Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Tiểu luận lĩnh vực công tác kiểm tra, giám sát của đảng trong giai đoạn hiện nay, thực trạng công tác kiểm tra, giám sát của đảng bộ các cơ quan và doanh nghiệp tỉnh CM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.92 KB, 29 trang )

MỞ ĐẦU
*
1. Lý do chọn đề tài
Kiểm tra, giám sát vừa là chức năng lãnh đạo, vừa là phương thức lãnh đạo
quan trọng của Đảng, cũng là bộ phận trọng yếu của công tác xây dựng Đảng.
Công tác kiểm tra, giám sát đã góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy thực hiện
nhiệm vụ chính trị, cơng tác xây dựng Đảng của từng giai đoạn cách mạng, góp
phần nâng cao phương thức cầm quyền, năng lực lãnh đạo của Đảng; đóng góp
tích cực vào việc xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng,
tổ chức, đạo đức, bảo đảm thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng của Đảng và
dân tộc. Đại hội XII của Đảng xác định: “Đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả
công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng” là một trong những phương hướng,
nhiệm vụ trọng tâm góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về các văn kiện
trình Đại hội XIII của Đảng khẳng định “Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật
đảng được chỉ đạo tập trung, quyết liệt, tồn diện, đồng bộ, có nhiều đổi mới, có
hiệu lực, hiệu quả, nhất là ở cấp Trung ương; hoạt động của cấp ủy, ủy ban kiểm
tra các cấp được tăng cường, ngày càng siết chặt kỷ luật, kỷ cương”. Bên cạnh
những thành tích và kết quả đã đạt được như trong Báo cáo của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa XII về các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng, Đảng
ta cũng chỉ rõ “Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng chuyển biến chưa
đều”. Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tổng kết công
tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng (tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII của Đảng) nêu “công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng chưa đáp ứng
đầy đủ yêu cầu trong tình hình mới, chất lượng, hiệu quả chưa đồng đều ở các
cấp. Việc kiểm tra, giám sát thực hiện một số nghị quyết của Đảng chưa thường
xuyên. Công tác kiểm tra ở một số nơi thiếu trọng tâm, trọng điểm; việc tự kiểm
tra, phát hiện và xử lý vi phạm của nhiều cấp ủy, tổ chức đảng vẫn là khâu yếu;



cịn nhiều tổ chức đảng và đảng viên có vi phạm nhưng chưa được phát hiện kịp
thời; công tác kiểm tra, giám sát của các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp
ủy chưa đi vào nền nếp”. “Công tác kiểm tra ở một số nơi chưa thường xuyên,
quyết liệt, thiếu trọng tâm, trọng điểm; cơng tác giám sát cịn hẹp về phạm vi,
đối tượng, kết quả chưa thực chất”. Nguyên nhân của những hạn chế, khuyết
điểm nêu trên như Đại hội XIII của Đảng đánh giá là: “Một số cấp ủy, tổ chức
đảng và cán bộ, đảng viên chưa nhận thức đầy đủ, toàn diện, sâu sắc về tầm
quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong tình hình mới”,
“Cơng tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện của một số cấp ủy, tổ chức đảng
chưa chủ động, sâu sát, thiếu quyết liệt; chưa coi trọng việc tự kiểm tra, xử lý vi
phạm” và “Việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc
tập trung dân chủ ở một số nơi chưa nghiêm, thậm chí cịn vi phạm,...”.
Xuất phát từ vai trị quan trọng như trên, đồng thời cũng là nhiệm vụ cơ
bản của cơng tác cơ bản của Đảng ta nói chung và Đảng bộ tỉnh CM nói riêng,
vì vậy, qua việc học tập môn Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng trong giai
đoạn hiện nay, người viết lựa chọn đề tài “Công tác kiểm tra, giám sát của
Đảng trong giai đoạn hiện nay gắn với thực trạng công tác kiểm tra, giám sát
của Đảng bộ Các cơ quan và doanh nghiệp tỉnh CM” để làm bài tiểu luận điều
kiện.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận, quan điểm, chủ trương, các nghị quyết,
quyết định của Đảng về công tác kiểm tra, giám sát.
- Đánh giá thực trạng thực hiện công tác kiểm tra, giám sát của Đảng bộ
các Cơ quan và Doanh nghiệp tỉnh CM, giai đoạn 2015 – 2020.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiêu quả công tác kiểm
tra, giám sát của Đảng bộ các Cơ quan và Doanh nghiệp tỉnh CM đến năm 2025.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là công tác kiểm tra, giám sát của Đảng
trong giai đoạn hiện nay.



- Phạm vi nghiên cứu của đề tài là hệ thống cơ sở lý luận về công tác kiểm
tra, giám sát của Đảng. Liên hệ với thực tiễn tại Đảng bộ các Cơ quan và Doanh
nghiệp tỉnh CM.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài khoá luận được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bên cạnh đó là dựa trên quan điểm,
chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong cơng
tác kiểm tra, giám sát của Đảng.
Ngồi ra đề tài cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như phân
tích, thống kê, so sánh, tổng hợp…. để làm rõ thực trạng công tác kiểm tra, giám
sát của Đảng bộ các Cơ quan và Doanh nghiệp tỉnh CM.
5. Ý nghĩa của đề tài
- Nghiên cứu đề tài giúp người học nắm được tầm quan trọng của công tác
kiểm tra, giám sát của Đảng. Thầy được các cấp ủy các cấp rất quan tâm công
tác kiểm tra, giám sát, nhận thức đầy đủ ý nghĩa của việc lãnh đạo công tác kiểm
tra, giám sát, nhằm kịp thời ngăn ngừa, hạn chế vi phạm của cán bộ, đảng viên.
- Qua đó cũng giúp tăng cường công tác giáo dục nâng cao ý thức, trách
nhiệm của các cấp ủy và đảng viên.
6. Kết cấu tiểu luận
Tiểu luận được kết cấu thành 2 chương.


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. NHŨNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC KIỀM TRA,
GIÁM SÁT CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VỆT NAM
1.1. Lý luận chung về công tác kiểm tra, giám sát của Đảng
1.1.1. Khái niệm và nội dung công tác kiểm tra của Đảng
1.1.1.1. Khái niệm kiểm tra
Kiểm tra là xem xét, đánh giá, kết luận về những hoạt động của tổ chức

hoặc của con người để nhận xét, đánh giá những kết quả đạt được so với yêu
cầu, mục đích, chỉ tiêu đã xác định; tìm ra những ưu điểm, khuyết điểm, từ đó
rút ra kinh nghiệm cho những hoạt động tiếp theo. Đối với Đảng Cộng sản, kiểm
tra là hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên, hướng vào việc xây dựng và
thực hiện các quyết định, giải quyết các vấn đề trong sinh hoạt và nội bộ của
Đảng, hồn thiện quy trình lãnh đạo, giữ vững kỷ luật, với mục đích đảm bảo
cho các quyết định đã đề ra được thực hiện nghiêm túc và có kết quả cao.
Trên cơ sở vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và Đảng qua các thời kỳ, Hội nghị Trung ương 3 khóa XII đã ban
hành Quy định số 30-QD/TW ngày 26-7-2016 thi hành Chương VII và Chương
VIII Điều lệ Đảng về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng, trong đó
đưa ra khái niệm về kiểm tra: Theo đó, “Kiểm tra của Đảng là việc các tổ chức
đảng xem xét, đánh giá, kết luận về ưu điểm, khuyết điểm hoặc vi phạm của cấp
ủy, tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên trong việc chấp hành Cương lĩnh chính
trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng và chính
sách, pháp luật của Nhà nước. Tổ chức đảng và đảng viên phải thường xuyên tự
kiểm tra. Tổ chức đảng cấp trên kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên”.
1.1.1.2. Khái niệm công tác kiểm tra của Đảng
Cơng tác kiểm tra của Đảng là tồn bộ hoạt động của các cấp ủy, tổ chức
đảng có thẩm quyền và ủy ban kiểm tra các cấp trong thực hiện nhiệm vụ kiểm
tra theo quy định của Điều lệ Đảng và quy định của các cơ quan có thẩm quyền
của Đảng và Nhà nước.


Chủ thể công tác kiểm tra của Đảng gồm: Chi bộ, đảng ủy bộ phận, ban
thường vụ đảng ủy cơ sở, đảng ủy cơ sở; cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy từ cấp
trên cơ sở trở lên; ủy ban kiểm tra; các ban đảng, văn phòng cấp ủy (gọi chung
là các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy); ban cán sự đảng, đảng đoàn.
Đối tượng kiểm tra gồm: Chi ủy, chi bộ, đảng ủy bộ phận, ban thường vụ
đảng ủy cơ sở, đảng ủy cơ sở; cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy, thường trực cấp ủy

từ cấp trên cơ sở trở lên; ủy ban kiểm tra, các cơ quan tham mưu, giúp việc của
cấp ủy; ban cán sự đảng, đảng đoàn; đảng viên.
Nội dung kiểm tra: kiểm tra việc chấp hành Cương lĩnh Chính trị, Điều lệ
Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, thực
hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.
Mục đích kiểm tra: tìm ra ưu điểm để phát huy, phát hiện khuyết điểm để
kịp thời xử lý nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, sự
đoàn kết thống nhất và bảo đảm thực hiện dân chủ trong Đảng, giữ vững kỷ
cương, kỷ luật của Đảng; phịng ngừa, ngăn chặn sự suy thối về chính trị, tư
tưởng, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, bảo vệ quan điểm, đường lối của
Đảng, tránh các nguy cơ sai lầm về đường lối, quan liêu, xa dân của đảng cầm
quyền, góp phần thực hiện thắng lợi nghị quyết của Đảng.
1.1.1.3. Nội dung công tác kiểm tra của Đảng
Một là, xác định đường lối, quan điểm, nguyên tắc, quy chế, quy định về
công tác kiểm tra.
Hai là, xây dựng tổ chức, xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra; xác định chức
năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động, các mối quan hệ của ủy ban kiểm tra các cấp
từ Trung ương đến cơ sở.
Ba là, lãnh đạo các tổ chức đảng, các tổ chức trong hệ thống chính trị thực
hiện thắng lợi các chủ trương, nghị quyết, quy chế, quy định của Đảng về công
tác kiểm tra.
Bốn là, phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính
trị và của nhân dân trong công tác kiểm tra.
Năm là, phối hợp thực hiện công tác cán bộ của ủy ban kiểm tra các cấp.


Sáu là, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về công tác kiểm tra.
1.1.2. Khái niệm và nội dung công tác giám sát của Đảng
1.1.2.1. Khái niệm giám sát
Quy định số 30-QD/TW ngày 26-7-2016 thi hành Chương VII và Chương

VIII Điều lệ Đảng về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng đưa ra khái
niệm về giám sát như sau:
“Giám sát của Đảng là việc các tổ chức đảng quan sát, theo dõi, xem xét,
đánh giá hoạt động nhằm kịp thời tác động để cấp ủy, tổ chúc đảng cấp dưới và
đảng viên được giám sát chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ
Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước. Tổ chức đảng cấp trên giám sát tổ chức đảng cấp dưới và đảng
viên. Tổ chức đảng và đảng viên thực hiện nhiệm vụ giám sát theo sự phân
công”.
1.1.2.2. Khái niệm công tác giám sát của Đảng
Cơng tác giám sát của Đảng là tồn bộ hoạt động của các cấp ủy, tổ chức
đảng có thẩm quyền và ủy ban kiểm tra các cấp trong thực hiện nhiệm vụ giám
sát theo quy định của Điều lệ Đảng và quy định của các cơ quan có thẩm quyền
của Đảng và Nhà nước.
Chủ thể công tác giám sát: Chi bộ, đảng ủy bộ phận, ban thường vụ đảng
ủy cơ sở, đảng ủy cơ sở; cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy từ cấp trên cơ sở trở lên;
ủy ban kiểm tra; các ban đảng, văn phòng cấp ủy (gọi chung là các cơ quan tham
mưu, giúp việc của cấp ủy).
Đối tượng giám sát: Chi ủy, chi bộ, đảng ủy bộ phận, ban thường vụ đảng
ủy cơ sở, đảng ủy cơ sở; cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy, thường trực cấp ủy từ
cấp hên cơ sở trở lên; ủy ban kiểm tra, cảc cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp
ủy; ban cán sự đảng, đảng đoàn; đảng viên.
Mục đích giám sát: Chủ động nắm chắc tình hình và đánh giá đúng hoạt
động của tổ chức đảng, đảng viên thuộc phạm vi lãnh đạo, quản lý; đề ra các chủ
trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện đứng chức năng, nhiệm
vụ được giao; góp phần bổ sung, sửa đổi các quy định của Đảng và pháp luật


của Nhà nước phù hợp với thực tiễn.
Phát huy ưu điểm; phát hiện hạn chế, thiếu sót, khuyết điểm và nguyên

nhân để kịp thời uốn nắn, chấn chỉnh, sửa chữa, khắc phục; cảnh báo, phịng
ngừa, ngăn chặn thiếu sót, khuyết điểm, vi phạm của tỗ chức đảng, đảng viên từ
khi cịn manh nha.
Góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; giữ
nghiêm kỷ cương, kỷ luật, sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng; ngăn chặn sự suy
thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí
và các tiêu cực khác.
1.1.2.3. Nội dung công tác giám sát của Đảng
Một là, xác định đường lối, quan điểm, nguyên tắc, quy chế, quy định về
công tác giám sát.
Hai là, xây dựng tổ chức; xác định chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động,
các mối quan hệ công tác chủ yếu về công tác giám sát.
Ba là, tổ chức thực hiện các quy chế, quyết định, nội dung, chương trình
giám sát.
Bốn là, phát huy vai trò của các tổ chức trong hệ thống chính trị tham gia
cơng tác giám sát.
Năm là, phối họp thực hiện công tác cán bộ của ủy ban kiểm tra các cấp.
Sáu là, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về cơng tác giám sát.
1.2. Vị trí, vai trị của cơng tác kiểm tra, giám sát của Đảng
1.2.1. Kiểm tra, giám sát là những chức năng lãnh đạo cửa Đảng
Thực tiền đã khẳng định, lãnh đạo không chỉ là đề ra chủ trương, đường lối,
tổ chức thực hiện, bố trí cán bộ, động viên tư tưởng, mà cịn phải kiểm tra, giám
sát. Khơng những kiểm tra, giám sát việc thực hiện đường lối, Cương lĩnh chính
trị, chủ trương, chính sách, mà kiểm ưa ngay bản thân Cương lĩnh chính trị,
đường lối, chính sách đó và kiểm tra cả các tổ chức tiến hành kiểm tra nhằm bảo
đảm đường lối, chính sách được xác định đúng, được quán triệt và thực hiện
thắng lợi trong thực tiễn. Đó là vấn đề có tính ngun tắc; vừa là chức năng lãnh
đạo, vừa là trách nhiệm, nội dung, phương pháp, quy trình lãnh đạo của Đảng.



Trong điều kiện đảng cầm quyền, cùng vói cơng tác cán bộ, công tác kiểm tra,
giám sát trở thành công việc then chốt, trọng tâm nhất. V.I.Lênin đã viết: “Theo
ý tôi, điều chủ yếu là chuyển trọng tâm từ việc soạn thảo các sắc lệnh và mệnh
lệnh (đấy là chúng ta u mê đen ngu xuẩn) sang việc lựa chọn người và kiểm tra
sự thực hiện. Đó là vấn đê then chốt”. “Tìm người, kiểm tra cơng việc, - tất cả là
ở đó”. Nếu khơng làm như thế, “tất cả mọi mệnh lệnh và quyết định sẽ chỉ là mớ
giấy lộn”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trị của cơng tác kiểm tra, coi
đây là cơng tác khơng thể thiếu và có tính quyết định đối với hiệu quả lãnh đạo.
Người khẳng định: “Khi đã có chính sách đúng, thì sự thành cồng hoặc thất bại
của chính sách đó là do nơi cách tổ chức cơng việc, nơi lựa chọn cán bộ và do
nơi kiểm tra. Nêu ba điều ấy sơ sài, thì chính sách đúng mấy cũng vơ ích”.
1.2.2. Kiểm tra, giám sát là một bộ phận quan trọng trong tồn bộ cơng
tác xây dựng Đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo cách mạng, Nhà nước và xã
hội. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bắt nguồn từ sự đoàn kết,
thống nhất về chính trị, tư tưởng, được bảo đảm bằng sự thống nhất về tổ chức.
Việc xây dựng Đảng ta vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức và
cán bộ, tổ chức ln là địi hỏi cấp thiết và có tính khách quan. Muốn vậy, phải
luôn tự đổi mới và tiến hành đồng bộ các mặt cơng tác xây dựng Đảng, trong đó
phải coi trọng và thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát.
Công tác xây dựng Đảng có nhiều lĩnh vực: cơng tác tư tưởng, công tác tổ
chức, cán bộ, công tác bảo vệ chính trị nội bộ, cơng tác kiểm tra, giám sát... Qua
thực tiễn, Đảng ta đã khẳng định: Công tác kiểm tra, giám sát là một bộ phận
quan trọng trong tồn bộ cơng tác xây dựng Đảng, nhất là trong điều kiện Đảng
cầm quyền.
Đối với công tác xây dựng Đảng, kiểm tra, giám sát là một bộ phận quan
trọng. Công cuộc đổi mới càng đi vào chiều sâu, càng đòi hỏi tăng cường vai trị
lãnh đạo của Đảng. Để hồn thành sứ mệnh lịch sử của mình, Đảng phải khơng
ngừng tự đổi mới, tự chỉnh đốn, trước mắt thực hiện tốt những vấn đề cơ bản và



cấp bách, những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống mà
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã chỉ ra: “Cơng tác phịng,
chống tham nhũng, lãng phí ở một số địa phương, bộ, ngành chưa có chuyển
biến rõ rệt; cơng tác phòng ngừa tham nhũng ở một số nơi còn hình thức. Việc
phát hiện, xử lý tham nhũng, lãng phí vẫn còn hạn chế, nhất là việc tự kiểm tra,
tự phát hiện và xử lý tham nhũng, lãng phí trong nội bộ cơ quan, đơn vị cịn
yếu; tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực trong một số cơ quan, đơn vị khu vực hành
chính, dịch vụ cơng chưa được đẩy lùi. Tham nhũng, lãng phí trên một số lĩnh
vực, địa bàn vẫn còn nghiêm trọng, phức tạp, với những biểu hiện ngày càng
tinh vi, gây bức xúc trong xã hội. Tham nhũng vẫn là một trong những nguy cơ
đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ ta”.
Một Đảng cầm quyền, lãnh đạo cả hệ thống chính trị nếu khơng được kiểm
tra, giám sát chặt chẽ rất dễ lộng quyền, lạm quyền, quan liêu, tham nhũng. Đây
cũng là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm suy yếu và tan rã Đảng. Vì
vậy, tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên hiện
nay trở nên vơ cùng bức thiết, nó xuất phát từ địi hỏi khách quan của công tác
xây dựng Đảng và yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới, từ vị trí, vai trị của
Đảng ta trước dân tộc và tồn xã hội.
1.2.3. Công tác kiểm tra, giám sát là nhiệm vụ của toàn Đảng; là nhiệm
vụ trực tiếp, thường xuyên của mọi tổ chức đảng và đảng viên
Công tác kiểm tra, giám sát là công tác đảng, là nhiệm vụ của toàn Đảng,
được tiến hành đối với tổ chức đảng và đảng viên. Trong quá trình lãnh đạo cách
mạng, Đảng ta ln xác định: “Kiểm tra và giữ gìn kỷ luật của Đảng là nhiệm vụ
của toàn Đảng... Các tổ chức đảng, trước hết là các cấp ủy đảng, Bộ Chính trị và
các ban thường vụ cấp ủy, cần tự mình tiến hành kiểm tra và sử dụng các ban để
tổ chức thường xuyên nhiệm vụ kiểm tra”. Công tác kiểm tra, giám sát là nhiệm
vụ của toàn Đảng, tức là của mọi tổ chức đảng và đảng viên, thực hiện nhiệm vụ
theo quy định của Điều lệ Đảng và sự phân cơng của tổ chức đảng có thẩm

quyền. Để bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, đòi hỏi các cấp ủy, tổ chức đảng,
ủy ban kiểm tra các cấp phải chú trọng và thường xuyên tiến hành công tác kiểm


tra, giám sát các tổ chức đảng và đảng viên chấp hành Cương lĩnh chính trị,
Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng.
Mỗi tổ chức đảng và đảng viên dù công tác ở lĩnh vực, cương vị nào đều
phải tham gia xây dựng, tổ chức thực hiện và kiểm tra, giám sát việc thực hiện
đường lối, chủ trương của Đảng. Đó là nhiệm vụ trực tiếp, thường xuyên của
mọi tổ chức đảng và đảng viên. Tiến hành công tác kiểm tra, giám sát là nhiệm
vụ trực tiếp, thường xuyên của mọi tổ chức đảng và đảng viên; là tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng, làm cho Đảng thực hiện đầy đủ các chức năng, nhiệm vụ của
mình, góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng, bảo đảm lãnh đạo thắng lợi sự
nghiệp cách mạng.
1.2.4. Công tác kiểm tra, giám sát là một nội dung trong phương thức
lãnh đạo cửa Đảng
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(Bổ sung, phát triển năm 2011) viết: “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm
quyền, lãnh đạo Nhà nước và xẫ hội. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến
lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên
truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát...”.
Thông qua công tác kiểm tra, giám sát, Đảng thực hiện sự lãnh đạo đối với
Nhà nước và xã hội.
1.3. So sánh kiểm tra với giám sát và mối quan hệ giữa công tác kiểm
tra và công tác giám sát của Đảng
1.3.1. Những điểm giống nhau giữa kiểm tra và giám sát
Về vị trí, vai trò, đều là những nội dung rất quan trọng trong quá trình lãnh
đạo của Đảng, là chức năng lãnh đạo, nhiệm vụ thường xuyên của toàn Đảng,
trước hết là nhiệm vụ của cấp ủy và người đứng đầu cấp ủy, do cấp ủy trực tiếp
tiến hành.

Về phạm vi: đều là hoạt động của nội bộ Đảng.
Nội dung kiểm tra, giảm sát: đều là chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ
Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng; chính sách pháp luật của Nhà
nước.


Đối tượng kiểm tra, giám sát: đều là tổ chức đảng và đảng viên.
Mục đích kiểm tra, giám sát: đều là kiểm tra, giám sát đảng viên và tổ chức
đảng trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.
Định kỳ đều có báo cáo với cấp ủy theo quy định về tình hình thực hiện
nhiệm vụ kiểm tra, giám sát.
1.3.2. Những điểm khác nhau giữa kiểm tra và giám sát
Về mục đích. Mục đích của kiểm tra là để làm rõ đúng, sai; sau khi kiểm tra
phải có kết luận và xử lý (nếu có vi phạm đến mức phải xử lý). Mục đích giám
sát để chủ động phịng ngừa, ngăn chặn xảy ra vi phạm từ lúc mới manh nha.
Về chủ thể: Chủ thể công tác giám sát hẹp hơn chủ thể công tác kiểm tra.
Nếu chủ thể công tác kiểm tra có ban cán sự đảng, đảng đồn, thì chủ thể giám
sát khơng bao gồm hai tổ chức này. Ban cán sự đảng, đảng đoàn, các tiểu ban,
hội đồng, tổ công tác do cấp ủy các cấp lập ra là đối tượng giám sát, không là
chủ thể giám sát. Ban cán sự đảng, đảng đoàn chỉ lãnh đạo, không thực hiện
công tác kiểm tra.
Về phương pháp. Trong kiểm tra ln cần có thẩm tra, xác minh, cịn trong
cơng tác giám sát, chỉ trong giám sát chuyên đề, khi cần thiết mới thực hiện
thẩm tra, xác minh.
Về hình thức kiểm tra gồm: kiểm tra định kỳ, kiểm tra thường xuyên, kiểm
tra bất thường. Giám sát của Đảng có giám sát thường xuyên và giám sát theo
chuyên đề.
Về thời gian: Kiểm tra ln có điểm khởi đầu và kết thúc; giám sát thường
xun khơng nhất thiết phải có cả khởi đầu và kết thúc; Kiểm tra thường là
những sự việc đã và đang xảy ra; giám sát thì hướng tới những hoạt động đang

diễn ra để phòng ngừa, cảnh báo.
Về xử lý kết quả: Khi kết thúc kiểm tra phải có kết luận kiểm tra, xác định
rõ việc đúng, sai. Nếu sai phạm đến mức kỷ luật thi xem xét kỷ luật ln. Cịn
khi kết thúc giám sát thì phải có báo cáo kết quả giám sát. Nếu phát hiện đối
tượng giám sát có dấu hiệu vi phạm thì quyết định kiểm tra khi có dấu hiệu vi
phạm.


1.3.3. Mối quan hệ giữa công tác kiểm tra và công tác giám sát
Công tác kiểm tra và giám sát có mối quan hệ chặt chẽ, tác động lẫn nhau.
Trong quá trình giám sát, nếu phát hiện đối tượng được giám sát có những hoạt
động chưa đúng với quy định của Đảng, Nhà nước, có thiếu sót, khuyết điểm thì
chủ thể giám sát kịp thời nhắc nhở, cảnh báo, đề nghị thực hiện đúng các quy
định; nếu thấy có những việc làm sai trái thì kiến nghị với cấp có thẩm quyền
biết để có biện pháp chấn chỉnh, kiểm tra, xử lý. Nếu phát hiện có dấu hiệu vi
phạm thì tiến hành kiểm tra xem xét, kết luận và xử lý kỷ luật (nếu đến mức phải
xử lý). Ngược lại, qua kiểm tra có thể đánh giá được chất lượng, hiệu quả công
tác giám sát, nắm chắc được thực chất tình hình và có cơ sở khi phải xem xét, xử
lý kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm, nhất là về tinh thần tự giác khắc
phục, sửa chữa sai lầm, khuyết điểm đã được nhắc nhở, cảnh báo ngay từ khi
giám sát.
Muốn thực hiện tốt công tác giảm sát phải có quan sát, theo dõi, xem xét,
đánh giá tình hình thực tế của đối tượng được giám sát; ngược lại, muốn thực
hiện tốt cơng tác kiểm tra thì phải thường xuyên giám sát để đưa ra quyết định
có nên kiểm tra hay không. Thực hiện tốt công tác giám sát, thì cơng tác kiểm
tra càng chủ động, kịp thời và chất lượng, hiệu quả càng cao.
1.4. Quan điểm chỉ đạo công tác kiểm tra, giám sát
Một là, kiểm tra, giám sát là nội dung rất quan trọng trong quá trình lãnh
đạo của Đảng, là chức năng lãnh đạo, nhiệm vụ thường xuyên của toàn Đảng,
trước hết là nhiệm vụ của cấp ủy và người đứng đầu cấp ủy, do cấp ủy trực tiếp

tiến hành. Tổ chức đảng và đảng viên phải chịu sự kiểm tra, giám sát của Đảng
và chịu sự giám sát của nhân dân.
Hai là, công tác kiểm tra, giám sát phải gắn liền với công tác tư tưởng, tổ
chức và dân vận, được tiến hành công khai, dân chủ, khách quan, thận trọng,
chặt chẽ, đúng quy định của Đảng, Nhà nước.
Ba là, thực hiện đồng bộ giữa công tác kiểm tra và công tác giám sát;
“giám sát phải mở rộng”, “kiểm tra phải có trọng tâm, trọng điểm” để chủ động
phòng ngừa vi phạm, kịp thời phát hiện những nhân tố mới để phát huy, khắc


phục thiếu sót, khuyết điểm, vi phạm ngay từ lúc mới manh nha.
Bốn là, công tác kiểm tra, giám sát phải chủ động tiến hành, kết hợp chặt
chẽ giữa “xây” và chống, lấy “xây” là cơ bản, “chống” phải quyết liệt, làm đến
cùng, từng bước vững chắc, rõ đến đâu kết luận, xử lý đến đó; khi phát hiện vi
phạm phải xử lý nghiêm minh, kịp thời, khơng có “vùng cẩm”, khơng có “ngoại
lệ”, khơng để lại xử lý nội bộ.
Năm là, đề cao trách nhiệm của tổ chức đảng và đảng viên; phát huy vai
trò, trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị và của nhân dân trong
công tác kiểm tra, giám sát.
1.5. Nhiệm vụ của công tác kiểm tra, giám sát
Một là, cấp ủy các cấp tiến hành cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng
cao chất lượng nghiên cứu các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng để các tổ
chức đảng và cán bộ, đảng viên nắm vững và tự giác chấp hành; đấu tranh chống
những biểu hiện tiêu cực, suy thoái trong Đảng, cấp ủy các cấp, nhất là chi bộ,
cần tăng cường quản lý, giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên để chủ động
phòng ngừa, ngăn chặn xảy ra vi phạm hoặc khơng để tái phạm, góp phần chủ
động thực hiện có hiệu quả cơng tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng.
Hai là, đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát trong
Đảng và trong cả hệ thống chính trị. Chú trọng kiểm tra, giám sát người đứng
đầu cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và tổ chức chính

trị - xã hội ở các cấp trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. Tập
trung kiểm tra, giám sát việc chấp hành các đường lối, chủ trương, nghị quyết,
chỉ thị, quy định của Đảng về các nội dung, lĩnh vực sau:
Trong lĩnh vực tư tưởng chính trị, quản lý báo chí: kiểm tra, giám sát việc
thực hiện quan điểm, đường lối của Đảng, việc thi hành Điều lệ Đảng, các quy
định của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong cơng tác tư tưởng chính trị nói
chung và hoạt động báo chí nói riêng.
Về chấp hành nguyên tắc tổ chúc và hoạt động của Đảng: kiểm tra, giám
sát việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ tập thể lãnh đạo, cá
nhân phụ trách; chấp hành quy chế làm việc, chế độ công tác; thực hiện dân chủ


trong Đảng, giữ gìn đồn kết nội bộ; về mối quan hệ giữa tổ chức đảng và đảng
viên với quần chúng; việc giáo dục, rèn luyện, nâng cao phẩm chất đạo đức cách
mạng của cán bộ, đảng viên.
Trong lĩnh vực kinh tế - tài chính: kiểm tra, giám sát việc thực hành tiết
kiệm, phịng, chống tham nhũng, lãng phí trong các khâu cấp và sử dụng nguồn
vốn thuộc ngân sách nhà nước, vốn ODA, tài trợ của nước ngoài; trong xây
dựng cơ bản, mua sắm trang thiết bị; quản lý và sử dụng đất đai, tài nguyên,
công sản; triển khai thực hiện các dự án trọngđiểm.
Trong lĩnh vực hành chính, tư pháp: kiểm tra, giám sát việc lãnh đạo, chỉ
đạo và tổ chức thực hiện cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính
liên quan đến giải quyết công việc của các tổ chức và cá nhân, đặc biệt là trong
các hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh. Kiểm tra việc thực hiện các chủ
trương, quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp trong điều tra, truy tố, xét xử,
thi hành án, nhất là những vụ án nghiêm trọng, gây bức xúc trong dư luận.
Trong công tác tổ chức và cán bộ: kiểm tra, giám sát về tuyển dụng, quy
hoạch, luân chuyển, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, bố trí, sử dụng, khen thưởng
và thực hiện chính sách cán bộ; về phẩm chất đạo đức, lối sống và thực hiện
chức trách, nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên; việc học tập và làm theo tư tưởng,

đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; về nội dung và chất lượng sinh hoạt của các
cấp ủy, tổ chức đảng.
Kiểm tra, giám sát việc lãnh đạo, chỉ đạo và giải quyết khiếu nại, tố cáo của
đảng viên và nhân dân; việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
Ba là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng gắn với vai trò,
trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị và của nhân dân trong đấu
tranh phịng, chống tham nhũng, lãng phí.
Bốn là, đổi mới phương pháp kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng theo
hướng đồng bộ, nghiêm minh, có hiệu lực, hiệu quả. Kết hợp giám sát trong
Đảng với giám sát của Nhà nước và giám sát của nhân dân.
Năm là, củng cố, kiện toàn tổ chức, bộ máy, tăng cường cán bộ đủ số
lượng, bảo đảm chất lượng; bảo đảm chế độ, chính sách theo quy định; cải thiện


điều kiện, phương tiện làm việc của ủy ban kiểm tra các cấp.
1.6. Các phương pháp kiểm tra, giám sát
1.6.1. Các phương pháp kiểm tra
Dựa vào tổ chức đảng. Đây vừa là phương pháp cơ bản của công tác kiểm
tra vừa là vấn đề có tính ngun tắc trong cơng tác xây dựng Đảng. Tổ chức
đảng là nơi lãnh đạo, quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên và tổ chức đảng cấp
dưới. Do đó, dựa chắc vào tổ chức đảng thì chủ thể kiểm tra mới có đủ cơ sở để
xem xét, kết luận vụ việc tồn diện, chính xác. Ở những tổ chức đảng yếu kém,
cần có cách vận dụng thích hợp. Nếu cần thiết, có thể củng cố, kiện toàn tổ chức
trước khi tiến hành kiểm tra.
Phát huy tính tự giác, tự phê bình và phê bình của tổ chức đảng và đảng
viên. Tự giác là phản ánh của phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, ý thức kỷ
luật của tổ chức đảng và đảng viên. Song, đây là một quá trình và mức độ tự
giác, tự phê bình của từng đối tượng khơng giống nhau; tự kiểm tra mình là việc
khó nhất. Do đó, khi vận dụng phương pháp này, cần làm tốt công tác tư tưởng
để khơi dậy tinh thần tự giác của đối tượng, kiên trì động viên, thuyết phục, kết

hợp với đấu tranh và công tác thẩm tra, xác minh.
Phát huy vai trò xây dựng Đảng của nhân dân. Khi tiến hành công tác kiểm
tra của Đảng cần phát huy trách nhiệm xây dựng Đảng của nhân dân. Muốn đạt
hiệu quả cao, cần tổ chức, hướng dẫn và có cách làm phù họp; tiến hành tổng kết
việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, rút ra những bài học kinh nghiệm để chỉ
đạo thực hiện.
Thẩm tra, xác minh. Trong thực tế hiện nay vẫn cịn khơng ít tổ chức đảng
và đảng viên thiếu tinh thần tự giác, tự phê bình, tính đảng yếu, hữu khuynh, cố
tình quanh co, giấu giếm khuyết điểm, thậm chí gây khó khăn cho hoạt động
kiểm tra, giám sát. Với loại đối tượng này, ngoài việc kiên trì áp dụng phương
pháp phát huy tinh thần tự giác của tổ chức đảng và đảng viên, tính tích cực
trong xây dựng Đảng của nhân dân, cân làm tốt phương pháp thẩm tra, xác
minh. Bằng những chứng cứ khách quan, trung thực, đã được thẩm tra, xác minh
nghiêm túc, kiên trì đấu tranh buộc đối tượng phải thừa nhận những hành vi sai


phạm của mình.
Phối hợp kiểm tra của Đảng vởi thanh tra của Nhà nước, thanh tra nhân
dân, kiểm tra của các tổ chức chính trị - xã hội và phối hợp với các ban, ngành
có liên quan. Các cơ quan thanh tra, các ban của cấp ủy, các cơ quan bảo vệ
pháp luật có đủ các điều kiện để xem xét mọi khía cạnh và kết luận các vi phạm
một cách chính xác. Do đó, sự phối họp này càng thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ
bao nhiêu càng đem lại hiệu quả cao bấy nhiêu cho công tác kiểm tra.
1.6.2. Các phương pháp giám sát
Thực hiện việc giám sát theo cả hai phương pháp là giám sát trực tiếp và
giám sát gián tiếp, trong đó giám sát trực tiếp là chủ yếu.
Khi tiến hành giám sát phải giữ đúng nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng,
đúng tính chất cơng tác đảng là dựa vào đảng viên và tổ chức đảng, phát huy
tinh thần tự giác, tự phê bình và phê bình của đảng viên và tổ chức đảng; phát
huy trách nhiệm xây dựng Đảng của quần chúng; làm tốt việc kết hợp công tác

giám sát của Nhà nước, giám sát của nhân dân và công tác giám sát của các tổ
chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và phối hợp với các ban,
ngành có liên quan.
Giám sát trực tiếp qua thực hiện việc theo dõi, quan sát thường xuyên đối
với tổ chức đảng và đảng viên theo thẩm quyền; bằng cách cử cán bộ đến công
tác tại các tổ chức đảng thuộc phạm vi giám sát để trực tiếp, thường xuyên theo
dõi địa bàn, lĩnh vực, nắm vững tình hình, phát hiện nhũng dấu hiệu vi phạm và
vi phạm của đảng viên và tổ chức đảng. Cử cán bộ tham dự các cuộc họp, hội
nghị thường kỳ, đột xuất của cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy cùng cấp và cấp
dưới; các hội nghị của tổ chức đảng cấp dưới. Nếu được phân công, cán bộ tham
dự các cuộc làm việc của cấp ủy cùng cấp hoặc các ban của cấp ủy cùng cấp với
tổ chức đảng cấp dưới và tham gia các đồn cơng tác của cấp ủy cùng cấp tiến
hành kiểm tra, giám sát tổ chức đảng cấp dưới. Theo dõi, giám sát các tổ chức
đảng và đảng viên chấp hành thông báo, kết luận kiểm tra và việc khắc phục,
sửa chữa khuyết điểm sau khi kiểm tra.
Giám sát gián tiếp bằng cách thông qua các báo cáo định kỳ, sơ kết, tổng


kết việc thực hiện phát triển kinh tế - xã hội... công tác xây dựng Đảng và công
tác kiểm tra của cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới thuộc phạm vi và thẩm quyền
giám sát. Cụ thể: thường xuyên thu thập và nghiên cứu các báo cáo định kỳ, sơ
kết, tổng kết việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, cơng tác xây dựng Đảng và công
tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới thuộc phạm vi và thẩm
quyền giám sát; trao đổi, cung cấp thông tin giữa ủy ban kiểm tra với các ban
cùa cấp ủy cùng cấp. Nghiên cứu các báo cáo về phát triển kinh tế - xã hội, về
xây dựng Đảng, các thông báo, kết luận của cấp ủy cùng cấp gửi ủy ban kiểm
tra để phục vụ việc giám sát. Thông qua tổ chức trong hệ thống chính trị để thực
hiện chức năng giám sát bằng quy chế phối hợp trong việc giám sát, nắm thơng
tin phản ánh về tình hình cán bộ, đảng viên, kể cả thông tin về người thân, vợ
hoặc chồng, con của cán bộ, đảng viên thuộc phạm vi giám sát và thẩm quyền

giám sát. Giám sát thông qua phản ánh của quần chúng để nắm bắt tình hình về
hoạt động của các tổ chức đảng, đảng viên thuộc phạm vi cấp ủy quản lý; việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo. Giám sát thông qua báo cáo định kỳ, sơ kết, tổng kết
việc thực hiện phát triển kinh té - xã hội, công tác xây dựng Đảng và công tác
kiểm tra, giám sát của các ban tham mưu của cấp mình và của cấp ủy, tổ chức
đảng cấp dưới thuộc phạm vi giám sát. Thông qua nghiên cứu các chất vấn, đề
xuất đối với cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy của tổ chức đảng cấp dưới và đảng
viên thuộc phạm vi quản lý.
Tổ chức lấy ý kiến về tổ chức đảng và đảng viên bằng hình thức thích hợp,
như: điều tra xã hội học lấy ý kiến đối với tổ chức đảng và đảng viên thuộc
phạm vi giám sát; hịm thư góp ý hoặc hộp thư điện tử...; nắm tình hình qua
phản ánh của quần chúng và thông qua các phương tiện thông tin đại chúng;
định kỳ họp liên tịch với các tổ chức trong hệ thống chính trị để nắm thơng tin,
tình hình đối với tổ chức đảng và đảng viên thuộc phạm vi giám sát; qua báo
cáo, thông báo kết quả các cuộc kiểm tra của cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm
tra các cấp.


CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC KIỂM TRA, GIÁM SÁT CỦA
ĐẢNG BỘ CÁC CƠ QUAN VÀ DOANH NGHIỆP TỈNH CM
2.1. Đặc điểm tình hình Đảng bộ Các cơ quan và doanh nghiệp tỉnh
CM
Đảng bộ các Cơ quan và Doanh nghiệp tỉnh được thành lập theo Quyết
định số 1628-QĐ/TU, ngày 27/6/2019 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy trên cơ sở
hợp nhất Đảng bộ Khối các cơ quan và Đảng bộ Khối doanh nghiệp, chính thức
đi vào hoạt động ngày 01/8/2019. Đảng bộ hiện có 102 cơ sở đảng (47 đảng bộ
cơ sở và 55 chi bộ cơ sở) hoạt động ở 03 loại hình (cơ quan, sự nghiệp và doanh
nghiệp) với 5.863 đảng viên. Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 27 đồng chí (trong
đó, có 09 đồng chí chun trách và 18 đồng chí kiêm nhiệm, nữ 03 đồng chí);
Ban Thường vụ gồm 09 đồng chí chun trách (trong đó: có 06 đồng chí chuyên

trách và 03 đồng chí kiêm chức).
Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy có 05 đồng chí (trong đó: 03 đồng chí chun
trách và 02 đồng chí kiêm chức); ủy ban kiểm tra đảng ủy cơ sở có 161 ủy viên
kiêm nhiệm (trong đó có 47 đồng chí chủ nhiệm, 47 đồng chí phó chủ nhiệm) và
57 đồng chí được phân cơng làm cơng tác kiểm tra, giám sát ở chi bộ cơ sở.
Đảng ủy các Cơ quan và Doanh nghiệp tỉnh, cấp ủy, ủy ban kiểm tra, chi bộ
cơ sở luôn xác định công tác kiểm tra, giám sát là nhiệm vụ quan trọng, thường
xuyên trong công tác xây dựng Đảng, trong thời gian qua quan tâm lãnh đạo, tổ
chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát đối với cấp ủy, tổ chức đảng, đảng
viên theo quy định của Điều lệ Đảng. Qua kiểm tra, giám sát, cấp ủy, tổ chức
đảng chấp hành Điều lệ Đảng, chỉ thị, nghị quyết, quy định, quyết định của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, đã góp phần xây dựng Đảng bộ vững
mạnh.


2.2. Thực trạng thực hiện công tác kiểm tra, giám sát của Đảng bộ các
Cơ quan và Doanh nghiệp tỉnh CM giai đoạn 2015 - 2020
2.2.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân kết quả
2.2.1.1. Những kết quả đạt được
Nhiệm kỳ qua, công tác kiểm tra, giám sát được sự quan tâm lãnh đạo của
Thường trực Tỉnh ủy, hướng dẫn của Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy, sự nỗ lực, quyết
tâm của Đảng ủy, Ban Thường vụ Đảng ủy, Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy các Cơ
quan và Doanh nghiệp tỉnh, cấp ủy và ủy ban kiểm tra đảng ủy cơ sở nêu cao
tinh thần trách nhiệm, thực hiện đạt nhiều kết quả quan trọng; nhiệm vụ kiểm
tra, giám sát bám sát nhiệm vụ chính trị, cơng tác xây dựng Đảng của Đảng bộ;
công tác giám sát được mở rộng, cơng tác kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm; nội
dung, phương pháp kiểm tra, giám sát của các cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm
tra các cấp có sự đổi mới, chất lượng, hiệu quả được nâng lên, số lượng đảng
viên, tổ chức đảng được kiểm tra, giám sát tăng so với nhiệm kỳ trước.
Trên cơ sở quy định, hướng dẫn của Trung ương và chỉ đạo Tỉnh ủy về

công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng, Đảng ủy kịp thời rà
soát, ban hành các văn bản cụ thể hóa và chỉ đạo cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban
kiểm tra các cấp triển khai thực hiện. Đặc biệt, Đảng ủy ban hành Quy trình
kiểm tra, giám sát, xem xét thi hành kỷ luật và giải quyết khiếu nại kỷ luật Đảng
thuộc thẩm quyền Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Đảng ủy và Quy định về
kiểm tra, giám sát kê khai tài sản đối với đảng viên thuộc thẩm quyền quản lý
của Đảng ủy; đồng thời chỉ đạo Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy và cấp ủy cơ sở ban
hành quy trình kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng đối với cấp
mình.
Ủy ban kiểm tra các cấp đã tích cực, chủ động tham mưu cấp ủy cùng cấp
triển khai, quán triệt kịp thời các nghị quyết, chỉ thị, quy định, kết luận, hướng
dẫn của Trung ương, của Tỉnh ủy liên quan đến công tác kiểm tra, giám sát và
thi hành kỷ luật của Đảng; nghiên cứu, ban hành và tham mưu cấp ủy ban hành
khá đầy đủ các văn bản để lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác kiểm
tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng; phối hợp, tham mưu cấp ủy, ban


thường vụ cấp ủy thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo quy định của Điều
lệ Đảng, nhất là thực hiện hồn thành chương trình kiểm tra, giám sát tồn khóa,
chương trình kiểm tra, giám sát hàng năm; chuẩn bị tốt nội dung báo cáo, tài liệu
phục vụ các Đoàn Kiểm tra, giám sát của Trung ương; tham mưu cấp ủy sắp
xếp, củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ; quan tâm công tác quy hoạch,
đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chính trị, chun mơn nghiệp vụ về công
tác kiểm tra, giám sát của Đảng.
Ủy ban kiểm tra các cấp tiếp tục tăng cường công tác kiểm tra, giám sát
theo quy định của Điều lệ Đảng. Chú trọng kiểm tra đảng viên, tổ chức đảng khi
có dấu hiệu vi phạm; quan tâm giám sát tổ chức đảng, đảng viên trong việc khắc
phục những hạn chế, khuyết điểm theo thông báo kết luận kiểm tra; xem xét,
giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo kịp thời, đúng thời gian quy định; kỷ luật,
kỷ cương trong Đảng được cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên chấp hành

nghiêm túc, tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng; công tác phối hợp,
tuyên truyền, phổ biến về công tác kiểm tra, giám sát của Đảng được chú trọng,
góp phần tích cực vào thực hiện hồn thành nhiệm vụ công tác kiểm tra, giám
sát và thi hành kỷ luật trong Đảng.
Qua thực hiện công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đã góp phần khơng
ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và
đội ngũ cán bộ, đảng viên; phát huy những ưu điểm, kịp thời khắc phục những
hạn chế, thiếu sót, góp phần hồn thành nhiệm vụ chính trị, sản xuất kinh doanh,
xây dựng tổ chức cơ sở đảng vững mạnh.
Trong nhiệm kỳ qua Đảng bộ các Cơ quan và Doanh nghiệp tỉnh thực hiện
công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đạt và vượt chỉ tiêu so với kế hoạch đề ra,
cụ thể như:
* Kiểm tra đảng viên, kể cả cấp uỷ viên cùng cấp khi có dấu
hiệu vi phạm tiêu chuẩn đảng viên, tiêu chuẩn cấp uỷ viên và trong
thực hiện nhiệm vụ đảng viên.
- Đảng ủy tổ chức kiểm tra, giám sát 181 tổ chức cơ sở đảng (trong đó:
kiểm tra 98, giám sát 83), đạt 34% tổ chức cơ sở đảng (chỉ tiêu Nghị quyết Đại


hội từ 25% trở lên). Nội dung kiểm tra, giám sát tập trung vào việc lãnh đạo
thực hiện các chủ trương lớn của Đảng; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu của tổ chức đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; lãnh đạo, tổ chức
cho đảng viên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống; lãnh đạo thực hiện nhiệm
vụ chính trị của tổ chức đảng, nhất là các vấn đề bức xúc liên quan đến nhiệm vụ
chính trị của tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị...
Sau kiểm tra, giám sát, Đảng ủy chỉ đạo cấp ủy tổ chức đảng được kiểm tra,
giám sát, xây dựng kế hoạch khắc phục khuyết điểm, hạn chế được chỉ ra qua
kiểm tra, giám sát, quy định thời gian báo cáo kết quả khắc phục về Đảng ủy;
đồng thời, hàng năm Đảng ủy có kế hoạch tiến hành giám sát tổ chức đảng trong
việc khắc phục hạn chế, khuyết điểm được chỉ ra qua kiểm tra, giám sát.

- Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy kiểm tra, giám sát 83 lượt tổ chức đảng (bình
quân 16,8 tổ chức/năm), 15 đảng viên (04 người đứng đầu cấp ủy). Nội dung
kiểm tra, giám sát tập trung vào việc lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ công tác kiểm
tra, giám sát; việc chấp hành các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước.
- Đảng ủy, chi bộ cơ sở, ủy ban kiểm tra đảng ủy cơ sở kiểm tra, giám sát
919 lượt tổ chức đảng (bình quân 184 tổ chức đảng/năm) và 2.693 lượt đảng
viên (bình quân 538 đảng viên/năm, chiếm tỷ lệ >10% tổng số đảng viên); trong
đó cấp ủy viên cùng cấp 111 lượt đồng chí và người đứng đầu cấp ủy 115 lượt
đồng chí). Nội dung kiểm tra, giám sát tập trung vào: việc chấp hành chủ trương
của Đảng, pháp luật Nhà nước; việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao;
kiểm tra đảng viên trong việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống; những điều
đảng viên không được làm…
* Kiểm tra tổ chức Đảng cấp dưới khi có dấu hiệu vi phạm trong
việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, Nghị quyết, Chỉ
thị của Đảng, các nguyên tắc tổ chức của Đảng, kiểm tra việc thực
hiện nhiệm vụ kiểm tra và thi hành kỷ luật trong Đảng.
- Công tác kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên khi có dấu hiệu
vi phạm và xử lý, kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên được cấp ủy, tổ chức đảng cơ


sở và ủy ban kiểm tra các cấp quan tâm, chủ động hơn và thực hiện đúng
phương châm, nguyên tắc. Trong nhiệm kỳ, Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy kiểm tra
01 tổ chức đảng và 11 đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; cấp ủy và ủy ban
kiểm tra đảng ủy cơ sở kiểm tra 13 tổ chức đảng, 29 đảng viên khi có dấu hiệu
vi phạm.
- Cấp ủy, tổ chức đảng và ủy ban kiểm tra các cấp đã xử lý kỷ luật 48
đảng viên, bằng các hình thức: khiển trách 33, cảnh cáo 05, khai trừ 10; bình
quân hàng năm tỷ lệ đảng viên vi phạm bị xử lý kỷ luật chiếm 0,129% tổng số
đảng viên Đảng bộ (chỉ tiêu Nghị quyết đề ra dưới 1%/năm); nội dung vi phạm

chủ yếu là vi phạm phẩm chất đạo đức, lối sống, những Điều đảng viên không
được làm, thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, quản lý, cố ý làm trái, bị tịa
án phạt tù; ngồi ra, đình chỉ sinh hoạt đảng đối với 05 đảng viên.
* Giải quyết tố cáo đối với tổ chức Đảng và đảng viên; giải
quyết khiếu nại về kỷ luật Đảng.
- Giải quyết tố cáo tổ chức đảng, đảng viên và khiếu nại kỷ luật Đảng
đúng nguyên tắc, quy định của Đảng. Trong nhiệm kỳ, Ủy ban Kiểm tra Đảng
ủy tiếp nhận 49 đơn tố cáo đảng viên. Trong đó, đã xem xét, giải quyết 08 đơn;
01 đơn đang xem xét, giải quyết nhưng người tố cáo xin rút đơn; 22 đơn chuyển
cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết; 21 đơn khơng đủ điều kiện xem xét,
giải quyết do giấu tên, mạo danh, đơn khơng ký tên…
Ngồi ra, các ban tham mưu của Đảng ủy tổ chức kiểm tra, giám sát tổ
chức cơ sở đảng về thực hiện công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, cơng tác tổ
chức xây dựng Đảng.
2.2.1.2. Nguyên nhân đạt được kết quả
Được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời của Ban Thường vụ Tỉnh ủy,
sự hướng dẫn nghiệp vụ của Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy, sự nỗ lực phấn đấu và
quyết tâm của Ban Thường vụ Đảng ủy, Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy các Cơ quan
và Doanh nghiệp tỉnh trong việc chỉ đạo cơng tác xây dựng Đảng nói chung,
cơng tác kiểm tra, giám sát nói riêng.


Cấp ủy, ủy ban kiểm tra cơ sở đã không ngừng nâng cao nhận thức, trách
nhiệm và thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, thường xuyên theo dõi kiểm tra tổ
chức đảng và đảng viên trong việc chấp hành quy định của Đảng, pháp luật của
Nhà nước.
Các ban Đảng ủy tham mưu cho Ban Thường vụ trong lãnh đạo thực hiện
nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo chương trình, kế hoạch công tác kiểm tra, giám
sát đề ra và quy định của Điều lệ Đảng.
Sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan liên quan; sự đoàn kết, nỗ lực phấn

đấu của đội ngũ cán bộ kiểm tra từ tỉnh đến cơ sở, nên công tác kiểm tra, giám
sát của Đảng bộ ngày càng đi vào nề nếp, chất lượng, hiệu quả được nâng lên.
2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân hạn chế
2.2.2.1. Những hạn chế
Một số cấp ủy, tổ chức đảng cơ sở nhận thức chưa đầy đủ ý nghĩa, tầm
quan trọng của công tác kiểm tra, giám sát; chưa thường xuyên quan tâm lãnh
đạo, chỉ đạo triển khai, quán triệt và tổ chức thực hiện công tác kiểm tra, giám
sát dẫn đến việc xây dựng chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát thiếu khoa
học.
Ủy ban kiểm tra một số nơi chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm trong
việc tham mưu cấp ủy lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra,
giám sát.
Một số nơi thực hiện công tác kiểm tra, giám sát tổ chức đảng chưa gắn với
kiểm tra, giám sát trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền;
khi tiến hành kiểm tra, giám sát thực hiện chưa đảm bảo đúng quy trình, quy
định, nhất là các thủ tục kiểm tra, giám sát. Phần nào ảnh hưởng đến chất lượng,
hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát.
Một số tổ chức đảng đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra, giám sát chất
lượng còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ (do nặng về công tác
chuyên môn).


Một số tổ chức đảng chưa làm tốt công tác kiểm tra, giám sát đảng viên,
cấp ủy cùng cấp khi phát hiện sai phạm trong kiểm tra, giám sát thì lại tiến hành
xử lý nội bộ (lý do sợ ảnh hưởng thành tích nội bộ).
Việc tham mưu cấp ủy xử lý một số vụ việc còn chậm, số lượng, chất lượng
các cuộc kiểm tra có nơi cịn hạn chế, chưa đảm bảo đầy đủ thủ tục theo quy
trình.
Cơng tác phối hợp giữa ủy ban kiểm tra với các cơ quan có liên quan trong
thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát chưa được thường xuyên. Trình độ, năng

lực, kinh nghiệm thực tiễn của cán bộ làm công tác kiểm tra, giám sát từng bước
được nâng lên, nhưng chưa đáp ứng yêu cầu.
Hoạt động tuyên truyền về công tác kiểm tra, giám sát của Đảng được quan
tâm thực hiện nhưng vẫn còn hạn chế.
Nội dung kiểm tra, giám sát đảng viên chưa được xác định cụ thể (còn
chung chung).
2.2.2.2. Những nguyên nhân hạn chế
Do đặc thù của Đảng bộ các Cơ quan và Doanh nghiệp tỉnh, toàn bộ cấp ủy,
ủy ban kiểm tra, các chi, đảng bộ trực thuộc đều làm công tác kiêm nhiệm, tập
trung cho nhiều cho việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, sản xuất kinh doanh,
chưa dành nhiều thời gian nghiên cứu nên thực hiện chưa đúng theo tinh thần
các quy định của Đảng về công tác kiểm tra, giám sát.
Một số ít cán bộ, đảng viên về nhận thức chưa đúng, chưa đầy đủ về nhiệm
vụ kiểm tra, giám sát của Đảng; khi được kiểm tra thì thiếu tự giác, sợ mất uy
tín, tâm lý khơng muốn bị kiểm tra, giám sát; có định kiến, mặc cảm, đối phó,
gây khó khăn, thiếu cộng tác.
Trình độ, năng lực của một số bộ phận cán bộ, đảng viên làm công tác kiểm
tra, giám sát chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới; một số ít cán
bộ, đảng viên còn ngại va chạm, chưa kiên quyết đấu tranh khi xảy ra dấu hiệu
vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên, là ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực
hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát chung của toàn Đảng bộ.


2.3. Giải pháp nâng cao công tác kiểm tra, giám sát của Đảng bộ các
Cơ quan và Doanh nghiệp tỉnh CM
Sau Đại hội Đảng bộ tỉnh, các cấp ủy, tổ chức đảng tổ chức quán triệt và
triển khai thực hiện Điều lệ Đảng, các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng
liên quan đến công tác kiểm tra, giám sát. Lãnh đạo xây dựng, ban hành chương
trình kiểm tra, giám sát của các cấp ủy; tập trung vào những vấn đề bức xúc, dư
luận xã hội quan tâm; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện

Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và
Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Đổi mới công tác kiểm tra, giám sát theo hướng tăng cường sự lãnh đạo của
cấp ủy, hướng dẫn của ủy ban kiểm tra cấp trên đối với cấp ủy, ủy ban kiểm tra
cấp dưới theo Quy định 195-QĐ/TW, ngày 18/6/2019 của Ban Bí thư. Triển khai
thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ do Điều lệ Đảng quy định và nhiệm vụ cấp ủy
giao; thực hiện đồng bộ giữa công tác kiểm tra, giám sát theo phương châm
“giám sát phải mở rộng”, “kiểm tra phải có trọng tâm, trọng điểm”. Chủ động
nắm tình hình hoạt động của cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên nhất là cán bộ lãnh
đạo, quản lý và người đứng đầu cấp ủy các cấp, các ngành, cơ quan, đơn vị để
sớm phát hiện tiến hành kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm.
Tập trung xem xét, giải quyết kịp thời đơn thư khiếu nại, tố cáo đối với cán
bộ, đảng viên, nhất là đối với cán bộ dự kiến tham gia ứng cử đại biểu Quốc Hội
khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026. Xử lý,
tham mưu cấp ủy xử lý nghiêm tổ chức đảng, đảng viên vi phạm chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; bảo đảm phương châm “cơng minh,
chính xác, kịp thời” trong thi hành kỷ luật trong Đảng; giữ gìn kỷ luật, kỷ cương
của Đảng.
Lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả cơng tác phịng, chống tham
nhũng, nhất là thực hiện Quy định số 01-QĐi/TW, ngày 10/5/2018 của Bộ Chính
trị về trách nhiệm và thẩm quyền của ủy ban kiểm tra trong cơng tác phịng,
chống tham nhũng; xử lý và tham mưu cấp ủy xử lý tổ chức đảng, đảng viên,


×