Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

Biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý vốn kinh doanh tại công ty cổ phần hóa chất và vật tư khoa học kỹ thuật cemaco

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (411.73 KB, 88 trang )

Trờng đại học kinh tế quốc dân
khoa khoa học quản lý


Chuyên đề thực tập
Đề tài: CC BIN PHP NNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN
LÝ VỐN KINH DOANH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN HỐ
CHẤT VÀ VẬT TƯ KHOA HỌC KỸ THUẬT CEMACO

:

Gi¸o viên hớng dẫn

PGS.TS. Phan Kim Chiến
: Khơng Xuân Lợi

Sinh viên thực hiện
Lớp

: QLKT 46A

Khoá

: 46

Hà Nội, 5 - 2008

1


Lời nói đầu


Hiện nay, nền kinh tế nước ta đang chuyển mình mạnh mẽ sang nền kinh
tế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Trong quá trình chuyển đổi này đã
có những ảnh hưởng sâu sắc tới sự phát triển của nền kinh tế nước nhà nói
chung và hoạt động của các doanh nghiệp nói riêng. Cùng với sự hội nhập
tồn cầu hóa, trong cơ chế mở của thị trường các doanh nghiệp đều được tự
do cạnh tranh và bình đẳng trong mơi trường pháp lý. Nó đặt ra cho mỗi
doanh nghiệp những cơ hội và thách thức lớn trong quá trình hình thành và
tạo thế đứng vững chắc trong nền kinh tế thị trường.
Công ty cổ phần hóa chất và vật tư khoa học kỹ thuật được thành lập
trong xu hướng phát triển chung của toàn xã hội. Cổ phần hóa trong cơng ty
đã tạo ra tính hiệu quả và sức cạnh tranh cao cho công ty trong nền kinh tế thị
trường, tạo động lực và cơ chế quản lý năng động, sáng tạo, với quá trình hoạt
động thu được lợi nhuận tối đa, tăng cổ tức, đảm bảo lợi ích của các cổ đơng,
góp phần vào mục tiêu kinh tế xã hội và định hướng phát triển của cơng ty.
Cổ phần hóa đã làm cho việc huy động, giám sát, sử dụng nguồn vốn
của các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước phục vụ vào hoạt động sản xuât,
kinh doanh, dịch vụ ngành hàng hóa chất vật tư khoa học kỹ thuật có hiệu quả
cao. Để đạt được những yêu cầu đặt ra các doanh nghiệp phải giải quyết một
vấn đề rất quan trọng đó chính là: Làm sao để quản lý vốn tốt và sử dụng vốn
có hiệu quả nhất. Trong q trình thực tập tại cơng ty cổ phần hóa chất và vật
tư khoa học kỹ thuật, tơi đã tìm hiểu tình hình sản xuất kinh doanh, qua những
hoạt động cụ thể của công ty, kết hợp với kiến thức trên nghế nhà trường đã
đúc rút cho tôi được rất nhiều kinh nghiệm quý báu trong khi tôi thực tập tốt
nghiệp tại công ty và cho bản thân sau này. Với mong muốn được đóng góp
kiến thức của mình vào sự phát triển chung của tồn cơng ty, được sự giúp đỡ
2


rất tận tình của thầy giáo hướng dẫn: PGS.TS Phan Kim Chiến và các cơ chú,
anh chị, trong phịng ban kế tốn tài chính và phịng kinh doanh. Tơi đã hồn

thành đợt thực tập và tơi đã chọn được đề tài mang tên:

“Các biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý vốn kinh doanh
tại cơng ty cổ phần hóa chất và vật tư khoa học kỹ thuật
CEMACO”
Kết cấu của chuyên đề gồm:
Phần mở đầu
Phần nội dung được chia thành:
Chương I: Lý luận chung về hiệu quả quản lý vốn kinh doanh của doanh
nghiệp.
Chương II:Thực trạng quản lý vốn kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn kinh
doanh tại công ty CEMACO.
Chương III: Tổng kết công tác hoạt động của công ty trong năm 2007
phương hướng nhiệm vụ công tác trong năm 2008 và các giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả quản lý vốn tại công ty.
Phần kết luận.
Tài liệu tham khảo.
Tuy nhiên do thời gian và kinh nghiệm còn hạn chế nên chun đề này
khơng tránh khỏi những thiếu xót, tơi rất mong sự đóng góp của thầy giáo
hướng dẫn và các cô chú, anh chị trong công ty để chun đề của tơi được
hồn thiện hơn.
Một lần nữa tơi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của thầy giáo hướng
dẫn: PGS.TS.Phan Kim Chiến, ban lãnh đạo công ty các cơ chú, anh chị,
trong phịng tài chính kế tốn và phịng kinh doanh của cơng ty đã giúp đỡ tận
tình để tơi hồn thành tốt đợt thực tập.

3


Tôi xin chân thành cảm ơn!


Chương I: Lý luận chung về hiệu quả quản lý vốn
kinh doanh của doanh nghiệp
I.Tổng quan về hiệu quả và hiệu quả kinh tế
1. Khái niệm và ý nghĩa của hiệu quả
1.1. Khái niệm
Hiệu quả là thuật ngữ chỉ mối quan hệ giữa kết quả thực hiện các mục tiêu
hoạt động của chủ thể và chi phí mà chủ thể bỏ ra để có kết quả đó trong
những điều kiện nhất định.
Nếu ký hiệu:
K: là kết quả nhận được theo hướng mục tiêu đo bằng các đơn vị khác
nhau
C: là chi phí bỏ ra được đo bằng các đơn vị khác nhau
E: là hiệu quả
Ta có cơng thức hiệu quả chung là:
E =K-C (1) Hiệu quả tuyệt đối
E= K/C (2) Hiệu quả tương đối
Một cách chung nhất, kết quả (K) mà chủ thể nhận được theo hướng múc
tiêu trong hoạt động của minh càng lớn hơn chi phí (C) bỏ ra bao nhiêu thì
càng có lợi bấy nhiêu.
1.2. Ý nghĩa
Hiệu quả là chỉ tiêu dùng để phân tích, đánh giá và lựa chọn các phương
án hành động.
1.3. Các khái niệm hiệu quả
Hiệu quả được hiểu theo nhiều góc độ khác nhau vì vậy hình thành nhiều
khái niệm khác nhau.
Hiệu quả tổng hợp: Là hiệu quả chung phản ánh kết quả thực hiện mọi mục
tiêu mà chủ thể đặt ra trong một giai đoạn nhất định trong quan hệ với chi phí
để có được những kết quả đó. Hiệu quả tổng hợp bao gồm:
Hiệu qủa kinh tế: Là hiệu quả nếu chỉ xét vể khía cạnh kinh tế của vấn đề, là

một nội dung đặc biệt của hiệu quả tổng hợp có ý nghĩa quyết định trong hoạt
động kinh tế của các chủ thể khác nhau.
Hiệu quả kinh tế mô tẩ mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế mà chủ thể nhận
được lợi ích kinh tế đó.
Biểu hiện của lợi ích và chi phí khinh tế phụ thuộc vào chủ thể và muc tiêu
mà chủ thể đặt ra. Đối với chủ thể doanh nghiệp, đó có thể là doanh thu bán
hàng và những chi phi gắn liền với hoạt động của doanh nghiệp để có được
4


doanh thu bán hàng đó. Đối với nhà nước, lợi ích kinh tế khơng chỉ bó hẹp
trong một doanh nghiệp mà được xem xét trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế
Hiệu quả chính trị xã hội: Là hiệu quả mà chủ thể nhận được trong việc
thực hiện các mục tiệ kinh tế xã hội. Chẳng hạn, giải quyết công ăn việc làm,
công bằng xã hội, môi trường
Hiệu quả trực tiếp: Là hiệu quả được xem xét trong phạm vi chỉ một dự án,
mỗi doanh nghiệp (một đối tượng).
Hiệu quả gián tiếp là hiệu quả mà một đối tượng nào đó tạo ra cho một
đối tượng khác: Việc xây dựng một dự án này có thể kéo theo việc xây dựng
hàng loạt dự án khác – Hiệu quả của dự án đang xem xét là hiệu quả trực tiếp
còn hiệu quả các dự án khác là hiệu quả gián tiếp.
Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả tương đối: là hai hình thức biểu hiện mối
quan hệ giữa kết quả chi phí. Trong đó, hiệu quả tuyệt đối được đo bằng hiệu
số giữa kết quả chi phí, cịn hiệu quả tương đối được đo bằng tỉ số giữa kết
quả và chi phí.
Lợi nhuận rịng hàng năm được xem như là hình thức của hiệu quả tuyệt
đối, tỉ suất lợi nhuận là hình thức của hiệu quả tương đối.
1.4. Hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế quốc dân
Xét theo góc độ chủ thể nhận được kết quả (lợi ích) và bỏ chi phí để có
được kết quả đó, có khái niệm hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế quốc

dân.
Hiệu quả tài chính
Hiệu quả tài chính cịn được gọi là hiệu quả sản xuất – kinh doanh hay
hiệu quả doanh nghiệp là hiệu quả kinh tế xét trong phạm vi một doanh
nghiệp. Hiệu quả tài chính phản ánh mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế mà
doanh nghiệp phải bỏ ra để có được lợi ích kinh tế. Hiệu quả tài chính là mối
quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp, những nhà đầu tư. Hiệu quả tài
chính chỉ liên quan đến thu, chi có liên quan trực tiếp.
Hiệu quả kinh tế quốc dân
Hiệu quả kinh tế quốc dân còn được gọi là hiệu quả kinh tế xã hội là hiệu
quả tổng hợp được xem xét trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế.
Chủ thể được hưởng hiệu quả kinh tế quốc dân là toàn bộ xã hội mà người
đại diện cho nó là nhà nước, vì vậy những lợi ích và chi phí được xem xét
trong hiệu quả kinh tế xã hội xuất phát từ quan điểm toàn bộ nền kinh tế quốc
dân.
Nội dung cơ bản của hiệu quả kinh tế quốc dân là hiệu quả kinh tế xét theo
quan điểm toàn bộ nền kinh tế.
Quan hệ giữa hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế quốc dân
Hiệu quả tài chính là mối quan hệ của các doanh nghiệp hoặc của những
nhà đầu tư. Hiệu quả kinh tế quốc dân là mối quan tâm của toàn xã hội mà đại
diện là nhà nước.
5


Hiệu quả tài chính được xem xét theo quan điểm của doanh nghiệp, còn
hiệu quả kinh tế quốc dân được xem xét theo quan điểm của toàn xã hội. Hiệu
quả tài chính xét theo quan điểm bộ phận, cịn hiệu quả kinh tế quốc dân xét
theo quan điểm toàn thể.
Quan hệ giữa hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế quốc dân là quan hệ
giữa lợi ích bộ phận và lợi ích tổng thể, giữa lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội.

Đó là mối quan hệ thống nhất có mâu thuẫn.
1.5. Hiệu quả trước mắt và hiệu quả lâu dài
Căn cứ vào lợi ích nhận được trong khoảng thời gian dài hay ngắn hình
thành khái niệm hiệu quả trước mắt và hiệu quả lâu dài. Hiệu quả trước mắt là
hiệu quả được xem xét trong khoảng thời gian ngắn. Lợi ích được xem xét
trong loại hiệu quả này là lợi ích trước mắt, mang tính tạm thời. Việc nhập
những thiết bị cũ, công nghệ kém tiên tiến, rẻ tiển có thể mạng lại hiệu quả
trước mắt nhưng về lâu dài không hẳn là như vậy. Hiệu quả lâu dài là hiệu
quả được xem xét trong thời gian dài. Việc bỏ tiền mua bảo hiểm có thể lợi
ích trước mắt bị vi phạm nhưng nó tạo ra một thế ổn định lâu dài, nó cho phép
san bớt những rủi ra cho các nhà bảo hiểm.
2.Tiêu chuẩn cơ bản của hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế quốc dân
Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp hay nền kinh tế quốc dân được đánh
giá thông qua một hoặc một số chỉ tiêu hiệu quả nhất định. Về phần mình,
những chỉ tiêu hiệu quả này phụ thuộc chặt chẽ vào mục tiêu hoạt động của
mỗi cấp (mục tiêu của chủ thể hiệu quả). Bởi vậy, phân tích hiệu quả của các
phương án cần xác định rõ chiến lược phát triển cũng như mục tiêu của mỗi
chủ thể trong từng giai đoạn phát triển.
2.1. Tiêu chuẩn cơ bản của hiệu quả tài chính là lợi nhuận cao nhất và ổn
định
Trong hoạt động của mình, chủ doanh nghiệp thường đặt ra những mục
tiêu sau đây:
• Thu lợi nhuận cao nhất. Theo mục tiêu này lợi nhuận được coi là tiêu
chuẩn để thiết lập các chỉ tiêu hiệu quả.
• Chi phí nhỏ nhất. Theo mục tiêu này tiêu chuẩn hiệu quả là chi phí nhỏ
nhất.
• Chiếm lĩnh thị trường hoặc đạt được lượng hồng hóa bán ra lớn nhất.
• Nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng.
• Duy trì sự tồn tại của doanh nghiệp, tránh bị phá sản.
• Đạt sự ổn định nội bộ.

• Đạt được mức độ nào đó về lợi nhuận…
Tại một thời điểm nhất định, một doanh nghiệp có thể có một hay nhiều
mục tiêu. Các nục tiêu này thay đổi theo thời gian, cùng với sự thay đổi mục
tiêu là sự thay đổi trong quan niệm hiêu quả.
6


Các mục tiêu trên có thể quy tụ thành mục tiêu cơ bản, quyết định hoạt
động của doanh nghiệp là lợi nhuận và sự ổn định. Với mục tiêu này tiêu
chuẩn cơ bản của hiệu quả tài chình là lợi nhuận ổn định.
Mục tiêu lợi nhuận tối đa thường gắn liền với rủi ro tối đa và mạo hiểm tối
đa. Kinh doanh gắn liền với mạo hiểm nhưng khơng có nghĩa là liều lĩnh.
Người biết kinh doanh là người biết hạn chế bớt những rủi ro có thể gặp phải.
Điều đó cũng có nghĩa một phương án hành động có thể mang lại lợi nhuận
lớn nhât nhưng trong điều kiện rủi ro lớn nhất, và phương án khác có lợi
nhuận ít hơn nhưng những rủi ro khơng có hoặc ít hơn thì phương án có ít lợi
nhuận và ổn định hơn là phương án có hiệu quả cao hơn theo nghĩa kết hợp
giữa lợi nhuận tối đa và sự an tồn, ổn định của doanh nghiệp.
Phân tích hiệu quả doanh nghiệp khơng thể tách rời phân tích rủi ro, đặc
biệt trong điều kiện kinh doanh hiện nay, có nhiều nhân tố dẫn đến biến động
lớn.
Chiếm lĩnh thị trường hoặc đạt được lườn hàng hóa bán ra lớn nhất suy
cho cùng là để đạt mục đích lợi nhuận. Khơng có thị trường, hàng khơng bán
được, q trình sản xuất sẽ ách tắc khơng thể có lợi nhuận. Chiếm lĩnh thị
trường và đạt lợi nhuận có liên quan chặt chẽ với nhau gần như tỷ lệ thuận.
Những mục tiêu khác trong hoạt động doanh nghiệp mà doanh nghiệp
quan tâm có liên quan đến lợi nhuận. Vì vậy, lợi nhuận ổn định là mục tiêu
bao chùm nhất, tổng quát nhất. Cho đến nay, các tác giả đều nhất trí dùng lợi
nhuận làm tiêu chuẩn cơ bản để phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh.
2.2. Tiêu chuẩn cơ bản của hiệu quả kinh tế quốc dân là giá trị gia tăng

quốc gia
Trong hoạt động kinh tế của mình, xã hội thường đặt ra những mục tiêu
sau đây:
• Tăng thu nhập quốc dân.
• Tạo cơng ăn việc làm.
• Cơng bằng xã hội.
• Bảo vệ mơi sinh.
• Bảo đảm chủ quyền đất nước…
Như vậy, q trình phát triển kinh tế là một quá trình đa mục tiêu: Kinh tế,
chính trị, xã hội và sinh thái. Các mục tiêu này có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Mối quan hệ qua lại đó rất phức tạp, nhiều khi có mâu thuẫn. Bản chất của
chúng khác nhau theo từng nước, theo từng thời điểm. Nét đặc chưng của
những mục tiêu này là tình động, tính hài hịa, tính xung khắc và tính bổ xung
lẫn nhau. Những mục tiêu này thường được thể hiện rõ ràng trong kế hoạch
phát triển kinh tế đất nước hoặc dưới dạng khác của các văn bản chính thức
của Nhà nước về đường lối phát triển.
Các mục tiêu quốc gia (xã hội) được thực hiện thông qua từng doanh
nghiệp, từng ngành, từng địa phường cụ thể. Nền kinh tế quốc dân là một hệ
7


thồng, các doanh nghiệp, các ngành, các địa phương là những phần tử, những
phân hệ tạo thành hệ thống kinh tế quốc dân. Mục tiêu của doanh nghiệp là
mục tiêu bộ phận, mục tiêu quốc gia là mục tiêu toàn thể.
Mục tiêu quốc gia xét ở cấp doanh nghiệp người ta thường gọi là mục tiêu
xã hội, thực ra mục tiêu này khơng hồn tồn mang tính chất xã hội mà quan
trọng và chủ yếu mang tính chất kinh tế được xem xét là những đóng góp của
doanh nghiệp và việc thực hiện các mục tiêu mà xã hội đặt ra.
Sự đóng góp của doanh nghiệp và việc thực hiện các mục tiêu xã hội hình
thành khái niệm hiệu quả kinh tế xã hội, hiệu quả kinh tế quốc dân. Như vậy,

cùng, cùng một phương án hoạt động của doanh nghiệp, được xem xét theo
hai cấp hiệu quả khác nhau.
 Hiệu quả tài chính trong đó chủ thể là doanh nghiệp.
 Hiệu quả kinh tế quốc dân trong đó chủ thể là xã hội mà đại diện
là Nhà nước.
Đối với doanh nghiệp hay chủ đầu tư, lợi nhuận cao và ổn định là tiêu
chuẩn cơ bản, là mục tiêu bao chùm, nhưng đối với xã hội, lợi nhuận mà
doanh nghiệp thu được chưa phản ánh đầy đủ lợi ích của nó. Trước hết, lợi
nhuận chỉ bao hàm một phần giá trị mới sáng tạo ra trong doanh nghiêpk mà
xã hội thì quan tâm đến tồn bộ giá trị đó. Giá trị mới sáng tạo ra trong doanh
nghiệp bao gồm toàn bộ giá trị thặng dư xã hội và tiền lương. Phần giá trị này
được gọi là giá trị gia tăng. Giá trị gia tăng là biểu hiện thu nhập quốc dân
trong doanh nghiệp. Thông qua giá trị gia tăng để đánh giá sự đóng góp của
doanh nghiệp và việc thực hiện mục tiêu tăng thu nhập quốc dân của toàn xã
hội.
Sau nữa, lợi nhuận được xem như là chỉ tiêu hiệu quả trực tiếp; cịn xã hội
khơng chỉ quan tâm đến hiệu quả trực tiếp mà còn quan tâm đến hiệu quả
gián tiếp do doanh nghiệp tạo ra. Những vẫn đề về môi trường, phân phối thu
nhập, công ăn viêc làm...Khơng được phân tích khi xác định hiệu quả tài
chính, chúng lại rất quan trọng khi phân tích hiệu quả kinh tế quốc dân.
Mục tiêu chiến lược có tính chất nền tảng của đường lối phát triển quốc
gia của bất kỳ nước nào là nâng cao mức sống hiện tại của nhân dân và cấp
vốn đầu tư nhằm đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, thơng qua đó tăng
tiêu dùng trong tương lai. Thu nhập quốc dân là nguồn duy nhất để tăng cả
tiêu dùng và tích lũy (tiêu dùng tương lai). Đó là hình thức đo định lượng cơ
bản của trình độ và tốc độ tăng phuc lợi quốc dân. Mức thu nhập quốc dân
được coi là biểu trung cho phúc lợi xã hội, nó phản ánh cả nguồn lực của đất
nước và mức độ thỏa mãn các nhu cầu và nguyện vọng cơ bản của nhân dân.
Do vậy, mục tiêu cơ bản cuối cùng của các hoạt động kinh tế trong một quốc
gia chính là đóng góp càng nhiều càng tốt vào thu nhập quốc dân. Vì vậy, tiêu

chuẩn cơ bản của hiệu quả kinh tế xã hội của hoạt động doanh nghiệp là giá
trị gia tăng.
8


Giá trị gia tăng bao gồm hai bộ phận chính: Lương và các khoản thặng dư
xã hội.
Theo quan điểm của doanh nghiệp, lương là đầu vào, là chi phí, nhưng
theo quan điểm xã hội, lương là một bộ phận của thu nhập quốc dân. Lương
càng nhiều (càng bố trí được nhiều việc làm) thu nhập lao động của người
càng cao. Lương càng cao (so với hàng hóa cần thiết) có nghĩa là sức mua của
người dân càng cao, nói cách khác, phúc lợi quốc dân càng cao.
Thặng dư xã hội là phần giá trị gia tăng được phân phối thông qua các
kênh các kênh khác nhau của cơ chế phân phối quốc gia. Thuế đưa vào kho
bạc nhà nước; lợi nhuận thuần túy để lại cho doanh nghiệp; lãi vay vốn trả
cho các cơ quan và tổ chức tài chính. Thơng qua cả một mạng lưới của q
trình phân phối và phân phối lại phức tạp, một bộ phận của thặng dư xã hội
được sử dụng cho tiêu dùng cá nhân và xã hội.
Về nguyên tắc, giá trị gia tăng là biểu hiện của phúc lợi quốc gia, nhưng
trong thực tiễn có thể hoặc đang xảy ra là một doanh nghiệp tạo ra một
lượng giá trị gia tăng đáng kể, nhưng phần lớn giá trị gia tăng đó được chuyển
ra nước ngoài như: Tiền lương trả cho người lao động nước ngồi, lãi vay của
các tổ chức tài chính quốc tế, lợi tức cổ phần của các cổ đông nước ngoài ...
Trong trường hợp này, giá trị gia tăng được tạo ra khơng cịn là thước đo về
sự đóng góp của doanh nghiệp vào phúc lợi quốc gia. Để khắc phụ hiện tượng
này, người ta đưa ra khái niệm giá trị gia tăng quốc gia.
Giá trị gia tăng quốc gia là phần còn lại của giá trị gia tăng sẵn có sau khi
trừ đi các khoản chuyể ra nước ngồi.
Giá trị gia tăng quốc gia phản ánh phúc lợi quốc gia. Đây chính là giá trị
mới được tạo ra để tích lũy và tiêu dùng trong nước. Giá trị gia tăng quốc gia

là tiêu chuẩn cơ bản của hiệu quả kinh tế xã hội.
Giữa giá trị gia tăng quốc gia và lợi nhuận có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Lợi nhuận là một bộ phậ của giá trị gia tăng quốc gia, là mục tiêu, động lực
doanh nghiệp. Giá trị gia tăng ngồi lợi nhuận cịn tiền lương, lợi tức, lãi vay
và thuế. Lợi nhuận của doanh nghiệp không chỉ chịu ảnh hưởng của giá trị
thặng dư xã hội mà cịn chịu ảnh hưởng của chính sách phân phối của nhà
nước. Nhà nước có thể giảm lợi nhuận của doanh nghiệp thông qua việc đánh
thếu cao và ngược lại. Giá trị gia tăng quốc gia chỉ chịu ảnh hưởng của bản
thân giá trị thặng dư và tiền lương.
Một phương án nào đó có thể có ưu thế rất lớn theo tiêu chuẩn giá trị gia
tăng, nhưng lại khơng có ưu thế theo tiêu chuẩn lợi nhuận. Trong tình huống
này, doanh nghiệp cần một khoản trợ cấp.
Trên thực tế cho thấy, nếu là lãi hoặc lỗ đối với một bộ phận của nền kinh
tế - tức là đối với một doanh nghiệp thì khơng nên đồng nhất đối vơi lãi với
lãi của tồn bộ nền kinh tế quốc dân. Phân tích hiệu quả kinh tế quốc dân giải
quyết vấn đề lỗ, lãi của tồn bộ nền kinh tế nói chung. Phân tích hai loại hiệu
9


quả này giúp cho chủ doanh nghiệp và Nhà nước thấy được lợi ích của mình
để có sự kết hợp lợi ích cho thỏa đáng, tạo ra động lực phát triển của nền kinh
tế nói chung. Trong phân tích và lựa chọn phương án hoạt động của doanh
nghiệp không được xem nhẹ một loại hiệu quả nào, dù đó là hiệu quả tài
chính hay hiệu quả kinh tế quốc dân. Trong thực tiễn những năm qua, hiệu
quả chưa được chú ý một cách đầy đủ trong phân tích và lựa chọn dự án, đặc
biệt là hiệu quả kinh tế quốc dân.
Dù doanh nghiệp hoạt động dưới hình thức nào thì phân tích hiệu quả các
phương án hoạt động của nó đều phải xem xét theo góc độ hiệu quả tài chính
và hiệu quả kinh tế quốc dân. Là doanh nghiệp nhà nước, điều đó khơng có
nghĩa khơng cần phân tích hiệu quả tài chính, mà nó cũng cần thiết như phân

tích hiệu quả kinh tế quốc dân. Có như vậy mới tránh khỏi tình trạng thua lỗ
của các doanh nghiệp nhà nước và củng cố chế độ hạch toán kinh tế của nó.
Đối với doanh nghiệp tư nhân, Phân tích hiệu quả tài chính được chủ doanh
nghiệp đặc biệt quan tâm trong phương án hoạt động. Điều đó khơng có
nghĩa, hiệu quả kinh tế quốc dân không được xem xét tới, mà trái lại , các cơ
quan nhà nước phải phân tích hiệu quả kinh tế quốc dân của nó để những lợi
ích của xã hội khơng bị vi phạm và lợi ích của cá nhân khơng bị thiệt thịi.
2.3.Ngun tắc xác định hiệu quả
Để đánh giá chính xác hiệu quả của một phương án nào đó cần tuân thủ
các nguyên tắc sau:
2.3.1. Nguyên tắc về mối quan hệ giữa mục tiêu và tiêu chuẩn hiệu quả
Theo nguyên tắc này, tiêu chuẩn hiệu quả được định ra trên cơ sở mục
tiêu. Mục tiêu khác nhau, tiêu chuẩn hiệu quả khác nhau, mục tiêu thay đổi,
tiêu chuẩn hiệu quả thay đổi. Tiêu chuẩn hiệu quả được xem như là thước đo
để thực hiện các mục tiêu.
Phân tích hiệu quả của một phương án nào đó ln ln dựa trên phân tích
mục tiêu. Phương án có hiệu quả cao nhất khi nó đóng góp nhiều nhất cho
việc thực hiện các mục tiêu đặt ra với chi phí thấp nhất.
2.3.2. Nguyên tắc về sự thống nhất lợi ích
Theo nguyên tắc, một phương án được xem là có hiệu quả khi nó kết hợp
trong đó các loại lợi ích. Bao gồm lợi ích của chủ doanh nghiệp và lợi ích của
xã hội, lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần,
lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội.
• Về lợi ích của doanh nghiệp và lợi ích của xã hội được xem xét
trong phân tích hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế quốc dân.
Theo nguyên tắc “lợi ích”, hiệu quả tài chính không thể thay thế cho
hiệu quả kinh tế quốc dân và ngược lại trong việc giải quyết định
cho ra đời một phương án hành động của doanh nghiệp.
• Về lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài: Không thể hy sinh lợi ích lâu
dài để lấy lợi ích trước mắt. Kết hợp đúng đắn giữa lợi ích trước mắt

10


và lợi ích lâu dài là phương án được coi là có hiệu quả. Trong quan
hệ giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, lợi ích lâu dài là cơ bản.
• Về kết hợp lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội cũng như lợi ích vật chất
và lợi ích tinh thần: Việc phân tích hiệu quả kinh tế các phương án
cần đặt trong mối quan hệ với phân tích các lợi ích khác mà phương
án mang lại. Bất kỳ một sự hy sinh lợi ích nào đều giảm hiệu quả
chung của phương án đó. Trong đại bộ phận các trường hợp, lợi ích
xã hội đóng vai trị quyết định.
2.3.3. Ngun tắc về tình chính xác, tính khoa học
Để đánh giá hiệu quả các phương án cần phải dựa trên một hệ thống các
chỉ tiêu có thể lượng hóa được và khơng lượng hóa được, tức là phải kết hợp
phân tích định lượng hiệu quả với phân tích định tính. Khơng thể thay thế
phân tích định lượng bằng phân tích định tính khi phân tích định lượng chưa
đủ đảm bảo tính chính xác, chưa cho phép phản ánh được mọi lợi ích cũng
như mọi chi phí mà chủ thể quan tâm.
Nguyên tắc này cũng đòi hỏi những căn cứ tính tốn hiệu quả phải được
xác định chính xác, tránh chủ quan tùy tiện.
2.3.4.Nguyên tắc về tính đơn giản và tính thực tế
Theo nguyên tắc này, những phương pháp tính tốn hiệu quả và hiệu quả
kinh tế phải được dựa trên cơ sở các số liệu thông tin thực tế, đơn giản và dễ
hiểu. Không nên sử dụng những phương pháp quá phức tạp khi chưa có đầy
đủ các thông tin cần thiết hoặc những thông tin không đảm bảo độ chính xác.
3.Các định mức hiệu quả kinh tế
3.1. Khái niệm
Các định mức hiệu quả kinh tế là biểu thị bằng số của giới hạn có thể chấp
nhận được của chủ thể hiệu quả (thời gian hoàn vốn tối thiểu có thể chấp nhận
được) hoặc là số đo định lượng về giá trị mà chủ thể hiệu quả ấn định cho các

nhân tố chủ yếu nhất mà chúng có quan hệ trực tiếp trong khi đánh giá và lựa
chọn phương án (tỷ suất chiết khấu, tỷ giá hối đoái...).
Các định mức hiệu quả được các chủ thể hiệu quả lập ra nhằm phân tích và
đánh giá phương án theo quan điểm của mình. Những phương án được coi là
đáng giá khi chúng thỏa mãn tiêu chuẩn hiệu quả trên cơ sở sử dụng các định
mức hiệu quả mà chủ thể đã định ra.
3.2. Một số định mức hiệu quả
Phương pháp luận về hiệu quả và hiệu quả kinh tế địi hỏi phải xác định rõ,
chính xác các định mức hiệu quả theo quan điểm của các chủ thể khác nhau.
Phần này trình bày quan điểm xem xét một số định mức hiệu quả quốc gia.
Hệ số hiệu quả định mức quốc gia.
Để đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội, các nhà hoạch định chính xác phải lập ra
hệ số hiệu quả này.

11


Hệ số hiệu quả định mức quốc gia trong những trường hợp cụ thể còn
được gọi là suất thu lợi quốc gia, tỷ suất chiết khấu xã hội.
Hệ số hiệu quả quốc gia ( Iam) là mức hạn định của Nhà nước về hệ số hiệu
quả. Nó được xem như là mức lãi suất mà Nhà nước dùng để đánh giá hiệu
quả kinh tế vốn đầu tư của mình.
Hệ số hiệu quả quốc gia như là một công cụ để xem xét và đánh giá hiệu
quả kinh tế trong việc sử dụng vốn của nhà nước. Chức năng kinh tế chủ yếu
của hệ số hiệu quả quốc gia là hỗ trợ cho việc sử dụng các nguồn vốn đầu tư
của nhà nước vào các mục tiêu chủ yếu của xã hội. Nếu hệ số này được xác
định quá thấp sẽ làm cho nhu cầu vốn đầu tư của Nhà nước vượt quá khả năng
cung cấp vì rất nhiều những phương án đạt hiệu quả kinh tế, ngược lại hệ số
này xác định quá cao làm cho rất nhiều phương án đạt được mức hiệu quả cần
thiểt.

Các nhà đầu tư cũng như các doanh nghiệp sẽ xác định cho mình một hệ
sơ hiệu quả thích hợp để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của mình. Hệ số hiệu
quả xét theo quan điểm của các nhà đầu tư được gọi là lãi suất tính tốn tối
thiểu hoặc suất thu lợi tối thiểu.
Suất thu lợi tối thiểu của các nhà đầu tư phụ thuộc vào quan điểm của họ,
nó sẽ khác nhau giữa các nhà đầu tư khác nhau, tuy rằng họ cùng hoạt động
trong một ngành kinh doanh. Cịn hệ sơ hiệu quả xã hội sẽ được xác định như
thế nào cho các doanh nghiệp thuộc các ngành khác nhau. Vấn đề này có
nhiều quan điểm.
Quan điểm thứ nhất cho rằng nhà nước nên áp dụng thống nhất một hệ số
chung cho toàng bộ nền kinh tế quốc dân. (Hệ số đó hoặc là Iam = 0,20 hoặc
Iam = 0,166). Lập luận của những người theo quan điểm này là bất kỳ một
đống vốn nào bỏ ra đều có giá trị như nhau không kể bỏ vào một ngành cụ thể
nào cho nên đều phải cân nhắc trên quan điểm hiệu quả nền kinh tế quốc dân.
Cơ sở để có quan điểm này là sự phát triển khá cao của nên kinh tế kỹ thuật
trong nước mà nhờ đó đã san bằng về cơ bản các khoảng cách giữa các ngành
và các vùng kinh tế trong nước. Nền kinh tế đã được khai thác tốt về chiều
rộng và đang chuyển sang khai thác chủ yếu về chiều sâu.
Quan điểm thứ hai bao gồm nhiều nước (chủ yếu là các nước XHCN) cho
rằng cần có các hệ số hiệu quả quốc gia khác nhau cho các nhóm ngành kinh
tế khác nhau. Chẳng hạn trong phương pháp mẫu đãnh giá hiệu quả kinh tế
vốn đầu tư cơ bản của Liên Xô (cũ) ban hành lần thứ hai ngày 16/6/1979 đã
quy định hệ số hiệu quả quốc gia như sau:
Tính chung cho tồn nên kinh tế quốc dân: Iam = 0,14
Trong công nghiệp
: Iam = 0,16
Trong nông nghiệp
: Iam = 0,07
Trong giao thông bưu điện
: Iam = 0,05

Trong xây dựng cơ bản
: Iam = 0,22
12


Trong thương nghiệp chế biến cung ứng
Vật tư kỹ thuật và trong các ngành khác : Iam = 0,25
Cơ sở lập luận của các nước theo quan điểm thứ hai là trong điều kiện
cón tồn tại sự chênh lệch lớn về sự phát triển giữa các ngành kinh tế, giữa các
lãnh thổ trong nước thì khơng thể áp dụng thống nhất một hệ số hiệu quả quốc
gia, bởi vì các vùng kém phát triển không bao giờ được chọn để bỏ vốn đầu tư
vì hiệu quả là thấp kém, chẳng hạn các vùng nông thôn, miền núi, hẻo lánh,
hải đảo, … Luôn luôn bị gạt bỏ khi đêm so sánh hiệu quả vốn đầu tư.
Quan điểm thứ ba: Thực chất là kết hợp giữa quan điểm thứ nhất và quan
điể thứ hai. Theo quan điểm này, hệ số hiệu quả quốc gia nên được tính tốn
thống nhất cho tồn bộ nền kinh tế quốc dân nhằm mục đích nâng cao hiệu
quả đồng vốn của nhà nước, đồng thời trong một số ngành hoặc khu vực đặc
biệt phù hợp với đường lối phát triển kinh tế trong mỗi thời kỳ, nên áp dụng
một hệ số mang tính chất khuyến khích. Hệ số này bằng hệ số hiệu quả chung
trừ đi một mức độ khuyến khích nào đó.
Cơ sở của lập luận này là sự kết hợp giứa phát triển kinh tế và chính sách
xã hội của nhà nước. Các chuyện gia về lĩnh vực lập và đánh giá dự án thiên
về quan điểm thứ ba này.
Các định mức hiệu quả khác
Việc tính tốn hiệu quả của một phương án nào đo chịu ảnh hưởng của rất
nhiều thơng số khác ngồi hệ sô hiệu quả định mức (Iam) như đã xem xét ở
trên. Có thể kể đến những nhóm thơng số đó là:
• Hệ số định mức kinh tế - kỹ thuật: Chừng nào hệ thống này chưa
được nhà nước ban bạn hành chính thức, thống nhất, khoa học, hợp
lý, tiên tiến trong phạm vi tồn quốc thì chừng đó chưa có đủ tiền đề

tối thiểu để đánh giá hiệu quả của một phương án này hay phương
án khác. Muốn có hiệu quả, người xây dựng dự án chỉ cần tăng hoặc
giảm các định mức kinh tế kỹ thuật là đủ, nhà nước khơng có cơ sở
kiểm tra. Hệ thống định mứcc kinh tê – kỹ thuật được nhà nước
quan tâm, đặc biệt nhà nước XHCN.
Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, ý nghĩa của hệ thống định mức
kinh tế kỹ thuật trong việc tính tốn hiệu quả kinh tế vẫn còn nguyên giá trị,
đặc biệt đối với khu vực kinh tế nhà nước.
• Hệ thống giá cả: Kết quả và chi phí trong tính tốn hiệu quả khơng
thể chỉ bằng đơn vị hiện vật mà chủ yếu bằng đơn vị giá trị. Muốn
vậy phải thông qua giá cả. Hệ thống giá cả chính xác là nhân tố
quyết định trong tính toán hiệu quả kinh tế của các phương án, đặc
biệt trong tính tốn hiệu quả kinh tế quốc dân nhằm xác định chính
xác giá trị xã hội của các dự án đầu tư.

13


• Tỷ giá hối đoái: Đây cũng là phạm trù nằm trong hệ thống giá cả
nhưng có ỹ nghĩa đặc biệt trong tính tốn hiệu quả kinh tế các dự án
đầu tư có liên quan đến các hoạt động kinh tê đối ngoại.
Giá cả thường được tính tốn theo đồng tiền trong nước, nhưng trong hoạt
động kinh tế đối ngoại, giá cả được tính tốn theo đồng tiền nước ngồi
(ngoại tệ). Nhiệm vụ đặt ra là phải quy đổi tiền ngoại tệ thành tiền trong nước
và ngược lại. Việc quy đổi này thơng qua tỷ giá hối đối.
Thực chất của tỷ giá hối đoái là giá cả của ngoại tệ hoặc đồng tiền trong
nước. Tỷ giá hối đoái được dùng trong tính tốn hiệu quả kinh tế doanh
nghiệp là tỷ giá hối đối chính thức (theo thị trường) cịn trong tính tốn hiệu
quả kinh tế quốc dân là tỷ giá hối đoái xã hội (giá cả xã hội). Tỷ giá này
khơng chỉ phản ánh tỷ giá thị trường mà cịn phản ánh tình hình cán cân thanh

tốn và chiến lược phát triển kinh tế đất nước.
Tỷ giá hối đoái xã hội với nghĩa là một trong những định mức hiệu quả
kinh tế quốc dân là hạn mực tỷ giá hối đối do Nhà nước đặt ra nhằm tính
tốn hiệu quả kinh tế quốc dân.
Tỷ giá hối đoái xã hội là công cụ quan trọng trong tay nhà nước để thực
hiện chính sách kinh tê xã hội trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại.
Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau trong việc xác định tỷ giá hối đoái
với nghĩa là định mức hiệu quả kinh tế quốc dân.

II.Vốn kinh doanh và vai trò của vốn kinh doanh
1.Vốn và nguồn vốn kinh doanh
1.1.Khái niệm về vốn
Vốn là phạm trù kinh tế, là điều kiện tiêm quyết cho bất cứ loại hình nào
của doanh nghiệp, ngành nghề kinh tế kỹ thuật nào. Vậy vốn là gì?
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về vốn, mỗi quan điểm đều có cách tiếp
cận riêng. Theo quan điểm của Marx: Vốn là giá trị đem lại giá trị thặng dư,
là một đầu vào của quá trình sản xuất. Các nhà kinh tế học đại diện cho
trường phái kinh tế khác nhau cũng có quan điểm khác nhau về vốn. Theo
quan điểm Psammuelson: Vốn là những hàng hóa được sản xuất ra để phục
vụ cho quá trình sản xuất mới, là đầu vào cho hoạt động sản xuất kinh doanh
của một doanh nghiệp. Trong cuốn sách”Kinh tế học” của D.Begg tác giả đã
đưa ra hai định nghĩa về vốn hiện vật và vốn tài chính của doanh nghiệp. Vốn
hiện vật là dự trữ các hàng hóa đã sản xuất ra để sản xuất các hàng hóa khác,
vốn tài chính là tiền và các giấy tờ có giá của doanh nghiệp.
Các quan điểm về vốn ở trên tuy thể hiện được vai trò tác dụng trong
những điều kiện lịch sử cụ thể với các yêu cầu, mục đích nghiên cứu cụ thể
nhưng vẫn bị hạn chế bởi sự đồng nhất vốn với tài sản của doanh nghiệp.
Thực chất vốn là biểu hiện bằng tiền, là giá trị tài sản mà doanh nghiệp đang
nắm giữ. Vốn là tài sản, là hai mặt giá trị và hiện vật của một bộ phận nguồn
14



lực sản xuất mà doanh nghiệp huy động vào quá trình hoạt động sản xuất kinh
doanh của mình.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, vốn được quan niệm là một lượng
tiền nào đó đã được đưa vào sử dụng trong hoạt động sản xuất kinh doanh
hay quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội với tư cách là phương tiện tạo ra
giá trị tăng thêm cho cá nhân và xã hội. Khái niệm này không những chỉ ra
vốn là yếu tố đầu vào của sản xuất mà cịn đề cập đến sự tham gia của vốn
khơng chỉ bó hẹp trong một q trình sản xuất riêng biệt, chia cắt mà trong
tồn bộ mọi q trình sản xuất và tái sản xuất lên tục trong xuốt thời gian tồn
tại của doanh nghiệp. Để tiến hành sản xuất kinh doanh, bất kỳ một doanh
nghiệp nào cũng phải đòi hỏi có một lượng vốn nhất định nhằm thực hiện các
khoản đầu tư cần thiết ban đầu như: Chí phí thành lập doanh nghiệp, chi phí
mua nguyên vật liệu, trả tiền cơng, lãi vay, chi phí tiền th mặt bằng sản
xuất…Đồng thời đầu tư cơng nghệ mua sắm máy móc thiệt bị để tái sản xuất
mở rộng, phát triển doanh nghiệp. Do vậy vốn đưa vào sản xuất kinh doanh
có nhiều hình tái vật chất khác nhau để từ đó tạo ra hàng hóa dịch vụ nhằm
tiêu thụ trên thị trường. Số tiền doanh nghiệp thu về sau quá trình tiêu thụ
phải bù đắp được các chi phí bỏ ra và có lãi. Khi đó, số tiền vốn ban đầu thu
được tăng thêm nhờ hoạt động sản xuất kinh doanh và có lãi. Q trình này
diễn ra liên tục đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Như vậy vốn là yếu tố có tính chất quyết định trong hoạt động sản xuất
kinh doanh. Điều đó địi hỏi các doanh nghiệp phả quản lý và sử dụng vốn có
hiệu quả để bảo toàn và phát triển vốn đảm bảo cho doanh nghiệp ngày càng
lớn mạnh. Việc nhận thức đầy đủ hơn về vốn cũng như đặc trưng của vốn
giúp doanh nghiệp hiểu rõ tầm quan trọng và giá trị của đồng vốn để sử dụng
nó một cách hiệu quả. Sau đây là các đặc trưng cơ bản của vốn:
• Vốn phải được đại diện cho một lượng tài sản nhất định, có nghĩa là
vốn phải được biểu hiện bằng giá trị của tài sản hữu hình và tài sản

vơ hình của doanh nghiệp.
• Vốn phải được tích tụ và tập trung đến một lượng nhất định mới có
thể phát huy tác dụng để đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
• Vốn có giá trị về mặt thời gian điều này có ý nghĩa lớn khi bỏ vốn
vào đầu tư và tính hiệu quả sản xuất sử dụng của đồng vốn.
• Vốn phải được gắn liền với chủ sở hữu nhất định, khơng thể có
đồng vốn vơ chủ và khơng có ai quản lý.
• Vốn được quan niệm như hàng hóa và là một hàng hóa đặc biệt có
thể mua bán quyền sử dụng vốn trên thị trường, tạo lên sự giao lưu
sôi động trên thị trường, vốn thị trường tài chính.
• Vốn khơng chỉ biểu hiện bằng tiền của các tài sản hữu hình mà cịn
được biểu hiện bằng tiền của những tài sản vơ hình.
15


Trong doanh nghiệp vốn là biểu hiện bằng tiền của tất cả các tài sản dùng
trong sản xuất kinh doanh. Thơng thường,trong các doanh nghiệp có hai loại
tài sản: Tài sản lưu động và tài sản cố định. Do đó, kết cấu của tài sản cố định
cũng chính là kết cấu của vốn cố định và kết cấu của tài sản lưu động cũng
chính là kết cấu của vốn lưu động. Đồng thời quản lý và sử dụng có hiệu quả
vốn cũng chính là quản lý và sử dụng có hiệu quả tài sản của doanh nghiệp.
1.2.Nguồn vốn
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp có thể được hình thành từ nhiều nguồn
khác nhau. Tuy nhiên mỗi loại hình doanh nghiệp cũng chỉ có thể khai thác,
huy động vốn trên một số nguồn nhất định. Vì thế người ta có thể căn cứ vào
nguồn hình thành vốn kinh doanh của doanh nghiệp để nhận biết doanh
nghiệp đó thuộc loại nào, như doanh nghiệp có vốn kinh doanh chủ yếu thuộc
nguồn vốn ngân sách nhà nước thì đó là doanh nghiệp nhà nước, hoặc một số
doanh nghiệp khác có vốn kinh doanh từ nguồn vốn kinh doanh tự có hay cổ
phần thì đó là doanh nghiệp tư nhân hay một công ty cổ phần.

Như vậy qua trên cho ta thấy:
Để tiến hành bất kỳ một hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng đều phải
có một lượng vốn nhất định có sẵn. Khác với thời kỳ bao cấp, trong nền kinh
tế thị trường lượng vốn đó khơng phải là có sẵn mà trong đó các doanh nghiệp
phải chủ động khai thác, thu hút vốn trên thị trường tài chính.
Mục đích vận động của vốn là để sinh lời. Trong quá trình vận động đồng
vốn có thể thay đổI hình thái biểu hiện, nhưng điểm xuất phát và điểm cuốI
cùng của vịng tuần hồn phải là giá trị, là tiền.
Vì vậy khi đồng tiền không luân chuyển được, vật tư thiết bị chậm luân
chuyển thì chỉ là “vốn chết”. Mặt khác tiền có vận động nhưng lại bị thất tán,
không quay về nơi xuất phát với giá trị lớn hơn thì đồng vốn bỏ ra khơng
được bảo tồn, chu kỳ vận động tiếp theo sẽ bị ảnh hưởng.
2.Phân loại vốn kinh doanh của doanh nghiệp
Để nhận biết được đúng đắn và đầy đủ về những hình thức tồn tại của vốn
kinh doanh, người ta phải tiến hành phân loại vốn kinh doanh theo những tiêu
thức khác nhau, để từ đó có thể quản lý và khai thác triệt để vốn, cũng như
việc phát triển tiềm năng về vốn.
2.1.Phân loại vốn theo nguồn hình thành
Theo cách phân loại này thì vốn kinh doanh của doanh nghiệp gồm có:
Nguồn vốn chủ sở hữu, nguồn vốn vay, các nguồn vốn khác.
• Nguồn vốn chủ sở hữu: Là nguồn vốn kinh doanh được đầu tư từ
các chủ doanh nghiệp. Nguồn vốn này doanh nghiệp hồn tịan có
quyền chủ động sử dụng vào mục đích kinh doanh. Đối với doanh
nghiệp nhà nước thì vốn chủ sở hữu được hình thành từ ngân sách
và một phần đựợc trích từ lợi nhuận của doanh nghiệp, công ty cổ

16


phần thì do các cổ đơng đóng góp, cịn doanh nghiệp tư nhân thì có

chủ doanh nghiệp bỏ ra…
• Nguồn vốn vay: Là vốn mà doanh nghiệp được khai thác trên cơ sở
chế độ, chính sách của nhà nước như: Vay ngân hàng, vay của các
tổ chức tín dụng…Và phải trả lãi suất theo quy định của ngân hàng
hoặc theo thỏa thuận với chủ nợ. Các khoản vốn này các doanh
nghiệp tạm thời sử dụng trong thời gian nhất định. Ngồi ra việc
phát hành trái phiếu cũng là hình thức vay vốn, cho phép các doanh
nghiệp có thể thu hút rộng rãi số tiền nhàn rỗi để mở rộng hoạt động
kinh doanh sản xuất của minh.
• Các nguồn vốn khác bao gồm các loại vốn được hình thành như:
Liên doanh, bán cổ phần…
Việc phân loại này giúp cho nhà quản lý biết được khả năng tự chủ về tài
chính của doanh nghiệp, biết được đặc điểm tính chất của từng nguồn vốn. Từ
đó để khai thác và huy động vốn cho phù hợp.
2.2.Phân loại theo đặc điểm chu chuyển
2.2.1.Vốn cố định
a.Khái niệm và đặc điểm của vốn cố định.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, sự vận động của vốn cố định được
gắn liền với hình thái biểu hiện vật chất của nó là tài sản. Vì vậy việc nghiên
cứu về vốn cố định trước hết phải dựa trên cơ sở về tài sản cố định.
Tài sản cố định: Là những tư liệu lao động có giá trị lớn, được tham gia
một cách trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong q trình đó, giá trị của tài sản cố định không bị tiêu hao hồn tồn
trong lần sử dụng đầu tiên mà nó được chuyển dịch dần dần từng phần vào giá
trị sản phẩm của các chu kỳ sản xuất tiếp theo.
Để nhận biết tài sản cố định ta có tiêu chuẩn:
• Chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ tài sản này.
• Phải xác định rõ ràng nguyên giá của tài sản này.
• Có thời gian sử dụng một năm trở lên.
• Phải đạt giá trị tối thiểu ở một mức quy định(Việt Nam là 10 triệu

VNĐ).
Vậy vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư ứng
trước về tài sản cố định, mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần trong
nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh và hồn thành một vịng tuần hoàn khi tài
sản cố định hết thời gian sử dụng.
Trong nền sản xuất hàng hóa, để mua sắm, xây dựng tài sản cố định trước
hết phải có một số vốn ứng trước, là khoản vốn ứng trước về tài sản cố định,
quy mô của vốn cố định sẽ quyết định quy mô của tài sản cố định. Song đặc
điểm vận động của tài sản cố định lại quyết định đến đặc điểm tuần hoàn của
chu chuyển vốn cố định. Vốn cố định vận động trong sản xuất kinh doanh
17


đựơc khái quát: Tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất, được luân chuyển dần
dần từng phần, sau thời gian dài vốn cố định mới hồn thành một vịng ln
chuyển vốn. Qua đó có thể thấy được thời gian chu chuyển vốn cố định rất
dài. Vì vậy, doanh nghiệp vừa phải quản lý giá trị tài sản cố định, vừa phải
quản lý thời gian sử dụng chúng sao cho hợp lý.
Ta thấy một điều rõ rằng tài sản cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản
xuất kinh doanh, nhìn chung khơng bị thay đổi về hình thái hiện vật, trong
q trình đó giá trị của tài sản cố định khơng bị tiêu hao hồn tồn trong lần
sử dụng đầu tiên mà nó được chuyển dịch dần dần từng phần vào giá thành
sản phẩm của chu kỳ tiếp theo. Có hiện tượng đó là do q trình tham gia vào
sản xuất tài sản cố định đã bị hao mịn.
Có hai loại hao mịn: Hao mịn hữu hình và hao mịn vơ hình.
• Hao mịn hữu hình: Là sự giảm tuyệt đối cả về mặt giá trị của tài sản
cố định và giá trị sử dụng do quá trình phục vụ sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp và do sự tác động của yếu tố tự nhiên.
• Hao mịn vơ hình: Là sự giảm tương đối cả về mặt giá trị của tài sản
cố định do phát triển khoa học kỹ thuật và sự hoàn thiện đạt được

trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh.
Tóm lại, vốn cố định là cơ sở vật chất cho quá trình sản xuất của doanh
nghiệp. Doanh nghiệp khơng thể bắt đầu q trình sản xuất kinh doanh nếu
khơng có đầy đủ trang thiết bị cần thiết. Kết hợp với trình độ, khả năng quản
lý, vốn cố định quyết định năng lực sản xuất của doanh nghiệp và góp phần
chính trong việc xác lập vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. Khơng
những nó có ý nghĩa cho q trình sản xuất hiện tại,vốn cố định cịn thể hiện
khả năng hướng phát triển của doanh nghiệp trong tương lai.
b.Phân loại vốn cố định
Phân loại vốn cố định là việc phân chia toàn bộ tài sản cố định hiện có của
doanh nghiệp theo những tiêu thức nhất định nhằm phục vụ cho những yêu
cầu quản lý của doanh nghiệp.
b.1.Phân loại tài sản cố định theo hình thái biểu hiện:
Có tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vơ hình.
• Tài sản cố định hữu hình là những tư liệu lao động chủ yếu có hình
thái vật chất cụ thể, có giá trị lớn và thời gian sử dụng lâu dài, tham
gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh nhưng vẫn giữ nguyên hình thái
giá trị vật chất ban đầu như nhà cửa, vật kiến trúc, máy móc thiết bị.
• Tài sản cố định vơ hình là những tài sản khơng có hình thái vật chất
cụ thể, thể hiện một lượng giá trị lớn đã đầu tư có liên quan và phát
huy tác dụng trong nhiều kỳ kinh doanh của doanh nghiệp như: Chi
phí thành lập doanh nghiệp, chi phí về phát minh sáng chế, bản
quyền tác giả, chi phi sử dụng đất.

18


Ngồi hai loại tài sản cố định trên cịn có tài sản cố định vơ hình khác như:
Quyền doanh nghiệp, uy tín của doanh nghiệp, quền, độc quyền. Vì vậy tài
sản cố định vơ hình có thể tăng lên theo thời gian và cũng có thể mất đi trong

chốc lát.
Trong nền kinh tế thị trường, do sự tác động của các quy luật kinh tế thị
trường và để nâng cao khả năng cạnh tranh thì các doanh nghiệp phải đầu tư
những khoản chi phí lớn cho phần tài sản vơ hình, những chi phí này phải
quản lý thu hồi dần như những chi phí khác để tái đầu tư tài sản cố định mới.
Việc phân loại tài sản cố định theo tiêu thức kể trên sẽ giúp doanh nghiệp
thấy được cơ cấu vốn đầu tư vào tài sản cố định theo hình thái biểu hiện. Từ
đó có thể đưa ra các quyết định đầu tư, sử dụng tài sản cố định hay điều chỉnh
cơ cấu này sao cho phù hợp và có hiệu quả nhất.
b.2.Phân loại theo mục đích sử dụng
Tài sản cố định sử dụng cho mục đích kinh doanh: Là các tài sản do doanh
nghiệp sử dụng trong các lĩnh vực khác nhau nhưng nhằm mục đích kinh
doanh.
Tài sản cố định sử dụng cho mục đích phúc lợi, sự nghiệp, an ninh, quốc
phòng.
Tài sản cố định bảo quản hộ, giữ hộ.
Việc phân loại như trên giúp cho doanh nghiệp biết được kết cấu tài sản cố
định theo mục đích sử dụng, từ đó có biện pháp quản lý, sử dụng và trích
khấu hao thích hợp và có hiệu quả nhất.
b.3.Căn cứ vào công dụng kinh tế: Tài sản cố định chia thành các loại sau:
Nhà cửa, vật kiến trúc.
Máy móc, thiết bị.
Phương tiện vận tải, thiết bị truyền dẫn.
Thiết bị dụng cụ quản lý.
Vườn cây lâu năm, súc vật làm việc.
b.4.Căn cứ vào tình hình sử dụng.
Tài sản cố định đang sử dụng tại doanh nghiệp.
Tài sản cố định cho thuê.
Tài sản cố định chưa cần dùng.
Tài sản cố định không cần dùng chờ nhượng bán, thanh lý.

b.5.Căn cứ vào quyền sở hữu
Tài sản cố định thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp: Là những tài sản
cố định được đầu tư bằng nguồn vốn của doanh nghiệp, doanh nghiệp có
quyền sở hữu và sử dụng chúng.
Tài sản cố định không thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp: Là những tài
sản cố định của đơn vị khác nhưng doanh nghiệp được quyền quản lý, sử
dụng theo những điều kiện ràng buộc nhất định như: Tài sản cố định nhận của

19


đối tác liên doanh, tài sản cố định thuê ngoài, tài sản cố định nhận giữ
hộ,quản lý hộ.
Cách phân loại này sẽ giúp cho doanh nghiệp lắm bắt được tình hình và cơ
cấu tài sản cố định theo quyền sở hữu, từ đó có thể đưa ra các biện pháp quản
lý, sử dụng và trích khấu hao thích hợp.
2.2.2.Vốn lưu động
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, ngoài sức lao động, tư liệu
lao động, doanh nghiệp còn cần phải có đối tượng lao động. Đối tượng lao
động khác với tư liệu lao động là khi tham gia vào q trình sản xuất nó
khơng giữ ngun hình thái vật chất ban đầu. Bộ phận chủ yếu của đối tượng
lao động sẽ thơng qua q trình sản xuất tạo thành thực thể của sản phẩm, bộ
phận khác sẽ hao phí mất đi trong quá trình sản xuất. Đối tượng lao động chỉ
tham gia vào một chu kỳ sản xuất do đó tồn bộ giá trị của chúng được dịch
chuyển một lần vào sản phẩm và được thực hiện khi sản phẩm đó trở thành
hàng hóa. Bất kỳ hoạt động nào cũng cần cố đối tượng lao động và như chúng
ta đã biết đối tượng lao động chính là tài sản lưu động trong doanh nghiệp.
Từ đặc điểm trên của đối tượng lao động ta có thể rút ra khái niệm về tài
sản lưu động. Tài sản lưu động là những tài sản ngắn hạn và thường xuyên
luân chuyển trong quá trình kinh doanh, tính chất ngắn hạn ở đây chúng ta có

thể hiểu là tài sản lưu động có thể nhanh chóng chuyển thành tiền trong thời
gian ngắn thường là một năm hoặc một chu kỳ kinh doanh. Tài sản lưu động
có đặc trưng là ln ln thay đổi hình thái sử dụng biểu hiện trong quá trình
luân chuyển với tốc độ cao. Nó được chia thành hai bộ phận chính: Một là
những vật dự trữ để đảm bảo cho quá trình sản xuất liên tục, một bộ phận là
vật tư đang trong quá trình chế biến( sản phẩm dở dang, bán thành phẩm…)
cùng với các công cụ dụng cụ phụ tùng thay thế được dự trữ hoặc sử dụng,
chúng tạo thành tài sản lưu động nằm trong khâu lưu thơng, thanh tốn đó là
vật tư phục vụ q trình tiêu thụ, các khoản hàng gửi bán, các khoản phải thu.
Vậy vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền, là số tiền ứng trước về tài sản lưu
động nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp được tiến
hành một cách thường xuyên liên tục. Vốn lưu động được chuyển hóa qua
nhiều hình thái vật chất khác nhau và bị chuyển dịch toàn bộ giá trị sản xuất
( trừ phần vốn lưu thơng ).
Q trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra không ngừng nên
vốn lưu động cũng tuần hồn khơng ngừng mang tính chu kỳ và hồn thành
một vịng tuần hồn sau một chu kỳ sản xuất.
Sự vận động của vốn lưu động được thể hiện bằng sơ đồ sau:
T – H – SX - … - H … - T …
Giai đoạn 1: Doanh nghiệp dùng tiền để mua nguyên vật liệu, công cụ lao
động, vật tư hàng hóa, sức lao động để đưa vào quá trình sản xuất, giai đoạn

20


này vốn chuyển từ hình thái tiền tệ sang hình thái hiện vật. Từ hình thái vốn
bằng tiền chuyển sang hình thái vốn vật tư dự trữ.
Giai đoạn 2: Doanh nghiệp tiến hành đưa các vật tư dự trữ vào sản xuất,
giai đoạn này là cả một quá trình kết hợp các yếu tố của sản xuất để tạo ra sản
phẩm hoặc bán sản phẩm. Từ vốn vật tư dự trữ chuyển thành vốn sản phẩm

dở dang, vốn thành phẩm.
Giai đoạn 3: Thành phẩm qua khâu kiểm nghiệm nhận nhập kho, tiêu thụ
và thu tiền về. Giai đoạn này vốn lưu động chuyển hóa từ hình thái hiện vật
trở về hình thái tiền tệ ban đầu. Trong doanh nghiệp dịch vụ thuần túy với đặc
điểm ngành nghề kinh doanh cụ thể, sự vận động của vốn cũng theo trình tự
như trên nhưng khơng đầy đủ như các giai đoạn trên.
Nói tóm lại, vốn lưu động là điều kiện tiền đề vật chất khơng thể thiếu
được trong q trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nó đảm bảo cho
sự thường xuyên liên tục cho quá trình sản xuất kinh doanh từ các khâu mua
nguyên vật liệu, tiến hành sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Trong quản lý cần
xác định đúng đắn nhu cầu cần thiết của vốn lưu động và nguồn bù đắp, bên
cạnh đó phải thu hồi vốn nhanh và bảo tồn nó. Cần tăng nhanh vịng vốn
quay, tránh ứ đọng lãng phí vốn vì vốn lưu động chu chuyển tuần hồn khơng
ngừng. Vốn lưu động cịn quyết định sự tồn tại, tăng trưởng và phát triển của
doanh nghiệp.
Phân loại vốn lưu động
Xác định kết cấu vốn lưu động góp phần vào việc sử dụng tiết kiệm và có
hiệu quả vốn lưu động, đảm bảo yêu cầu vốn lưu động cho từng khâu, từng bộ
phận từ đó đáp ứng đuợc yêu cầu sản xuất kinh doanh và nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn.
1. Căn cứ vào sự vận động của vốn trong quá trình sản xuất kinh
doanh:
Vốn lưu động trong khâu dự trữ: Vốn này để đảm bảo hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp có thể tiến hành được thường xuyên, liên tục.
Vốn lưu động trong khâu sản xuất: Nhằm đảm bảo cho việc sản xuất được
liên tục. Trong doanh nghiệp thương mại thuần túy thì khơng có bộ phận vốn
ở khâu này.
Vốn lưu động trong khâu lưu thông: Bao gồm vốn thành phẩm, vốn bằng
tiền, vốn trong thanh toán…Nhằm đảm bảo cho việc tiêu thụ hàng hóa hoặc
cung ứng dịch vụ cho khách hàng được thường xuyên.

2. Căn cứ vào hình thái biểu hiện của vốn
Vốn hàng hóa: Là vốn về hàng hóa dự trữ ở các khâu và địa điểm của quá
trình kinh doanh.
Vốn phi hàng hóa: Là số vốn ứng trước về cơng cụ, dụng cụ, bao bì, vật
đóng gói…

21


Vốn trong thanh toán: Là số tiền ứng trước nằm trong q trình thanh tốn
do các phương thức thanh tốn được áp dụng trong q trình tiêu thụ hàng
hóa của doanh nghiệp.
3. Căn cứ vào nguồn hình thành
Vốn lưu động khai thác từ nội bộ doanh nghiệp: Bao gồm vốn ban đầu của
chủ sở hữu và vốn doanh nghiệp tự bổ sung.
Vốn lưu động khai thác từ bên ngoài doanh nghiệp: Bao gồm vốn vay
ngắn hạn của ngân hàng, vốn vay dưới hình thức phát hành trái phiếu và các
khoản vốn vay của các đối tượng khác.
4. Căn cứ vào nội dung kinh tế
Hàng hóa: Là bộ phận tài sản lưu động chiếm tỷ trọng lớn nhất bao gồm
hàng hóa dự trữ trong kho, quầy, hàng mua đang đi đường, hàng gửi bán.
Vốn bằng tiền: Là tài sảm lưu động tồn tại dưới hình thái giá trị bao gồm
tiền mặt tồn quỹ, tiền gửi ngân hàng, tiền tạm ứng.
Công cụ lao động: Là những tư liệu lao động không đủ điều kiện xếp vào
loại tài sản lưu động.
Bao bì, vật đóng gói: Là những bao bì, vật đóng gói mà giá trị của chúng
được tính riêng ra khỏI giá trị hàng hóa.
Chi phí trả trước: Là những khoản chi phí phát sinh một lần tương đối lớn
nhưng có tác dụng phục vụ cho nhiều chu kỳ kinh doanh khác nhau nên người
ta không phân bổ hết vào một lần vào chi phí kinh doanh mà phân bổ dần

nhiều kỳ kinh doanh như chi phí th nhà, th cơng cụ, trả trước theo hợp
đồng…
2.2.3.Nguồn hình thành vốn kinh doanh của doanh nghiệp
Trong điều kiện phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần hiện nay, cơ
cấu hình thành các nguồn vốn của doanh nghiệp rất phong phú đa dạng. Ta có
thể chia thành hai nguồn hình thành đó chính là: Nguồn vốn chủ sở hữu và
nguồn vốn đi vay.
Nguồn vốn chủ sở hữu: Là nguồn vốn thuộc sở hữu của chủ doanh nghiệp,
đó là những khoản vốn mà doanh nghiệp có quyền sử dụng lâu dài trong suốt
thời gian hoạt động. Đây là nguồn vốn do ngân sách nhà nước cấp hoặc có
nguồn gốc từ ngân sách được cấp cho đối với doanh nghiệp nhà nước như:
Chênh lệch giá và các khoản phải nộp nhưng đựơc ngân sách để lại, trích từ
quỹ đầu tư phát triển để bổ xung cho vốn kinh doanh, cịn đối với các doanh
nghiệp tư nhân, cơng ty cổ phần thì nguồn vốn chủ sở hữu là một bộ phận vốn
do xã viên, cổ đơng đóng góp vốn hoặc do chủ doanh nghiệp tư nhân tự bỏ
ra , hoặc chích lợi nhuận bổ xung cho nguồn này.
Nguồn vốn đi vay: Đây là nguồn vốn quan trọng mà doanh nghiệp sử dụng
để đáp ứng nhu cầu về vốn thường xuyên cần thiết trong kinh doanh. Tùy
theo những điều kiện cụ thể mà doanh nghiệp có thể vay vốn ngân hàng, các
tổ chức tín dụng khác, vay vốn của các đơn vị, cá nhân trong và ngoài nước.
22


Mặt khác, việc phát hành trái phiếu và hình thức vay vốn cho phép các
doanh nghiệp có thể thu hút rộng rãi số tiền nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư
để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
3.Vai trị của vốn kinh doanh đối với các doanh nghiệp
Tất cả các hoạt động kinh doanh dù bất kỳ quy mơ nào cũng cần phải có
một lượng vốn nhất định, đó là điều kiện tiền đề cho sự ra đời và phát triển
của các doanh nghiệp.

Về mặt pháp lý: Mỗi doanh nghiệp khi muốn thành lập thì điều kiện đầu
tiên doanh nghiệp phải có lượng vốn nhất định. Khi đó địa vị pháp lý của
doanh nghiệp mới được xác lập, nếu trong quá trình hoạt động kinh doanh
vốn của doanh nghiệp mà không đạt được điều kiện mà pháp luật quy định thì
doanh nghiệp sẽ bị tuyên bố chấm dứt hoạt động như: Phá sản, giải thể…Như
vậy, vốn có thể xem như là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho sự tồn tại tư
cách pháp nhân của doanh nghiệp trước pháp luật.
Về mặt kinh tế: Trong quá trình sản xuất kinh doanh, vốn là một trong
những yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp, để
thấy được vai trò của vốn ta xem xét quá trình sản xuất kinh doanh và các loại
hình doanh nghiệp:
Doanh nghiệp sản xuất: T-H-H’-T’
Doanh nghiệp thương mại: T-H-T’
Các ngân hàng: T-T’
Vốn cũng là yếu tố quan trọng quyết định năng lực sản xuất kinh doanh và
xác lập vị thế kinh doanh của doanh nghiệp trên thị trường. Điều này càng thể
hiện rõ trong nền kinh tế thị trường hiện nay với sự canh tranh ngày càng gay
gắt, các doanh nghiệp phải khơng ngừng cải tiến máy móc thiết bị, đầu tư
hiện đạI hóa cơng nghệ…Tất cả những yếu tố này muốn thực hiện được phải
có lượng vốn khá lớn.
Vốn là yếu tố quyết định đến việc mở rộng phạm vi họat động của doanh
nghiệp. Để tiến hành sản xuất và tái đầu tư mở rộng thì sau một chu kỳ kinh
doanh vốn doanh nghiệp phải được bảo toàn và phát triển. Có vốn giúp doanh
nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất, thâm nhập thị trường mới, nâng cao uy tín
của doanh nghiệp trên thương trường.
Như vậy, bất kỳ loại hình doanh nghiệp nào thì khởi điểm của quá trình
sản xuất kinh doanh đều cần phải có một lượng vốn (T) nhất định. Vốn là yếu
tố quyết định trong việc thành lập, hoạt động và phát triển của mọi loại hình
doanh nghiệp, nhưng nó chỉ phát huy tác dụng khi doanh nghiệp biết quản lý,
sử dụng vốn đó hợp lý và có hiệu quả.


III.Hiệu quả quản lý sử dụng vốn kinh doanh
1.Quan điểm về hiệu quả quản lý và sử dụng vốn kinh doanh trong các
doanh nghiệp
23


Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, mục tiêu lâu dài mà mọi doanh
nghiệp quan tâm tới là phát triển doanh nghiệp. Vì thế việc sử dụng vốn có
hiệu quả là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới sự phát triển doanh nghiệp,
nhân tố này thể hiện trực tiếp tới kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Vì
nếu đạt yêu cầu kinh doanh chứng tỏ việc sử dụng vốn có hiệu quả và ngược
lại nếu khơng đạt hiệu quả kinh doanh thì chứng tỏ việc sử dụng vốn là khơng
hợp lý. Bởi vậy ta có thể xem xét hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp dựa
trên hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Hiệu quả kinh doanh là phạm trù kinh tế phản ánh đồng thời các mặt của
quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như: Kết quả kinh doanh,
hiệu quả sử dụng vốn, trình độ sản xuất và trình độ quản lý…Đồng thời nó
địi hỏi sự phát triển doanh nghiệp theo chiều sâu. Vì thế, hiệu quả kinh doanh
là thước đo ngày càng trở lên quan trọng của sự tăng trưởng kinh tế và là chỗ
dựa cơ bản để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Bởi đối với
các doanh nghiệp, hiệu quả sử dụng vốn chính là nhằm tăng uy tín thế lực của
các doanh nghiệp trên thương trường. Bên cạnh đó nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn cịn tạo ra nhiều lợi nhuận, là cơ sở để mở rộng sản xuất kinh doanh nâng
cao đời sống cho nhân viên.
Do vậy, hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản
ánh đầu vào và đầu ra của q trình sản xuất kinh doanh thơng qua các thước
đo tiền tệ hay cụ thể là mối quan hệ giữa kết quả thu được với chi phí bở ra để
thực hiện nguồn vốn sản xuất kinh doanh.
Ta có chỉ tiêu tổng quát như sau:

Kq
Hv=
V
Trong đó:
Hv: Là hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
Kq: Kết quả của sản xuất kinh doanh(giá trị sản xuất, doanh thu, lợi nhuận
trước thuế)
Vsxđ + Vsxc
V : Vốn sản xuất bình qn trong kỳ, trong đó V =
2
Vsxđ: Vốn sản xuất đầu kỳ.
Vsxc: Vốn sản xuất cuối kỳ.
Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tỷ lệ thuận với kết quả kinh doanh và tỷ
lệ nghịch với vốn kinh doanh. Kết quả thu lại được ngày càng cao so với chi
phí bỏ ra thì hiệu quả sử dụng vốn ngày càng cao.
Doanh nghiệp phải thường xuyên phân tích đánh giá hiệu quả sử dụng vốn
để nhanh chóng có biện pháp khắc phục những mặt cịn hạn chế và phát huy
những ưu điểm của doanh nghiệp trong quản lý và sử dụng vốn. Việc nâng
24


cao hiệu quả sử dụng vốn là yêu cầu mang tính bắt buộc và thường xuyên đối
với doanh nghiệp.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ đảm bảo an toàn tài chính cho doanh
nghiệp, giúp cho doanh nghiệp huy động nguồn tài chính dễ dàng hơn, khả
năng thanh tốn được đảm bảo và có đủ tiềm lực khắc phục những rủi ro
trong kinh doanh. Để đáp ứng yêu cầu cải tiến công nghệ, nâng cao chất
lượng sản phẩm…Doanh nghiệp phải có vốn, trong khi đó vốn của doanh
nghiệp chỉ có hạn vì vậy nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là cần thiết.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp doanh nghiệp đạt được mục tiêu

tăng giá trị của tài sản chủ sở hữu và các mục tiêu khác của doanh nghiệp
như: Nâng cao uy tín sản phẩm trên thị trường, nâng cao sức sống của người
lao động…Đồng thời nó cũng làm tăng các khoản cho ngân sách nhà nước.
Như vậy, việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp không
những đem lại hiệu quả thiết thực cho doanh nghiệp và ngừơi lao động mà nó
cịn ảnh hưởng đến sự phát triển của cả nền kinh tế xã hội. Do đó, các nhà
doanh nghiệp phải ln tìm kiếm các biện pháp phù hợp để nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn của doanh nghiệp.
2.Các tiêu chí về cơng việc quản lý hiệu quả và các chỉ tiêu đánh giá hiệu
quả sử dụng vốn kinh doanh
Các chỉ tiêu đánh giá hiêu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp
được rút ra trên cơ sở so sánh tương đối kết quả đạt được với lượng vốn kinh
doanh bỏ ra trong kỳ. Hầu hết các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn
kinh doanh trong doanh nghiệp sẽ được xây dựng dựa vào nguyên tắc trên với
việc cụ thể hóa kết quả và vốn kinh doanh bằng các chỉ tiêu sát thực.
Điểm mấu chốt trong phân tích và đánh giá hiệu quả sử dụng vốn là kết
quả thu được từ việc tính tốn các chỉ tiêu, nó được biểu hiện bằng các con số
hết sức cụ thể, có thể nói tới đây kết quả đã được số hóa. Chỉ có thể đánh giá
được kết quả kinh doanh của doanh nghiệp bằng con số cụ thể, bằng các biện
pháp chuyên mơn, nghiệp vụ phân tích so sánh… Rồi rút ra kết luận hiệu quả
sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Từ việc đánh giá hiệu quả kinh
doanh xem xét mối quan hệ giữa các đại lượng từ đó tìm ra biện pháp nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh trong doanh nghiệp. Từ việc đánh giá
hiệu quả kinh doanh xem xét mối quan hệ giữa các đại lượng từ đó tìm ra các
biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh trong doanh nghiệp. Cụ
thể là làm sao để sử dụng một cách hợp lý các nguồn lực để tao ra kết quả cao
nhất đồng thời với các biện pháp tiết kiệm và sử dụng hợp lý vốn kinh doanh.
Chỉ có sử dụng hệ thống chỉ tiêu ta mới có thể có được những con số cần thiết
cho việc phân tích và đánh giá, giúp ta rút ra những kết luận cụ thể từ đó đưa
ra các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.

2.1. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định trong doanh
nghiệp
25


×