế phát triển bển vững.Nếu không vượt qua những thách thức nói trên,
chúng ta sẽ không tận dụng được triệt để những cơ hội quý báu do hội nhập đem lại.
2.3.3. Một số vấn đề đặt ra hiện nay
- Trước hết, tiếp tục thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,
hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích
cực hội nhập quốc tế;nhận thức đúng mục tiêu cốt lõi cú hội nhập là“nhằm củng cố
môi trường hòa bình, tranh thủ tối đa các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất
nước nhanh và bền vững, nâng cao đời sống nhân dân; giữ vững độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ

nghĩa…”[1].

12

12


Với đường lối chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta đã đã chủ trương
xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ để từng bước hội nhập với thế giới. Tuy nhiên,
sau gần 30 năm đổi mới và hội nhập quốc tế, vấn đề độc lập tự chủ trong kinh tế cũng
đang đối mặt với những thách thức khó khăn.Một thực tế là hội nhập quốc tế đang đặt
ra nhiều thách thức trong đó có việc du nhập mặt trái của kinh tế thị trường, trong việc
mở rộng thị trường cạnh tranh, đặc biệt là nguy cơ về sự phụ thuộc vốn, công nghệvào
các nước phát triển; điều này cảnh báo sự mất ổn định chính trị - xã hội… Thực tiễn
phát triển của nhiều nước trên thế giới, nhất là các quốc gia Đông Âu đã để lại nhiều
bài học về điều này.
Hiện naysức cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp và các ngành hàng
của Việt Nam còn thấp, cho nên mức độ mở cửa thị trường còn chậm và hết sức thận
trọng; theo đó, mức độ hội nhập gắn kết của hàng hóa Việt Nam vào chuỗi giá trị tăng
trưởng toàn cầu còn yếu.Trình độ công nghệ mà phần lớn các doanh nghiệp nước ta sử
dụng hiện nay nhìn chunglạc hậu so với mức trung bình của thế giới từ 2 - 3 thế
hệ;quá trìnhtái cấu trúc nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ sau Đại hội
XI đến nay còn chậm... Nếu không vượt qua được những thách thức này nền kinh tế
thật khó đứng vững trong thế giới toàn cầu hóa.
- Thứ hai, cần nhận thức đúng đắn hơn nữa mối quan hệ biện chứng giữa hội
nhập kinh tế quốc tế ở bên ngoài với đổi mới, cải cách kinh tế-xã hội từ bên trong;
phải thấy giữa cải cách kinh tế trong nước và hội nhập kinh tế quốc tế có sự tác động
qua lại lẫn nhau, trong đó cải cách, đổi mới kinh tế trong nước luôn luôn phải là động
lực tự thân, là yếu tố quyết định và tạo ra nền tảng vững chắc bảo đảm cho hội nhập
quốc tế thành công. Vì vậy, việc hoạch định đường lối, chiến lược cải cách kinh tế-xã

hội sâu rộng bên trong phải luôn gắn chặt với chiến lược hội nhập dài hạn bên ngoài.
Chủ động cải cách tạo tiền đề cho hội nhập, đồng thời lấy hội nhập để thúc đẩy cải
cách trong nước. Lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, thực hiện đổi mới chính trị với lộ
trình phù hợp và đồng bộ với đổi mới kinh tế. Đây chính là điều kiện bảo đảm cho
Việt Nam có môi trường chính trị - xã hội ổn định - một lợi thế lớn của ta trong việc
thu hút đầu tư và kinh doanh, tạo tiền đề cho tiến trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu
rộng và thực sự hiệu quả.
- Thứ ba, cần có nhận thức đúng đắn về tính hai mặt của toàn cầu hóa và hội
nhập quốc tế, trong đó phải thống nhất nhận thức nhìn nhận hội nhập quốc tếchính là
cơ hội lớn chứ không phải chỉ có thách thức để chuẩn bị cho việc nắm bắt thời cơ đẩy
nhanh quá trình hội nhập. Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng, những thách thức mà
hội nhập đem lại luôn chứa đựng sự rủi ro rất lớn, nhất là đối với các nước đang phát
triển như Việt Nam. Bài học về lợi ích mà hầu hết các nước trên thế giới đã thu được
từ quá trình hội nhập vẫn lớn hơn cái giá mà họ phải trả cho những tác động tiêu cực
xét trên phương diện phát triển kinh tế. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta cần chủ động
hơn nữa, có giải pháp để ứng phó kịp thời, giảm thiểu tác động tiêu cực của hội nhập
đến những đối tượng yếu thế, tạo cơ hội công bằng cho tất cả các đối tượng trong xã
hội trong việc thụ hưởng các thành quả do hội nhập mang lại.
-Thứ tư, trong môi trường cạnh tranh toàn cầu diễn biến phức tạp, Việt Nam
cần có chiến lược cải cách để thúc đẩy tăng trưởng bền vững như cải thiện năng suất
lao động, đầu tư nhiều hơn cho nông nghiệp và phát triển nông thôn, xây dựng nền
13

13


giáo dục có chất lượng tốt, đào tạo nguồn nhân lực…, bởi vì sự đầu tư này tạo động
lực cho cạnh tranh trong dài hạn. Cần có tư duy toàn cầu về các lĩnh vực hội nhập; cần
nghiên cứu cả chuỗi giá trị toàn cầu và đánh giá xem Việt Nam đang ở đâu trong
chuỗi giá trị đó để xác định bước hội nhập sắp đến; chủ động chuẩn bị cho việc trở

thành đối tác liên kết kinh doanh với các doanh nghiệp nước ngoài. Cùng với việc tích
cực mở rộng, giữ vững thị trường bên ngoài, phải chú ý đến thị trường nội địa, thực
hiện tốt phương châm “xuất khẩu tại chỗ”.
- Thứ năm, chú trọng đẩy nhanh quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng XHCN, đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, hoàn thiện hệ thống pháp luật, hệ
thống chính sách kinh tế thương mại theo hướng đầy đủ và đồng bộ, đảm bảo minh
bạch và cải thiện ngày càng tốt hơn môi trường kinh doanh, đầu tư. Lấy các cam kết
quốc tế để thúc đẩy cải cách và sửa đổi hệ thống luật pháp trong nước, thực hiện công
khai minh bạch các cơ chế chính sách, tạo điều kiện cho người dân và cộng đồng
doanh nghiệp có cơ hội đóng góp ý kiến xây dựng chính sách, pháp luật; tạo môi
trường cạnh tranh bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp và mọi thành thần kinh tế.
Bởi,môi trường cạnh tranh, đến lượt nó, sẽ thúc đẩy việc nâng cao năng suất lao động,
nâng cao trình độ công nghệ và phát triển nguồn nhân lực - những nhân tố hết sức
quan trọng đối với sự phát triển bền vững đất nước trong dài hạn.
3. Kết luận
Ba mươi năm đổi mới, thực hiện chủ trươngchủ động, tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Chúng ta đã tranh thủ được
nhiều cơ hội từ bên ngoài đẩy nhanh sự phát triển kinh tế-xã hội. Nền kinh tế giữ được
tốc độ tăng trưởng ổn định, có khả năng độc lập, tự chủ, đứng vững trước những biến
động phức tạp của tình hình thế giới. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được
vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức phía trước. Chúng ta tin tưởng rằng, dưới sự lãnh
đạo của Đảng, với đường lối đúng đắn do Đại hội XI đề ra và những kinh nghiệm đã
có, chúng ta nhất định thực hiện thành công mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 22 - NQ/TW ngày 10/4/2013

của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế.
2. Bộ Ngoại giao Việt Nam,Những thành tựu trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế

3.
4.
5.
6.
7.

của Việt Nam, />Trương Cường, Lý Kiến Quốc,Toàn cầu hóa trong tầm nhìn triết học, Tạp chí Lý luận
chính trị, số 5, năm 2002.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1991.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006.
14

14


8. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011.
9. Vũ Khoan, Ba mươi năm hội nhập kinh tế quốc tế: một vài suy ngẫm và đề xuất

hướng tới, Tạp chí Cộng sản, số 868, (tháng 02/2015), tr. 40-42.
10. Tạp chí Cộng sản, Hội thảo Khoa học-Thực tiễn: Hội nhập kinh tế quốc tế: Ba mươi
năm nhìn lại và thực tiễn Quảng Ninh, số 867, (tháng 01/2015), tr. 47-60.
11. Vương Thị Bích Thủy, Tất yếu và Tự do – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb

Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2004.
12. Nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại Trương Đình Tuyển,Bài học từ hội nhập kinh tế
quốc tế, />
15

15


TÓM TẮT

CHỦ TRƯƠNG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI - CƠ HỘI,
THÁCH THỨC VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA HIỆN NAY
TS. Vương Thị Bích Thủy
Hội nhập kinh tế quốc tế là một trong những nội dung quan trọng trong đường
lối Đổi mới đất nước do Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng từ Đại hội VI năm 1986
đến nay. Hội nhập kinh tế quốc tế là tất yếu, xuất phát từ yêu cầu phát triển đất nước
trên cơ sở nắm bắt xu thế vận động khách quan của thời đại, từ những bài học trong
lịch sử xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc và từ nhiều lợi ích mà hội nhập quốc tế tạo ra cho
các nước. Qua các kỳ Đại hội Đảng, chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế đã có những
bước phát triển mới với những nội dung mới, vừa đáp ứng đòi hỏi của tình hình trong
nước vừa phù hợp với xu thế chung của thời đại. Đại hội XI (2011) của Đảng đã phát
triển đường lối, chính sách đối ngoại lên một tầm cao mới, trong đó Hội nhập quốc tế
trở thành định hướng đối ngoại lớn. Với định hướng này, tính chất và trình độ hội
nhập được nâng cao, phạm vi và lĩnh vực hội nhập ngày càng được mở rộng. Những
kết quả đạt được trong quá trình hội nhập đã góp phần quan trọng vào phát triển đất
nước, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Tuy nhiên, nhìn lại 30 năm
qua chúng ta thấy bên cạnh những cơ hội to lớn vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức
Việt Nam phải vượt qua.


16

16



×