Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

CHÍNH TRỊ HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.61 KB, 21 trang )

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

KHOA CHÍNH TRỊ HỌC

CAO VĂN THIỆN

MỐI QUAN HỆ GIỮA CHÍNH TRỊ VÀ KINH TẾ TRONG
CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Tiểu luận mơn Chính trị học đại cương

Hà Nội - 2021


HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

KHOA CHÍNH TRỊ HỌC

CAO VĂN THIỆN

MỐI QUAN HỆ GIỮA CHÍNH TRỊ VÀ KINH TẾ TRONG
CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Lớp : Quay phim K37
Mã số sinh viên: 1756060026
Tiểu luận mơn: Chính trị học đại cương

Hà Nội - 2021


MỤC LỤC



MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài

Kinh tế và chính trị là hai mặt lớn nhất của đời sống xã hội trong điều kiện đất
nước ta hiện nay còn nghèo nàn lạc hậu thì đổi mới nền kinh tế đất nước là điều hết
sức cần thiết. Muốn xây dựng xã hội chủ nghĩa thành cơng thì điều kiện tiên quyết là
phải có một nền kinh tế vững chắc ổn định, đáp ứng đầy đủ mọi điều kiện cho đất
nước đi lên xã hội chủ nghĩa thành công.
Nền kinh tế của một đất nước có thể coi là sức mạnh lớn nhất của đất nước đó,
nó là thành phần cơ bản của cơ sở hạ tầng, trên đó quyết định hình thành nên một
thể chế chính trị tương ứng phù hợp với hình thái kinh tế đó.
Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị là mối quan hệ biện chứng và Việt Nam
cũng khơng nằm ngồi quy luật đó. Khơng có một chế độ nào mà hoạt động kinh tế
lại độc lập với hoạt động chính trị hình thái kinh tế quyết định tới chế độ chính trị,
nhưng ngược lại chính trị cũng có tác động to lớn tới kinh tế. Sự ổn định về chính trị
là tiền đề, là điều kiện để phát triển kinh tế. Một nền kinh tế muốn phát triển mạnh
mẽ và ổn định đòi hỏi phải có sự ổn định về chính trị.
Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị có ảnh hưởng to lớn đến mọi mặt của hoạt
động, đời sống xã hội mọi hoạt động khác có diễn ra thuận lợi hay không đỏi hỏi
phải dựa trên mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị có diễn ra bình thường hay
khơng.
Việc nghiên cứu đề tài giúp cho nắm bắt được về mối quan hệ mật thiết giữa kinh
tế và chính trị nói chung và đặc biệt là mối quan hệ đó được đặt trong hoàn cảnh đất
nước ta đang đổi mới nền kinh tế hiện nay. Nó sẽ giúp ta hiểu được một cách sát
thực nhất về đường lối đổi mới kinh tế của Đảng và chính phủ, đồng thời có thể biết
được quá trình đổi mới đang diễn ra như thế nào. Trên cơ sở đó ta có thể đưa ra
những dự đoán của bản thân về nền kinh tế đất nước trong tương lai đây chính là



một vấn đề rất tốt cho những người quan tâm đến hoặc là hoạt động trong lĩnh vực
kinh tế. Những người mà phải trực tiếp tiếp xúc và vận dụng các đường lối và chính
sách đổi mới của Đảng.
Từ những vấn đề cấp thiết nêu trên, tác giả đã chọn đề tài “Mối quan hệ giữa
chính trị và kinh tế trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài kết
thúc mơn “Chính trị học đại cương” của mình.
2.

Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở tổng hợp một cách có hệ thống quan điểm lý luận mối quan hệ giữa
chính trị và kinh tế, đi sâu phân tích đánh giá trung thực, khách quan thực trạng mối
quan hệ giữa chính trị và kinh tế trong cơng cuộc đổi mới ở Việt Nam trong thời
gian qua. Từ đó đề xuất các giải pháp cụ thể để thúc đẩy mối quan hệ giữa chính trị
và kinh tế trong cơng cuộc đổi mới ở Việt Nam một cách hiệu quả.
3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: là vấn đề chính trị, vấn đề kinh tế tác động đến công
cuộc đổi mới ở Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu:
Thời gian nghiên cứu: giai đoạn hiện nay
Không gian nghiên cứu: Việt Nam
4.

Phương pháp nghiên cứu


- Đề tài dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử; dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mac – Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những
quan điểm của Đảng và Nhà nước ta; kế thừa các kết quả nghiên cứu trong và ngoài
nước về vấn đề nghiên cứu.


- Sử dụng phương pháp: logic – lịch sử; phương pháp diễn dịch – quy nạp;
phương pháp phân tích – tổng hợp; phương pháp tổng kết thực tiễn;….Đặc biệt là
phương pháp điều tra xã hội học.
5.

Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, khoá luận bao
gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận chung
Chương II: Thực trạng mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế trong cơng cuộc
đổi mới ở Việt Nam
Chương III: Một số tồn tại và giải pháp nâng cao mối quan hệ giữa chính trị
và kinh tế trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam thời gian tới


NỘI DUNG
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
1.1.
1.1.1.

Những vấn đề chung về chính trị và kinh tế
Khái niệm chính trị, kinh tế theo quan điểm triết học Mac - Lenin
Cơ sở lý luận và phương pháp luận khoa học của việc nhận thức và giải quyết


vấn đề quan hệ giữa kinh tế và chính trị là quan điểm duy vật lịch sử của chủ nghĩa
Mác Lênin về quan hệ giữa kiến trúc thượng tầng với cơ sở hạ tầng.
Kinh tế là phạm trù đóng vai trị quyết định trong cơ sở hạ tầng. Kinh tế có
thể coi là tổng thể những yếu tố sản xuất, các điều kiện sống của con người, các mối
quan hệ trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội. Nói đến kinh tế suy cho cùng
là nói đến vấn đề sở hữu và lợi ích.
Chính trị là một phạm trù tư tưởng thuộc kiến trúc thượng tầng của xã hội.
Chính trị là tất cả những hoạt động, những vấn đề gắn với mối quan hệ giai cấp, dân
tộc, quốc gia và các nhóm xã hội xoay quanh một vấn đề trung tâm đó là vấn đề
giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước. Chính trị được sinh ra khi bắt đầu có sự
phân hóa giai cấp, hay bắt đầu có sự phân hóa về kinh tế tức là về vấn đề sở hữu và
lợi ích cá nhân trong xã hội.
Học thuyết Mac – Lênin về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị đã chỉ rõ,
với bất kì quốc gia nào, thời đại nào trong xã hội có giai cấp đều tồn tại và phát triển
mối quan hệ biện chứng giữa hai phạm trù đó. Mối quan hệ đó trong một nhà nước
XHCN ln lấy lợi ích cộng đồng cơng bằng xã hội, trong đó lợi ích chính đáng của
người dân luôn được quan tâm làm mục tiêu hướng tới thì chính trị hiểu theo nghĩa
rộng là sự thể hiện tồn bộ các chính sách, hoạt động của Nhà nước đó sao cho
khơng chỉ bảo đảm được sự ổn định chính trị đất nước mà cịn là phát triển ngày
càng tốt hơn các lĩnh vực đời sống xã hội, văn hố, giáo dục, y tế, việc làm, khoa
học – cơng nghệ, môi trường... Khái quát lại, là sự hướng tới mục tiêu vì tất cả


những vấn đề vật chất và tinh thần liên quan đến lợi ích chính đáng của sự phát triển
con người trong cộng đồng xã hội, trong đó phát triển kinh tế luôn luôn là cơ sở, nền
tảng quyết định sự phát triển của chính trị - xã hội và ngược lại, chính trị - xã hội
phát triển như thế nào, tiến bộ và sẽ tác động tích cực hoặc tiêu cực trở lại kinh tế.
1.1.2.


Quan hệ giữa chính trị và kinh tế theo chủ nghĩa Mac - Lenin
Theo các nhà kinh tế của chủ nghĩa Mác-Lênin thì kinh tế quyết định chính

trị, chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế. Trong lịch sử phát triển xã hội của
lồi người khơng phải bao giờ cũng có chính trị. Như xã hội ngun thuỷ vẫn chưa
có vấn đề chính trị. Kể từ khi xã hội có giai cấp và nhà nước thì vấn đề chính trị mới
bắt đầu xuất hiện. Những vấn đề chính trị thuộc về quan hệ giai cấp và đấu tranh
giai cấp. Vấn đề chính trị là vấn đề đấu tranh giữa các giai cấp, lực lượng xã hội
nhằm giành, giữ chính quyền nhà nước và sử dụng chính quyền đó làm cơng cụ để
xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp cầm quyền. Bản
thân chính trị ra đời hồn tồn do kinh tế quyết định. Chính trị khơng phải là mục
đích, mà là phương tiện để thực hiện mục đích kinh tế. Khi phê phán quan niệm của
Đuyrinh thì lại cho rằng bạo lực chính trị quyết định kinh tế, nhưng F.Ănghen lại
khẳng định: “bạo lực chỉ là phương tiện, cịn lợi ích kinh tế trái lại là mục đích”,
F.Ănghen cũng chỉ rõ: “để thoả mãn những lợi ích kinh tế thì quyền lực chính trị chỉ
được sử dụng làm một phương tiện đơn thuần”.
Quyền lực chính trị là cơng cụ mạnh nhất để bảo vệ chế độ xã hội. Sự thống
trị về chính trị của một giai cấp nhất định là điều kiện đảm bảo cho giai cấp đó thực
hiện được sự thống trị về kinh tế . Đấu tranh giai cấp, thực chất là đấu tranh vì lợi
ích kinh tế, điều đó được thực hiện thơng qua đấu tranh chính trị. Theo F.Ănghen,
bất cứ cuộc đấu tranh giai cấp nào cũng đều là đấu tranh chính trị, xét đến cùng đều
xoay quanh vấn đề giải phóng về kinh tế. Để nhấn mạnh vai trị của chính trị,
V.I.Lênin đã khẳng định: “chính trị khơng thể chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế”.
Khẳng định đó của V.I.Lênin khơng có nghĩa là phủ định vai trị của kinh tế đối với
chính trị, mà muốn nhấn mạnh tác động tích cực của chính trị đối với kinh tế. Đứng


trên quan điểm tồn diện mà xét thì mọi sự kiện kinh tế chỉ tồn tại và biểu hiện với
tư cách là nó trong mối quan hệ với những sự kiện khác. Cho nên khi đứng trước
một sự kiện kinh tế nào đó, để có thể nhận thức được bản chất của sự kiện kinh tế

cần phải xem xét nó trên tất cả các mặt, mối liên hệ có thể có. Bản chất của sự kiện
này là cái chung, được chứa đựng trong tất cả các mối liên hệ. Bởi vậy những vấn đề
kinh tế không thể tách rời những vấn đề chính trị, mà nó được xem xét và giải quyết
theo một lập trường chính trị nhất định.
Bất kỳ một giai cấp nào cầm quyền cũng hướng nền kinh tế của mình phát
triển theo lập trường chính trị với mục đích phục vụ cho mục tiêu kinh tế - xã hội
nhất định. Và lập trường chính trị đó đúng hay sai, sẽ thúc đẩy hoặc kìm hãm sự
phát triển kinh tế. V.I.Lênin cịn khẳng định: “nếu như khơng có một lập trường
chính trị đúng thì giai cấp nhất định nào đó khơng thể giữ vững được sự thống trị
cuả mình”. Do đó cũng khơng thể nào hồn thành được nhiệm vụ của mình trong
sản xuất. Khi thể chế chính trị không phù hợp với yêu cầu phát triển của kinh tế thì
tất yếu sẽ dẫn đến sự sụp đổ của nền kinh tế đó. Khi đó, việc thay đổi thể chế chính
trị sao cho phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế đó chính là điều kiện
quyết định để thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Như vậy chúng ta mới có thể khẳng định rằng kinh tế và chính trị cùng đặt
trong mối liên hệ phổ biến, thống nhất biện chứng với nhau trên nền tảng quyết định
của kinh tế. Đây là cơ sở phương pháp luận quan trọng trong việc nhận thức xã hội
nói chung và nhận thức công cuộc đổi mới ở Việt Nam nói riêng.
1.2.
1.2.1.

Mối quan hệ biện chứng giữa chính trị và kinh tế hiện nay
Vai trò quyết định của kinh tế đối với sự phát triển của chính trị
Lý luận triết học Mác Lênin đã cho thấy: vật chất quyết định ý thức, cơ sở hạ

tầng quyết định đến kiến trúc thượng tầng. Từ cơ sở trên ta có thể nhận thấy tư
tưởng chính trị sinh ra trên cơ sở kinh tế và được quy định bởi cơ sở kinh tế. Kinh tế


là gốc, là thước đo tính hợp lý của chính trị. Sự phụ thuộc của chính trị vào cơ sở

kinh tế được biểu hiện ở những điểm sau:
- Chính trị chỉ phát sinh trên cơ sở nền kinh tế đã phát triển đến một trình độ
nhất định. Điều này đã được thể hiện rõ khi ta nghiên cứu sự ra đời của chính trị.
Trình độ kinh tế yếu kém của chế độ cộng sản nguyên thủy đã không thể phát sinh
vấn đề về chính trị. Chỉ khi xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất trong xã hội
và bắt đầu có sự phân chia về giai cấp thì nhà nước cùng với những vần đề về chính
trị mới xuất hiện. Sự phát triển chế độ tư hữu đã đánh dấu một bước phát triển rõ rệt
của trình độ phát triển kinh tế.
- Chính trị phát triển theo sự phát triển của kinh tế. Tương ứng với một trình
độ phát triển nhất định về kinh tế có một trình độ phát triển nhất định về chính trị.
Sự thay đổi của cơ sở kinh tế sớm hay muộn cũng dẫn đến sự thay đổi về mặt chính
trị. C. Mác đã viết: “Cơ sở kinh tế thay đổi thì tồn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ
sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng”. Nội dung của chính trị do cơ sở kinh tế
quyết định. Chế độ kinh tế là cơ sở của chế độ chính trị, cơ sở kinh tế như thế nào
thì cơ cấu thể chế chính trị thích ứng thế đấy. Chính trị khơng thế thấp hơn trình độ
phát triển của kinh tế. Chế độ chính trị phản ánh trình độ phát triển của kinh tế.
- Trong xã hội giai cấp, giai cấp nào thống trị về mặt kinh tế thì cũng chiếm
địa vị thống trị về mặt chính trị và đời sống tinh thần của xã hội. Các mâu thuẫn
trong kinh tế, xét đến cùng, quyết định các mâu thuẫn trong lĩnh vực chính trị tư
tưởng; Các quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp, quan hệ chính trị là sự phản ánh
các quan hệ lợi ích kinh tế, các mâu thuẫn trong quan hệ kinh tế
Trong các mối quan hệ trên thì kinh tế là tính thứ nhất, chính trị là tính thứ
hai, là cái phản ánh của kinh tế, thể hiện qua tư duy chính trị, đường lối chính trị, thể
chế chính trị….
1.2.2.

Sự tác động trở lại của chính trị đối với sự phát triển kinh tế


Trong khi khẳng định vai trò quyết định của kinh tế đối với chính trị, chủ

nghĩa Mác Lênin cũng nhấn mạnh tính độc lập tương đối và sự tác động trở lại của
chính trị đối với kinh tế hay cao hơn là của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ
tầng. Sự tác động của chính trị đối với kinh tế có thể theo nhiều hướng khác nhau :
thúc đẩy, kìm hãm, hoặc vừa thúc đẩy mặt này, vừa kìm hãm mặt kia và do vậy, có
thể làm thay đổi cơ sở kinh tế ở chừng mực nhất định.
Chính trị tác động tích cực vào cơ sở kinh tế khi nội dung của các tư tưởng
quan điểm chính trị phản ánh đúng, đầy đủ điều kiện khách quan của cơ sở kinh tế
và sự phát triển kinh tế. Khi đó chính trị là động lực mạnh mẽ thúc đẩy làm cho kinh
tế phát triển với tốc độ nhanh, vững chắc.
Ngược lại, chính trị tác đơng một cách tiêu cực vào cơ sở kinh tế khi hệ thống
chính trị có quan điểm, tư tưởng thể hiện ý chí của giai cấp thống trị lỗi thời muốn
duy trì quan hệ kinh tế đã lạc hậu khơng cịn phù hợp nữa, hay khi chính trị đi quá
xa đối với sự phát triển của kinh tế. Nhưng nếu chính trị kìm hãm sự phát triển của
kinh tế thì sớm hay muộn, bằng cách này hay cách khác, thể chế chính trị cũ sẽ được
thay bằng thể chế chính trị mới tiến bộ để thúc đẩy kinh tế tiếp tục phát triển. Trong
mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị tránh tuyệt đối hóa hoặc đồng nhất chính trị
với kinh tế. Mắc phải khuynh hướng trên sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển
kinh tế nói riêng và sự phát triển của xã hội nói chung.
Có thể thấy trên thực tế, khơng có đường lối chính trị đúng thì khơng một giai
cấp thống trị nào có thể giữ vững được sự thống nhất chính trị và do đó, cũng khơng
có khả năng lãnh đạo kinh tế. Chính trị đóng vai trị lãnh đạo, định hướng tạo mơi
trường chính trị - xã hội ổn định, đáp ứng điều kiện cần thiết cho sự phát triển kinh
tế.


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG MỐI QUAN HỆ GIỮA CHÍNH TRỊ VÀ KINH
TẾ TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM
Kinh tế và chính trị ở nước ta có mối quan hệ hết sức chặt chẽ, chúng có tác
động qua lại với nhau một cách tích cực, các hoạt động về kinh tế và chính trị đều có
chung mục đích đưa đát nước xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội.

Nói chung mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị ở nước ta về cơ bản là giống
so với các nước khác. Song mặt khác nước ta thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh
tế từ xuất phát điểm là một nền kinh tế kém phát triển, chứa nhiều đặc thù riêng:
Đảng ta xác định tư tưởng độc lập tự chủ trong việc xây dựng một nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Công cuộc đổi mới này
diễn ra dưới sự chỉ huy của một thể chế chính trị khác hẳn so với các nước đó là nhà
nước xã hội chủ nghĩa do đó mối quan hệ kinh tế chính trị ở nước ta còn chứa đựng
nhiều điểm riêng đặc trưng.
Quan hệ sản xuất thống trị trong xã hội ta hiện nay là quan hệ sản xuất cộng
sản chủ nghĩa, với hai thành phần kinh tế chủ đạo là kinh tế nhà nước và kinh tế tập
thể. Từ đó trên cơ sở quan hệ sản xuất cộng sản chủ nghĩa hình thành nên nhà nước
Việt nam với thể chế chính trị là một nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Ở nước ta hiện nay liên minh giữa công nhân và nông dân, giữ địa vị thống trị
về kinh tế do đó cũng nắm vững sự thống trị, Nhà nước Việt nam là nhà nước của
dân do Đảng cộng sản Việt nam là Đảng được thành lập bởi giai cấp công nhân lãnh
đạo. Hiện nay muốn tiếp tục đi theo con đường xã hội chủ nghĩa thì địi hỏi nước ta
phải có một nền kinh tế vững chắc để làm chỗ dựa phục vụ cho các mục đích chính
trị lâu dài. Sức mạnh mẽ về kinh tế sẽ là bàn đạp cho mọi hoạt động chính trị vì sự
nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa diễn ra thành công.
Ngày nay khi đất nước thực sự bước vào xây dựng và phát triển kinh teứe,
trung tâmlãnh đạo của Đảng là mặt trận kinh tế. Với tư cách là đội tiền phong của


giai cấp công nhân và nhân dân lao động, Đảng phải gánh vác sứ mệnh lãnh đạo
công cuộc đổi mới và phát triển nền kinh tế của đất nước. Toàn bộ lãnh đạo hoạt
động kinh tế đều hướng vào mục tiêu: ổn định chính trị phục vụ dân giàu, nước
mạnh xã hội công bằng văn minh, xây dựng thành công chế độ xã hội chủ nghĩa.
Chính sách đổi mới kinh tế của Đại hội Đảng VI (1986) Có thể coi là bước
ngoặt trong đường lối phát triển kinh tế ở nước ta. Đảng ta đã đánh giá đúng thực
trạng kinh tế – xã hội của đất nước tìm ra những sai lầm khuyết điểm trong lãng đạo

kinh tế, bám sát tổng kết thực tiễn trung thành với chủ nghĩa Mac – Lenin và tư
tưởng Hồ Chí Minh nhưng rất coi trọng bổ sung phát triển cho phù hợp với điều
kiện mới.
Trong giai đoạn đổi mới nền kinh tế (từ năm 1886) Nước ta đã có sự thay đổi
căn bản về chế độ kinh tế gắn liền với nó nó là nhu cầu tất yếu về đổi mới hệ thống
chính trị nhưng Đảng ta khơng nóng vội bản lĩnh chính trị (kiên định mục tiêu, con
đường). Sự thận trọng trong việc lựac chọn bước đi trong đó sự ổn định về chính trị
là điều kiện tiền đề để đổi mới kinh tế có hiệu quả. Chính trị là biểu hiện tập chung
của kinh tế nhưng không phải là gương soi của kinh tế. Bản lĩnh chính trị ở chỗ
khơng phản ánh nhu cầu kinh tế ở cấp độ cá biệt với tính đa dạng ngẫu hứng của nó
mà là phản ánh lợi ích một gia cấp một dân tộc, phản ánh xu hương mang tính bản
chất của đời sống kinh tế. Nhà nước tự ý thức rằng chuyển sang cơ chế thị trường là
một tất yếu, một cơ hội đồng thời cũng là một thách thức. Nếu bản lĩnh chính trị
khơng đủ vững để lãnh đạo kinh tế vượt qua mọi thách thức thì rõ ràng đây là một
nguy cơ cho đát nước bởi sự cạnh tranh tàn khốc của nền kinh tế thị trường.
Đảng ta chủ chương chuyển sang kinh tế thị trường xong phải giữ vững theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, gắn liền với chủ nghĩa Mac – Lenin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, chúng ta khơng coi thị trường là mục tiêu mà coi nó như là một phương
tiện quan trọng để phát triển kinh tế.


Cần nhận thức rõ ràng mỗi thành phần kinh tế ở nước ta trong thời kỳ quá độ
đi lên chủ nghĩa xã hội có bản chất kinh tế xã hội riêng chịu sự tác động của các quy
luật kinh tế riêng. Bên cạnh sự thơng nhất về kinh tế cịn chứa đựg nhiều mâu thuẫn
và khác biệt khiến cho nền kinh tế thị trường ở nước ta có khả năng phát triển theo
những chiều hướng khác nhau. Để tránh nảy sinh những phát triển của kinh tế theo
hướng tiêu cực thì địi hỏi mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị phải hết sức chặt
chẽ. Phải có một chế độ chính trị ổn định, vững chắc để định hướng cho nền kinh tế
đúng theo con đường mà Đảng và Nhà nước ta đang đi theo đó là con đường xây
dựng chế độ chủ nghĩa xã hội.

- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước
Sự ổn định về chính trị là tiền đề quyết định sự thắng lợi của công cuộc đổi
mới nền kinh tế ở nước ta hiện nay. Đặt trong sự nghiệp chung của toàn đảng, toàn
dân trong giai đoạn mới đấu tranh trên các mặt chính trị văn hố tư tưởng cho độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thì cơng cuộc đổi mới kinh tế là một quá trình diễn
ra lâu dài, gian khổ và phức tạp. Dĩ nhiên đó là sự nghiệp chung của tồn dân nhưng
nó địi hỏi phải mang tính tự giác, phải có một Đảng Cộng sản tiên phong, dày dạn
kinh ngiệm, biết không ngừng đổi mới lãnh đạo. Công cuộc đổi mới kinh tế ở nước
ta gắn liền với đường lối đổi mới của Đảng. Trước hết là quan điểm phát triển nền
kinh tế hàng hố nhiều thành phần, giải phóng sức sản xuất xã hội, dân chủ hoá đời
sống kinh tế, từ đại hội VI. Cơ chế quản lý kinh tế, các chính sách kinh tế vĩ mô
luôn được đổi mới cho sát với sự thay đổi của tình hình trên cơ sở so sánh các cuôc
thử nghiệm của hai cơ chế tồn tại song trùng. Hai cơ chế chở thành đối chứng Đảng
và Nhà nước ta đã đi đến quyết định xoá bỏ cơ chế tập trung quan niệm để chuyển
sang cơ chế kế hoạch hố và hạch tốn kinh doanh.
Ngồi ra chính trị cịn đóng vai trị to lớn trong q trình đổi mới nền kinh tế
nước ta hiện nay. Trên cơ sở coi kinh tế thị trường là trung tâm của hoạt động kinh
tế Chính phủ đã chọn cải cách giá Nhà nước sang giá thị trường, ban hành các quy


định một cách nhanh gọn hơn tạo điều kiện cho việc làm kinh tế thuận lợi hơn
không quá nhiều thủ tục.
Sự ổn định về chính trị trong nhiều năm qua ở Việt Nam đã giúp cho các nhà
đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam ngày một tăng lên. Việt Nam được coi là
một trong những thị trường ổn định nhất trên thế giới, luôn tạo cảm giác yên tâm
cho các nhà đầu tư trong và ngồi nước.
- Có thể nói chính trị có vai trị to lớn trong cơng cuộc đổi mới
Kinh tế ở nước ta góp phần quan trọng trong những thắng lợi của đổi mới
những chính trị khơng làm thay đổi được tiến trình phát triển khách quan của xã hội.
Ngược lại những đổi mới trong kinh tế cũng có tác động mạnh mẽ ngược trở

lại đối với nền chính trị nước ta.
Từ khi kết quả đổi mới nền kinh tế góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống
nhân dân đã tạo ra sự tin tưởng của người dân vào sự nghiệp lãnh đạo phát triển kinh
tế của Đảng ta góp phần ổn định về chính trị.
Khác với các nước khác sự thất thường của nền kinh tế thường dẫn tới việc
thay đổi về chính trị, thì đối với nước ta sự ổn định về kinh tế đã duy trì được sự
lãnh đạo đất nước của Đảng cộng sản Việt Nam và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Một nền kinh tế phát triển sẽ làm cho đời sống người dân cao hơn, dân trí cao
hơn, các phương tiện truyền thông đến người dân tốt hơn do đó tình hình hoạt động
chính trị trong nước được người dân nắm cụ thể hơn. Thuận lợi cho việc tuyên
truyền các đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước.
Nói tóm lại kinh tế và chính trị ở nước ta trong giai đoạn hiện nay biểu hiện
mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có tác động, tích cực tới nhau bằng văn minh, phấn
đấu hoàn thành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.


CHƯƠNG III: MỘT SỐ TỒN TẠI VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO MỐI QUAN
HỆ GIỮA CHÍNH TRỊ VÀ KINH TẾ TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở
VIỆT NAM THỜI GIAN TỚI
3.1.

Một số tồn tại trong mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế ở Việt Nam
Hiện nay trong quá trình đổi mới nền kinh tế thì hoạt động chính trị cịn tồn

tại nhiều bất cập, tác động xấu tới nền kinh tế.
Trước hết phải nói tới việc Nhà nước can thiệp quá sâu vào công việc làm ăn
của các cơ sở kinh tế. Nhà nước ta vẫn cịn tồn tại thói quan liêu làm cho cơ sở kinh
tế không mạnh bạo trong quá trình làm kinh tế.
Các đơn vị kinh tế Nhà nước thường làm ăn khơng có hiệu quả nhưng vì mục
đích chính trị như để định hướng nền kinh tế, sản xuất các sản phẩm phục vụ cho an

ninh quốc phịng hoặc dùng làm cơng cụ điều tiết vĩ mơ nền kinh tế nên vẫn được
duy trì dù làm ăn thua lỗ gây thiệt hại không nhỏ cho nền kinh tế.
Các chính sách, luật định, các quy luật về hoạt động kinh tế còn nhiều rắc rối,
gây phiền nhiễu cho các hoạt động kinh tế làm các nhà đầu tư ái ngại.
Hệ thống luật pháp còn nhiều kẽ hở, mâu thuẫn giữa các điều khoản tạo điều
kiện cho tham ô tham nhũng, chiếm đoạt tài sản gây ra bất ổn về kinh tế kéo theo là
hàng loạt những bất ổn về đời sống chính trị và xã hội làm giảm lòng tin của người
dân vào chế độ.
3.2.

Một số giải pháp nâng cao mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế trong
công cuộc đổi mới ở Việt Nam
Để khắc phục những tồn tại trên và đẩy mạnh đổi mới phát triển kinh tế thì có

thể áp dụng một số giải pháp sau:
Giữ vững sự ổn định về chính trị, hồn thiện hệ thống luật pháp: sự ổn định
về chính trị bao giờ cũng là nhân tố quan trọng đầu tiên nó là điều kiện để các nhà
sản xuất kinh doanh trong và ngoài nước yên tâm đầu tư. Muốn giữ vững sự ổn định


về chính trị ở nước ta hiện nay cần phải giữ và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước phát huy quyền làm
chủ của nhân dân.
Xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp một cách triệt để, hoàn thiện cơ
chế quản lý kinh tế của Nhà nước. Nhà nước thực hiện định hướng sự phát triển
kinh tế, có hệ thống chính sách nhất qn triệt để tạo môi trường ổn định và thuận
lợi cho hoạt động kinh tế, hạn chế và khắc phục những tiêu cục của thị trường. Nhà
nước thực hiện đúng chức năng quản lý về kinh tế, không can thiệp vào chức năng
quản lý kinh doanh để các doanh nghiệp có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh.
Tiến hành cổ phần hố các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động khơng hiệu quả.

Để đảm bảo cho nền kinh tế ổn định thì Nhà nước cần phải ban hành các
chính sách, luật định về việc bảo vệ sở hữu tư nhân. Bởi vì nếu khơng có sở hữu tư
nhân thì khơng có doanh nghiệp tư nhân do đó cũng đồng nghĩa với khơng có cạnh
tranh có hiệu quả.
Sở hữu tư nhân khơng chỉ có nguy cơ bị mất do trộm cắp, cướp giật mà cịn
do nguy cơ nghiệm trọng từ phí Chính phủ. Điều này khơng chỉ xảy ra khi chính
phủ áp dụng các biện pháp tước đoạt do luật pháp quy định mà cịn nghiêm trọng
hơn khi có những thay đổi đột ngột trong pháp chế. Sự thay đổi đột ngột đó có thể
gây ra những thay đổi to lớn đến những điều kiện trên thị trường.
Bảo vệ sở hữu tư nhân cũng phải được chú ý trong sở hữu tri thức và thương
mại như bằng sáng chế, quy trình cơng nghệ, quyền tác giả.... cần có các chính sách
nhằm đưa ra các khu vực kinh tế phát triển một cách đồng đều như giữa thành thị
với nông thôn khu vực đồng bằng với khu vực miền núi. Mặc dù hiện nay đã có
nhiều ưu đãi, chế độ cho nững người về hoạt động kinh tế ở vùng nông thôn, miền
núi, những ưu tiên cho con em các dân tộc nhưng vẫn còn chưa tạo được động lực
mạnh mẽ để các khu vực kinh tế này phát triển mạnh mẽ nhằm thu hẹp khoảng cách
với thành thị đồng thời nâng cao đời sống của nhân dân đồng thời để đổi mới kinh tế
có hiệu quả thì Đảng và Nhà nước phải đẩy mạnh các hoạt động chính trị như: thực


hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần tuy nhiên phải phát huy tính chủ
đạo của kinh tế Nhà nước.
Đẩy mạnh cơng nghiệp hố - hiện đại hố ứng dụng nhanh tiến bộ khoa học
kỹ thuật, trên cơ sở đó đẩy mạnh phân cơng lao động xã hội. Hình thành và phát
triển đồng bộ các loại thị trường đồng thời cần phải mở rộng và nâng cao hiệu quả
kinh tế đối ngoại, về việc này chính phủ đóng vai trị quan trọng các hoạt động chính
trị ngoại giao sẽ là điều kiện tốt để tìm đối tác đầu tư và tìm thị trường cho các
doanh nghiệp trong nước. Nhà nước có vai trị đứng ra giải quyết các tranh chấp
quốc tế khi xảy ra vấn đề kiện tụng.
Ngoài ra Nhà nước còn phải điều tiết nền kinh tế ở tầm vĩ mô đảm bảo sự ổn

định về kinh tế, giảm lạm phát chống độc quyền và các tiêu cực nảy sinh trong quá
trình phát triển kinh tế.


KẾT LUẬN
Có thể nói: Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị là đại diện tiêu biểu cho mối
quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Một đất nước chỉ
có thể có cơ sở hạ tầng vững chắc khi có một nền kinh tế phát triển và ổn định. Trên
cơ sở hạ tầng đó sẽ hình thành một kiến trúc thượng tầng tương ứng gồm: chính trị,
pháp luật, tơn giáo.... do đó, kiến trúc thượng tầng muốn ổn định thì địi hỏi hạ tầng
cơ sở phải vững chắc.
Qua đó có thể thấy vai trị quyết định của kinh tế đối với chính trị. Mỗi hình
thái kinh tế sẽ hình thành nên một thể chế chính trị tương ứng. Khi mà hình thái
kinh tế đó thay đổi thì tất yếu sẽ kéo theo sự thay đổi của thể chế chính trị một nênf
kinh tế có ổn định và phát triển thì mới có sự ổn định về chính trị. Trong một xã hội
có giai cấp nếu giai cấp nào giữ địa vị thống trị về kinh tế thì tất yếu sẽ giữ địa vị
thống trị về chính trị.
Ngược lại chính trị cũng có tác động to lớn đối với kinh tế. Ngày nay tất cả
các nước trên thế giới đều gắn liền hoạt động chính trị của đất nước với hoạt động
kinh tế, khơng có một nước nào để hoạt động chính trị tách rời khỏi hoạt động kinh
tế. Sự ổn định về chính trị là điều kiện cần thiết nhất để phát triển nền kinh tế của
đất nước. Nhà nước không chỉ đơn thuần là người giữ trật tự mà còn phải tham gia
điều tiết từ bên trong nền kinh tế. Trong xã hội có giai cấp thì chính trị là yếu tố tác
động mạnh mẽ nhất đến hoạt động kinh tế. Vì ở đó tập trung bộ máy bạo lực của
giai cấp thống trị về kinh tế, Nhà nước bảo vệ xây dựng và phát triển nền kinh tế đã
hình thành nên chế độ Nhà nước đó, chống lại mọi nguy cơ phá hoại nền kinh tế đó
từ bên ngồi.
Ở Việt Nam mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị ngồi những điểm chung
trên cịn có những điểm riêng mang tính đặc thù.
Quá trình đổi mới nền kinh tế ở Việt Nam dựa trên một xuất phát điểm kinh tế

nghèo nàn lạc hậu so với các nước trên thế giới. Hình thái kinh tế nước ta là hình


thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa trên cơ sở đó hình thành nên Nhà nước Việt Nam với
thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa.
Cơng cuộc đổi mới kinh tế nước ta do Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng
và lãnh đạo từ đại hội Đảng VI (1986) đã và đang thu được những kết quả thắng lợi
góp phần nâng cao đời sống nhân dân, củng cố sự ổn định về chính trị tăng cường
lịng tin của người dân vào chế độ.
Tình hình chính trị hết sức ổn định của nước ta đã góp phần khơng nhỏ vào
việc thu hút vốn đầu tư và phát triển kinh tế. Tuy nhiên hiện nay nước ta cịn một số
tồn tại có thể trở thành rào cản cho quá trình đổi mới nền kinh tế như: thói quan liêu
cửa quyền, sự can thiệp quá sâu của Nhà nước vào kinh tế các chính sách luật định,
luật pháp quy định về kinh tế cịn nhiều sơ hở bất cập...đặc biệt là thói cục bộ của
một số lãnh đạo cũng cần phải chấn chỉnh để tạo mơi trường chính trị và pháp lý
thuận lợi tạo cơ sở vững chắc về kinh tế cho đất nước thực hiện thành công cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Giáo trình Chính trị học đại cương, Khoa Chính trị học, Học viện Báo chí &

2.

Tuyên truyền
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI - Đảng Cộng sản Việt Nam –

3.


NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1986.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI - Đảng Cộng sản Việt Nam –

4.

NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII - Đảng Cộng sản Việt Nam –

5.

NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2016.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII - Đảng Cộng sản Việt Nam

– NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2021.
6. Tạp chí cộng sản.
7. Tạp chí kinh tế.
8. Giáo trình Kinh tế chính trị Mac - Lenin, NXB Chính trị quốc gia.
9. Giáo trình Triết học Mac - Lenin, NXB Chính trị quốc gia.
10. V.I.Lênin toàn tập, tập 42, NXB Tiến bộ - Matxcơva.
11. C. Mác - F.Ănghen: Tuyển tập - tập 5, NXB Sự thật Hà Nội.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×