Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Quan hệ tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.07 KB, 23 trang )

MỞ ĐẦU

Chất lượng sống của con người là một nhân tố quan trọng trong đánh
giá một xã hội phát triển, nó thể hiện trên các phương diện, như chăm sóc y
tế, sức khoẻ của cơng dân, giáo dục, trình độ dân trí, an sinh xã hội, bình đẳng
giới... Thực tế cho thấy, khơng nhất thiết một xã hội có tăng trưởng kinh tế
cao thì chất lượng sống của con người được đảm bảo và nâng cao tương ứng,
như Bhutan, quốc gia tăng trưởng kinh tế trung bình nhưng thường xuyên
được coi là quốc gia hạnh phúc nhất thế giới. Ở nhiều nước tư bản phát triển,
các vấn đề bạo lực, khủng bố, an ninh xã hội, kỳ thị chủng tộc và văn hố
đang có nguy cơ gia tăng. Do vậy, bảo đảm chất lượng sống của con người ở
một xã hội cụ thể thì tăng trưởng kinh tế khơng phải là nhân tố quyết định duy
nhất, mà nó cịn phụ thuộc vào chế độ xã hội, cách tổ chức và quản lý xã hội.
Và hơn nữa, còn là cái nền tảng văn hố, đạo đức của một xã hội.
Văn hóa có vai trị quan trọng với phát triển kinh tế. Nếu được khai
thác, phát huy tốt sẽ trở thành một động lực to lớn đối với sự phát triển kinh
tế. Trong bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng khẳng định một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam là việc: “Chúng ta coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã
hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác
định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hịa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ,
công bằng xã hội”. Đó cũng chính là một phần quan trọng của cơng cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội - quá trình “kiến tạo một kiểu xã hội mới về chất”.
Phát triển kinh tế gắn với văn hóa phải vừa là mục tiêu, vừa là nhiệm vụ trong
xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.


2

NỘI DUNG


I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUAN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ VỚI PHÁT TRIỂN VĂN HÓA

1. Một số nét khái quát về tăng trưởng kinh tế và
phát triển văn hóa
Tăng trưởng kinh tế ln là vấn đề được các nước đang phát triển quan
tâm hàng đầu. Tăng trưởng kinh tế được thường được xem xét cả về số lượng
và chất lượng, trong đó mặt số lượng thường được nhấn mạnh hơn. Về mặt số
lượng, tăng trưởng kinh tế thường được đo đếm bằng tốc độ tăng trưởng giá
trị tổng sản phẩm quốc dân (GDP) và thu nhập bình quân đầu người
(GNI/người). Về mặt chất lượng, tăng trưởng kinh tế được nhìn nhận từ
những yếu tố bên trong, gắn liền với tính chất, hiệu quả của q trình tăng
trưởng, như: năng suất lao động, chỉ số cạnh tranh, mức độ tiêu hao nhiên
liệu, năng lượng, mức độ ảnh hưởng đến môi trường, v.v..
Tăng trưởng kinh tế tạo ra cơ sở vật chất cho sự phát triển chung của xã
hội. Chỉ có tăng trưởng kinh tế mới tạo ra các điều kiện cần thiết cho phát
triển văn hóa và thực hiện tiến bộ xã hội, bảo vệ môi trường sống an toàn cho
con người. Bản thân nội hàm của tăng trưởng kinh tế bao gồm hai mặt: số
lượng và chất lượng. Thông thường, trong giai đoạn đầu của phát triển, mặt
tăng trưởng số lượng được quan tâm nhiều hơn, coi như mục tiêu ưu tiên.
Trong điều kiện đó, quá trình tăng trưởng kinh tế khơng tránh khỏi dẫn đến
những ảnh hưởng tiêu cực nhất định đến xã hội và con người. Nguồn gốc của
những ảnh hưởng tiêu cực đó thường do sự nhận thức chưa đầy đủ tác động
của các hoạt động phát triển sản xuất, không kịp thời đưa ra các chính sách để
ngăn chặn, giải quyết, khơng kiểm sốt tốt hoặc khơng đủ nguồn lực, thiếu
điều kiện kỹ thuật giải quyết các tác động tiêu cực đó. Chỉ khi sự tăng trưởng
đạt đến mức độ nhất định nào đó, vấn đề chất lượng mới được thực sự quan
tâm một cách đầy đủ và có hiệu quả. Đó là khi sự tăng trưởng kinh tế giúp



3

tăng cường cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật, nguồn lực tài chính và nhất là
nguồn lực con người được tăng cường về chất lượng và kỹ năng quản trị, bảo
đảm cho chất lượng của tăng trưởng kinh tế.
Văn hố là tồn bộ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng
tạo ra trong quá trong hoạt động thực tiễn và nhằm phục vụ cho cuộc sống, sự
phát triển của chính con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: vì lẽ sinh
tồn cũng như mục đích của cuộc sống, lồi người mới sáng tạo và phát minh
ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ
thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương
thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hố. Văn
hố là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó
mà lồi người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và địi
hỏi của sự sinh tồn. Văn hóa chính là tồn bộ những biểu hiện xã hội của con
người, nó là sản phẩm của con người nhưng cũng là điều kiện, môi trường
cho sự phát triển của con người. Con người là biểu hiện tập trung nhất của
văn hóa. Nói cách khác, văn hóa là một bộ phận khơng thể tách rời của con
người, vậy nên sự phát triển xã hội bao giờ cũng gắn bó hữu cơ chặt chẽ giữa
cải thiện đời sống vật chất và thúc đẩy sự phát triển của văn hóa.
Nói đến văn hóa là nói đến hai bộ phận: Văn hóa vật thể và văn hóa phi
vật thể. Văn hóa vật thể là khía cạnh thực tế xã hội, như: các di sản vật chất,
cơng trình xây dựng, các sản phẩm văn hoá, thiết chế văn hố vật chất, v.v..
Nó bao gồm việc chế tác, sử dụng, trao đổi các sản phẩm vật chất, hành vi,
cách thức và các chuẩn mực của con người khi tham gia các cơng việc đó.
Người ta cịn gọi đây là “phần cứng” của văn hóa. Văn hóa phi vật thể là các
yếu tố của đời sống tinh thần của con người, bao gồm: lối sống, đạo đức, đức
tin, ý thức dân tộc, tinh thần yêu nước, các giá trị tinh hoa truyền thống, các
hệ giá trị phổ biến của con người, của xã hội và cộng đồng, v.v.. Các yếu tố



4

văn hóa phi vật thể tạo thành cốt lõi của vốn xã hội của nền kinh tế, sức mạnh
nội sinh quan trọng của phát triển đất nước.
Phát triển văn hóa chính là sự thay đổi các yếu tố văn hóa vật thể, phi
vật thể theo chiều hướng tích cực, tiến bộ nhằm đáp ứng các nhu cầu cuộc
sống của con người ngày càng phong phú hơn, với chất lượng ngày càng cao
hơn. Theo nghĩa chung nhất, phát triển văn hóa cũng chính là sự phát triển các
phẩm chất, giá trị trong đời sống tinh thần của con người, của cộng đồng. Sự
phát triển ấy gắn liền và là logic tất yếu của nền tảng vật chất của nó, tức là
kinh tế. Đến lượt nó, sự phát triển các giá trị, phẩm chất của con người, của
cộng đồng lại trở thành nguồn sống nuôi dưỡng, củng cố và phát triển các giá
trị chung của quốc gia, dân tộc, tăng cường nguồn lực nội sinh cho sự phát
triển xã hội, gia tăng sức mạnh của vốn xã hội của nền kinh tế quốc gia. Như
C. Mác đã nói: Sự phát triển của chính trị, pháp luật, triết học, tơn giáo, văn
học, nghệ thuật… đều dựa trên cơ sở sự phát triển kinh tế, nhưng tất cả chúng
cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế.
2. Nội dung của quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa

Tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ cơng bằng
xã hội có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại với nhau, vừa tạo tiền đề
vừa làm điều kiện của nhau. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện để phát triển văn
hóa và thực hiện tốt tiến bộ, công bằng xã hội, nếu tăng trưởng kinh tế cao và
bền vững là thước đo của phát triển văn hóa, cịn khơng tăng trưởng kinh tế sẽ
khơng có điều kiện thuận lợi cho phát triển văn hóa. Bên cạnh đó, phát triển
văn hóa gắn với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội là biểu hiện về mặt chất
của tăng trưởng kinh tế. Như vậy tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa có
quan hệ nhân quả với nhau, khơng phải là hai mặt đối lập.
Một là, tăng trưởng kinh tế tạo cơ sở, điều kiện để phát triển văn hóa,

đồng thời đặt u cầu phát triển văn hóa những nội dung, hình thức mới.


5

Đời sống của con người cũng như của xã hội bao gồm hai mặt vật chất
và tinh thần. Nếu kinh tế là nền tảng vật chất của xã hội, đáp ứng nhu cầu vật
chất của con người và xã hội, thì văn hố là nền tảng tinh thần của xã hội, đáp
ứng nhu cầu tinh thần của con người và xã hội. Tăng trưởng kinh tế là cơ sở và
điều kiện quan trọng hàng đầu cho sự phát triển văn hóa, phát triển văn hóa
chính là mục tiêu và động lực của tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh tế phải
nhằm mục tiêu phát triển văn hóa, phát triển con người. Sức sản xuất càng phát
triển, thì quan hệ giữa văn hoá và kinh tế càng mật thiết. Mọi hoạt động kinh tế
từ thiết kế sản phẩm tới trao đổi và sử dụng sản phẩm đều thấm sâu yếu tố văn
hố, vì tồn bộ q trình kinh tế đều là hoạt động của người, và con người,
thông qua các hoạt động của mình thiết lập, các quan hệ giữa con người với tự
nhiên, giữa con người với con người. Hiện nay, tồn cầu hố kinh tế và sự phát
triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật đã tạo điều kiện đề kinh tế phát triển
nhanh chóng, và những thay đổi trong phát triển kinh tế có tác động rất lớn đến
văn hóa. Mặt khác, chỉ khi những quyết sách và chiến lược phát triển kinh tế
mang hàm lượng văn hóa cao, thì sự phát triển mới thật sự có giá trị.
Hiện nay, tăng trưởng kinh tế gắn chặt chẽ với phát triển văn hố cịn vì
bên cạnh yếu tố vốn, kỹ thuật, tài nguyên, thì lao động, nhất là năng lực sáng
tạo của con người ngày càng trở thành nguồn lực quan trọng hơn của sự giàu
có và phát triển. Một chính sách phát triển đúng đắn phải là một chính sách
làm cho các yếu tố văn hóa thấm sâu vào tất cả các lĩnh vực hoạt động sáng
tạo của con người, nhân tố văn hóa phải trở thành nội dung quan trọng của hệ
thống chính sách, chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế của Đảng và Nhà
nước. Do đó, giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa quan hệ hữu cơ,
tạo tiền đề cho nhau trong một thể thống nhất của sự phát triển bền vững.

Kinh tế khơng có mục đích tự thân, mà vì mục tiêu lợi ích của con
người. Tăng trưởng kinh tế là cơ sở quan trọng để giải quyết việc làm, giảm
thất nghiệp, tăng thêm mức thu nhập của dân cư, nâng cao mức sống của nhân


6

dân, giảm bớt tình trạng đói nghèo, cải thiện chất lượng cuộc sống, làm cho
văn hóa, giáo dục phát triển mạnh mẽ và phát huy vai trị của nó.
Trong thời đại ngày nay, khoa học, công nghệ phát triển với tốc độ
nhanh chóng, nhất là cuộc cách mạng cơng nghiệp lần thứ tư (4.0) đã thúc đẩy
sự tăng trưởng kinh tế toàn cầu, tác động mạnh mẽ đến đời sống văn hóa - xã
hội, kéo theo các nhu cầu vật chất và tinh thần của con người có sự tăng lên,
trong đó có nhu cầu về văn hóa, được biểu hiện như sau:
Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế đã góp phần giải phóng các tiềm năng kinh
tế. Q trình dân chủ hóa đời sống kinh tế, cùng với vai trị chủ đạo của kinh tế
nhà nước, sự tồn tại và phát triển của các thành phần kinh tế khác đã đóng góp
một cách tích cực, to lớn vào sự phát triển kinh tế chung của đất nước.
Thứ hai, tăng trưởng kinh tế đã góp phần đa dạng hóa và năng động
hố nền sản xuất, tạo điều kiện cho q trình dân chủ hoá đời sống xã hội,
thúc đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Trong những năm gần đây,
để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, Đảng và nhà nước ta chủ trương đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri
thức, làm cho lực lượng sản xuất phát triển đa dạng, phong phú và nhanh hơn,
để tăng năng suất lao động, có đủ sức cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế
thành cơng, khắc phục tình trạng lạc hậu của lực lượng sản xuất, của lao động
thủ công, lao động nông nghiệp.
Thứ ba, tăng trưởng kinh tế có tác dụng thúc đẩy hình thành thói quen
suy nghĩ về tính hiệu quả, tính thiết thực của cơng việc.
Sự tiêu dùng các sản phẩm văn hóa tạo ra yếu tố “cầu” để cho lực

lượng sản xuất tạo ra “cung”. Điều này phụ thuộc vào sự tăng trưởng kinh tế
của mỗi quốc gia. Kinh tế tăng trưởng sẽ tác động mạnh mẽ đến lĩnh vực sản
xuất các sản phẩm, dịch vụ văn hóa. Tốc độ tăng trưởng kinh tế và sự gia tăng
nhu cầu giải trí cũng góp phần thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp văn


7

hóa. Xét về lâu dài kinh tế khơng phát triển thì văn hóa cũng khơng phát triển.
Tăng trưởng kinh tế là cơ sở, điều kiện quan trọng để phát triển văn hóa.
Kinh tế tăng trưởng góp phần cải tạo hạng mục cơng nghiệp văn hóa
truyền thống phát triển. Đẩy nhanh việc điều chỉnh kết cấu doanh nghiệp văn
hóa, nâng cao hàm lượng khoa học - kỹ thuật của công nghiệp văn hóa. Tăng
trưởng kinh tế tạo cơ sở để xây dựng văn hóa, nhất là cơng nghiệp văn hóa có
quy mơ lớn, thực lực, sức cạnh tranh cao. Từ đó tạo tiền đề để lấy phát triển
cơng nghiệp văn hóa nhằm phát huy mạnh mẽ sự kết hợp giữa văn hóa truyền
thống với tăng trưởng kinh tế; làm sống động tài nguyên văn hóa; phát triển
du lịch bền vững gắn với văn hóa cộng đồng.
Hai là, phát triển văn hóa góp phần quan trọng thúc đẩy tăng trưởng,
phát triển kinh tế.
Văn hóa có vai trị quan trọng với tư cách là nhân tố trực tiếp tham gia
vào quá trình phát triển kinh tế. Tiềm năng phát triển của mỗi quốc gia gồm
nhiều yếu tố, mà yếu tố quyết định là văn hóa, được thể hiện qua năng lực
sáng tạo, trí tuệ, tài năng, đạo đức của con người ở quốc gia đó. Văn hóa khơi
dậy mọi tiềm năng sáng tạo của con người, quyết định sự tăng trưởng và phát
triển bền vững. Vậy nên, trong xã hội hiện đại, các yếu tố nền tảng của văn
hóa, nếu được khai thác, phát huy sẽ trở thành một động lực to lớn đối với sự
phát triển kinh tế. Văn hóa có quy luật vận động, phát triển riêng, có tính độc
lập tương đối, khơng hồn tồn phụ thuộc vào kinh tế, thậm chí có khi văn
hóa phát huy sức mạnh tỷ lệ nghịch với sức mạnh kinh tế. Thực tiễn cho thấy,

trong điều kiện một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, song thắng lợi trong đấu
tranh cách mạng có sự đóng góp to lớn của văn hóa. Phát triển văn hóa tạo ra
môi trường thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế bền vững. Tức là phát triển văn
hóa sẽ điều chỉnh cho tăng trưởng hiện tại không ảnh hưởng đến tương lai và
khơng ảnh hưởng đến lĩnh vực khác.
Văn hóa là mục tiêu của sự tăng trường kinh tế.


8

Tăng trưởng kinh tế để phát triển con người, làm cho cuộc sống của
con người ngày càng tốt đẹp hơn trong sự kết hợp hài hòa giữa điều kiện vật
chất và điều kiện tinh thần, giữa mức sống cao và lối sống đẹp, được an toàn,
phát triển toàn diện, bền vững và xây dựng một xã hội tốt đẹp. Tiếp đó, văn
hóa là mục tiêu tăng trưởng kinh tế - tức là tăng trưởng kinh tế hướng đến làm
giàu các giá trị văn hóa. Mọi chủ trương, chính sách phát triển kinh tế đều
hướng đến làm giàu giá trị văn hóa. Vì vậy, văn hóa đóng vai trị là mục tiêu
trước mắt và lâu dài của sự tăng trưởng kinh tế.
Văn hóa là động lực của sự tăng trưởng kinh tế.
Động lực phát triển kinh tế - xã hội bao gồm nhiều yếu tố, trong đó, tiềm
năng sáng tạo to lớn của nguồn lực con người (tiềm lực văn hóa) đóng vai trị
chủ yếu tạo thành một hệ thống động lực cho phát triển kinh tế - xã hội. Vai trị
to lớn của văn hố trong tăng trưởng kinh tế ngày càng tăng đã và đang thức
tỉnh các quốc gia, các nhà chính trị, các nhà kinh tế có sự cân nhắc nghiêm túc
đến phát triển văn hoá trong chiến lược phát triển kinh tế và xác định mục tiêu,
nhiệm vụ cụ thể trong từng giai đoạn. Tăng trưởng, phát triển kinh tế không
phải dựa vào cơ bắp, mà dựa vào hàm lượng trí tuệ trong lao động, sản xuất.
Hiện nay những thành tựu của khoa học, công nghệ hiện đại, nhất là
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư được ứng dụng rộng khắp, khoa học
đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, trong lòng nhân loại đang phát triển

nền kinh tế tri thức thì năng suất, chất lượng, hiệu quả của sản xuất xã hội sẽ
ngày càng gia tăng. Điều này làm cho kinh tế có sự phát triển mạnh mẽ cả về
số lượng và chất lượng và không ngừng gia tăng về giá trị và hiệu quả kinh tế.
Ví dụ ở Mỹ, giá trị sản lượng của ngành cơng nghiệp văn hóa
và nghệ thuật ước tính đạt gần 919.7 tỷ USD, chiếm 4,3%
tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của nước này vào năm
2017. Với giá trị như vậy, ngành cơng nghiệp văn hóa và nghệ
thuật đóng góp cho nền kinh tế của Mỹ nhiều hơn các ngành


9

công nghiệp xây dựng, vận tải và hậu cần, du lịch, mỏ, tiện
ích và nơng nghiệp.1
Văn hóa điều tiết sự tăng trưởng kinh tế.
Văn hóa giúp cho phát triển kinh tế một cách cân đối, giữa các thành
phần, giữa trước mắt và tương lai. Văn hóa tạo tiền đề định hướng, điều tiết
mục tiêu tăng trưởng kinh tế (không quá nóng). Mục tiêu của tăng trưởng kinh
tế nếu được định hướng của văn hóa thì tăng trưởng kinh tế sẽ bền vững và
ngược lại kinh tế sẽ bị khủng hoảng. Văn hóa trực tiếp trở thành một lĩnh vực
kinh tế như kinh tế văn hóa, cơng nghiệp văn hóa, dịch vụ văn hóa, sản nghiệp
văn hóa,... có hiệu suất kinh tế cao là cơng nghiệp văn hóa. Theo Tổ chức Giáo
dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO), ngành cơng nghiệp văn
hóa gồm hai nhóm ngành. Nhóm các ngành cơng nghiệp văn hóa cốt lõi gồm
11 ngành là bảo tàng, triển lãm, thư viện; biểu diễn nghệ thuật; lễ hội; nghệ
thuật thị giác, thủ công mỹ nghệ; thiết kế; xuất bản; truyền hình, phát thanh;
điện ảnh và video; nhiếp ảnh; truyền thơng tương tác. Nhóm ngành cơng
nghiệp văn hóa mở rộng gồm 7 ngành là dụng cụ âm nhạc, thiết bị âm thanh,
kiến trúc, quảng cáo, thiết bị in, phần mềm và phần cứng nghe nhìn.
Như vậy, thực chất quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn

hóa là quan hệ giữa đời sống vật chất với đời sống tinh thần của xã hội gắn bó
mật thiết với nhau. Tăng trưởng kinh tế làm nền tảng vững chắc để kích thích
phát triển văn hóa, cịn văn hóa tạo ra “sân chơi” và giá trị để kinh tế tiếp tục
tăng trưởng. Văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế và nằm ngay trong các hoạt động kinh tế.
II. QUAN HỆ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI PHÁT TRIỂN VĂN
HÓA, PHƯƠNG HƯỚNG TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY

1. Quan hệ tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa ở Việt Nam
Theo Báo cáo tóm tắt của Quỹ hỗ trợ nghệ thuật và Phịng phân tích kinh tế, Bộ
Thương mại Hoa Kỳ, 2021.
1


10

Tổng kết hơn 35 năm đổi mới, chúng ta phấn khởi với những thành tựu
to lớn, có ý nghĩa lịch sử nhưng cũng cảm thấy lo lắng trước những hạn chế
và yếu kém. Muốn vượt lên trên thực trạng hiện nay, cần phải đặt những thành
tựu bên cạnh những hạn chế như hai mặt của một vấn đề. Đó là cách nhìn hệ
thống cho phép thấy rõ thực chất vấn đề và gợi ý về giải pháp. Nước ta đã liên
tục đạt mức tăng trưởng cao về số lượng trong nhiều năm (từ 2008-2018 luôn
tăng trưởng GDP ở mức hai con số). Đó là thành tựu nổi bật. Nhưng mặt
khác chất lượng và hiệu quả cịn thấp kém do trình độ khoa học, cơng nghệ và
trình độ lãnh đạo, quản lý còn thấp, chưa chủ động sáng tạo trong bối cảnh
thực tiễn biến đổi nhanh; tình trạng tham nhũng, lãng phí khá phổ biến và
ngày càng nghiêm trọng, những vụ tham ô, tham nhũng như Việt Á chỉ là mặt
nổi của tảng băng. Cũng nên lưu ý rằng những tổn thất lớn do tham nhũng,
quan liêu, lãng phí đều được tính trong GDP hằng năm.

Nhìn vấn đề kinh tế ở cả hai mặt nói lên điều gì? Tư duy kinh tế đã
được đổi mới một bước tạo ra thành tựu về kinh tế, nhưng nhận thức về khoa
học, công nghệ, về đạo đức, văn hóa trong kinh tế thị trường thì chậm trễ
nhiều so với kinh tế. Sự phát triển không đồng bộ ấy là sự phát triển chưa bền
vững vì thiếu vai trị cần có của văn hóa.
Đổi mới kinh tế đã nâng cao một bước mức sống của nhân dân một
cách phổ biến ở đô thị và nông thôn, nhưng lối sống lại đang sút kém, quan hệ
trong tổ chức, trong gia đình, quan hệ giữa con người và cộng đồng đang
ngày càng có nhiều biểu hiện tiêu cực: bạo hành phụ nữ, trẻ em, đâm chém
nhau vì đất đai, mua bán thân xác theo hợp đồng ở giới văn nghệ sĩ.... Dù
chúng ta đã cố gắng thi đua để có được hàng vạn làng văn hóa, cơ quan văn
hóa được cơng nhận, đã có chục triệu gia đình văn hóa, đã xây dựng được
hàng vạn bản hương ước, quy ước văn hóa thơn xóm, nhưng cũng khơng ngăn
cản được sự trỗi dậy của những tiêu cực xã hội tiểu nông được “nâng cấp” bởi


11

những tiêu cực, thị phi của thị trường, “Đạo đức, lối sống trong gia đình, học
đường, xã hội có mặt xuống cấp đáng lo ngại, gây bức xúc cho xã hội”2.
Điều đáng lo ngại nhất là lối sống tiêu cực lại xâm nhập vào đội ngũ
lãnh đạo, quản lý ở nhiều nơi, tạo thành một loại quan hệ ngầm như một lối
sống khơng cịn biết xấu hổ như: nịnh bợ, chạy chức quyền, nhận và đưa hối
lộ, chạy bằng cấp... Lối sống đó trên thực tế đã chống lại các quy định tiêu
chuẩn cán bộ của Đảng. Nguy hại nhất là lối sống đó đã nêu một tấm gương
xấu trước nhân dân, vừa làm mất lịng tin những người chính trực, vừa tạo
môi trường xấu cho sự nẩy nở bọn lưu manh. Lối sống ấy là cản trở lớn nhất
cho việc cải cách giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực.
Suy nghĩ về mối quan hệ giữa nâng cao mức sống với sự sút kém lối
sống nói lên điều gì?

Việc nỗ lực nâng cao mức sống vật chất cho con người đã khơng đi
đơi với nâng cao dân trí và cải thiện đời sống văn hóa tinh thần cho con
người: “Văn hóa chưa được quan tâm tương xứng với kinh tế và chính trị,
chưa thật sự trở thành nguồn lực, động lực nội sinh của sự phát triển bền vững
đất nước. .... Mơi trường văn hóa, xã hội tiếp tục bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã
hội, tham nhũng, tiêu cực”.3 Về mức đầu tư cho văn hóa, năm 2005,
cứ 1 đồng ngân sách nhà nước chi cho văn hóa thì có 5,6
đồng chi cho kinh tế, đến năm 2018 cứ 1 đồng chi cho văn
hóa thì có 7,3 đồng chi cho kinh tế 4. Có thể thấy nâng cao mức sống
cho nhân dân bằng phát triển kinh tế đã khó, nhưng nâng cao đời sống văn
hóa, tinh thần cho con người cịn khó hơn. Đối với nước ta, khơng phát triển
hài hòa giữa mức sống và lối sống cho con người, cho xã hội, thì sẽ nguy hại
cho định hướng xã hội chủ nghĩa về mặt xã hội.
2

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQGST, H.2021, t. II, tr. 72.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQGST, H.2021, t. I, tr.84.
4
Lê Ngọc Hùng, Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa trong thời kỳ cơng nghệ số, Tạp
chí Cộng sản điện tử, 24/5/2021.
3


12

Thực hiện đường lối của Đảng về xây dựng một xã hội dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, các cấp quản lý đã xây dựng và thực
hiện nhiều biện pháp như xây dựng Quy chế Dân chủ ở cơ sở, các dự án xóa
đói giảm nghèo, các chương trình về an sinh xã hội. Nhưng mặt khác, tình
trạng quan liêu hành chính cịn nặng nề và phổ biến từ cấp cơ sở. Người ta nói

văn hóa cơng sở chính quyền “hành dân là chính”, người dân cảm nhận được
điều đó khi đến cơ quan cơng quyền. Rõ ràng là hành chính quan liêu và tham
nhũng khơng thể đi đôi với công bằng, dân chủ, văn minh. Nghịch lý này kéo
dài đã nhiều năm nói lên điều gì?
Một là, cịn nhận thức “cơng bằng, văn minh” theo kiểu ban ơn vốn là
biểu hiện của một văn hóa chính trị thời bao cấp trước đây.
Hai là, chúng ta còn thiếu một văn hóa chính trị phù hợp với đường lối,
với định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Ba là, chúng ta đã hình thành một nền văn hóa chính trị phù hợp với
yêu cầu phát triển dân tộc và có chất lượng ngang tầm thời đại - đó là văn hóa
chính trị Hồ Chí Minh, nhưng giá trị q báu đó đã khơng được vận dụng tốt
trong thực tế ở giai đoạn hiện nay.
Trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, cơ quan lập pháp đã có nhiều
cố gắng xây dựng và sửa đổi hệ thống pháp luật - theo hướng Nhà nước pháp
quyền nhân dân, nhưng sự phát triển không đồng bộ giữa lập pháp, hành
pháp, tư pháp, đã khơng có sự phối hợp và kiểm sốt lẫn nhau. Kết quả là
công tác thực thi pháp luật (cả hành pháp và tư pháp) đều còn yếu kém ở tất
cả các cấp quản lý về mặt năng lực (tính chuyên nghiệp) và cả về mặt phẩm
chất đạo đức. Những sự kiện lớn về tham nhũng, lãng phí, quan liêu đều do
dân phát hiện và chỉ khi có sức ép của cơng luận thì mới giải quyết, thậm chí
có cán bộ thanh tra lại là nơi tham nhũng, vòi vĩnh doanh nghiệp, như vụ
Thanh tra Bộ Xây dựng địi tiền chính quyền ở Vĩnh Phúc.
Sự tiến bộ và hạn chế trong xây dựng Nhà nước nói lên điều gì?


13

Như vậy, trong lĩnh vực xây dựng Nhà nước rất cần phát huy vai trị
văn hóa. Các vụ cán bộ chiếm đoạt đất đai ở nhiều địa phương, sự tham
nhũng quy mô lớn trong các ban quản lý dự án PMU, VEC v.v. là biểu hiện

thứ văn hóa lỗi thời đang chi phối trong một bộ phận cán bộ, kể cả cao cấp.
Phù hợp với xu thế của thời đại, nước ta đã có nhiều nỗ lực trong tiến
trình hội nhập quốc tế, đã đạt được nhiều thành công trong quan hệ đối ngoại.
Nhưng kết quả đó lại đi đơi với một tình trạng nước ta đang tụt hậu xa hơn về
kinh tế so với nhịp độ phát triển khu vực và thế giới. Nguyên nhân nào đưa
đến nghịch lý ấy? Sau khi phân tích vấn đề kinh tế, xã hội, chính trị đã đổi
mới với nhiều tiến bộ, có thể nhận ra nguyên nhân chủ yếu tạo ra nghịch lý
trên là ngun nhân văn hóa. Bởi vì, ai cũng thừa nhận tiềm năng to lớn của
dân tộc và con người Việt Nam, nhưng tiềm năng đó chưa được phát huy, khai
thác mạnh mẽ. Kinh nghiệm các nước cho thấy muốn tiến cùng thời đại thì
phải phát huy đầy đủ sức mạnh dân tộc và tiếp thu những tiến bộ của thời đại
bằng những cuộc giải phóng tư tưởng (Trung Quốc trải qua ba cuộc giải
phóng tư tưởng mới có những thành tựu như ngày nay). Còn nhiều nước Mỹ
La-tinh và vùng biển Ca-ri-bê do tăng trưởng phiến diện đã rơi vào tình trạng
“Tăng trưởng mà khơng phát triển”, hoặc tình trạng “Cơng nghiệp hóa khơng
có cơng nghệ” như một số nước châu Á ở giai đoạn đầu.
2. Phương hướng phát huy vai trị của văn hóa với tăng trưởng
kinh tế trong sự nghiệp Đổi Mới ở Việt Nam hiện nay
Mối quan hệ lớn giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực
hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội, bảo vệ môi trường đã được nhận thức từ rất
sớm, bổ sung qua các kỳ đại hội, nhưng tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng,
tiếp tục được nhận thức, bổ sung, phát triển toàn diện với các góc độ, chiều
cạnh khác nhau nhằm nâng cao hiệu quả của cả hai lĩnh vực cũng như phát
huy vai trò của lĩnh vực này với lĩnh vực kia. Trong phạm vi bài tiểu luận này,
nghiên cứu sinh đi sâu làm rõ phương hướng phát huy, nâng cao vai trò văn


14

hóa gắn với kinh tế, bao gồm những vấn đề văn hóa trong doanh nghiệp,

doanh nhân và những vấn đề văn hóa chủ yếu trong quản lý kinh tế vĩ mơ.
Tiến trình phát triển nước ta mang tính đặc thù của đất nước nông
nghiệp lạc hậu, chiến tranh kéo dài: Điểm xuất phát của tiến trình này là nền
kinh tế nơng nghiệp lạc hậu, mà về mặt văn hóa là ở thời kỳ tiền văn minh.
Mặt khác, bối cảnh quốc tế của tiến trình này là nền kinh tế cơng nghiệp phát
triển cao và đang quá độ nhanh chóng lên nền kinh tế tri thức, mà về mặt văn
hóa là thời kỳ văn minh công nghiệp đang quá độ lên nền văn minh hậu công
nghiệp. Trong bước quá độ này đang diễn ra sự thay đổi mối quan hệ giữa
kinh tế với văn hóa. Nếu trước đây văn hóa phụ thuộc vào kinh tế thì trong
giai đoạn hậu cơng nghiệp sẽ có sự thay đổi: kinh tế phụ thuộc vào văn hóa.
Do tính đặc thù của tiến trình phát triển nước ta nên bài toán về phát
triển, theo ý nghĩa thực tiễn trở thành bài tốn về văn hóa. Tùy theo thái độ và
cách xử lý bài toán này mà nước ta có hai hướng: hoặc phát triển nhanh và
bền vững, hoặc “tăng trưởng mà không phát triển”. Đất nước đi theo hướng
nào tùy thuộc vào sự phát triển văn hóa trong khu vực doanh nghiệp, doanh
nhân và trong khu vực quản lý vĩ mô.
Một là, phương hướng phát huy vai trị văn hóa trong doanh nghiệp và
doanh nhân
Để khu vực doanh nghiệp và doanh nhân đi theo hướng phát triển
nhanh và bền vững, cần quan tâm đến những vấn đề văn hóa trong hoạt động
kinh doanh.
* Có tầm nhìn và tư duy về xu hướng vận động kinh tế
Đặc trưng kinh tế chủ yếu của thời đại hiện nay là tiến trình kinh tế tri
thức thay thế kinh tế cơng nghiệp cơ khí. Tiến trình này đang chi phối q trình
tồn cầu hóa và hội nhập; đang tác động mạnh về thay đổi phân cơng lao động
có tính chất thế giới, do đó thay đổi về tổ chức doanh nghiệp; đang phân hóa về
đẳng cấp doanh nhân và trình độ tổ chức quản lý nền kinh tế của Nhà nước.


15


Tiến trình lịch sử nói trên là cơ hội chưa từng có đối với doanh nhân và
Nhà nước. Trong hoạt động thương mại và đầu tư, nếu doanh nhân không
dũng cảm, sáng tạo nắm lấy kinh tế tri thức, cả mặt lực lượng sản xuất và mặt
phương thức quản trị kinh doanh thì chính họ đánh mất tương lai của mình.
Điều kiện đầu tiên để vận dụng kinh tế tri thức là doanh nhân cùng với
tập thể lao động phải tiếp cận nền giáo dục hiện đại và thông tin để trở thành
một “dàn nhạc” gồm các nhạc công là những người lao động tri thức và giám
đốc là nhạc trưởng.
* Hoạt động theo định hướng mới về phát triển kinh tế: Phát triển bền vững
Tiến trình kinh tế tri thức thay thế kinh tế công nghiệp đã đưa đến sự
thay đổi về định hướng phát triển kinh tế: từ tăng trưởng một cách phiến diện
(chạy theo lợi nhuận, bỏ qua vấn đề xã hội và môi trường) chuyển sang phát
triển đồng thuận giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội và bảo vệ môi
trường. Người ta gọi đó là định hướng phát triển bền vững. Kinh tế tri thức và
phát triển bền vững là “một cặp song sinh”, tạo ra điều kiện cần và đủ cho một
thời đại mới ra đời và đã được thể hiện trong nhiều văn bản và tiêu chí quốc tế.
Hiện nay định hướng phát triển bền vững đang lớn mạnh đằng sau sự
vận động giữa hai mặt thuận - nghịch trong nền kinh tế thị trường hiện đại tư
bản chủ nghĩa. Vì vậy, tầm nhìn và tư duy của doanh nhân về định hướng phát
triển mới là một vấn đề văn hóa, một yêu cầu về phẩm chất và trình độ của
họ, là một tiêu chí phân biệt doanh nhân kiểu mới và doanh nhân kiểu cũ.
* Hình thành tư duy quản lý hiện đại mang đặc điểm văn hóa Việt Nam
Tư duy quản lý đã phát triển theo tiến trình lịch sử nền kinh tế thị
trường, nên tư duy quản lý vừa mang tính chất phổ biến, vừa có đặc điểm
riêng của mơ hình kinh tế ở mỗi nước và khu vực khác nhau.
Tính chất phổ biến theo tiến trình lịch sử kinh tế thị trường cho thấy các
bước phát triển của tư duy quản lý: Khi kinh tế thị trường xác lập trên nền
tảng cơng nghiệp cơ khí thì hình thành vấn đề quản lý theo khoa học. C.Mác



16

là một trong rất ít người đã quan niệm quản lý theo khoa học. Ông quan niệm
doanh nghiệp như một dàn nhạc mà giám đốc là nhạc trưởng, nên không thể
tuỳ tiện tổ chức lao động và bố trí giám đốc.
Tiếp đó là tư duy quản lý theo thuyết “Con người kinh tế” của F.Taylor,
coi trọng khuyến khích vật chất để tăng năng suất lao động và coi con người
như vật phụ thuộc vào máy móc.
Tư duy quản lý theo thuyết “Con người xã hội” thay thế thuyết trên, đề
cao tính tự giác sáng tạo bằng quy chế làm việc, lợi ích, nhân cách của người
lao động và người quản lý.
Trong giai đoạn hiện nay, tư duy quản lý đang phát triển theo hướng kết
hợp đề cao giá trị cá nhân đi đôi với đề cao trách nhiệm cá nhân, nhằm tạo sự
phát triển hài hòa cá nhân với tập thể và cộng đồng. Do coi trọng vai trò cá
nhân hòa hợp với cộng đồng, nên hiệu quả của quản lý ngày càng phụ thuộc
vào văn hóa quản lý của doanh nhân. Hơn nữa, trong con người lao động và
tập thể đều mang bản sắc văn hóa dân tộc, nên hiệu quả quản lý theo khoa học
hiện nay còn phụ thuộc vào việc phát huy văn hóa dân tộc.
Hai là, phát huy vai trị văn hóa trong hoạt động quản lý vĩ mô
Khuynh hướng tách rời hoạt động quản lý kinh tế với văn hóa là một
nhược điểm lớn trong quản lý vĩ mô, đã tạo ra điều kiện thuận lợi cho kiểu
quản lý hành chính quan liêu kéo dài, rất khó sửa chữa. Ở đâu có quản lý quan
liêu, tham nhũng thì ở đó có sự tách rời hoạt động quản lý kinh tế với văn hóa.
Đường lối phát triển bền vững và định hướng xã hội chủ nghĩa, tự nó
đã xác định rõ vị trí, vai trị văn hóa trong hoạt động quản lý vĩ mơ, cần phải
được vận dụng thiết thực trong giai đoạn trước mắt, vụ việc ở FLC, Tân
Hồng Minh là kiểu làm ăn vơ văn hóa, “cá lớn nuốt cá bé”, chộp giật khơng
có văn hóa của người kinh doanh lương thiện, đạo đức.
* Xây dựng thể chế dân chủ - điều kiện quyết định để phát huy vai trị

văn hóa trong quản lý vĩ mô:


17

Hiện nay nước ta đang trên con đường hình thành thể chế dân chủ.
Trong thời đại mới, dân chủ là biểu hiện tập trung của văn hóa phát triển, nên
xây dựng thể chế dân chủ là con đường thực tế đưa văn hóa hiện đại vào đời
sống dân tộc và hoạt động nhà nước, khác với cách chỉ đề ra quy chế và kêu
gọi như trước đây. Vì vậy, khi văn hóa tinh thần tồn tại dưới hình thức thể chế
dân chủ thì văn hóa có sức giải phóng con người khỏi những lệ thuộc vào tự
nhiên, vào những tư tưởng và quy chế lỗi thời, để chuyển từ “con người kinh
tế”, “con người xã hội” lên con người văn hóa.
* Đổi mới cơng tác đào tạo, quy chế sử dụng nguồn nhân lực quản lý vĩ mô
Xây dựng môi trường văn hóa cho sự phát triển bền vững của dân tộc
phụ thuộc nhiều vào chất lượng đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực quản lý vĩ
mơ, để họ có khả năng thực hiện quản lý theo khoa học và văn hóa, thể hiện
trước nhân dân như một tấm gương sáng.
Muốn vậy, phải coi trọng tính chủ động, sáng tạo gắn liền với trách
nhiệm của cá nhân người quản lý đồng thời phải tạo mơi trường văn hóa
chính trị dân chủ để phát huy tập thể lãnh đạo, quản lý. Lịch sử đã cho thấy:
phát hiện chân lý, ý tưởng mới thường ở một số cá nhân tài năng, còn vận
dụng vào cuộc sống phải dựa vào tập thể. Không thể lấy chủ nghĩa tập thể
thay cho vai trò sáng tạo của cá nhân, cũng không thể dùng mệnh lệnh cá
nhân thay vai trò tập thể và quần chúng.
* Xây dựng ngành cơng nghiệp văn hóa góp phần xây dựng mơi trường
văn hóa phát triển bền vững.
Ngành cơng nghiệp văn hóa bao gồm nhiều lĩnh vực như: xuất bản,
phát hành, điện ảnh, phát thanh truyền hình, vui chơi giải trí, kinh doanh tác
phẩm nghệ thuật, trình diễn, dịch vụ tin tức v.v... Tùy theo sự phát triển mà có

sự phân cơng lao động trong lĩnh vực này. Đó là ngành cung cấp sản phẩm
văn hóa và dịch vụ văn hóa nhằm đáp ứng nhu cầu văn hóa, tinh thần của xã
hội. Cơng nghiệp văn hóa ở các nước phương Tây vừa là ngành kinh tế


18

(doanh số ngành này ở nước Anh tương đương với ngành cơng nghiệp ơ-tơ,
cịn ở Nhật, ở Hàn Quốc đã vượt ngành ôtô), đồng thời là công cụ truyền bá,
phát triển nền văn hóa của họ. Năm 1993, kinh phí sản xuất bộ phim “Công
viên kỷ Jura” (Mỹ) là 63 triệu USD nhưng đã mang lại doanh thu khổng lồ
hơn 1,029 tỷ USD, tương đương lợi nhuận 500.000 chiếc xe ô tô của hãng
Hyundai (Hàn Quốc). Chính phủ Hàn Quốc “giật mình”, quyết tâm phát triển
mạnh mẽ cơng nghiệp văn hóa bằng việc thực thi một loạt chính sách đồng
bộ, triển khai khẩn trương nên đã tạo ra “làn sóng Hàn Quốc” (Hallyu) với đại
diện là phim ảnh, thời trang, ca nhạc... Trong gần hai năm qua, khi đại dịch
Covid-19 hồnh hành, hoạt động văn hóa ngưng trệ, nhưng nhờ nền tảng giải
trí trực tuyến, nền cơng nghiệp văn hóa Hàn Quốc vẫn có thể hái ra tiền như
hiện tượng phim truyền hình “Trị chơi con mực” (mới ra mắt phần 1 với 9
tập) ước tính thu về gần 900 triệu USD.
Như vậy cơng nghiệp văn hóa là nơi kết hợp cụ thể giữa kinh tế với văn
hóa. Nhưng kết hợp như thế nào, vì mục đích gì phụ thuộc vào phương hướng
phát triển kinh tế - xã hội và quan điểm quản lý của Đảng, Nhà nước ta. Để
xây dựng mơi trường văn hóa cho sự phát triển bền vững của đất nước; phát
triển hài hòa giữa kinh tế với văn hóa, giữa nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh
thần của con người, nước ta rất cần xây dựng ngành cơng nghiệp văn hóa, mà
bước đầu là tổ chức lại các đơn vị hoạt động văn hóa thành một hệ thống. Vấn
đề đặt ra là phải có cơng trình nghiên cứu tốt về xây dựng ngành cơng nghiệp
này gắn liền với hình thành thể chế quản lý phù hợp với mục tiêu xây dựng
mơi trường văn hóa phát triển bền vững. “Khẩn trương triển khai phát triển có

trọng tâm, trọng điểm ngành cơng nghiệp văn hóa và dịch vụ văn hóa trên cơ
sở xác định và phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam, vận dụng có
hiệu quả các giá trị, tinh hoa và thành tựu mới của văn hóa, khoa học, kỹ
thuật, cơng nghệ của thế giới”5.
5

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb CTQGST, tr.145.


19

Liên hệ trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay
Quân đội nhân dân Việt Nam đang được xây dựng theo hướng cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số
quân chủng, binh chủng, lực lượng. Việc phát huy vai trò của văn hóa
trong xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu xây dựng
quân đội tiến lên hiện đại là khâu đột phá chiến lược bảo đảm cho qn đội
hồn thành tốt mọi nhiệm vụ. Văn hóa qn sự có vai trị, vị trí hết sức quan
trọng trong giáo dục, bồi dưỡng chủ nghĩa yêu nước cho các tầng lớp nhân
dân, đặc biệt là thế hệ trẻ. Hiện nay, để thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến
lược: Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phải phát huy hơn nữa các giá trị văn hóa;
trong đó, bồi đắp lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, củng cố khối đại đoàn
kết toàn dân tộc, giáo dục truyền thống, lịng tự hào, tự tơn dân tộc, truyền
thống u nước, đoàn kết chống kẻ thù xâm lược, với tinh thần gắn bó, sẻ
chia, tương thân tương ái... đặc biệt là phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ với
những tiêu chí cụ thể, xứng đáng là đội quân “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân
mà chiến đấu”, “Trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân”,
có kỷ luật, tự giác, nghiêm minh, có tình đồng chí, đồng đội và tinh thần nhân
văn, nhân đạo, gắn bó mật thiết với nhân dân, chiến đấu vì mục tiêu, lý tưởng
thiêng liêng, cao quý; nhằm góp phần xây dựng “thế trận lòng dân”, bảo vệ

vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
trong tình hình mới, xây dựng và phát huy giá trị văn hóa trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc cần tập trung vào các nội dung chủ yếu là:
Thứ nhất, phát huy nhân tố văn hóa, tinh thần trong nâng cao nhận thức về
mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc đáp ứng yêu cầu tình hình mới. Theo tư duy
mới của Đảng, mục tiêu bảo vệ Tổ quốc hiện nay không chỉ là bảo vệ độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ về mặt tự nhiên-lịch sử, mà còn bảo vệ
Tổ quốc về mặt chính trị-xã hội, trong đó có bảo vệ nền văn hóa Việt Nam tiên


20

tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc không chỉ là sức mạnh
của lực lượng vũ trang, mà là sức mạnh tổng hợp của quốc gia và chế độ; được
xây dựng bằng mọi nguồn lực của đất nước và con người Việt Nam.
Điều đáng chú ý là phương thức bảo vệ Tổ quốc hiện nay cũng đã có sự
nhận thức mới. Vấn đề bảo vệ Tổ quốc bằng phương thức phi vũ trang ngày
càng nổi bật. Vì vậy, một trong những nhiệm vụ quan trọng là phải phát huy giá
trị của văn hóa trong xây dựng con người mới, góp phần tích cực vào các hoạt
động đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hịa bình”, “bạo loạn
lật đổ”, “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang của các thế lực thù địch và
những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, suy thối về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên.
Thứ hai, phát huy vai trị của văn hóa trong giáo dục tinh thần yêu
nước, xây dựng khối đại đoàn kết tồn dân tộc, thống nhất ý chí, hành động
trong tồn qn. Lịng u nước là phẩm chất hàng đầu của con người Việt
Nam, được hun đúc thành văn hóa quân sự. Trong lịch sử, những câu thơ bất
hủ của Lý Thường Kiệt trong cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược,
tuyên bố của Quang Trung-Nguyễn Huệ trước lúc xuất qn đại phá qn

Thanh... đã góp phần khích lệ lịng yêu nước của quân và dân ta, khẳng định tinh
thần tự tôn dân tộc; hai tiếng “đồng bào” được Chủ tịch Hồ Chí Minh thường
xuyên sử dụng, đã chứa đựng như một “vũ khí” sắc bén, “sức mạnh mềm” trong
suốt q trình đấu tranh cách mạng.
Trong “cuộc chiến” phịng, chống đại dịch Covid-19 vừa qua, Quân đội
đã triển khai nhiều biện pháp hiệu quả phòng, chống dịch; 100% cán bộ, chiến
sĩ, y, bác sĩ sẵn sàng lên đường vào vùng dịch với quyết tâm cao; đồng hành
cùng với lực lượng tuyến đầu, đội ngũ văn nghệ sĩ, cán bộ, chiến sĩ quân đội
đã sáng tác được nhiều tác phẩm nghệ thuật, báo chí tuyên truyền, cổ vũ,
động viên, cán bộ, chiến sĩ vững tin vào thắng lợi. Điều đó vừa thể hiện tinh
thần “hiếu với dân” vừa phát huy vai trò của quân đội trong bảo đảm sự ổn


21

định chính trị, xã hội để phát triển kinh tế trong điều kiện địch bệnh.
Thứ ba, giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa trong q trình hội nhập
quốc tế, đối ngoại quốc phịng. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương điển
hình về sử dụng văn hóa quân sự để đấu tranh ngoại giao, bảo vệ độc lập, chủ
quyền đất nước. Phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến” của Người soi rọi
trên mặt trận ngoại giao. Trong các cuộc đàm phán với đối phương, văn hóa
quân sự Việt Nam đã tỏa sáng bằng việc kết hợp chặt chẽ giữa ý chí kiên
cường, bất khuất với nhãn quan nhìn xa thấy rộng và tinh thần yêu nước, u
hịa bình. Trong q trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng hiện nay, phát
huy vai trò của văn hóa qn sự địi hỏi phải: Xác định rõ đối tác, đối tượng;
thực hiện đúng quan điểm chăm lo giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc; kiên trì giữ vững nguyên tắc độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong
quá trình hội nhập quốc tế; đồng thời, mở rộng quan hệ hợp tác với các nước
về lĩnh vực quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”.
KẾT LUẬN


Ngày nay, sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc không chỉ được đánh
giá bằng tăng trưởng kinh tế, tổng sản phẩm trong nước mà còn bằng các chỉ
số: Giáo dục tốt, sức khỏe và dinh dưỡng ở mức cao, mơi trường trong sạch,
có cuộc sống văn hóa cao... Tiến lên chủ nghĩa xã hội, văn hóa là một thành tố
khơng thể bị xem nhẹ, mà nó là một bộ phận trong chỉnh thể hữu cơ: Chính
trị-kinh tế-xã hội-văn hóa. Văn hóa và kinh tế là hai mặt thống nhất, xuyên
thấm trong nhau, khó tách bạch. Quá trình giải quyết mối quan hệ này ln
chịu các tác động khách quan, từ bên ngồi, bao gồm: bối cảnh quốc tế và khu
vực, các yếu tố chính trị, quan hệ kinh tế, các vấn đề an ninh truyền thống và
phi truyền thống, v.v.. Điều đó địi hỏi Đảng, Nhà nước phải có đường lối,
chính sách sáng tạo, khéo léo, phát huy được thế mạnh và các nguồn lực của
đất nước, tranh thủ được các nguồn lực từ bên ngoài, tận dụng được những
thời cơ, điều kiện quốc tế có lợi để đạt được mục tiêu, cần xây dựng các chủ


22

trương, chính sách phát huy vai trị của văn hóa của thời kỳ cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, trước mắt với tầm nhìn tới năm 2030 và tới năm 2045.
Nói một cách khái quát, đó là văn hóa của sự phát triển mạnh mẽ và bền
vững, với khát vọng Việt Nam xã hội chủ nghĩa độc lập và hùng cường.


23

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, tập 1, 2, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021.

2. Lê Ngọc Hùng, Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển
văn hóa trong thời kỳ cơng nghệ số, Tạp chí Cộng sản điện tử, 24/5/2021.
3. C. Mác và Ph. Ăng-ghen, Toàn tập, tập 3, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995.
4. Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 3, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự
thật, Hà Nội, 2011.
5. Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 4, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự
thật, Hà Nội, 2011.
6. Nguyễn Phú Trọng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nhà xuất bản Chính
trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022.



×