Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

MỐI QUAN HỆ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (298.68 KB, 24 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là mục tiêu và ước vọng của tất cả các dân
tộc trên thế giới, đây là vấn đề có tính vĩ mô mà không thực hiện tốt nó thì sẽ không thể
đưa đất nước thực sự đi lên. Kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội
là mục tiêu "kép" của sự phát triển nhanh, lành mạnh và bền vững mà nhiều quốc gia trên
thế giới đều mong muốn đạt tới. Tuy nhiên, trên thực tế, đây là bài toán khó, mà không
phải nước nào cũng có thể tìm ra lời giải thỏa đáng. Bởi lẽ để biến mục tiêu đó thành hiện
thực, thì phải có hàng loạt điều kiện khách quan và chủ quan cần thiết, phải giải quyết
nhiều mối quan hệ - đặc biệt là mối quan hệ giữa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội – trong một mô hình phát triển nhất định. Việc lựa chọn
mô hình nào để định hướng cho đất nước là tùy thuộc vào điều kiện và mục tiêu của mỗi
quốc gia theo đuổi. Trong đề tài này, nhóm xin phân tích mối quan hệ này tại ba quốc gia
đại diện cho ba châu lục khác nhau: Nigeria ( Châu Phi), Brasil ( Châu Mỹ La tinh) và
Việt Nam ( Châu Á). Để từ đó kiến nghị giải pháp cho mỗi quốc gia để định hướng mô
hình nào cho phù hợp với điều kiện của mình.
Để hiểu thêm về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội cũng như
thực tiễn của mối quan hệ này ở các nước đang phát triển, nhóm chúng tôi quyết định
thực hiện đề tài này, hy vọng đề tài này sẽ được sự ủng hộ của thầy và các bạn.
I. MỐI QUAN HỆ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI.
Mối quan hệ Tăng trưởng kinh tế & Công bằng xã hội Page 1
1. Tăng trưởng kinh tế.
a. Các khái niệm về tăng trưởng kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản
lượng quốc gia (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình quân trên đầu người
(PCI) trong một thời gian nhất định.
Tăng trưởng kinh tế là sự mở rộng sản lượng bởi một sự gia tăng các hoạt động kinh
tế sử dụng các công nghệ sản xuất hiện có.
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng giá trị sản lượng hàng hóa và dịch vụ của một nước
trong một thời điểm nào đó trong điều kiện có công ăn việc làm đầy đủ.
 Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng hay mở rộng giá trị sản lượng hàng hóa và dịch
vụ của một nước trong một thời điểm nhất định.


b. Nội dung, đặc điểm.
Tăng trưởng kinh tế là một phạm trù kinh tế, nó phản ánh quy mô tăng lên hay giảm
đi của nền kinh tế ở năm này so với năm trước đó hoặc của thời kỳ này so với thời kỳ
trước đó. Tăng trưởng kinh tế có thể biểu hiện bằng qui mô tăng trưởng và tốc độ tăng
trưởng. Qui mô tăng trưởng phản ánh sự gia tăng lên hay giảm đi nhiều hay ít, còn tốc độ
tăng trưởng được sử dụng với ý nghĩa so sánh tương đối và phản ánh sự gia tăng nhanh
hay chậm của nền kinh tế giữa năm hay các thời kỳ.
Ngày nay, tăng trưởng kinh tế được gắn với chất lượng tăng trưởng. Mặt số lượng của
tăng trưởng kinh tế được thể hiện ở qui mô, tốc độ của tăng trưởng. Còn mặt chất lượng
của tăng trưởng kinh tế là tính qui định vốn có của nó, là sự thống nhất hữu cơ làm cho
hiện tượng tăng trưởng kinh tế khác với các hiện tượng khác. Chất lượng tăng trưởng
được qui định bởi các yếu tố cấu thành và phương thức liên kết giữa các yếu tố cấu thành
nên tăng trưởng kinh tế.
c. Các chỉ tiêu đo lường tăng trưởng kinh tế.
Trên thế giới có hai nhóm chỉ tiêu cơ bản để đo lường mức độ tăng trưởng kinh tế của
một quốc gia, đó là nhóm chỉ tiêu thống kê và chỉ tiêu so sánh.
 Chỉ tiêu thống kê:
 Quy mô sản lượng quốc gia(GDP): Tổng giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ cuối
cùng được tạo ra trên lãnh thổ một nước tính trong một thời kì( thường là 1 năm).
Mối quan hệ Tăng trưởng kinh tế & Công bằng xã hội Page 2
Để tính GDP ta có 3 cách tiếp cận cơ bản là từ sản xuất, tiêu dùng và phân phối:
+) Phương pháp sản xuất: GDP =
Trong đó VA là giá trị gia tăng của nền kinh tế.
+) Phương pháp chi tiêu: GDP = C + I + G + X – M
+) Phương pháp thu nhập: GDP = w + i + r + Pr + Ti + De
 Sản lượng quốc gia tính bình quân đầu người(Yp)
Với ý nghĩa phản ánh thu nhập, chỉ tiêu GDP và GNI còn được sử dụng để đánh giá
mức thu nhập bình quân trên đầu người của mỗi quốc gia. Chỉ tiêu này phản ánh tăng
trưởng kinh tế có tính đến sự thay đổi dân số.
Tốc độ tăng thu nhập bình quân trên đầu người: g

yp
= 100%
 Chỉ tiêu so sánh: Tốc độ tăng trưởng định gốc; Tốc độ tăng trưởng liên hoàn và
tốc độ tăng trưởng trung bình.
Ngày nay để đo lường mức độ tăng trưởng kinh tế của một quốc gia, hết các nền kinh
tế đều sử dụng các chỉ tiêu GDP và GNP. Đây là hai chỉ tiêu đầu tiên trong hệ thống tài
khoản quốc gia SNA. Ngoài ra, trong SNA còn có các chỉ tiêu phản ánh thu nhập của mỗi
quốc gia. Tuy nhiên trong thực tế việc tính toán chúng còn nhiều hạn chế.
d. Quan điểm.
Hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau về chất lượng tăng trưởng kinh tế. Theo quan
điểm của Ngân hàng thế giới, Chương trình phát triển của Liên hợp quốc và một số nhà
kinh tế học nổi tiếng được giải thưởng Nobel gần đây như G.Becker, R.Lucas, Amrtya Sen,
J.Stiglitz, thì cùng với quá trình tăng trưởng, chất lượng tăng trưởng biểu hiện tập trung ở
các tiêu chuẩn chính sau đây:
- Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định trong dài hạn và tránh được những biến
động từ bên ngoài.
Mối quan hệ Tăng trưởng kinh tế & Công bằng xã hội Page 3
- Thứ hai, tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu, được thể hiện ở sự đóng góp của yếu tố
năng suất nhân tố tổng hợp TFP cao và không ngừng gia tăng.
- Thứ ba, tăng trưởng phải đảm bảo nâng cao hiệu quả kinh tế và nâng cao năng lực
cạnh tranh của nền kinh tế.
- Thứ tư, tăng trưởng đi kèm theo với phát triển môi trường bền vững.
- Thứ năm, tăng trưởng hỗ trợ cho thể chế dân chủ luôn đổi mới, đến lượt nó thúc đẩy
tăng trưởng ở tỷ lệ cao hơn.
- Thứ sáu, tăng trưởng phải đạt được mục tiêu cải thiện phúc lợi xã hội và giảm được
đói nghèo.
Như vậy, khi nghiên cứu quá trình tăng trưởng, cần phải xem xét một cách đầy đủ hai
mặt của hiện tượng tăng trưởng kinh tế là số lượng và chất lượng của tăng trưởng. Tăng
trưởng kinh tế với tốc độ và chất lượng cao là mong muốn của mọi quốc gia và của cả
nhân loại trên thế giới.

2. Công bằng xã hội.
a. Khái niệm.
Khác với khái niệm tăng trưởng kinh tế là cái có thể xác định bằng những con số, khái
niệm công bằng mang tính chuẩn tắc, nghĩa là tùy thuộc nhiều vào quan niệm của con
người. Công bằng xã hội là một phạm trù chính trị xã hội thể hiện mối quan hệ giữa các
thành viên trong xã hội dựa trên nguyên tắc thống nhất ngang bằng giữa cống hiến và
hưởng thụ, được phản ánh qua phân phối thu nhập. Theo nghĩa rộng CBXH là công bằng
về các quyền con người và về điều kiện thực hiện các quyền đó của các cá nhân – con
người hay rộng hơn là của các chủ thể xã hội. Trong kinh tế học có hai khái niệm về công
bằng xã hội thường được sử dụng là công bằng theo chiều ngang và công bằng theo chiều
dọc. Công bằng theo chiều ngang là đối xủ như nhau với những người có đóng góp như
nhau. Công bằng theo chiều rộng là đối xử khác nhau với những người có khác biệt bẩm
sinh hoặc có điều kiện xã hội khác nhau. Như vậy, công bằng xã hội là một khái niệm rất
rộng, bao gồm các yếu tố kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội. Xét tổng thể công bằng xã hội
gắn liền với sự phát triển toàn diện của con người và là kết quả của sự phát triển đó.
b. Bất bình đẳng xã hội.
Mối quan hệ Tăng trưởng kinh tế & Công bằng xã hội Page 4
Bất bình đẳng xã hội là sự không bình đẳng, sự không bằng nhau về các cơ hội hoặc
lợi ích đối với những cá nhân khác nhau trong một nhóm hoặc nhiều nhóm trong xã hội.
Bất bình đẳng xã hội không phải là một hiện tượng tồn tại một cách ngẫu nhiên giữa các
cá nhân trong xã hội. Xã hội có bất bình đẳng khi một số nhóm xã hội kiểm soát và khai
thác các nhóm xã hội khác. Qua những xã hội khác nhau đã tồn tại những hệ thống bất
bình đẳng xã hội khác nhau. Bất bình đẳng xã hội là một vấn đề trung tâm của xã hội học,
đây là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với sự phân tầng trong tổ chức xã hội.
Có 6 lý do dẫn đến sự khác biệt của các cá nhân trong xã hội: khả năng và kĩ năng lao
động khác nhau; cường độ làm việc khác nhau; sự khác nhau về nghề nghiệp; sự khác
nhau về giáo dục đào tạo; được hưởng thừa kế và chiếm hữu tài sản khác nhau; gánh chịu
rủi ro khác nhau.
Để khảo sát vấn đề công bằng và bất bình đẳng xã hội, người ta sử dụng các thước đo
sau:

Phân phối thu nhập theo đầu người hoặc các nhóm dân cư: tính phân phối thu nhập
cho từng cá nhân hoặc hộ gia đình nhận được trong một thời gian nhất định, không quan
tâm đến nguồn mang lại thu nhập và môi trường sống của dân cư, mà chia đều thu nhập
cho mọi thành phần dân cư. Phương pháp tính là người ta chia dân số thành 5 nhóm
người, mỗi nhóm có 20% dân số, sau đó xếp theo thứ tự từ thấp đến cao về thu nhập. Qua
đó, có thể thấy mức độ công bằng xã hội thông qua việc so sánh nhóm giàu nhát và nhóm
nghèo nhất.
Đường cong Lorentz: cho thấy mối quan hệ định lượng giữa % dân số có thu nhập và
% trong tổng thu nhập nhận được trong một thời gian nhất định(1
năm).
Đường cong Lorenz là sự biểu diễn bằng hình học của hàm phân bố
tích lũy, chỉ ra quan hệ giữa tỷ lệ phần trăm của một giá trị thể hiện
qua trục tung với tỷ lệ phần trăm của một giá trị khác thể hiện qua
trục hoành. Đường cong Lorenz thường được sử dụng trong việc
nghiên cứu sự phân bố thu nhập, chỉ ra tỷ lệ phần trăm số hộ gia đình
hay dân số trong tổng số và tỷ lệ phần trăm thu nhập của họ trong
tổng thu nhập. Một điểm bất kỳ trên đường Lorenz cho biết tỷ lệ % cộng dồn của nhóm
dân cư nghèo nhất nhận được bao nhiêu % tổng thu nhập. Như vậy đường Lorenz là cách
biểu hiện trực quan của sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, nó càng lõm thì mức
độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập càng cao.
Mối quan hệ Tăng trưởng kinh tế & Công bằng xã hội Page 5
Chỉ số Gini cũng là thước đo phổ biến để xác định mức bất bình đẳng trong phân phối
thu nhập, hệ số Gini được đưa ra nhằm lượng hoá đường cong Lorenz. Nó được tính bằng
cách chia diện tích nằm giữa đường chéo và đường cong Lorenz với toàn bộ diện tích
nằm dưới đường chéo, có nghĩa là G = A/(A+B). Hệ số G càng cao, mức bất bình đẳng
trong phân phối thu nhập càng lớn. Dựa vào những số liệu thu thập được, ngân hàng thế
giới WB nhận thấy rằng , mức biến động của hệ số G đối với những nước có thu nhập
thấp: từ 0.3-0.5, thu nhập trung bình 0.4-0.6, thu nhập cao 0.2-0.4. Từ đó WB đưa ra
nhận xét, hệ số G tốt nhất thường xoay quanh 0.3
Chỉ số nghèo khổ: tỉ lệ phần trăm giữa số dân sống dưới mức tối thiểu với tổng số

dân. Để xác định mức nghèo khổ, người ta phải đưa ra chuẩn nghèo, hiện nay còn tồn tại
nhiều ý kiến, quan niệm khác nhau về đói nghèo.
Mức độ thoả mãn các nhu cầu cơ bản của con người: Thước đo này đựoc coi là một
chỉ số đánh giá trình độ phát triển của một nước ở một thời kì nhất đinh. Những nhu cầu
cơ bản này bao gồm mức min dinh dưỡng, sức khoẻ, mặc, ở và các khả năng đảm bảo sự
phát triển cá nhân. Dù có những quan điểm khác nhau về các nhu cầu cơ bản, nhưng nhìn
chung là có thể đo được các nhu cầu này. Một xã hội không được coi là công bằng khi
đại đa số dân cư không được thoả mãn các nhu cầu cơ bản bất luận GNP/người cao hay
thấp.
Chỉ số phát triển con người (HDI): Chỉ số phát triển xã hội tổng hợp do Liên hợp
quốc nêu ra. Bao gồm 73 chỉ tiêu kinh tế, chính trị, xã hội. Tuy nhiên, trên thực tế rất ít
nước có thể thoả mãn các chỉ tiêu này. Vì vậy, đối với các nước đang phát triển, dù tốc độ
tăng trưởng kinh tế cao nhưng không phải bao giờ cũng đạt được chỉ số phát triển xã hội
cao. Việc đưa vào chỉ số phát triển xã hội tổng hợp quá nhiều chỉ số đã gây ra khó khăn
trong tính toán đặc biệt là ở các nước đang phát triển.
Chỉ số chất lượng vật chất cuộc sống: được tính toán dựa trên 3 tiêu chí cơ bản là:
tuổi thọ, tỉ lệ tử trẻ sơ sinh, tỉ lệ xoá nạn mù chữ. Chỉ số này đã phản ánh những khía
cạnh cơ bản của sự phát triển xã hội và gián tiếp nói lên mức độ công bằng xã hội của
một nước.
3. Mối quan hệ tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.
Có thể nói tăng trưởng kinh tế là một trong những mục tiêu hàng đầu của mỗi quốc
gia. Nhưng bên cạnh tăng trưởng kinh tế thì việc quan tâm đến công bằng xã hội là một
trong những yếu tố cần thiết để phát triển bền vững.
Mối quan hệ Tăng trưởng kinh tế & Công bằng xã hội Page 6
Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội có mối quan hệ mật thiệt, 2 chiều.Tăng
trưởng kinh tế là điều kiện để thực hiện công bằng xã hội. Tăng trưởng kinh tế cao và bền
vững là biểu hiện của công bằng xã hội. Công bằng xã hội là một trong những điều kiện
không thể thiếu được để có tăng trưởng kinh tế cao và bền vững Như vậy công bằng xã
hội là biểu hiện của tăng trưởng kinh tế. nhìn chung, có ba trường phái quan điểm mang
tính chất phổ quát, bao gồm: (1) quan niệm cho rằng tăng trưởng kinh tế sẽ dẫn đến bất

bình đẳng xã hội.(2) quan điểm cho rằng cần ưu tiên công bằng hơn tăng trưởng.(3) quan
điểm cho rằng tăng trưởng phải đi đôi với công bằng.
• Các mô hình về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội:
Quan điểm của K.Marx về phân phối bất bình đẳng trong xã hội TBCN. Marx đã có
những kết luận: Thứ nhất lẽ ra trong sản xuất, lao động là yếu tố quan trọng nhất thì trong
phân phối cũng phải lấy phân phối theo lao động là phương thức cơ bản. Do vậy phân
phối trong CNTB là không phù hợp. Thứ hai việc phân phối dựa vào tài sản là chính
nhưng dưới CNTB, tài sản chủ yếu tập trung vào một số người giàu có, còn đại bộ phận
người lao động chỉ có sức lao động. Điều này làm tăng bất bình đẳng trong phân phối thu
nhập của CNTB.
Mô hình tăng trưởng trước bình đẳng sau của A. Lewis. Ông cho rằng sự bất bình
đẳng sẽ tăng lên lúc đầu và sau đó sẽ giảm bớt khi đã đạt được tới mức độ phát triển nhất
định. Trước hết, sự bất bình đẳng tăng lên ở giai đoạn đầu bởi vì cùng với việc mở rộng
quy mô sản xuất công nghiệp, số lượng lao động được thu hút vào làm việc ở khu vực
này ngày càng tăng nhưng tiền công của công nhân vẫn ở mức tối thiểu. Như vậy, trong
khi mức tiền công của công nhân không thay đổi thì thu nhập của các nhà tư bản tăng lên
do quy mô mở rộng và lao động của công nhân mang lại. Ở giai đoạn sau sự bất bình
đẳng giảm bớt do khi lao động dư thừa sẽ được hút hết vào khu vực thành thị thì lao động
trở thành yếu tố khan hiếm trong sản xuất. Nhu cầu lao động ngày càng tăng lên đòi hỏi
phải tăng tiền lương như vậy sẽ dẫn đến giảm bớt sự bất bình đẳng. Trong mô hình này,
bất bình đẳng không chỉ là kết quả của tăng trưởng kinh tế mà còn là điều kiện cần thiết
của tăng trưởng. Theo quan điểm của Lewis, bất bình đẳng là điều kiện để người giàu
tăng tích lũy, tăng đầu tư, do đó sẽ thúc đẩy phát triển kinh tế.
Mô hình chữ U ngược (Simon Kuznets). Simon Kuznets tiến hành nghiên cứu về mối
quan hệ giữa thu nhập và tình trạng bất bình đẳng trong phân phối thu nhập. Theo mô
hình này thì các nước đang phát triển có dấu hiệu diễn ra bất bình đẳng cao hơn so với
các nước phát triển. Qua nghiên cứu nhiều nước hơn nữa có kết quả tương tự: bất bình
đẳng tăng ở giai đoạn đầu và giảm ở giai đoạn sau khi lợi ích của tăng trưởng lan tỏa rộng
rãi hơn. Tuy nhiên mô hình còn có những hạn chế như là không giải thích được nguyên
Mối quan hệ Tăng trưởng kinh tế & Công bằng xã hội Page 7

nhân cơ bản nào tạo ra sự bất bình đẳng trong quá trình phát triển. Các chính sách của
chính phủ các nước có tác động như thế nào đến sự tăng trưởng và bình đẳng. Sự bất bình
đẳng có phải là tất yếu hay không đối với sự phát triển ở các nước.
 Mô hình này có sự kế thừa mô hình tăng trưởng trước công bằng sau của A.Lewis.
Tuy nhiên cả hai mô hình này đều có sự hạn chế, đó là không giải thích được nguyên
nhân cơ bản nào dẫn đến sự ất bình đẳng trong sự phát triển, sự tác động của các chính
sách của chính phủ các nước đến tăng trưởng và bất bình đẳng.
Mô hình của M. B. Todaro. Theo mô hình này thì có 4 lý do để tăng trưởng kinh tế
phải gắn với công bằng xã hội: Ở các nước đang phát triển, người giàu có xu hướng tiêu
xài xa xỉ, không đóng góp cho tiết kiệm và đầu tư. Người lao động có thu nhập thấp,
không đủ điều kiện để đảm bảo cho sức khỏe và vì vậy năng suất lao động của họ rất
thấp. Khi tăng thu nhập cho người nghèo thì kích thích những đối tượng này chi tiêu
nhiều hơn và từ đó sẽ kích thích mở rộng sản xuất. Bất bình đẳng gia tăng làm cho mâu
thuẫn xã hội gia tăng, từ đó kìm hãm tăng trưởng kinh tế. Có thể nói mô hình này đã lý
giải được những hạn chế của hai mô hình trên, tuy nhiên nó chỉ đưa ra được lý do để tăng
trưởng kinh tế phải gắn với công bằng xã hội chứ chưa nói được phải thực hiện tăng
trưởng kinh tế gắn với công bằng như thế nào. Điều này đã được H.Oshima giải quyết
bằng mô hình tăng trưởng đi đôi với bình đẳng.
Mô hình tăng trưởng đi đôi với bình đẳng (H. Oshima). Theo H. Oshima sự bất bình
đẳng có thế được hạn chế ngay từ đầu. Như vậy, trước hết khoảng cách thu nhập giữa
nông thôn và thành thị sẽ được cải thiện ngay từ giai đoạn đầu nhờ việc đầu tư phát triển
khu vực nông nghiệp nông thôn. Tiếp đó là quá trình cải thiện dần khoảng cách thu nhập
giữa xí nghiệp có quy mô lớn và xí nghiệp có quy mô nhỏ ở thành thị, cũng như nông trại
lớn và ông trại nhỏ ở nông thôn. Tiết kiệm sẽ được tăng lên ở tất cả các nhóm dân cư kể
cả các nhóm có thu nhập thấp nhất và đó là điều kiện để phát triển sản xuất.
Quan điểm về phân hóa giàu nghèo của Max Weber. Phân tần xã hội là hệ quả của
phân chia tài sản, quyền lực trong xã hội do yếu tố sở hữu quyết định. Bản than người có
phương tiện kinh tế chưa hẳn có quyền lực và uy tín cho nên trình độ văn hóa, giáo dục là
nguồn lực quyết định để phân tầng xã hội. Nhấn mạnh khả năng thị trường, xem đây là
nhân tố đầu tiên của sự bất bình đẳng hơn là yếu tố tài sản.

II. THỰC TIỄN Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN.
Trên Thế giới có khoảng 145 nước thuộc thế giới thứ ba, các quốc gia sẽ có sự khác
nhau về văn hoá , các điều kiện kinh tế, cơ cấu chính trị và xã hội, v.v Đồng thời, vì
những nước này đều là các nước đang phát triển, nên chắc chắn là họ cũng có những
Mối quan hệ Tăng trưởng kinh tế & Công bằng xã hội Page 8
điểm chung. Các quốc gia khác nhau thì có sự lựa chọn con đường phát triển của mình
khác nhau. Có nước thì đề cao mục tiêu tăng trưởng kinh tế, có nước đề cao công bằng xã
hội, có nước lại chọn kết hợp cả hai mục tiêu đó một cách hợp lý…để tiện trong vấn đề
nghiên cứu, nhóm đã chọn ra 3 quốc gia đại diện: Nigeria, Bhutan và Việt Nam.
1. Tổng quan về 3 nước.
 Cộng hòa Liên bang Nigeria: là quốc gia thuộc Tây Phi. Thủ đô là Abuja. Dân số
149,2 triệu người (2009),là quốc gia đông dân nhất châu Phi. Diện tích: 923,768 km2.Tôn
giáo: 50% dân số theo đạo Hồi, 40% theo đạo Thiên chúa và 10% theo đạo cổ truyền.
Đảng Dân chủ nhân dân (PDP) đã thống trị kể từ khi trở về quy luật dân sự năm 1999.
 Vương quốc Bhutan: Bhutan là một quốc gia nằm kín trong lục địa tại Nam Á nằm
giữa Ấn Độ và Trung Quốc. Bhutan có dân số khoảng 672.425 người (2006).Thimphu là
thủ đô đồng thời là thành phố lớn nhất nước. Ngôn ngữ chính thức là Dzongkha. Buhtan
được biết đến là quốc gia cô lập nhất trên thế giới với các chính sách kinh tế và xã hội
nghiêm ngặt để bảo tồn nền văn hóa Phật giáo Tây Tạng truyền thống của mình. Đây
cũng là một điều thú vị thu hút khách du lịch nước ngoài. Bhutan đã trở thành một chế độ
quân chủ từ năm 1907. Năm 2008, chuyến sang chế độ quân chủ lập hiến. Nhà vua trẻ
của Buhtan hiện nay là Jigme Khesar Namgyal Wangchuck.
 Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: ( Thủ đô Hà Nội) là một quốc gia nằm ở
phía đông bán đảo Đông Dương, thuộc khu vực Đông Nam Á, với diện tích khoảng
331698 km², với dân số là 89571130 người. Nền kinh tế Việt nam là nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế
với tiến bộ và công bằng xã hội, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân
dân, hướng tới mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
(phụ lục 1).
2. Thực tiễn tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.

a. Về tăng trưởng kinh tế .
■ Tình hình tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia năm 2010: để hiểu được thực tiễn vấn đề
tăng trưởng kinh tế ở 3 nước này ta xem bảng sau:
Quốc gia
Chỉ số
Nigeria Bhutan Việt Nam
GDP 369.8 tỷ USD 3. 526 tỷ USD 104.6 tỷ USD
Mối quan hệ Tăng trưởng kinh tế & Công bằng xã hội Page 9
GDP/người 2400USD 5000 USD 1100USD
Tốc độ tăng
trưởng kinh tế
6.8% 6.8% 6.78%
Nợ công 13.4% GDP 57.8% GDP ( 2009) 56.6% GDP
Nợ nước ngoài 11.02 tỷ USD 129 triệu USD 29 tỷ USD
Tỷ lệ lạm phát 13.9% 4.3% ( 2008) 11.75%
Tỷ lệ thất nghiệp 4.9% 4% ( 2009) 2.8%
Xuất khẩu 52 tỷ USD ( 2005) 513 triệu USD
( 2008)
71 tỷ USD
Nhập khẩu 26 tỷ USD ( 2005) 533 triệu USD
( 2008)
84 tỷ USD
Bảng 1: Tổng hợp tình hình tăng trưởng kinh tế của ba nước.
Nhìn vào bảng số liệu trên ta có thể thấy rằng: tổng sản phẩm quốc dân của 3 nước có
sự chênh lệch lớn, cao nhất ở Nigeria và thấp nhất ở Bhutan. Tuy vậy thu nhập bình quân
đầu người Bhutan thì cao nhất.Tốc độ tăng trưởng kinh tế của 3 nước đều thuộc loại cao.
Nợ công và nợ nước ngoài còn là một gánh nặng. Tỷ lệ lạm phát ở Nigeria và Việt Nam
tương đối cao trong khi đó ở Bhutan lại ở mức thấp. Thất nghiệp ở cả 3 nước tương đối
thấp. Ngoài ra, ở Bhutan và Việt Nam nhập siêu, còn ở Nigeria xuất siêu. Vậy để đánh
giá xem ở 3 nước này có thực sự tăng trưởng kinh tế bền vững hay không thì ta xem xét

những khía cạnh sau đây:
 Thứ nhất, về tốc độ quy mô tăng trưởng kinh tế:
 Ở Nigieria: Với tài nguyên dồi dào, hệ thống tài chính, pháp luật, thông tin-liên
lạc, giao thông ngày càng hoàn thiện, Nigeria được hy vọng sẽ trở thành nước có nền
kinh tế đứng đầu châu Phi. Nigeria là nước có trữ lượng dầu mỏ lớn nhất châu Phi Nam
Sahara( 34 tỷ thùng và 2000 tỷ m
3
khí đốt tự nhiên).Hàng năm Nigeria cung cấp cho Mỹ
12% tổng lượng dầu nhập khẩu của nước này. Sau hàng loạt những cố gắng của chính
phủ thì GDP đã tăng mạnh trong 2007-2010 vì xuất khẩu dầu tăng và giá dầu thô toàn
Mối quan hệ Tăng trưởng kinh tế & Công bằng xã hội Page 10
cầu cao trong năm 2010. Năm 2007, GDP (PPP) đã xếp thứ 37 trên thế giới. Theo số liệu
của tổ chức Ngân hàng thế giới thì GDP (tính theo sức mua-PPP) của Nigeria đã tăng gấp
đôi từ $170.7 tỷ năm 2005 lên $292.6 tỷ năm 2007 và $369.8 tỷ năm 2010 đứng thứ 32
trên thế giới. Nền kinh tế Nigeria phát triển khá ổn định, tăng trưởng đạt 6.9% trong bối
cảnh khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu.Năm 2010 tăng trưởng 6.8%.
 Ở Bhutan: Bhutan là một trong những nền kinh tế nhỏ nhất thế giới và phát triển
nhất. Từ năm 2003 đến năm 2010 tổng sản phẩm quốc nội đã tăng từ khoảng 2.913 tỷ
USD lên đến 3.526 tỷ USD và đưa nền kinh tế Bhutan đứng thứ 170 trên thế giới.
 Ở Việt Nam: Hơn 10 năm trở lại đây, Việt Nam đã đạt được những kết quả rất tích
cực trong phát triển kinh tế. Nền kinh tế Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng khá cao trong
nhiều năm liền. Tỷ lệ tăng GDP bình quân hàng năm thời kỳ 1986-1990 là 4,4%, thời kỳ
1991-2000 là 7,5%, thời kỳ 2001-2005 là trên 7,5%; năm 2006 đạt 8,23%, năm 2007 đạt
8,46%; mấy năm gần đây, do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, GDP năm
2008 tăng 6,18%, năm 2009 tăng hơn 5% và GDP năm 2010 đạt 104.6 tỷ USD với tốc độ
tăng trưởng là 6,8% nhưng vẫn thuộc nhóm nước có tỷ lệ tăng trưởng khá cao trong khu
vực và trên thế giới. Tổng sản phẩm trong nước năm 2010 tăng gấp hai lần so với năm
2005.
 Thứ hai là sự chuyển dịch trong cơ cấu kinh tế:
Đóng góp GDP và giá trị sản xuất các ngành kinh tế:

- Nigeria: đóng góp vào GDP của ngành nông nghiệp:39,1%, công nghiệp: 32,9% và
dịch vụ: 35,2% ( năm 2010). Với lực lượng lao động trong các ngành nghề: Nông nghiệp:
70%, công nghiệp: 20% và dịch vụ 10 %. Xu hướng là giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp
và tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ. Nông nghiệp đã từng là ngành xuất khẩu
chính của Negeria. Đã từng có thời điểm Nigeria là nước xuất khẩu nhiều lạc, ca cao, dầu
cọ lớn nhất thế giới. Nigeria là nước đứng thứ 12 về sản xuất dầu, thứ 8 về xuất khẩu dầu
và là nước có trữ lượng dầu thô xếp thứ 10 trên thế giới. Dầu mỏ đóng vai trò rất quan
trọng trong nền kinh tế, chiếm 40% GDP và 80% thu nhập của Chính phủ. Tuy nhiên, sự
bất ổn trong mấy năm gần đây ở các khu vực khai thác dầu đã ảnh hưởng đến ngành công
nghiệp dầu, khiến nó không thể hoạt động hết 100% công suất. Nigeria có hệ thống tài
chính ngân hàng phát triển bao gồm các ngân hàng quốc tế và địa phương, các công ty
đầu tư chứng khoán, môi giới chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư, bất động sản, và
bảo hiểm.
- Bhutan: Đóng góp vào GDP của ngành nông nghiệp:17,6%, công nghiệp: 45% và
dịch vụ: 37,4 % ( năm 2010) Với lực lượng lao động trong các ngành nghề: Nông nghiệp:
63%, công nghiệp: 6% và dịch vụ 31%. Nền kinh tế nhỏ của Bhutan phụ thuộc vào nông
nghiệp, lâm nghiệp, và việc bán thủy điện cho Ấn Độ. Nông nghiệp là phương tiện sinh
Mối quan hệ Tăng trưởng kinh tế & Công bằng xã hội Page 11
sống của hơn 80% dân số. Hoạt động nông nghiệp chủ yếu là canh tác và chăn nuôi gia
súc. Các sản phẩm thủ công, đặc biệt là sản phẩm dệt và các sản phẩm thủ công tôn giáo
phục vụ việc thờ cúng trong gia đình là một ngành công nghiệp nhỏ và một nguồn thu
nhập cho một số dân cư. Lĩnh vực công nghiệp còn nhỏ bé, sản phẩm làm ra theo kiểu
công nghiệp gia đình.
- Việt Nam: Đóng góp vào GDP của ngành nông nghiệp:17,1%, công nghiệp: 31,6% và
dịch vụ: 51.4 % ( năm 2010). Với lực lượng lao động trong các ngành nghề: Nông
nghiệp: 51,8%, công nghiệp: 12,4% và dịch vụ 32,7%. Số lượng lao động trong ngành
công nghiệp và dịch vụ tăng lên trong khi số lao động trong ngành nông nghiệp ngày
càng giảm đi.
Biểu đồ 1: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam 1990 – 2009
Nguồn: Tổng cục Thống kê

Có thể thấy cơ cấu kinh tế của Việt Nam đang chuyển dịch theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Dựa vào biểu đồ trên, ta thấy cơ cấu các ngành kinh tế của Việt Nam
có xu hướng giảm dần tỷ trọng ngành Nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng các ngành Công
nghiệp, Dịch Vụ, đặc biệt là công nghiệp chế biến. Cùng với tốc độ tăng cao liên tục và
khá ổn định của GDP, cơ cấu ngành kinh tế đã có sự thay đổi đáng kể theo hướng tích
cực. Tỷ trọng trong GDP của ngành nông nghiệp đã giảm nhanh từ 38,1% năm 1990
xuống 27,2%(1995), 20,9 % (2005) và đến nay là 17,1%. Tỷ trọng Công nghiệp tăng
nhanh từ 22,7% năm 1990 lên 41 %( 2005) sau đó lại có xu hướng giảm dần, đến nay con
số này chỉ còn 31,6%. Tỷ trọng ngành Dịch vụ trong GDP giai đoạn 1990- 2005 chưa có
biến động nhiều, năm 1990 là 38.6%, 38,1%( 2005). Sau đó dịch vụ được ưu tiên phát
triển và đã tăng vọt lên 51,8% năm 2010.
Mối quan hệ Tăng trưởng kinh tế & Công bằng xã hội Page 12
 Thứ ba là kinh tế phát triển theo hướng đẩy mạnh hoạt động ngoại thương:
• Ở Nigieria: Nigeria là nước bạn hàng thương mại chính của Hoa Kỳ ở khu vực cận
Sahara, và cung cấp 1/5 (11%) lượng dầu nhập khẩu của Hoa Kỳ. Nó cũng đứng thứ 7
trong số các nước có thặng dư thương mại với Hoa Kỳ. Năm 2005 Nigieria nhập khẩu
khoảng 26 tỷ USD hàng hóa (máy móc, thiết bị vận tải, hóa chất, thực phẩm và động vật
sống ) với các bạn hàng chủ yếu là Trung Quốc (9.4%), Hoa Kỳ (8,4%), Anh (7,8%), Hà
Lan (5,9%), Pháp (5,4%), Đức (4,8%), và Italy (4%). Cũng trong năm 2005 Nigieri xuất
khẩu khoảng 52 tỷ USD hàng hóa qua các nước như Hoa Kỳ (47,4%), Brazil (10,7%), và
Tây Ban Nha (7,1%). trong đó dầu chiếm 95%. Trong những năm gần đây, Nigeria đã
mở rộng quan hệ thương mại với các nước đang phat triển khác như Ấn Độ, Việt Nam…
● Ở Bhutan: Xuất khẩu của Bhutan, chủ yếu là điện, bạch đậu khấu, thạch cao, gỗ, đồ
thủ công, xi măng, hoa quả, đá quý và gia vị, tổng cộng 513 triệu USD ( 2008) . Tuy
nhiên, nhập khẩu lên tới $533 triệu, dẫn tới tình trạng thâm hụt thương mại. Các sản
phẩm nhập khẩu chính gồm nhiên liệu và dầu nhờn, ngũ cốc, máy, xe cộ, sợi và gạo. Các
đối tác thương mại chính của Bhutan là Ấn Độ, chiếm 87.9% hàng xuất khẩu.
Bangladesh (4.6%) và Philippines (2%) cũng là hai đối tác xuất khẩu khác. Bởi biên giới
với Tây Tạng đã bị đóng cửa, thương mại giữa Bhutan và Trung Quốc hiện không tồn tại.
Các đối tác nhập khẩu của Bhutan gồm Ấn Độ (71.3%), Nhật Bản (7.8%) và Áo (3%).

• Ở Việt Nam : Giá trị xuất khẩu tăng lên không ngừng nghỉ với định hướng phát triển
nền kinh tế xuất khẩu; giai đoạn 2001-2008, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam theo giá
thực tế tăng liên tục với mức trung bình khoảng 20%/năm (Trong bài viết này, các tỷ lệ
bình quân hàng năm được tính theo phương pháp trung bình các tỷ lệ tăng/giảm của các
năm); riêng năm 2009, do khủng hoảng của nền kinh tế thế giới, đà tăng không còn nữa
và giá trị xuất khẩu sụt giảm khoảng 10%; dù vậy, tính chung trong cả giai đoạn 2001-
2009 thì mức tăng xuất khẩu của Việt Nam vẫn đạt 17%/năm; đây quả là một con số ấn
tượng.
Tuy nhiên, cùng với sự tăng trưởng của xuất khẩu, nhập siêu của nền kinh tế cũng
tăng lên mạnh mẽ với tốc độ chóng mặt, bình quân giai đoạn 2001-2009 là 45%, trong đó
đáng kể nhất là năm 2002 (tăng 163%) và năm 2007 (tăng 158%). Giá trị nhập khẩu và
xuất siêu năm 2009 giảm mạnh tương ứng ở mức gần -15% và -29% do chính sách kích
cầu nội địa trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế và giá cả hàng hóa trên thị trường quốc tế
giảm mạnh. Dù vậy, tỷ lệ nhập siêu năm 2009 (đã tính cả xuất khẩu vàng trong những
tháng đầu năm) vẫn ở mức hơn 13% GDP, tính chung giai đoạn 2001-2009 thì tỷ lệ này
là gần 12% GDP, tỷ lệ nhập khẩu/GDP ở mức 70%; riêng giai đoạn 2006-2009 các tỷ lệ
này tương ứng là 15% và 81% GDP. Quý I/2010, nhập siêu của Việt Nam lại vọt lên
khoảng 3,5 tỷ USD, bằng 28% nhập siêu cả năm 2009.
Mối quan hệ Tăng trưởng kinh tế & Công bằng xã hội Page 13
 Thứ tư là việc làm, thu nhập và mức sống dân cư các nước trong quá trình
tăng trưởng.
Tăng trưởng kinh tế góp phần tạo ra nhiều cơ hội việc làm và làm tăng thu nhập cho
dân cư. Thu nhập bình quân đầu người ở mỗi nước đều tăng qua các năm. Cụ thể là: ở
Nigieria GDP theo đầu người tăng từ $692/người năm 2006 tới $1,754/người năm 2007
và đến năm 2010 tăng lên 2400USD/ người.Ở Bhutan GDP bình quân theo đầu người
tăng từ $1.400năm 2003 lên đến $ 5000 năm 2010. ở việt nam, GDP bình quân đầu
người từ khoảng 200 USD năm 1990 tăng lên 1.200 USD năm 2010.
b. Tình hình thực hiện công bằng xã hội trong quá trình tăng trưởng kinh tế.
Quốc gia
Chỉ số

Nigieria Bhutan Việt Nam
Gini 0.437 0.47 0.37
Chỉ số nghèo khổ 45% 23,2% (2008) 32.9%
HDI 0.473(158/177) 0,536 (134/177) 0.704( 108/177)
Tuổi tho TB 45 55 72
Tỷ lệ biết chữ 68% 50% 94%
Bảng 2: Tổng hợp tình hình thực hiện công bằng xã hội ở ba nước.
 Về chỉ số Gini và chỉ số nghèo khổ
Theo WB thì các quốc gia đang phát triển là những quốc gai có mức thu nhập trung
bình, chỉ số Gini là từ 0,4 – 0,6. Qua bảng số liệu trên ta thấy ở 3 nước trên thì hệ số Gini
ở mức phù hợp, thể hiện sự bất bình đẳng của các quốc gia này ơ mức trung bình. Đó là
trên lý thyết, còn trên thực tế, sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập vẫn còn đáng
báo động:
- Ở Nigieria: Dân số dưới mức nghèo khổ chiếm tỷ lệ khá cao, chiếm tới 45%, hộ
gia đình thu nhập hoặc tiêu dùng bằng cách chia sẻ tỷ lệ : thấp nhất 10% là 2% và cao
nhất 10% là 32,4%.
- Ở Bhutan: Theo một bảng xếp hạng mới đây của Anh, Bhutan là nước có điểm
hạnh phúc xếp thứ 8 thế giới. Dân số dưới mức nghèo khổ là 23,2%(2009) và hộ gia đình
thu nhập hoặc tiêu dùng bằng cách chia sẻ tỷ lệ : thấp nhất 10% là 2,3% và cao nhất 10%
là 37,6%.
Mối quan hệ Tăng trưởng kinh tế & Công bằng xã hội Page 14
- Ở Việt Nam: Năm 2010, GDP bình quân đầu người của Việt Nam vượt ngưỡng thu
nhập 1.000 USD/người, đạt 1.100 USD/người. Tuy nhiên khoảng cách giàu nghèo giữa
người giàu và người nghèo, giữa thành thị và nông thôn vẫn còn khá cao, 32,9 % người
dân Việt Nam sống dưới mức nghèo khổ.
 Về Chỉ số phát triển con người HDI:
Tây Âu , Bắc Âu, EU 0.950
Mỹ Latinh và vùng Caribe 0.803
Châu Á- Thái Bình Dương 0.771
Các nước đang phát triển 0.691

Asean 0.699
Liên hiệp Châu Phi 0.493
Bảng: Chỉ số HDI theo vùng và nhóm quốc gia
Theo bảng số liệu thì các nước đang phát triển có chỉ số phát triển con người ở mức trung
bình là 0,691.
- Nigeria: Năm 2006, HDI của Nigeria là 0,419 đứng thứ 151 trên tổng số 177 quốc
gia được thống kê, năm 2007 là 0,47(158/177), năm 2009 là 0.453(158/177). Nhìn chung
chỉ số này của Nigeria có tăng qua các năm nhưng không nhiều và vẫn ở mức không cao.
- Bhutan: Năm 2009, HDI của Bhutan là 0.536 đứng thứ 134 trên thế giới, tuy
không cao nhưng vì Bhutan là nước vừa mới thoát ra khỏi danh sách các nước kém phát
triển nên con số này là có thể chấp nhận được. Hiện nay thì HDI của nước này đang dần
tăng lên.
- Việt Nam: HDI của Việt Nam được đánh giá là ở mức cao so với các nước đang
phát triển khác và tăng đều đặn và liên tục suốt mấy thập niên kỷ qua: từ 0,561 năm 1985
lần lượt tăng lên 0,599 năm 1990; 0,647 năm 1995; 0,690 năm 2000; 0,715 năm 2005 và
0,733 năm 2007. Nếu so với thứ bậc xếp hạng GDP bình quân đầu người thì xếp hạng
HDI của Việt Nam năm 2007 vượt lên 13 bậc: GDP bình quân đầu người xếp thứ 118
trên tổng số 177 nước được thống kê, còn HDI thì xếp thứ 105/177. Và hiện nay chỉ số
này là 0,704
 Về các chỉ tiêu khác:
Mối quan hệ Tăng trưởng kinh tế & Công bằng xã hội Page 15
- Nigeria: Khoảng 38% trẻ em dưới 5 tuổi ở Nigeria bị suy dinh dưỡng, từ nhẹ đến
nghiêm trọng. Theo Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc (UNICEF), 65% dân số (tương
đương 91 triệu người) đang trong tình trạng “không đảm bảo lương thực”. Nigieria còn
những vấn đề nổi cộm như tình trạng bạo lực và tội phạm, hệ thống y tế Nigeria vẫn phải
đối mặt với vấn đề thiếu bác sĩ do tình trạng "chảy máu chất xám" tới các nước phát triển
như Bắc Mỹ và châu Âu. Chỉ tính riêng năm 2008 ước tính khoảng 21,000 bác sĩ người
Nigeria đang làm việc tại Mỹ.
- Bhutan: Buhtan tuy là một đất nước được đánh giá là nghèo nhất trên thế giới
nhưng người dân trong nước rất tự hào về chỉ số hạnh phúc quốc gia của mình. Chính

việc làm của Buhtan đã làm cho nhiều nước phát triển phải nhìn nhận rằng phát triển
không có nghĩa là phải hi sinh môi trường và hạnh phúc của cộng đồng. Một số quốc gia
trên thế giới bắt đầu áp dụng chỉ số GNH của Buhtan như Thái Lan, Vương quốc Anh…
Nhưng, nếu các quốc gia dân chủ trên thế giới đều áp dụng chỉ số GNH thì vấn về giao
lưu và phát triển kinh tế cũng như hội nhập văn hóa xã hội sẽ khép kín, mà các quốc gia
theo chế độ dân chủ còn rất nhiều nên ảnh hưởng tới kinh tế- văn hóa xã hội toàn cầu.
- Việt Nam:
Trong lĩnh vực lao động và việc làm: Từ năm 1991 đến năm 2000, trung bình hàng
năm cả nước đã giải quyết cho khoảng 1 - 1,2 triệu người lao động có công ăn việc làm;
những năm 2001-2005, mức giải quyết việc làm trung bình hàng năm đạt khoảng 1,4 -
1,5 triệu người; những năm 2006-2010, con số đó lại tăng lên đến 1,6 triệu người. Công
tác dạy nghề từng bước phát triển, góp phần đưa tỷ lệ lao động qua đào tạo từ dưới 10%
năm 1990 lên khoảng 40% năm 2010.
Công tác xóa đói giảm nghèo đạt được kết quả đầy ấn tượng. Theo chuẩn quốc gia, tỷ
lệ hộ đói nghèo đã giảm từ 30% năm 1992 xuống khoảng 9,5% năm 2010. Còn theo
chuẩn do Ngân hàng Thế giới phối hợp với Tổng cục Thống kê tính toán, thì tỷ lệ nghèo
chung
*
đã giảm từ 58% năm 1993 xuống 29% năm 2002 và còn khoảng 17% năm 2008.
Như vậy, Việt Nam đã “hoàn thành sớm hơn so với kế hoạch toàn cầu: giảm một nửa tỷ
lệ nghèo vào năm 2015”
Sự nghiệp giáo dục có bước phát triển mới về quy mô, đa dạng hóa về loại hình
trường lớp từ mầm non, tiểu học đến cao đẳng, đại học. Năm 2000, cả nước đã đạt chuẩn
quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học; đến cuối năm 2010, hầu hết các
tỉnh, thành sẽ đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Tỷ lệ người lớn (từ 15 tuổi trở
lên) biết chữ đã tăng từ 84% cuối những năm 1980 lên 90,3% năm 2007. Năm 2009, trên
Mối quan hệ Tăng trưởng kinh tế & Công bằng xã hội Page 16
1,3 triệu sinh viên nghèo được Ngân hàng chính sách xã hội cho vay với lãi suất ưu đãi
để theo học.
Hoạt động khoa học và công nghệ có bước tiến đáng ghi nhận. Đội ngũ cán bộ khoa

học và công nghệ đã góp phần cung cấp luận cứ khoa học phục vụ hoạch định đường lối,
chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước; tiếp thu, làm chủ và ứng dụng có
hiệu quả các công nghệ nhập từ nước ngoài, nhất là trong các lĩnh vực thông tin - truyền
thông, lai tạo một số giống cây trồng, vật nuôi có năng suất cao, thăm dò và khai thác dầu
khí, xây dựng cầu, đóng tàu biển có trọng tải lớn, sản xuất vắc-xin phòng dịch và bước
đầu có một số sáng tạo về công nghệ tin học.
Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có tiến bộ. Bảo hiểm y tế được mở rộng đến
khoảng gần 60% dân số. Các chỉ số sức khỏe cộng đồng được nâng lên. Tỷ lệ tử vong ở
trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm từ 81‰ năm 1990 xuống còn khoảng 28‰ năm 2010; tỷ lệ trẻ
em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng đã giảm tương ứng từ 50% xuống còn khoảng 20%. Công
tác tiêm chủng mở rộng được thực hiện, nhiều dịch bệnh hiểm nghèo trước đây đã được
thanh toán hoặc khống chế. Tuổi thọ trung bình của người dân từ 63 tuổi năm 1990 tăng
lên 72 tuổi hiện nay.
Tổng hợp các chỉ tiêu đánh giá CBXH và TTKT:
GDP/ người HDI Gini Tỷ lệ nghèo
Tăng Tăng Giảm Giảm
 Nhìn chung, các chỉ tiêu đánh giá này ở các quốc gia này đều có xu hướng tăng
dần thu nhập bình quân đầu người và chỉ số HDI, giảm dần chỉ số Gini và chỉ số nghèo
khổ. Đây cũng là xu hướng chung mà các nước đang phát triển hiện nay đang hướng tới.
III. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHO VIỆT NAM THỜI GIAN TỚI.
1. Định hướng.
Từ những phân tích trên, một vấn đề có ý nghĩa vừa cơ bản vừa cấp bách được đặt ra
đối với giới nghiên cứu lý luận và hoạt động thực tiễn ở nước ta hiện nay là cần phải làm
gì và làm như thế nào để góp phần phát huy những thành tựu đã đạt được, khắc phục
Mối quan hệ Tăng trưởng kinh tế & Công bằng xã hội Page 17
những hạn chế và yếu kém còn lại của quá trình phát triển kinh tế - xã hội thời gian qua,
trên cơ sở đó thực hiện tốt hơn việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công
bằng xã hội trong mô hình phát triển của nước ta từ nay đến năm 2020:
Căn cứ vào quan điểm tổng quát của Đảng, vào những kinh nghiệm thực tế - cả thành
công và không thành công – trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta mấy thập niên qua, đồng

thời tham khảo kinh nghiệm của thế giới, chúng tôi xin nêu kiến nghị về việc cụ thể hóa
hệ quan điểm như sau:
Một là, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng trưởng kinh tế
và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội có thể và cần phải làm tiền đề và điều kiện cho
nhau. Tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện vật chất để thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội; đến lượt nó, thực hiện tốt tiến bộ và công bằng xã hội lại trở thành động lực tinh thần
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Không thể có tiến bộ và công bằng xã hội trên cơ sở một
nền kinh tế kém hiệu quả, chất lượng thấp. Cũng không thể có một nền kinh tế tăng
trưởng nhanh, có hiệu quả cao và bền vững trong một xã hội với đa số lao động chỉ có
trình độ học vấn và tay nghề thấp; một tỷ lệ đáng kể dân cư còn nghèo do thất nghiệp
hoặc thiếu việc làm
Hai là, kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội phải được tiếp tục
thực hiện ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển. Không chờ đợi đến khi
kinh tế đạt đến trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng
không hy sinh tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần vì
lợi ích của một thiểu số giàu có, như chủ nghĩa tự do mới từng thực hiện ở nhiều nước.
Muốn vậy, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới bảo đảm tiến bộ và công bằng xã
hội; mỗi chính sách bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội đều phải góp phần thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, dù trực tiếp hay gián tiếp, trước mắt hoặc lâu dài.
Ba là, kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội không thể chỉ dựa
vào việc điều tiết quá mức thu nhập của các tầng lớp dân cư, mà mô hình Nhà nước phúc
lợi xã hội đã áp dụng không mấy thành công trong thế kỷ trước. Kế thừa và phát huy
thành quả của tiến trình đổi mới gần 25 năm qua, giờ đây Việt Nam có thêm tiền đề và
điều kiện cần thiết để bảo đảm cho mọi người dân, nhất là những người thuộc các nhóm
yếu thế và dễ bị tổn thương, đều được hưởng quyền bình đẳng về cơ hội tiếp cận các dịch
vụ xã hội cơ bản như giáo dục, đào tạo, y tế, việc làm, tín dụng, bảo trợ xã hội để họ có
thể lo liệu và dần dần cải thiện cuộc sống của bản thân và gia đình, đồng thời góp phần
xây dựng đất nước.
Mối quan hệ Tăng trưởng kinh tế & Công bằng xã hội Page 18
Bốn là, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong điều kiện nền kinh tế thị trường

nhiều thành phần, đa sở hữu phải triệt để khắc phục những tàn dư của chế độ phân phối
bình quân, chia đều các nguồn lực và của cải làm ra, bất chấp chất lượng hiệu quả của sản
xuất, kinh doanh và sự đóng góp công sức, trí tuệ, tài sản của mỗi người cho sự phát triển
chung của đất nước, như sai lầm trong thời kỳ bao cấp trước đây. Cũng không thể dồn
phần lớn của cải làm ra để thực hiện các chính sách bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội
vượt quá khả năng mà nền kinh tế cho phép. Bởi như vậy thì sẽ làm giảm những điều
kiện cần thiết để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, khiến cho kinh tế trì trệ, suy thoái và rốt
cuộc cũng không thực hiện được các chính sách xã hội theo hướng tiến bộ và công bằng.
2. Giải pháp thời gian tới.
Hệ quan điểm cụ thể vừa nêu ở trên cần được vận dụng một cách nhuần nhuyễn để
xác định những hướng giải pháp chủ yếu nhằm kết hợp tốt hơn giữa tăng trưởng kinh tế
với tiến bộ và công bằng xã hội trong mô hình phát triển của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta từ nay đến năm 2020.
Một là, đẩy mạnh quá trình tái cấu trúc nền kinh tế, thực hiện mô hình phát triển theo
chiều sâu chủ yếu dựa trên nguồn nhân lực chất lượng cao.
Bước vào giai đoạn 2011-2020, không thể tiếp tục kéo dài mãi mô hình phát triển
kinh tế theo chiều rộng vốn được áp dụng trong suốt mấy thập niên qua. Vì đây là mô
hình phát triển sử dụng nhiều vốn, công nghệ lạc hậu, với đa số lao động tay nghề thấp
chủ yếu làm gia công, lắp ráp, khai thác và bán rẻ tài nguyên thô hoặc sơ chế. Hệ quả là
chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế không cao, thu nhập của một bộ phận đáng kể
người lao động thấp, đời sống của họ gặp nhiều khó khăn. Do đó, đã đến lúc cần có cơ
chế, chính sách và lộ trình thích hợp để tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển sang mô hình
phát triển theo chiều sâu, với đa số lao động có trình độ học vấn và kỹ năng nghề nghiệp
cao, có khả năng đi vào lĩnh vực thiết kế, chế tạo thuộc các ngành công nghệ mũi nhọn,
làm ra sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Nhờ vậy mà nền kinh tế nước nhà tăng trưởng
nhanh hơn, với chất lượng cao hơn và người lao động cũng có thu nhập xứng đáng để cải
thiện đời sống vật chất và văn hóa của chính mình.
Hai là, tạo cơ hội cho các loại hình doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được
tiếp cận bình đẳng các yếu tố “đầu vào” của sản xuất kinh doanh, vừa góp phần thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế vừa thực hiện tốt hơn tiến bộ và công bằng xã hội.

Cho đến nay, nhiều văn kiện của Đảng và Nhà nước luôn khẳng định: Các thành phần
kinh tế hoạt động theo pháp luật đều bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài,
Mối quan hệ Tăng trưởng kinh tế & Công bằng xã hội Page 19
hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Tuy nhiên, trên thực tế, các doanh nghiệp nhà nước vẫn
thường được xem là đối tượng ưu tiên trong tiếp cận các yếu tố “đầu vào” của sản xuất
kinh doanh (như đất đai, tín dụng, cơ chế, chính sách, môi trường kinh doanh, thông tin
kinh tế…). Nhưng hiệu quả sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp nhà nước không
tương xứng với những tài sản to lớn mà họ nắm giữ và những ưu ái mà Nhà nước dành
cho họ. Không những thế, không ít doanh nghiệp nhà nước còn làm ăn thua lỗ kéo dài.
Trong khi đó, các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân – thành phần có tốc độ
tăng trưởng cao nhất và tạo ra nhiều việc làm nhất – thì bị phân biệt đối xử.
Ba là, đối với các kết quả "đầu ra" của quá trình sản xuất kinh doanh, cần tiếp tục
thực hiện nhất quán nguyên tắc phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh
tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào quá trình sản
xuất, kinh doanh.
Việc phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế được xem là chủ yếu vì
chính lao động có năng suất, chất lượng và hiệu quả mới thực sự là nguồn gốc quan trọng
nhất tạo ra mọi của cải cho xã hội. Nhưng trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị
trường nhiều thành phần, thì ngoài phân phối theo kết quả lao động, việc phân phối theo
mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh cũng phải được coi là
công bằng.
Bốn là, trong việc đầu tư các nguồn lực của Nhà nước cho phát triển đất nước, cần có
quy hoạch và kế hoạch cụ thể để cân đối hợp lý mức đầu tư cho các vùng lãnh thổ khác
nhau.
Việc dành mức đầu tư cao hơn cho các vùng kinh tế động lực là rất cần thiết nhằm tạo
ra những "đầu tàu" tăng trưởng để kéo các "đoàn tàu" kinh tế Việt Nam đi lên. Song
không thể không chú ý đầu tư thích đáng cho các vùng khác, nhất là vùng sâu, vùng xa,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhằm giảm dần khoảng cách về trình độ phát triển giữa
các vùng, từng bước khắc phục tình trạng "bất công tự nhiên" và "bất công do lịch sử để
lại", giữ vững ổn định chính trị - xã hội, bảo đảm cho sự phát triển xã hội trên nguyên tắc

tiến bộ và công bằng gắn liền với tăng trưởng kinh tế của tất cả các vùng miền trong
nước.
Năm là, kết hợp hài hòa giữa việc phân phối lại thông qua hệ thống phúc lợi xã hội
với hệ thống an sinh xã hội.
Trong hoàn cảnh cụ thể của nước ta hiện nay, các đối tượng của chính sách xã hội là
rất đa dạng, do đó cần mở rộng chính sách phúc lợi xã hội thành hệ thống chính sách an
Mối quan hệ Tăng trưởng kinh tế & Công bằng xã hội Page 20
sinh xã hội nhiều tầng nấc. Hệ thống đó bao gồm: i) Chính sách ưu đãi xã hội nhằm bảo
đảm mức sống ít nhất là trên trung bình cho những người có công trong quá trình cách
mạng và kháng chiến trước đây; ii) Chính sách bảo hiểm xã hội nhằm huy động sự tích
góp một phần thu nhập của những người lao động lúc bình thường để dành chi tiêu cho
những lúc gặp khó khăn (thất nghiệp, bệnh tật, tuổi già ); iii) Chính sách trợ cấp xã hội
để trợ giúp những người yếu thế và dễ bị tổn thương như người tàn tật, người già cô đơn,
trẻ em mồ côi lang thang cơ nhỡ ; iv) Chính sách cứu tế xã hội để cưu mang những
người bị thiệt hại do thiên tai, địch họa hoặc rủi ro trong cuộc sống; v) Chính sách tương
trợ xã hội nhằm phát huy truyền thống tương thân tương ái, “lá lành đùm lá rách” trong
cộng đồng để giúp nhau vượt qua khó khăn, xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống.
Sáu là, cần tiến hành một cuộc đấu tranh không khoan nhượng nhằm ngăn chặn và
đẩy lùi có hiệu quả những hiện tượng làm giàu phi pháp, vì đây chính là những hiện
tượng vừa gây tổn hại cho sự tăng trưởng lành mạnh của nền kinh tế quốc dân, vừa cản
trở tiến bộ xã hội và tạo ra bất công xã hội lớn nhất.
Những kẻ làm giàu phi pháp hiện nay chủ yếu thuộc hai nhóm: nhóm thứ nhất là bọn
buôn gian, bán lận, lừa đảo, đầu cơ trên thương trường; nhóm thứ hai là những cán bộ,
đảng viên thoái hóa, biến chất chỉ lo tìm cách lợi dụng vị thế và quyền lực được giao
(nhất là trong các lĩnh vực địa chính - nhà đất, xây dựng cơ bản, tài chính doanh nghiệp
nhà nước, thuế vụ, hải quan ) để đục khoét tài sản của Nhà nước và của nhân dân. Hơn
nữa, thực tế nhiều vụ án kinh tế lớn còn cho thấy rõ có sự móc ngoặc tinh vi giữa hai
nhóm trên.
Cả hai nhóm này đều có lợi ích đối kháng với lợi ích của toàn xã hội. Chúng phải bị
pháp luật trừng trị và xóa bỏ. Nếu để cho chúng tiếp tục phát triển và câu kết chặt chẽ với

nhau thì sớm muộn chúng sẽ ngang nhiên phá hoại sự nghiệp đổi mới ngay từ bên trong,
biến nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thành nền kinh tế thị trường
"hoang dã", vừa cản trở tăng trưởng kinh tế nhanh, lành mạnh và bền vững vừa kìm hãm
tiến bộ và công bằng xã hội, gây bất bình trong quảng đại nhân dân, tạo thành nguy cơ
lớn đe dọa sự sống còn của sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh mà toàn Đảng, toàn dân ta đang ra sức phấn đấu để đạt tới.
PHỤ LỤC 1: QUAN ĐIỂM CỦA VIỆT NAM VỀ GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ
GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI.
Xuất phát từ đặc điểm của đất nước sau nhiều thập kỷ tiến hành cách mạng dưới ngọn
cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương sử dụng
Mối quan hệ Tăng trưởng kinh tế & Công bằng xã hội Page 21
đúng đắn các công cụ quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với
tiến bộ và công bằng xã hội, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân,
hướng tới mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Cùng với việc xác định mô hình kinh tế tổng quát và mục tiêu chung của công cuộc
phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, quá
trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ
và công bằng xã hội kể từ sau Đại hội VI đến nay còn tiếp tục đạt được những thành tựu
rất quan trọng, thể hiện ở sự hình thành một hệ thống các chủ trương và quan điểm lớn có
ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn nổi bật sau đây:
Một là: Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong
từng bước và từng chính sách phát triển. Đây chính là chủ trương và quan điểm có ý
nghĩa bao trùm.
Hai là: Tôn trọng lợi ích chính đáng của người lao động và các chủ thể thuộc mọi
thành phần kinh tế; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả
kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất
kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội.
Ba là: Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn
định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng và yêu cầu chính

đáng của nhân dân.
Bốn là: Khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói giảm
nghèo. Coi một bộ phận dân cư giàu trước là cần thiết cho sự phát triển. Đồng thời có
chính sách hướng dẫn, hỗ trợ người nghèo vươn lên làm đủ sống và phấn đấu trở thành
khá giả.
Năm là: Xem giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài – yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế
nhanh và bền vững. Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo điều kiện để ai cũng
được học hành.
Sáu là: Cùng với giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ cũng là quốc sách hàng
đầu, là động lực đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, từng bước phát triển
kinh tế tri thức.
Mối quan hệ Tăng trưởng kinh tế & Công bằng xã hội Page 22
Bảy là: Thực hiện đồng bộ chính sách bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân, phấn
đấu giảm tỷ lệ mắc bệnh, nâng cao thể lực, tăng tuổi thọ và phát triển giống nòi. Thực
hiện công bằng xã hội trong chăm sóc sức khỏe đối với các tầng lớp dân cư, có chính
sách trợ cấp và bảo hiểm y tế cho người nghèo.
Tám là: Mục tiêu của chiến lược kinh tế - xã hội là đặt con người với tư cách là mỗi
cá nhân và cả cộng đồng vào vị trí trung tâm, tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội
phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Bài giảng kinh tế phát triển - TS Nguyễn Chí Hải - Trường Đại học Kinh tế - Luật.
2. Giáo trình kinh tế phát triển, GS.TS Vũ Thị Ngọc Phùng.
3. Giáo trình kinh tế vĩ mô, TS Trần Nguyễn Ngọc Anh Thư.
4. “ Gắn kết tăng trưởng kinh tế, tiến bộ và công bằng xã hội” tạp chí cộng sản.
5. “ Bài học đắt giá của Nigeria” báo điện tử Cần Thơ.
6. “Economy Brasl -2011” Country of the World.
7. “Economy Nigeria 2011” Country of the World.
8. “Economy Vietnam 2011” Country of the World.
9. Nigeria – Wikipedia.

Mối quan hệ Tăng trưởng kinh tế & Công bằng xã hội Page 23
10.Brasil – Wikipedia.
11.Việt Nam – Wikipedia.
12.“Kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội trong mô hình phát
triển của Việt Nam ở thời kỳ đổi mới” - GS.TS Phạm Xuân Nam - Viện Khoa học
xã hội Việt Nam.
13. “ Đo tổng sản lượng quốc gia bằng hạnh phúc” - Việt báo.
14.
15. Kinh tế Việt Nam 2010 - Một số khuyến nghị - Ts. Trần Công Hòa
/>khuyen.html
Mối quan hệ Tăng trưởng kinh tế & Công bằng xã hội Page 24

×