mở đầu
Tính cấp thiết của đề tài:
Hệ thống Ngân hàng Việt Nam đã trải qua quá trình 52 năm xây dựng, trởng
thành và phát triển, ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với công cuộc công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nớc. Trong bối cảnh Việt Nam đang tích cực hội nhập quốc tế
và khu vực, những năm gần đây bên cạnh những thành tựu đã đạt đợc, nền kinh tế thị
trờng đã bộc lỗ những mặt trái của nó, nhiều vấn đề mới nảy sinh cần phải nghiên cứu
trong hoạt động của Ngân hàng. Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng cũng không
trảnh khỏi sự tác động bởi những mặt trái của thị trờng.
Kinh doanh dịch vụ tiền tệ, tín dụng Ngân hàng là một ngành kinh doanh đặc
biệt và chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Tuy nhiên trong nền kinh tế thị trờng hiện nay
làm thế nào để hạn chế thấp nhất rủi ro tín dụng quả là một bài toán nan giải. Do đó,
việc nâng cao tính khả thi của chiến lợc phòng chống và quản lý rủi ro có một ý nghĩa
quan trọng đối với các Ngân hàng thơng mại Việt Nam. Nó tạo điều kiện cho các
Ngân hàng Thơng mại hoạt động kinh doanh đợc an toàn, hiệu quả hơn trong bối
cảnh Việt Nam đang trên con đờng hội nhập với nền kinh tế thế giới.
Trong quá trình nghiên cứu lý luận và thực tiễn công tác tại Ngân hàng Đầu t và
Phát triển Hà Giang, xuất phát từ nhận thức về rủi ro và tác động xấu của nó đối với
Ngân hàng cũng nh đối với nền kinh tế, tôi đã đi sâu vào tìm hiểu và lựa chọn đề tài
"Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa và hạn chế
rủi ro tín dụng trong hoạt động Ngân hàng tại Chi nhánh Ngân hàng
Đầu t và Phát triển Hà Giang".
Đối t ợng, phạm vi và mục đích nghiên cứu của đề tài:
Rủi ro trong kinh doanh là không thể tránh khỏi, đặc biệt là rủi ro trong hoạt
động kinh doanh của Ngân hàng có phản ứng dây chuyền, lây lan và ngày càng có
biểu hiện phức tạp. Sự sụp đổ của Ngân hàng ảnh hởng tiêu cực đến toàn bộ đời sống
- kinh tế - chính trị và xã hội của đất nớc. Rủi ro trong hoạt động Ngân hàng là một
phạm trù rất rộng và phức tạp. Do vậy trong luận văn này tôi chỉ nghiên cứu thực
trạng rủi ro mất vốn trong hoạt động tín dụng Ngân hàng tại Chi nhánh
Ngân hàng Đầu t và Phát triển Hà Giang trong thời gian qua và đề xuất một số giải
pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh
doanh của Chi nhánh Ngân hàng Đầu t và Phát triển Hà Giang.
Nhiệm vụ của đề tài: Hệ thống hoá và làm rõ thêm về rủi ro trong kinh doanh
tiền tệ, tín dụng của các Ngân hàng Thơng mại, đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế
thị trờng; phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng Đầu t
và Phát triển Hà Giang và các rủi ro của Chi nhánh Ngân hàng Đầu t và Phát triển Hà
Giang. Từ đó đề xuất các giải pháp phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh tín dụng của
Chi nhánh Ngân hàng Đầu t và Phát triển Hà Giang.
Phơng pháp nghiên cứu: Sử dụng các phơng pháp thống kê, lịch sử, duy vật,
liệu chứng và phân tích, tổng hợp để làm rõ những nội dung cơ bản của đề tài cân
nghiên cứu.
Kết cấu: Ngoài lời mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung luật văn gồm
3 chơng:
Chơng 1: Một số vấn đề lý luận về rủi ro và phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong
hoạt động tín dụng của các Ngân hàng Thơng mại.
Chơng 2: Thực trạng kinh doanh tín dụng và những biện pháp để phòng ngừa
và hạn chế rủi ro tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu t và Phát triển Hà Giang.
Chơng 3: Định hớng và giải pháp phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong hoạt
động tín dụng của Chi nhánh Ngân hàng Đầu t và Phát triển Hà Giang.
Đề tài này đợc hoàn thành là nhờ sự tận tình của các thầy, cô giáo Học viện
chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và của Ban lãnh đạo, các cán bộ Chi nhánh Ngân
hàng Đầu t và Phát triển Hà Giang.
Xin chân thành cảm ơn thầy cô hớng dẫn, tiến sĩ Đặng Ngọc Lợi, các giáo viên
khoa Quản lý kinh tế và Ban lãnh đạo, cán bộ công nhân viên Chi nhánh Ngân hàng
Đầu t và Phát triển Hà Giang đã tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành đề tài luận văn tốt
nghiệp.
chơng 1
Một số vấn đề lý luận chung về rủi ro và phòng ngừa,
hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng của các
Ngân hàng thơng mại
___________
1.1- Rủi ro tín dụng, sự cần thiết phải phòng ngừa và hạn chế rủi ro
tín dụng của Ngân hàng thơng mại trong nền kinh tế thị trờng:
1.1.1- Sự ra đời của Ngân hàng thơng mại ở Việt Nam:
Việt Nam là một nớc nông nghiệp lạc hậu, thơng mại kém phát triển nên
đến mãi thế kỷ XIX mới xuất hiện Ngân hàng đầu tiên: Ngân hàng Đông Dơng của
Pháp, Ngân hàng này hoạt động phục vụ cho ý đồ thống trị của Thực dân Pháp ở
Đông Dơng. Tên gọi có thay đổi nhng chức năng vẫn là quản lý Nhà nớc về tiền tệ
- tín dụng ngân hàng, chịu trách nhiệm phát hành tiền quốc gia và các nghiệp vụ
tiền tệ, tín dụng và Ngân hàng.
Đến tháng 5 năm 1951 Hồ Chủ tịch ký sắc lệnh thành lập Ngân hàng quốc
gia Việt Nam.
Thực hiện đờng lối đổi mới toàn diện của Đảng, ngành Ngân hàng đã đi đầu
trong sự nghiệp vĩ đại này. Đánh dấu sự đổi mới của Ngân hàng là sự ra đời Nghị
định 53 của HĐBT, tháng 7/1988 chuyển hệ thống Ngân hàng từ hệ thống một cấp
thành hệ thống Ngân hàng hai cấp. Trong đó Ngân hàng Nhà nớc làm nhiệm vụ
quản lý và các Ngân hàng chuyên doanh thực hiện kinh doanh tiền tệ, tín dụng và
Ngân hàng.
Tuy nhiên cho đến năm 1990 khi hai sắc lệnh Ngân hàng ra đời thì sự
nghiệp đổi mới Ngân hàng thực sự đi vào chiều sâu, chức năng quản lý nhà nớc
của Ngân hàng nhà nớc và chức năng kinh doanh của Ngân hàng thơng mại thực sự
đợc quy định rõ ràng. Ngân hàng Nhà nớc cấp chỉ đạo quản lý trên bình diện cả n-
ớc về tín dụng, thanh toán Ngân hàng cả về đối nội và đối ngoại, Ngân hàng Thơng
mại là cấp trực tiếp làm nghĩa vụ giao dịch đối với các doanh nghiệp và tổ chức
kinh tế để làm nhiệm vụ kinh doanh tiền tệ.
Ngân hàng thơng mại là một tổ chức kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ mà
hoạt động chủ yếu và thờng xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm
hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm
phơng tiện thanh toán.
1.1.2 - Ngân hàng - một trung gian tài chính:
Để hiểu đợc chức năng đặc biệt của Ngân hàng trong nền kinh tế, chúng ta
hãy hình dung một thế giới giản đơn trong đó không có tồn tại hoạt động của hệ
thống Ngân hàng. Trong một thế giới nh vậy, những khoản tiền tiết kiệm của dân
chúng chỉ có thể đợc sử dụng hoặc là dới dạng tiền mặt; hoặc là dới dạng đầu t
chứng khoán vào các công ty. Nói một cách khái quát, các công ty phát hành
chứng khoán để đầu t vào tài sản thực: nh nhà xởng, máy móc, nguyên liệu v.v...
Trong một thế giới không có Ngân hàng thì quy mô các nguồn vốn từ những
ngời tiết kiệm chuyển đến các công ty nhìn chung là rất thấp. Lý do có thể nêu ra
nh sau:
- Chi phí để giám sát trực tiếp hoạt động của công ty là rất tốn kém. Khi dân
chúng mua chứng khoán của công ty, họ phải giám sát đợc mọi hoạt động kinh
doanh của công ty và họ phải đợc đảm bảo rằng tình trạng tài chính của công ty là
lành mạnh và công ty không che dấu và lãng phí tiền vốn trong bất kỳ dự án đầu t
nào. Để có thể giám sát đợc hoạt động của công ty, những ngời đầu t chứng khoán
phải dành nhiều thời gian và tiền bạc vào việc thu nhập, phân tích và xử lý thông
tin về tình hình tài chính và hoạt động kinh doanh của công ty. Với những yêu cầu
phải giám sát hoạt động của công ty nh vậy thì quả là tốn kém đối với những ngời
đầu t chứng khoán vào công ty. Do đó, họ muốn uỷ quyền việc giám sát cho những
ngời khác. Và nh vậy, họ đã một phần hay hoàn toàn từ bỏ việc giám sát trực tiếp
hoạt động của công ty nên việc nắm giữ cổ phiếu và trái phiếu công ty trở nên kém
hấp dẫn và chứa đựng tiềm ẩn rủi ro rất cao, điều này làm giảm động lực của dân
chúng mua chứng khoán của các công ty. Trong thực tế, lo lắng của những ngời
nắm giữa trái phiếu giải toả một phần bằng các điều khoản chặt chẽ đợc quy định
phát hành trái phiếu. Những điều khoản này đã hạn chế công ty phát hành chứng
khoán đối với các dự án chứa đựng tiềm ẩn rủi ro cao. Tuy nhiên, chi phí để giám
sát việc thực thi các điều khoản này là rất tốn kém, đặc biệt là đối với các chứng
khoán dài hạn và các chứng khoán xuất hiện lần đầu hoặc cha quen thuộc
- Với đặc tính dài hạn của cổ phiếu và trái phiếu là nguyên nhân thứ hai làm
nản lòng ngời tiết kiệm mua chứng khoán của công ty. Điều này có thể khiến cho
ngời tiết kiệm u tiên nắm giữ tiền mặt nhằm mục đích thanh khoản hơn là đầu t vào
các chứng khoán dài hạn nhất là khi họ có kế hoạch sử dụng khoản tiết kiệm vào
chi tiêu trong thời gian ngắn.
- Lý do cuối cùng đó là mặc dù trong thực tế, các chứng khoán cha mua bán
trên thị trờng thứ cấp tạo ra một độ thanh khoản nhất định cho tài sản, những nhà
đầu t thờng phải chịu rủi ro biến động giá cả của chứng khoán (nhất là cổ phiếu) và
phải chịu các chi phí chuyển nhợng có liên quan. Điều này dẫn đến thu nhập thực
tế từ việc chuyển nhợng chứng khoán trên thị trờng thứ cấp giảm đáng kể và trong
một số trờng hợp thu nhập còn thấp hơn giá mua chứng khoán ban đầu.
Tóm lại: Những nguyên nhân chính làm cho quy mô các nguồn từ những
ngời đầu t tiết kiệm trực tiếp vào chứng khoán các công ty thấp là do: chi phí để
giám sát hoạt động của công ty là lớn; chi phí chuyển nhợng (thanh khoản) các
chứng khoán công ty rất cao và rủi ro biến động chứng khoán trên thị trờng.
Trong một thế giới mà hệ thống Ngân hàng không tồn tại, thì những nguyên
nhân nêu trên làm cho dân chúng giảm động lực tiết kiệm, tăng chi tiêu hoặc tiết
kiệm ở dạng tiền mặt. Tuy nhiên, chúng ta đang sống trong một thế giới mà ở đó
hệ thống Ngân hàng phát triển mạnh mẽ và đợc coi nh bộ xơng sống của nền kinh
tế. Hệ thống Ngân hàng cung cấp một kênh dẫn vốn gián tiếp từ những ngời có nhu
cầu đầu t đến các công ty. Do tồn tại các nguyên nhân nh nêu trên cho nên ngời
tiết kiệm thờng u tiên gửi tiền vào Ngân hàng hơn là đầu t trực tiếp vào các công
ty.
1.1.3 - Vai trò tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trờng:
Sự ra đời và phát triển của tín dụng ngân hàng:
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã khởi đầu cho cuộc sống đổi mới nền
kinh tế đất nớc chuyển từ cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp
sang cơ chế thị trờng có sự quản lý của nhà nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa.
Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trờng để xây dựng một nền kinh tế
hàng hoá thực sự đòi hỏi các mục tiêu của Chính phủ trong đó phát triển kinh tế là
mục tiêu quan trọng. Bản thân các doanh nghiệp cần vốn để phát triển mở rộng sản
xuất đổi mới công nghệ do đó nhu cầu về vốn đối với chúng ta là rất lớn, nhất là
khi nhà nớc cho phép các nhà kinh doanh đợc tự do đầu t sản xuất trong khuôn khổ
pháp luật dới các hình thức tổ chức kinh tế đa thành phần. Ngoài ra còn có các tổ
chức kinh tế t nhân và hộ gia đình với các hình thức kinh doanh đa dạng và họ
cũng cần phải có vốn đầu t. Nh vậy vấn đề đặt ra là việc cung ứng vốn cho các nhà
đầu t trong nền kinh tế nh thế nào? Điều đó có thể thực hiện đợc bằng nhiều cách
khác nhau thông qua nhiều nguồn nh vốn ngân sách, vốn bản thân các đơn vị kinh
tế, vốn tín dụng, vốn đầu t trực tiếp từ nớc ngoài... Đặc biệt trong đó vốn tín dụng
của các Ngân hàng thơng mại có vai trò quan trọng nhất và chiếm tỷ trọng khá lớn
trong tổng nguồn vốn hoạt động của các doanh nghiệp và các hộ kinh tế gia đình.
Ngân hàng thơng mại là một trung gian tài chính hoạt động trong nền kinh
tế đóng vai trò quan trọng trong việc khơi thông nguồn vốn t những ngời tiết kiệm
những ngời có ý muốn dùng nó và có cơ hội đầu t để sinh lợi. Theo cách này các
Ngân hàng thơng mại đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển một cách năng động và có
hiệu quả hơn. Trong những năm qua bằng các hoạt động của mình hệ thống Ngân
hàng nói chung và các Ngân hàng thơng mại nói riêng đã góp phần tích cực vào
việc đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện, xây dựng và từng bớc hoàn thiện nền
kinh tế thị trờng ở Việt Nam nh: Tạo nền kinh tế phát triển ổn định với mức tăng
trởng cao (đạt ở mức tăng trởng trên dới 9% liên tục trong một số năm gần đây), kiềm
chế và đẩy lùi lạm phát, ổn định tiền tệ...
Nh vậy, ta thấy các Ngân hàng thơng mại giữ một vai trò hết sức quan trọng
trong sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Nó đảm bảo cho qúa trình tái sản xuất
giản đơn và tái sản xuất mở rộng ở các doanh nghiệp, từ đó thúc đẩy tăng trởng
kinh tế, tăng nhanh tốc độ luôn chuyển hàng hoá, tốc độ luôn chuyển tiền tệ trong
nền kinh tế. Ngân hàng có đợc những đóng góp là nhờ ở hoạt động nghiệp vụ của
nó đặc biệt trong đó có hoạt động nghiệp vụ tín dụng.
Có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về tín dụng nh chúng đều có những
nội dung và ý nghĩa tơng đơng nhau. Chúng ta có thể hiểu một cách khái quát
rằng. Tín dụng là sự chuyển nhợng tạm thời một lợng giá trị từ ngời sở hữu sang
ngời sử dụng và sau một thời gian nhất định quay về ngời sở hữu với lợng giá trị
lớn hơn.
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài ngời, tín dụng đã ra đời và tồn tại
cùng với sự ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá. Nó là phạm trù kinh tế đồng
thời là phạm trù lịch sử gắn liền với mỗi phơng thức sản xuất, nhng dù ở phơng
thức sản xuất nào: T bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa thì tín dụng ngân hàng
cũng là t i sản quan trọng không chỉ đối với hoạt động của bản thân Ngân hàng mà
còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trờng.
Trong nền kinh tế nhiều thành phần nh ở nớc ta hiện nay, tín dụng Ngân
hàng không chỉ là "cầu nối" giữa những nơi thừa vốn và nơi thiếu vốn. Bằng việc
huy động và cho vay, tín dụng ngân hàng đã điều hoà linh hoạt vốn giữa các đơn
vị, các tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế có hình thức sở hữu khác nhau. Thông
thờng nhà nớc sử dụng nguồn thu ngân sách để cấp cho các tổ chức kinh tế thuộc
quyền sở hữu nhà nớc mà không cấp cho các tổ chức kinh tế ngoài quốc doanh. Do
vậy không thể thông qua ngân sách để điều hoà vốn thuộc các quyền sở hữu khác
ấy với nhau. Chỉ có tín dụng ngân hàng mới có thể tận dụng đợc mọi nguồn vốn
tạm thời cha sử dụng phục vụ cho mối quan hệ qua lại không thể thiếu đợc giữa
kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể và các thành phần kinh tế khác mà không xâm
phạm đến quyền sở hữu vốn đó. Sự gắn bó tất yếu trên phạm trù tín dụng với quyền
sở hữu khác nhau về vốn càng khẳng định việc điều hoà vốn giữa các tổ chức kinh
tế thuộc các thành phần sở hữu khác nhau thông qua phạm trù tín dụng là cần thiết.
Thực hiện việc tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ, tín dụng ngân hàng đã
tạo điều kiện tiến hành bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận giữa các ngành sản xuất vật
chất. Thực hiện điều hoà vốn tín dụng ngân hàng đã chuyển dịch t bản từ các
ngành sản xuất có lợi nhuận thấp sang các ngành sản xuất cho lợi nhuận cao hơn.
Đó cũng là sự đáp ứng đòi hỏi mang tính chất khách quan của các nhà t bản trong
nền sản xuất hàng hoá bởi họ luôn mong muốn tìm kiếm lĩnh vực đầu t có lợi nhất
mà khả năng về vốn của bản thân không cho phép nhà t bản có thể ngay lập tức
đầu t vào lĩnh vực sản xuất mà họ mong muốn. Thông qua việc tài trợ vốn, tín dụng
ngân hàng đã góp phần tích cực định hớng giúp đỡ khách hàng tìm ra lĩnh vực đầu
t cần thiết và có lợi.
Trong nền kinh tế hiện nay, quá trình sản xuất và kinh doanh của các doanh
nghiệp có quan hệ gắn bó và liên quan mật thiết lẫn nhau. Điều đó đợc phản ánh
trong mối quan hệ trực tiếp thờng xuyên giữa tín dụng ngân hàng với các hoạt
động của mỗi doanh nghiệp, mỗi tổ chức cũng nh toàn bộ nền kinh tế. Mối quan hệ
đó đủ điều kiện cho tín dụng ngân hàng có khả năng kiểm soát đợc mọi giao dịch
bằng tiền của các doanh nghiệp, giúp cho Ngân hàng có thể xem xét đến quá trình
sử dụng vốn vay của khách hàng để từ đó đa ra quyết định đúng đắn trong cho vay,
thu nợ. Thông qua kiểm soát bằng tín dụng ngân hàng có thể giúp đỡ khách hàng
tìm ra nguyên nhân và biện pháp khắc phục khó khăn. Ngoài ra, thực hiện chức
năng kiểm soát bằng đồng tiền các mặt hoạt động kinh tế của nền kinh tế quốc
dân, tín dụng ngân hàng đã góp phần quan trọng trong việc củng cố thực hiện chế
độ hạch toán kinh tế từ đó nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc sử
dụng có hiệu quả và tiết kiệm nguồn vốn.
Việc tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ đã tạo điều kiện cho Ngân hàng
phát huy vai trò của mình trong việc tổ chức điều hoà lu thông tiền tệ, ổn định sức
mua của đồng tiền. Trên cơ sở tuân theo quy luật lu thông tiền tệ trong quá trình
cân đối nguồn vốn tín dụng ngắn hạn với nhu cầu cho vay, Ngân hàng thực hiện
việc phát hành tiền vào lu thông. Việc tăng giảm lợng tiền trong lu thông, việc mở
rộng thanh toán không dùng tiền mặt hông qua hoạt động nghiệp vụ tín dụng có
tác dụng tích cực trong việc điều hoà lu thông tiền mặt. Tín dụng ngân hàng phát
triển tạo điều kiện tăng tốc độ lu thông tiền tệ thông qua việc thu hút tiền nhàn rỗi
vào Ngân hàng và chuyển vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh góp phần giảm lợng
tiền mặt trong lu thông cùng các chi phí khác (chi phí vận chuyển, in ấn, đếm,
đóng gói, bảo quản... tiền mặt).
Có thể nói tín dụng ngân hàng là dòn bẩy kinh tế phục vụ cho quá trình sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ngày càng lớn, nó đóng vai trò quan trọng
đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp cũng /nh toàn bộ nền kinh tế.
Cùng với ngân sách Nh n ớc, tín dụng ngân hàng là nguồn hỗ trợ vốn chủ yếu cho
việc hình thành lên vốn cố định và vốn lu động của các doanh nghiệp, đảm bảo
thoả mãn nhu cầu vốn phục vụ sản xuất kinh doanh một cách hợp lý và linh hoạt
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, tăng cờng
cơ sở vật chất kỹ thuật, ứng dụng khoa học kỹ thuật, đổi mới công nghệ... Nh vậy,
tín dụng ngân hàng thực sự là nhân tố không thể thiếu đợc trong quá trình quản lý
và sử dụng vốn của doanh nghiệp và nền kinh tế.
1.1.4 - Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thơng mại:
Huy động tiền gửi của các tổ chức kinh tế và dân c:
Đây là nhiệm vụ đặc trng của Ngân hàng thơng mại đồng thời là nghiệp vụ
có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự tăng trởng và phát triển của Ngân hàng.
Ngân hàng thơng mại có thể huy động các nguồn tiền nhàn rỗi trong dân c
và các tổ chức kinh tế bằng nhiều hình thức, thời gian và lãi suất khác nhau đó là:
- Huy động vốn của các tổ chức kinh tế.
- Huy động tiền gửi tiết kiệm.
- Huy động tiền gửi kỳ phiếu, trái phiếu.
Ngoài các hình thức huy động trên, các Ngân hàng thơng mại còn có thể vay
vốn của Ngân hàng Trung ơng và các tổ chức tín dụng khác khi có nhu cầu.
Nghiệp vụ tín dụng:
Hoạt động tín dụng là hoạt động kinh doanh mang lại nhiều lợi nhuận nhất
cho Ngân hàng thơng mại và cũng là hoạt động chủ yếu của Ngân hàng thơng mại.
Chính vì vậy hoạt động này mang ý nghĩa quyết định đối với Ngân hàng thơng
mại. Tín dụng là một nghiệp vụ trong đó một thể nhân hay một pháp nhân (gọi là
ngời cho vay). Để một ngời khác (gọi là ngời đi vay) sử dụng một số tiền, với cam
kết hoàn trả gốc và lãi đúng hạn đã cam kết xong hoạt động tín dụng.
Nghiệp vụ thanh toán hộ khách hàng:
Đây là nghiệp vụ của Ngân hàng thơng mại xuất phát từ việc Ngân hàng mở
tài khoản tiền gửi thanh toán cho khách hàng, qua đó khách hàng uỷ quyền cho
khách hàng chi trả, thu nợ các khoản tiền phát sinh trong hoạt động của mình.
Hoạt động của thị trờng ngoại tệ:
Các Ngân hàng thơng mại có quy mô lớn có nhiều khách hàng tham gia hoạt
động xuất nhập khẩu thờng có thu chi ngoại tệ lớn hay nh Ngân hàng chuyên trách
trong việc cung cấp vốn trong hoạt động kinh tế đối ngoại là bộ phận quan trọng
trên thị trờng hối đoái. Các Ngân hàng này làm trung gian cho khách hàng của họ.
Các Ngân hàng này tham gia vào thị trờng ngoại tệ nhằm mục đích:
- Cung cấp dịch vụ tốt nhất cho khách hàng của mình.
- Kinh doanh ngoại tệ.
- Quản lý nguồn ngoại tệ
- Thực hiện chính sách khuyếch trơng và cạnh tranh các Ngân hàng khác.
Tham gia hoạt động trên thị trờng chứng khoán.
Ngân hàng tham gia vào thị trờng chứng khoán với t cách:
- Là ngời phát hành chứng khoán để tăng cung
- Là ngời mua bán chứng khoán.
- Là ngời môi giới chứng khoán
- Là ngời bảo lãnh cho các chủ đầu t phát hành chứng khoán
Thực hiện các dịch vụ đối với khách hàng:
Ngày nay hoạt động dịch vụ của Ngân hàng thơng mại thờng đem lại những
khoản lợi nhuận lớn. Các Ngân hàng thơng mại ngày càng đa dạng hoá các dịch vụ
của mình để không ngừng tìm kiếm lợi nhuận từ phía khách hàng.
Các dịch vụ cung cấp cho khách hàng nh: Uỷ thác, bảo quản các chứng từ có
giá, cung cấp t vấn thông tin về kinh tế, chuyển tiền cho khách hàng... Ngày nay
đang đợc mở rộng và phát triển.
Có thể tóm tắt các hoạt động của Ngân hàng thơng mại về các nghiệp vụ nh
sơ đồ sau:
Tóm lại: Hoạt động của Ngân hàng thơng mại đã và đang đóng vai trò hết
sức quan trọng. Nó chi phối toàn bộ hoạt động của nền kinh tế. Ngày nay cùng với
sự phát triển của xã hội, các hoạt động của Ngân hàng thơng mại càng đa dạng và
phong phú. Tuy nhiên các hoạt động của Ngân hàng thơng mại càng mở rộng và
phát triển bao nhiêu thì nguy cơ rủi ro càng lớn bấy nhiêu. Rủi ro luôn đi kèm và tỷ
lệ thuận với lợi nhuận. Chính vì vậy việc nghiên cứu để hạn chế và phòng ngừa các
rủi ro nhằm bảo toàn vốn cho các Ngân hàng thơng mại là điều hết sức quan trọng.
1.2 - Rủi ro, tác hại của rủi ro và sự cần thiết phải phòng ngừa rủi ro
trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thơng mại:
1.2.1 - Khái niệm và phân loại rủi ro trong kinh doanh của Ngân hàng thơng mại:
1.2.1.1 - Khái niệm rủi ro, sự tồn tại khách quan của rủi ro trong kinh
doanh của Ngân hàng thơng mại:
Trong cơ chế thị trờng, mỗi chủ thể kinh tế vừa phải theo đúng pháp luật,
chịu sự điều tiết vĩ mô qua các chủ trơng chính sách của nhà nớc, vừa hoạt động
theo nguyên tắc của riêng mình. Điều đó có nghĩa là các nhà kinh doanh phải có
chính sách biện pháp hay các "thủ đoạn" các mẹo trong kinh doanh để tôi đa hoá
lợi nhuận đó là mục tiêu chủ yếu của các doanh nghiệp. Tất cả các nhà kinh doanh
Nghiệp vụ thanh toán
cho khách hàng
Nghiệp vụ thanh toán
cho khách hàng
Nghiệp vụ thanh toán
cho khách hàng
KD ngoại
hối
Tham gia
cung cấp
ngoại tệ
Tham
gia thị
trờng
ngoại
hối
Nghiệp vụ của
ngân hàng th-
ơng mại
Nghiệp
vụ tín
dụng
Cho vay
sản xuất
Cho vay
tiêu dùng
Tín dụng
thuê mợn
Tham gia thị trờng
chứng khoán
Tham gia thị trờng
chứng khoán
đều biết rằng: Kinh doanh là có rủi ro, rủi ro và kinh doanh là ngời bạn song hành.
Ngành kinh doanh nào có lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn. Thị trờng Ngân
hàng kinh doanh là thị trờng có nhiều rủi ro nhất. Vấn đề là chúng đợc giải quyết
bằng các cách khác nhau. Chúng ta không bao giờ tìm ra phơng án thực hiện các
nghiệp vụ trong lĩnh vực Ngân hàng có thể hoàn toàn loại trừ rủi ro và có thể đảm
bảo trớc những kết quả tài chính nhất định, chúng ta chỉ có thể lờng trớc và hạ thấp
rủi ro đến mức thấp nhất bằng các biện pháp phòng ngừa và hạn chế.
Vậy rủi ro là gì?
Có nhiều các định nghĩa khác nhau:
Theo từ điển Tiếng Việt: Rủi ro là điều không may ngẫu nhiên xẩy đến.
Theo Franhkaight - học giả Mỹ (1921): Rủi ro là sự bất trắc có thể lờng trớc đợc.
Theo Allanwillen - Học giả Italia (1951): Rủi ro là sự bất trắc cụ thể, có thể
liên quan đến sự xuất hiện một biến cố không mong đợi.
Theo Mark - Hurt - Mecarly - Học giả Anh (1986): Rủi ro là một tình trạng
trong đó các biến cố xẩy ra trong tơng lai có thể xác định đợc.
Tuy có nhiều các định nghĩa khác nhau, song chúng đều khẳng định đợc
rằng, rủi ro là những sự kiện diễn ra ngoài ý muốn của con ngời, nó thờng đem đến
những hậu quả xấu. Rủi ro xuất hiện bất cứ lúc nào, bất cứ lĩnh vực nào của đời
sống kinh tế xã hội. Trong hoạt động Ngân hàng rủi ro là mối đe doạ tổn thất một
phần nguồn vốn của mình, không đạt đợc các khoản thu nhập hay đòi hỏi các
khoản chi phí bổ sung để thực hiện các nghiệp vụ tài chính nhất định. Rủi ro còn là
những thiệt hại xẩy ra gắn liền với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thơng
mại.
Tất cả các nhà khoa học nghiên cứu về rủi ro đều thừa nhận: Không một
ngành kinh doanh nào mà khả năng dẫn đến rủi ro lại nhiều nh kinh doanh tín
dụng. Chính vì vậy, mà các Ngân hàng thơng mại đặc biệt cần phải quan tâm
nghiên cứu, nhận biết, phân biệt rủi ro để hạn chế rủi ro tới mức thấp nhất.
1.2.1.2 - Phân loại rủi ro:
Rủi ro luôn gắn liền với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng cho nên có
ngời đã gọi nghề Ngân hàng là nghề kinh doanh rủi ro và mạo hiểm. Ngời ta cũng
khẳng định rằng hơn mọi doanh nghiệp khác, Ngân hàng phải đối phó với nhiều
loại rủi ro từ nhiều phía.
- Rủi ro tín dụng.
- Rủi ro thiếu vốn khả dụng.
- Rủi ro lãi suất
- Rủi ro hối đoái
- Rủi ro tín dụng quốc tế và ngoại thơng.
- Rủi ro mất khả năng thanh toán
Rủi ro tín dụng.
Đây là loại rủi ro chủ yếu, thờng gặp nhất, gắn liền với hoạt động kinh
doanh của Ngân hàng thơng mại. Đến nay cha có một văn bản nào hớng dẫn có thể
loại bỏ đợc rủi ro. Rủi ro tín dụng là rủi ro không thu đợc nợ khi đến hạn. Việc
đánh giá rủi ro này là trách nhiệm của phía Ngân hàng.
Rủi ro tín dụng có thể xảy ra hai loại chính:
- Rủi ro ứ đọng vốn: Là loại rủi ro mà các Ngân hàng huy động đợc nguồn
vốn lớn mà không cho vay hết đợc trong khi vẫn phải trả lãi cho số tiền huy động
đó, dẫn đến làm giảm thu nhập của Ngân hàng, thậm chí lỗ không đủ bù đắp chi
phí để hoạt động.
- Nợ quá hạn: Là những khoản nợ bị kéo dài quá thời hạn quy định trên khế
ớc cho vay. Nợ quá hạn thờng chia thành hai loại:
+ Nợ quá hạn thông thờng: Là loại nợ quá hạn do khách hàng chậm thanh
toán vì nhiều yếu tố khác nhau nh: Hàng hoá tiêu thụ chậm, công nợ cha thu hồi
kịp, khách hàng cha thanh toán tiền hàng... Nhìn chung loại nợ này cần có thêm
thời gian và khách hàng sẽ trả đợc nợ.
+ Nợ khó đòi: Phát sinh do nhiều nguyên nhân khác nhau, tuy nhiên căn cứ
vào khả năng thu hồi nợ ngời ta phân chia nợ khó đòi thành:
* Nợ khó đòi không có khả năng thu hồi: Đây là loại nợ bên vay đã phá sản
hoàn toàn hay không thể trả nợ đợc. Loại nợ này đợc để riêng vào quỹ rủi ro.
* Nợ khó đòi còn khả năng thu hồi: Đây là loại nợ mà bên vay có khả năng
trả nợ nhờ thanh lý một số tài sản hiện có hoặc nhờ duy trì tích cực sản xuất kinh doanh.
- Rủi ro tín dụng là rủi ro phức tạp nhất, quản lý và phòng ngừa nó rất khó
khăn, nó có thể xẩy ra bất cứ đâu, bất cứ lúc nào. Hễ cứ rủi ro nào đó của ngời vay
cũng có thể rủi ro cho Ngân hàng. Nó đòi hỏi Ngân hàng phải có những biện pháp
đồng bộ hữu hiệu mới có thể hạn chế ngăn ngừa bớt rủi ro, giảm tối thiếu những
thiệt hại có thể xảy ra và đem lại cho Ngân hàng những khoản lợi nhuận cao.
- Rủi ro tín dụng là kết quả của việc Ngân hàng cấp tín dụng cho một khách
hàng và Ngân hàng đợc các giấy nhận nợ do con nợ phát hành với sự cam kết là sẽ
thanh toán cả gốc và lãi đầy đủ và đúng hạn cho Ngân hàng. Do đó, tại thời điểm
cấp tín dụng và chấp nhận giấy nhận nợ nghĩa là Ngân hàng đã thừa nhận khả năng
thanh toán đầy đủ và đúng hạn của khách hàng với một xác suất cao, còn xác suất
mất khả năng thanh toán của khách hàng là thấp hơn nhiều.
Chúng ta hãy quan sát sự phân phối xác suất lợi tức đầu t Ngân hàng vào các
khoản cho vay tín dụng qua đồ thị sau:
Xác suất (P)
P = 1
O gốc gốc và lãi $ hoàn trả
H.1: Phân phối xác suất lợi tức đầu t
Chúng ta thấy rằng, đỉnh của đồ thị biểu diễn xác xuất hoàn trả đầy đủ cả
gốc và lãi của khoản vay là tơng đối cao (tuy nhiên luôn nhỏ hơn 1)
Trong trờng hợp, một Ngân hàng thực hiện tốt việc đa dạng hoá danh mục
đầu t của mình, thì hình dáng đồ thị phân bổ xác suất thu hồi gốc và lãi nh đợc chỉ
ra đồ thị H.2.
Xác suất (P)
P = 1
O Hoàn trả tối đa $ hoàn trả
H.2 - Phân bổ xác suất rủi ro đối với một danh mục đầu t
Rủi ro thiếu vốn khả dụng
Rủi ro thiếu vốn khả dụng là rủi ro xảy ra khi Ngân hàng không đáp ứng đợc
nhu cầu thanh toán của khách hàng hoặc khi Ngân hàng không đáp ứng nhu cầu
cho vay và đầu t.
Rủi ro này xuất phát từ chức năng chuyển hoá các kỳ hạn sử dụng vốn và
nguồn vốn Ngân hàng. Quá trình chuyển đổi này là quá trình kinh doanh theo ph-
ơng thức "vay ngắn hạn và vay dài hạn" chẳng hạn Ngân hàng nắm giữ những tài
sản nợ ngắn hạn nh món vay tiền gửi có thể phát séc và sử dụng tiền thu đợc để
mua các tài sản loại dài hạn. Những món vay với lãi suất cao hơn. Quá trình
chuyển đổi này thờng đem lại cho Ngân hàng những khoản lợi nhuận lớn hơn nhng
đồng thời cũng có thể đem lại rủi ro thiếu vốn khả dụng.
Rủi ro lãi suất:
Rủi ro lãi suất là những rủi ro mà các chủ thể kinh tế gặp phải khi có biến
động về lãi suất, biến động về yếu tố tiền tệ. Trong cơ chế thị trờng lãi suất là một
loại giá cả, là một công cụ của chính sách tiền tệ, lãi suất luôn biến động, nhằm
đảm bảo mục tiêu của chính sách tiền tệ. Quá trình này có thể gây tổn thất cho
Ngân hàng thơng mại. Chẳng hạn Ngân hàng đã ký hợp đồng cho vay một kỳ hạn
với lãi suất cố định, sự thiệt hại sẽ diễn ra khi lãi suất trên thị trờng tăng lên. Ngợc
lại khi nhận vốn với một thời hạn và lãi suất cố định Ngân hàng sẽ thiệt hại khi lãi
suất trên thị trờng giảm xuống.
Rủi ro lãi suất của Ngân hàng chính là chi phí nguồn vốn trở nên cao hơn
thu nhập sử dụng vốn. Nhìn chung Ngân hàng có thể gặp rủi ro do lãi suất lên hay
hạ xuống.
Rủi ro hối đoái:
Rủi ro hối đoái là do sự biến động của tỷ giá hối đoái. Nghĩa là rủi ro biến
động giá ngoại tệ so với nội tệ.
Các rủi ro hối đoán thờng do biến động kinh tế - chính trị của một nớc. Việc
duy trì nắm giữ một loại ngoại tệ của một quốc gia nào đó là mạo hiểm, vì nó
khiến Ngân hàng phải gánh chịu một rủi ro hối đoái phát sinh từ biến động tỷ giá
ngoại tệ, thể hiện ở các khoản cho vay và các khoản nợ so với đồng nội tệ.
Các Ngân hàng phải cảnh giác không chỉ những thay đổi về tỷ giá hối đoái
mà cả những nguyên nhân của những thay đổi đó có thể áp dụng những biện pháp
nhằm giảm bớt rủi ro. Về các loại tiền tệ chủ yếu, các Ngân hàng hay khách hàng
có thể giảm bớt rủi ro với các giao dịch trong thị trờng tỷ giá hối đoái kỳ hạn.
Chúng ta thấy rủi ro hối đoái và rủi ro lãi suất đan xen với nhau, vì trong một giao
dịch hối đoái có kỳ hạn, giai đoạn đầu là bán ngoại tệ giao ngay là phát sinh rủi ro
từ đó và giai đoạn hai là đem đầu t số ngoại tệ hay nội tệ trên thị trờng vốn làm
phát sinh rủi ro.
Trong bối cảnh hiện nay của nền kinh tế quốc tế, đặc trng bởi sự thả nổi các
đồng ngoại tệ và sự biến động lớn của tỷ giá hối đoái. Việc quản lý rủi ro hối đoái
ngày càng trở nên cần thiết hơn, nhằm giảm bớt những mất mát có thể xảy ra khi
có biến động về tỷ giá hối đoái.
Rủi ro trong tín dụng quốc tế và ngoại thơng:
Khi cho vay quốc tế thờng có rủi ro đất nớc thờng gọi là rủi ro chính trị. Rủi
ro này chắc chắn sẽ xảy ra từ sự phát triển kinh tế chính trị nó ảnh hởng tới khả
năng và sự sẵn sàng đáp ứng với cam kết đã thoả thuận của ngời vay. Suy thoái
kinh tế rõ ràng là một loại rủi ro đất nớc, cũng nh sự biến động về chính trị. Với
hình thức và mức độ nào đó sẽ ảnh hởng tới sự vận động rủi ro thơng mại và lợi ích
đối với mỗi cá nhân, các doanh nghiệp và cũng ảnh hởng tới lợi tức các cấp chính
quyền khác nhau, việc quốc hữu hoá tài sản, trục xuất ra khỏi nớc chủ nhà không
phải là điều không thể xảy ra.
Rủi ro cũng phải đợc xem xét đến là việc áp dụng các giới hạn có thể ngăn
cản nhập khẩu. Những cuộc biểu tình nổi loại là những tai hoạ phải đối phó trong
cho vay quốc tế. Một rủi ro lớn nhất đối với nhà đầu t và cho vay đó là việc quốc
hữu hoá tài sản. Các nhà Ngân hàng cũng luôn gặp phải những rủi ro về pháp lý ở
trong nớc thì gặp rủi ro ở nớc ngoài là việc một quốc gia sẽ áp đặt thay đổi mạch
các yêu cầu dự trữ tỷ lệ vốn trên các tài sản, thuế, phá giá đồng tiền hay các quy
định khác nhằm hạn chế cản trở hoạt động Ngân hàng.
Rủi ro mất khả năng thanh toán:
Rủi ro mất khả năng thanh toán là rủi ro không riêng của Ngân hàng. Nó
liên quan đến sự sống còn của doanh nghiệp. Rủi ro mất khả năng thanh toán th-
ờng là hậu quả của một hay nhiều rủi ro nói trên mà Ngân hàng không thể lờng tr-
ớc đợc. Trong trờng hợp này vốn tự có của Ngân hàng không thể bù đắp hết tất cả
các khoản mất mát thiệt hại, Ngân hàng sẽ phá sản hay vỡ nợ.
Chi phí vốn (r)
r
CD
r
DD
Tr. phiếu Tiền gửi Rủi ro
5 năm kh.kỳ hạn thanh khoản
Trong đó: r
CD
= mức lãi suất của trái phiếu kỳ hạn 5 năm
r
DD
= mức lãi suất của tiền gửi không kỳ hạn
Một Ngân hàng hoạt động bình thờng phải đảm bảo đợc khả năng thanh
toán. Khả năng thanh toán tức là đáp ứng các nhu cầu thanh toán hiện tại, đột xuất
khi có vấn đề nảy sinh và đáp ứng đợc khả năng thanh toán trong tơng lai. Khi
Ngân hàng thiếu khả năng thanh toán thì dẫn đến mất khả năng thanh toán. Khi
Ngân hàng thừa khả năng thanh toán thì dẫn đến đọng vốn, làm cho thu nhập của
Ngân hàng bị giảm, khả năng sinh lời giảm.
Các rủi ro khác:
Ngoài các loại rủi ro trên Ngân hàng còn gặp những rủi ro biến động của
thiên nhiên mang lại nh: Động đất, bão lụt, hoả hoạn hoặc các rủi ro nh lừa đảo,
trộm cắp, tham nhũng, làm thiệt hại hay phá huỷ các tài sản của Ngân hàng.
Có thể khái quát các rủi ro của Ngân hàng thơng mại qua sơ đồ sau:
Rủi ro trong cầm
cố tài sản giấy tờ
cha chắc chắn
Rủi ro về nguồn
vốn (thừa, thiếu)
Lãi suất:
Cho vay thay đổi
theo thị trờng quy
định cố định
Ngân hàng Th-
ơng mại thiếu
khả năng thanh
toán
Rủi ro trong quản
lý giấy tờ có giá (tài
sản tài chính)
Rủi ro của
ngân hàng
thơng mại
Rủi ro về hối
đoái
Rủi ro trong kinh
doanh chứng khoán
Rủi ro khác ...
1.2.2- Tác hại của rủi ro trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Thơng mại:
Rủi ro xảy ra trong kinh doanh của các Ngân hàng thơng mại tuỳ theo mức
độ mà có ảnh hởng lớn hay nhỏ tới bản thân Ngân hàng cũng nh các khách hàng
của họ và tác động tới toàn bộ nền kinh tế. Có thể khái quát thiệt hại của nó theo
hai hớng sau:
Đối với Ngân hàng thơng mại:
Rủi ro làm giảm uy tín của Ngân hàng, làm cho khả năng thanh toán của
Ngân hàng giảm sút và làm giảm lợi nhuận của Ngân hàng.
Rủi ro xảy ra tác động trực tiếp tới lợi nhuận kinh doanh của Ngân hàng.
Khi rủi ro xảy ra ở tỷ lệ nhỏ thì Ngân hàng có thể bù đắp bằng lợi nhuận kinh
doanh hoặc chịu thuê lỗ một chút. Còn ở mức độ rủi ro lớn nếu Ngân hàng không
ngăn chặn đợc và cứ đẻ chúng phát triển đến một mức độ nào đó thì nguồn vốn tự
có không thể thể bù đắp mãi đợc thì sẽ đẩy Ngân hàng đến chỗ phá sản. Điều này
không chỉ gây thiệt hại cho bản thân Ngân hàng mà còn gây tác hại tới toàn bộ nền
kinh tế, ở mức độ khác nhau.
Đối với nền kinh tế:
Nếu rủi ro xảy ra với mức độ thiệt hại nặng làm phá sản một vài Ngân hàng
sẽ kéo theo hàng loại các doanh nghiệp khác sẽ bị phá sản theo và hơn nữa có thể
lan truyền đến toàn bộ hệ thống Ngân hàng, gây nên tình trạng khủng hoảng kinh
tế trong nớc, ảnh hởng xấu đến sản xuất và đời sống nhân dân.
1.2.3- Sự cần thiết phải phòng ngừa và hạn chế rủi ro hoạt động tín dụng của Ngân hàng:
Tín dụng là nghiệp vụ sinh lời chủ yếu của các Ngân hàng thơng mại. Nó th-
ờng chiếm tỷ trọng lớn trong các khoản mục thuộc tài sản có khoảng 70% và nó có
vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế mà không hoạt động kinh doanh nào
có thể thay thế đợc. Nhng kinh doanh tín dụng cũng cha đựng khả năng rủi ro rất
lớn. Có thể nói rằng rủi ro luôn là "bạn đờng" trong hoạt động tín dụng của các
Ngân hàng thơng mại khi nó xảy ra, nó luôn gây ra tác động xấu ảnh hởng tới kết
quả sản xuất kinh doanh của Ngân h ng.
Trong hoạt động kinh doanh vốn của bản thân Ngân hàng chiếm một tỷ
trọng nhỏ trong tổng số vốn hoạt động. Ngân hàng tạo nguồn vốn chủ yếu thông
qua quan hệ với khách hàng là các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế, với bạn hàng
là các tổ chức tín dụng khác... Cho nên trong quá trình kinh doanh, khi quyết định
cấp ra một khoản tín dụng, nếu Ngân hàng không quan tâm tới việc thu hồi vốn,
rủi ro xảy ra sẽ không chỉ ảnh hởng đến hoạt động của riêng Ngân hàng mà còn
ảnh hởng đến hoạt động của các đơn vị, cá nhân khác có quan hệ với Ngân hàng,
thậm chí sự sụp đổ của Ngân hàng sẽ ảnh hởng tiêu cực đến đời sống kinh tế chính
trị xã hội của một đất nớc.
Rủi ro xảy ra thờng xuyên là không có lợi, nếu không muốn nói là có nguy
cơ làm cho Ngân hàng bị phá sản. Trong cơ chế kinh tế tập trung bao cấp, Ngân
hàng hoạt động dới sự bảo trợ của nhà nớc thì nguy cơ phá sản của Ngân hàng là
không thể có. Nhng trong cơ chế thị trờng, các Ngân hàng thơng mại tồn tại với t
cách là những pháp nhân độc lập, nó trở thành một loại hình doanh nghiệp đặc biệt
kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ. Bởi vậy cũng nh các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh khác, Ngân hàng muốn tồn tại và phát triển đợc thì phải giải quyết các mâu
thuận trong quá trình kinh doanh và hạn chế đợc những tổn thất có thể xảy ra. Hơn
nữa trong nền kinh tế thị trờng, cạnh tranh không chỉ xảy ra với riêng một nhà kinh
doanh nào, và phá sản trong cạnh tranh là thực tế không thể né tránh đối với những
doanh nghiệp kinh doanh không hiệu quả. Trong môi trờng cạnh tranh không cho
phép cácNgân hàng để xảy ra rủi ro vì rủi ro là tổn thất, nó làm cho tính thời hạn
và tính hoàn trả của quan hệ tín dụng không đợc đảm bảo, hoạt động tín dụng
không còn là hoạt động kinh doanh. Yếu tố quyết định sự thành bại của một Ngân
hàng trong nền kinh tế thị trờng hiện nay là tối đa hoá lợi nhuận và tối thiểu hoá
chi phí.
Nh vậy, những biến cố trong quan hệ tín dụng khi có rủi ro ảnh hởng rất lớn
tới hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thơng mại. Rủi ro thờng xuyên nhanh
chóng đa Ngân hàng dù lớn mạnh đến chỗ kinh doanh không có hiệu quả và bị phá
sản. Cho nên các Ngân hàng thơng mại cần phải tránh để rủi ro xảy ra. Tuy nhiên,
nó là những tổn thất mất mát bất ngờ luôn gắn liền với hoạt động cho vay mà Ngân
hàng không thể lờng hết đợc. Loại bỏ rủi ro là điều không thể nhng phòng ngừa và
hạn chế nó thì các nhà kinh doanh tiền tệ hoan toàn có thể làm đợc. Việc phòng
ngừa và hạn chế những tác động của rủi ro sẽ giúp các Ngân hàng thơng mại bảo
toàn đợc vốn, nâng cao hiệu suất kinh doanh và tăng thu nhập. Hoạt động kinh
doanh của Ngân hàng có hiệu quả sẽ nâng cao uy tín đối với khách hàng, nhờ đó
Ngân hàng có thể đa dạng hoá các loại hình kinh doanh và đảm bảo phát huy vai
trò đối với sự phát triển của nền kinh tế.
Trong thời gian qua cũng nh hiện tại, vấn đề nổi cộm trong công tác tín
dụng của Ngân hàng thơng mại vẫn cha đạt đợc nh ý muốn, rủi ro xảy ra rất lớn tác
động xấu tới hoạt động của các Ngân hàng thơng mại. Do vậy phòng ngừa và hạn
chế rủi ro là một trong những vấn đề cấp bách cần đợc giải quyết trong kinh doanh
nói chung và trong kinh doanh tín dụng nói riêng. Việc này đòi hỏi các nhà kinh
doanh tiền tệ phải đi sâu tìm hiểu và phân tích để có giải pháp phù hợp.
1.3- Nguyên nhân và các giải pháp phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong
hoạt động tín dụng của Ngân hàng đầu t và phát triển:
1.3.1 - Những nét đặc trng về hoạt động tín dụng của Ngân hàng Đầu t và Phát triển.
Lịch sử xây dựng, trởng thành, phát triển và đổi mới của Ngân hàng Đầu t
và Phát triển gắn liền với sự nghiệp cách mạng vẻ vang của dân tộc. Với nhng
chặng đờng lịch sử của Đất nớc, trong niềm tin yêu của nhân dân, bạn bè trong và
ngoài nớc, với những tên gọi:
Ngân hàng kiến thiết Việt Nam (Từ 26/04/1957)
Ngân hàng Đầu t và Xây dựng Việt nam (Từ 24/06/1981)
Ngân hàng Đầu t và Phát triển Việt Nam (Từ 14/11/1990)
Năm 1957, để phục vụ kịp thời công cuộc khôi phục nền kinh tế sau 9 năm
kháng chiến chông thực dân Pháp, Đảng và Nhà nớc đã sớm cho thành lập Ngân
hàng kiến thiết Việt Nam, tiền thân của Ngân hàng Đầu t và Phát triển Việt Nam
hiện nay. Lịch sử của ngành với đồng vốn ít ỏi của nhàn nớc giao phục vụ công
cuộc hàn gắn vết thơng chiến tranh, phục hồi kinh tế và kế hoạch 5 năm lần thứ
nhất. Với những công trình làm nức lòng dân, củng cố niềm tin vào chế độ mới nh
hệ thống công trình thuỷ nông Bắc Hng Hải... tiếp đó để thực hiện nhiệm vụ chính
trị, kinh tế -xã hội của kế hoạh 5 năm lần thứ nhất, Ngân hàng Đầu t và Phát triển
đã cung ứng và quản lý vốn đầu t 3.267 tỷ đồng (tơng đơng với 32.670 tỷ đồng
quy đổi theo giá năm 1995) góp phần đa hàng trăm công trình hoàn thành vào sử
dụng. Những khu công nghiệp nụng nghi p trẻ đầu tiên của n ớc Việt Nam Dân
Chủ Cộng hoà đợc xây dựng nh khu công nghiệp Cao Xà Lá, khu gang thép Thái
Nguyên...
Từ năm 1965 đến năm 1975, thực hiện nhiệm vụ chiến lợc: Xây dựng Chủ
nghĩa xã hội ở Miền Bắc và đấu tranh giải phóng Miền Nam thống nhất đất nớc. D-
ới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nớc, Ngân hàng Đầu t và Phát triển đã cung ứng vốn
kịp thời có hiệu quả với số lợng 3.049 tỷ đồng (tơng đơng với 30.490 tỷ đồng quy
đổi theo giá năm 1995) nhằm phục vụ bảo vệ các công trình của Chủ Nghĩa Xã
Hội ở Miền Bắc, cấp vốn cho các công trình nhằm chống lại chiến tranh phá hoại
của giặc Mỹ, đảm bảo giao thông thông suốt, phụ vụ cho việc chi viện ở Miền
Nam chiến đấu chống đế quốc Mỹ bảo vệ Tổ quốc.
Từ năm 1975 đến năm 1985 phục vụ công cuộc phục hồi và phát triển kinh
tế trong cả nớc từ khi thống nhất. Thời kỳ nàyNgân hàng đã cấp vốn nhằm hàn gắn
vết thơng chiến tranh, phục hồi và phát triển kinh tế đất nớc với tổng số vốn đã chi
ralà 167,1 tỷ đồng (tơng đơng với 18.432 tỷ đồng quy đổi theo giá năm 1995)
hàng loạt các công trình của Đảng và Nhà nớc đã đợc Ngân hàng cung ứng vốn kịp
thời nh đờng sắt Bắc Nam và hàng trăm công trình khác...
Thời kỳ thực hiện đờng lối đổi mới của Đảng và Nhà nớc (1986-1996)
ngành Ngân hàng nói chung và Ngân hàng Đầu t và Phát triển nói riêng đã có một
bớc ngoặt quan trọng nhất là từ năm 1990 khi có 2 pháp lệnh về Ngân hàng. Và
cũng trong năm đó, chức năng quản lý nhà nớc và chức năng kinh doanh cũng đợc
phân định rõ. Công cuộc đổi mới của Ngân hàng Đầu t và Phát triển bắt đầu xoá bỏ
bao cấp cấp phát trong đầu t xây dựng cơ bản và xoá bỏ bao cấp ngay trong lĩnh
vực hoạt động Ngân hàng.
- Một là: Thử nghiệm thành công việc thay đổi cơ chế đầu t, mọi công trình,
dự án sản xuất kinh doanh có thu hồi vốn dới hình thức nào đều phải đi vay để đầu
t.
- Hai là: Thực hiện các hình thức huy động vốn phục vụ đầu t và phát triển,
đó là việc phát hành kỳ phiếu đảm bảo giá trị theo giá vàng, trái phiếu, huy động
tiết kiệm trong dân c và kỳ phiếu dài hạn phục vụ đầu t và phát triển. Huy động
vốn ngoài nớc dới các hình thức vay thơng mại, vay dài hạn, vay tài trợ xuất nhập
khẩu, đồng tài trợ và bảo lãnh. Do đó nguồn vốn đến năm 1996 tăng 18,7 lần so
với năm 1990 và d nợ tín dụng các loại đến nay đạt 20.000tỷ đồng.
- Ba là: Mở rộng quan hệ hợp tác với các Ngân hàng thơng mại nớc ngoài
theo quan điểm sâu rộng, thiết thực và hiệu quả.
- Bốn là: Ngân hàng Đầu t và Phát triển hoạt động kinh doanh trong mọi
lĩnh vực đạt hiệu quả, an toàn, nợ quá hạn thấp so với các Ngân hàng khác.
- Năm là: Trong quá trình đổi mới và phát triển Ngân hàng Đầu t và Phát
triển luôn lấy phơng châm "hiệu quả sản xuất kinh doanh của khách hàng là
mục tiêu của Ngân hàng Đầu t và Phát triển". Trên cơ sở phục vụ đầu t phát
triển, tăng trởng kinh tế, mà không ngừng tăng doanh lợi của Ngân hàng, góp phần
ổn định tiền tệ và kiềm chế lạm phát.
Từ một Ngân hàng quốc doanh nhỏ ban đầu chỉ đơn thuần làm nhiệm vụ cấp
phát vốn theo kế hoạch nhà nớc cho các công trình trọng điểm của nhà nớc, cho
đến nay Ngân hàng Đầu t đã có cơ sở vật chất vững mạnh, vốn đủ để phục vụ
khách hàng, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc.
Ngân hàng là một ngành hoạt động có phạm vi rất rộng, mang tính xã hội
cao, chi phối hoạt động của nền kinh tế. Chính vì thế rủi ro hoạt động của Ngân
hàng rất lớn, do nhiều nguyên nhân và có nhiều giải pháp phòng ngừa khác nhau,
từ nhiều phía khác nhau.
1.3.2 - Nguyên nhân của các rủi ro
Nguyên nhân từ phía khách hàng:
Tất cả các rủi ro xảy đến với khách hàng thì hầu nh Ngân hàng đều phải
gánh chịu:
- Kế hoạch sản xuất kinh doanh không ổn định, chất lợng sản phẩm sản
xuất ra không đảm bảo và không tiêu thụ đợc dẫn đến thua lỗ và doanh nghiệp
không có tiền để trả nợ Ngân hàng.
- Do khâu tổ chức quản lý yếu kém của ngời lãnh đạo doanh nghiệp dẫn
đến thất thoát vốn kinh doanh thua lỗ không trả đợc nợ Ngân hàng.
- Hiện nay pháp lệnh kế toán thống kê cha đủ hiệu lực, bắt buộc các doanh
nghiệp thực hiện chế độ thống kê chính xác, kịp thời. Do đó các số liệu quyết toán
và báo cáo tài chính của các doanh nghiệp cha thực hiện đợc chế độ kiểm toán bắt
buộc nên số liệu không phản ánh chính xác thực trạng sản xuất kinh doanh và tình
hình tài chính của doanh nghiệp. Những món vay đợc xét từ các thông tin sai sự
thật rất dễ gặp rủi ro và gây thiệt hại cho Ngân hàng.
- Khách hàng bị lừa đảo hay cố ý lừa Ngân hàng để lấy tiền (thờng hay gặp
ở khách hàng t nhân).
- Khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích, kinh doanh hàng lậu, hàng cấm
không theo quy định tín dụng làm thất thoát vốn của Ngân hàng.
- Khách hàng gặp rủi ro do thiên tai, hoả hoạn, cấm vận, phá sản hoặc giải thể.
Nh vậy có thể nói rằng: Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến sản xuất kinh
doanh của khách hàng bị thua lỗ, không thu hồi đợc vốn. Mà trong thực tế hiện nay
phần lớn vốn của các doanh nghiệp và t nhân cá thể đều là vốn vay của Ngân hàng.
Do vậy mà các rủi ro của khách hàng luôn đe doạ Ngân hàng và Ngân hàng thờng
chịu thiệt hại lớn nhất.
Nguyên nhân từ phía Ngân hàng:
- Chính sách tín dụng cha thật chặt chẽ, thống nhất nên còn bị khách hàng
lợi dụng.
- Công nghệ và kỹ thuật trong Ngân hàng còn lại hậu. Điều đó làm cho việc
quản lý khách hàng của nhân viên còn hạn chế, thống tin còn cha cập nhật và thiếu
chính xác, dẫn tới việc đánh giá xét duyệt và kiểm tra các món vay không chính
xác. Chính vì vậy, việc xử lý và phòng ngừa rủi ro rấ hạn chế.
- Trình độ và năng lực của cán bộ Ngân hàng nói chung và trình độ năng lực
cán bộ tín dụng nói riêng còn bất cập, cha đáp ứng đợc yêu cầu ngày càng phát
triển cao của công việc.
- Do cán bộ tín dụng không làm đầy đủ quy trình nghiệp vụ tín dụng. Cho
vay ra không kiểm tra giám sát mục đích và hiệu quả sử dụng vốn vay của khách
hàng. Không có biện pháp xử lý kịp thời khi khách hàng có vấn đề.
- Ngân hàng chỉ coi trọng đến tài sản thế chấp, cầm cố mà không quan tâm
đến hiệu quả của dự án vay vốn.
- Ngân hàng quyết định cho vay hoặc bảo lãnh với giá trị lớn đối với một số
doanh nghiệp mà vốn tự có của họ rất ít. Khi doanh nghiệp thua lỗ sẽ rất khó thu
hồi vốn cho Ngân hàng. Do vậy dễ gây ra rủi ro lớn.
- Do Ngân hàng chỉ quan tâm đến lợi nhuận mà không quan tâm đến các
vấn đề khác nh: Chất lợng, cơ cấu, mức độ rủi ro...
Qua đây cho thấy: Việc xảy ra rủi ro tín dụng xuất phát từ Ngân hàng là rất
nhiều và hay xảy ra. Điều này sẽ đợc hạn chế khi Nhà nớc và Ngân hàng đều nhận
thấy và có những biện pháp phòng ngừa thích hợp và kịp thời.
Nguyên nhân do hoàn cảnh khách quan:
Đây là nguyên nhân mà cả khách hàng lần Ngân hàng không thể lờng hết đ-
ợc, do các hiện tợng thiên nhiên và xã hội diễn biến phát triển phức tạp ngoài tầm
kiểm soát của con ngời hoặc do sự cha đồng bộ trong chơ chế quản lý của nhà nớc,
đó là:
- Do thiên tai, chiến tranh, hoả hoạn... hoặc do các hành động ăn cắp, lừa
đảo... gây mất mát thiệt hại về tài sản của Ngân hàng cũng nh doanh nghiệp, dẫn
tới hậu quả làm cho doanh nghiệp bị thiệt hại không trả đợc nợ Ngân hàng làm
Ngân hàng chịu rủi ro.
- Do chính sách thay đổi bất thờng của Nhà nớc nh: Thay đổi chính sách
ngoại thơng, chính sách sắp xếp lại doanh nghiệp, chính sách đầu t, chính sáchlãi
suất, chính sách tiền tệ... làm cho các doanh nghiệp và tổ chức kinh tế gặp khó
khăn dẫn tới thua lỗ, phá sản, không trả đợc nợ cho Ngân hàng.