Tải bản đầy đủ (.doc) (143 trang)

Đào tạo, bồi dưỡng viên chức trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn tỉnh đắk lắk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (572.4 KB, 143 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận văn
Đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, viên chức là một
trong những nội dung được đảng và nhà nước ta quan tâm. Đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ công chức nói chung và đào tạo, bồi dưỡng viên chức trong các
cơ sở giáo dục nghề nghiệp nói riêng đóng vai trị quan trọng trong việc nâng
cao trình độ, năng lực thực thi công việc của công chức, viên chức, đáp ứng
ngày càng cao trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong xã hội hiện nay giáo dục vẫn là một lĩnh vực được nhiều người
quan tâm, những viên chức làm trong lĩnh vực giáo dục, đặc biệt là trong các
cơ sở giáo dục nghề nghiệp không ngừng trau dồi kiến thức, đổi mới, học tập
nâng cao trình độ chuyên môn để phục vụ công tác quản lý và công tác giảng
dạy được tốt hơn, đào tạo cho đất nước những thế hệ có kiến thức về nghề
nghiệp và tay nghề cao phục vụ cho đất nước trong thời buổi nền kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa.
Trong thời đại xây dựng xã hội học tập ngày nay, vai trị của viên chức
nói chung và giáo viên, giảng viên nói riêng trong các cơ sở giáo dục nghề
nghiệp khơng thể thiếu trong q trình định hướng về tri thức và nhân cách, là
tấm gương sáng đối với các thế hệ học trị. Muốn làm được điều đó, thì viên
chức trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp luôn cần được đào tạo, bồi dưỡng
để nâng cao năng lực, tiếp cận với sự phát triển của xã hội, của giáo dục để
thực hiện tốt vai trị của mình. Vấn đề đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên
luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm và được thể hiện trong các văn bản,
chính sách định hướng chiến lược phát triển.
Những năm qua, việc đào tạo, bồi dưỡng viên chức trong các cơ sở
GDNN tại tỉnh Đắk Lắk đã được thực hiện thường xuyên, liên tục và đã có
những bước tiến rõ rệt, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo giáo


2


dục nghề nghiệp. Bên cạnh đó, cơng tác đào tạo, bồi dưỡng hiện nay vẫn còn
bộc lộ những hạn chế, yếu kém như: đội ngũ viên chức giáo dục nghề nghiệp
còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng và chưa đồng bộ về cơ cấu, chưa đáp
ứng được nhu cầu đổi mới và phát triển giảng dạy nghề nghiệp trong các cơ
sở giáo dục nghề nghiệp, chưa đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới
và hội nhập kinh tế quốc tế. Sự hạn chế này do nhiều nguyên nhân chủ quan,
khách quan khác nhau, trong đó có ngun nhân là do cơng tác ĐTBD viên
chức cịn hạn chế.
Để khắc phục những hạn chế này, cần có các biện pháp phù hợp trong
công tác ĐTBD viên chức. Là viên chức công tác trong lĩnh vực giáo dục
nghề nghiệp, bản thân luôn trăn trở làm sao để công tác ĐT, BD cho giáo
viên, giảng viên có hiệu quả hơn, phát huy tối đa năng lực của nhà giáo để
góp phần thực hiện đổi mới giáo dục nói chung và giáo dục nghề nghiệp nói
riêng. Vì vậy, trong khn khổ đề tài luận văn thạc sĩ, tôi lựa chọn nghiên cứu
đề tài: “Đào tạo, bồi dưỡng viên chức trong các cơ sở giáo dục nghề
nghiệp trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk” với mong muốn đóng góp những cơ sở
lý luận và thực tiễn về ĐTBD viên chức, đề xuất những biện pháp nâng cao
hiệu quả công tác ĐTBD viên chức, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ
viên chức trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cơng chức, viên chức nói chung là
vấn đề ln được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm, và cũng là vấn đề
được nhiều nhà khoa học nghiên cứu. Vấn đề đào tạo, bồi dưỡng công chức,
viên chức đă được một số bài viết, cơng trình nghiên cứu ở nhiều góc độ khác
nhau. Nhìn chung, các bài viết, cơng trình đó cũng đă đưa ra một số vấn đề lý
luận và thực tiễn về cán bộ, công chức cũng như đưa ra một số giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức,


3


viên chức. Nhiều luận văn, luận án cũng đã nghiên cứu về đào tạo bồi dưỡng
cán bộ, công chức, viên chức. Điểm chung nhất và cũng giống như luận văn
của tác giả chính là dựa vào lý thuyết đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực trong
tổ chức nói chung để vận dụng vào trong từng tổ chức, cơ quan, đơn vị. Về lý
thuyết đào tạo bồi dưỡng, thường được trình bày trong nhiều sách, tài liệu
giảng dạy khác nhau:
- Tài liệu: Công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức, viên chức của
Trường cán bộ Bộ tài chính. Năm 2015. Đây là một tài liệu mang tính giáo
trình nhằm cung cấp thông tin về lý luận và thực tiễn cơng tác đào tạo bồi
dưỡng CBCC, VC nói chung.Tài liệu cung cấp những cách tiếp cận khác nhau
về cụm từ đào tạo bồi dưỡng; các hình thức hoạt động đào tạo bồi dưỡng dựa
trên sự tổng hợp các nguồn khác nhau. Đặc biệt đây là tài liệu hệ thống được
tất cả thực tiễn quy định về đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức viên chức ở
Việt Nam đến năm 2015.
- Tài liệu: “Thực trạng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở Việt
Nam hiện nay” của Nguyễn Thị Lan Hương đăng trên Thư viện Học liệu Mở
Việt Nam (VOER) là một tài liệu cung cấp khá nhiều thông tin liên quan đến
hoạt động đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức viên chức với những số liệu
dẫn chứng khá phong phú. Trong đó cũng chỉ ra đào tạo bồi dưỡng cho nhóm
người dân tộc (ở Đắk Lắk cũng có thể có) đang là vấn đề hạn chế. Khi có một
tỷ lệ khơng nhỏ cán bộ cơng chức viên chức chưa đạt chuẩn quy định.
- Bài viết của Nguyễn Thi La “Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
trong q trình cải cách hành chính” Tạp chí Cộng sản 04/9/2015 đă tổng kết,
khái quát một số vấn đề đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơng chức trong tiến trình
cải cách hành chính nhà nước. Tác giả cũng chỉ cho thấy những vấn đề đang
tồn tại trong đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức. Và đưa ra một số kiến nghị
nhằm hoàn thiện hoạt động đào tạo bồi dưỡng.



4

- ThS. Nguyễn Nhân Nghĩa “Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng
cơng chức, viên chức Ủy ban Chứng khốn Nhà nước”. Đề tài nghiên cứu
khoa học của Ủy ban chứng khốn nhà nước. Đây cũng là một cơng trình đề
cập đến khá nhiều nội dung mang tính lý luận về đào tạo bồi dưỡng và đồng
thời cũng hướng đến ứng dụng lý luận đào tạo, bồi dưỡng đó trong việc nâng
cao chất lượng đào tạo bồi dưỡng viên chức ngành chứng khoán.
- TS Nguyễn Ngọc Vân. “Cơ sở khoa học của Đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ công chức hành chính theo nhu cầu cơng việc”. Đề tài khoa học 2008. Đề
tài đề cập đến hai hình thức đào tạo bồi dưỡng phổ biến là: Hình thức đào tạo,
bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch nhằm đáp ứng yêu cầu của nhà quản lý đối
với người học đáp ứng theo tiêu chuẩn quy định và Hình thức đào tạo, bồi
dưỡng theo nhu cầu nhằm đáp ứng nhu cầu của người học trên cơ sở yêu cầu
của công việc, dựa trên các yêu cầu khách quan của thực tế hoạt động công
vụ. Tác giả cũng đă phân tích để chỉ ra ưu điểm hạn chế. Đặc biệt phân tích
thực trạng đào tạo bồi dưỡng hiện nay chung cả nước cũng có khá nhiều nội
dung gần như đối với Đắk Lắk.Tác giả đề tài cũng khuyến nghị một số nội
dung cần thay đổi nhằm nâng cáo chất lượng đào tạo bồi dưỡng. Đó là đổi
mới việc xác định nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng của cán bộ, công chức.
- PGS.TS Võ Kim Sơn. Cẩm nang đánh giá khóa học. Bộ nội vụ. 2007.
ADB tài trợ. Đây là cơng trình nghiên cứu cách thức đánh giá khóa đào tạo
bồi dưỡng cả từ 4 bên thêm gia, liên quan: người học; người dạy; nhà tổ chức
khóa học; cơ quan sử dụng.Và nếu đánh giá từ 4 nhóm đối tượng này cả
trước, trong và sau khóa đào tạo bồi dưỡng sẽ chỉ ra được hiệu quả.
- PGS.TS Ngơ Thành Can. Cải cách quy trình đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức nhằm nâng cao năng lực thực thi cơng vụ. Tạp chí tổ chức nhà
nước. Tác giả giới thiệu quy trình 4 bước đào tạo bồi dưỡng trong đó cũng
nhấn mạnh đến xác định nhu cầu đào tạo như là khâu then chốt.



5

- Luận văn thạc sĩ quản lý công tại Học viện Hành chính Quốc gia.
Quản lý nhà nước về đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức tại Tổng cục thuế,
Bộ Tài chính. Phạm Thị Hiền Thảo năm 2016. Luận văn cũng đề cập đến một
số nội dung liên quan đến đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức, nhưng xét
trên giác độ quản lý nhà nước. Đồng thời cũng chưa thực sự đủ khi bàn về
quản lý nhà nước đào tạo bồi dưỡng cho cả nhóm cán bộ mà thực tế Tổng Cục
thuế khơng có ai là cán bộ. Điều đó cũng có nghĩa là triết lý về đào tạo bồi
dưỡng và quản lý nhà nước về đào tạo bồi dưỡng trong bối cảnh Việt Nam
khó phân biệt.
- Luận văn thạc sĩ quản lý công tại Học viện Hành chính Quốc gia: Đào
tạo, bồi dưỡng viên chức ngành bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
Lê Thị Ngọc Loan năm 2017. Luận văn cũng đề cập đến một số nội dung liên
quan đến đào tạo bồi dưỡng viên chức ngành bảo hiểm xã hội. Tuy cũng đã
đưa ra được một số giải pháp nhưng vẫn chưa thật sự hồn chỉnh.
Các cơng trình nghiên cứu trên đều dựa vào lý thuyết chung về đào tạo
bồi dưỡng để đưa ra cách tiếp cận về đào tạo bồi dưỡng riêng cho nhóm đối
tượng quan tâm. Tuy nhiên, ở Việt Nam cụm từ cán bộ, công chức và viên
chức trên nhiều phương diện đều chịu sự điều chỉnh chung cách tiếp cận của
văn bản pháp luật. Việc Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định mới về
đào tạo bồi dưỡng chung cho cả ba nhóm đối tượng cũng thể hiện tính đồng
nhất tương đối đó. Ít đề tài đề cập cụ thể đến viên chức riêng lẻ. Và do đó, khi
nghiên cứu vận dụng cho đề tài luận văn, tác giả cố gắng tham khảo để tìm ra
nét riêng cho luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích nghiên cứu:
Trên sở sở đánh giá thực trạng hoạt động đào tạo, bồi dưỡng viên chức
hiện nay (qua thực tiễn ở các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn tỉnh



6

Đắk Lắk), nhằm đề ra những giải pháp đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động
đào tạo, bồi dưỡng viên chức góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ viên
chức ở nước ta nói chung và các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn tỉnh
Đắk Lắk nói riêng.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về đào tạo bồi dưỡng viên chức;
+ Đánh giá thực trạng và nguyên nhân tồn tại của đào tạo, bồi dưỡng
viên chức trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn Tỉnh Đắk Lắk
trong thời gian qua.
+ Đề ra một số giải pháp để đổi mới đào tạo bồi dưỡng viên chức trong
các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn Tỉnh Đắk Lắk trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Đào tạo, bồi dưỡng viên chức trong các cơ sở
giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn Tỉnh Đắk Lắk.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về khách thể: viên chức trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên
địa bàn Tỉnh Đắk Lắk
+ Về mặt không gian: Nghiên cứu việc đào tạo bồi dưỡng viên chức
trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn Tỉnh Đắk Lắk
+ Về mặt thời gian: Số liệu sử dụng để phân tích trong luận văn giai
đoạn 2015-2020, các giải pháp được đề xuất trong luận văn có Ý nghĩa đến
năm 2030.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Phương pháp luận:
Cơ sở lý luận: Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận & phương
pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lê Nin. Tư tưởng Hồ Chí Minh. Đường lối



7

của Đảng, các chính sách của nhà nước về xây dựng và phát triển nguồn nhân
lực quốc gia.
- Phương pháp nghiên cứu:
- Để đạt được mục tiêu nghiên cứu đề ra, luận văn đă sử dụng kết hợp
nhiều phương pháp thực hiện nghiên cứu trong đó chủ yếu.
+ Phương pháp phân tích thực chứng, phương pháp chuẩn tác
+ Phương pháp tổng hợp, so sánh, thống kê
+ Các phương pháp khác.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận: Đề tài sẽ đóng góp những lý giải nhằm làm rõ một số
vấn đề, lý luận liên quan đến công tác đào tạo bồi dưỡng viên chức trong các
cơ sở giáo dục nghề nghiệp.
- Ý nghĩa thực tiễn: Đề tài đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm tăng
cường chất lượng công tác đào tạo bồi dưỡng viên chức trong các cơ sở giáo
dục nghề nghiệp.
+ Sản phẩm nghiên cứu cịn có thể là tài liệu tham khảo có ích cho
những người tham gia vào việc xây dựng các chiến lược và quản lý, công tác
đào tạo, bồi dưỡng viên chức trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp ở Việt
Nam hiện nay.
+ Cơng trình nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận về khái niệm
viên chức & vấn đề tác đào tạo bồi dưỡng viên chức.
+ Đánh giá đúng thực trạng về đội ngũ viên chức trong các cơ sở giáo
dục nghề nghiệp trên địa bàn Tỉnh Đắk Lắk, chỉ ra được các ưu điểm, tồn tại
và nguyên nhân ảnh hưởng đến nguồn nhân lực. Từ đó đề xuất một số giải
pháp có tính khả thi nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ viên chức trong các cơ
sở giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn Tỉnh Đắk Lắk

7. Kết cấu của luận văn


8

Ngoài phần mở đầu và kết luận, Luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: cơ sở lý luận và thực tiễn về đào tạo, bồi dưỡng viên chức
trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp
Chương 2: Thực trạng đào tạo, bồi dưỡng viên chức trong các cơ sở
giáo dục nghề nghiệp tỉnh Đắk Lắk
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện hoạt động đào tạo, bồi dưỡng
viên chức trong các cơ sở giáo nghề nghiệp tỉnh Đắk Lắk


9

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG VIÊN
CHỨC TRONG CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm viên chức
1.1.1.1. Cách tiếp cận viên chức của các nước
Viên chức cơng hay viên chức của chính phủ là viên chức gắn liền với
hành chính cơng, chính phủ hay bất cứ một cơ quan nhất định của chính phủ
bao gồm cả lập pháp, hành pháp và tư pháp. Họ được đưa vào nhà nước bằng
nhiều hình thức khác nhau:
- Thơng qua bầu cử;
- Thơng qua hình thức tuyển dụng;
- Thơng qua hình thức thuê làm việc.
- Khác

Viên chức là một từ đa nghĩa, không sử dụng giống nhau giữa các quốc
gia. Cụm từ “offical” trong tiếng Anh được hiểu là viên chức, tuy nhiên,
không đồng nghĩa chỉ đơn thuần là người làm việc cho nhà nước. Đó là bất cứ
một ai giữ một vị trí nhất định trong một tổ chức không phân biệt tổ chức nhà
nước hay tư nhân; doanh nghiệp hay chính trị. Họ thực thi nhiệm vụ và quyền
hạn nhất định hoặc tự có, hoặc được cấp trên hoặc người thuê họ trao cho.
Tùy theo từng cách tiếp cận, từ “official” được giải thích khác nhau.
Theo quan niệm của Maw Weber, bureaurcatic officials - viên chức là những
con người có những đặc trưng sau:
- Là một người được bổ nhiệm vào vị trí trên cơ sở đạo đức;
- Thực thi quyền hạn được trao (ủy quyền) theo những quy tắc vô nhân
xưng và thực hiện nhiệm vụ đó một cách trung thành;


10

- Bổ nhiệm và đặt vào vị trí theo tiêu chuẩn chuyên môn, kỹ thuật;
- Công việc họ thực hiện là thường xuyên;
- Công việc được trả công theo quy chế và được bảo vệ chế độ làm việc
suốt đời [41].
Cụm từ người làm việc cho nhà nước có thể sử dụng chung cho tất cả
các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, việc phân loại người làm việc cho nhà
nước lại khơng có chuẩn mực thống nhất. Trên thực tế có rất nhiều cách phân
loại. Với cách thức phân loại đa dạng, không giống nhau nên khi xem xét tên
gọi người làm việc cho nhà nước của các nước, cần quan tâm đến nội hàm
bên trong của cụm từ đó.
- Cơng chức và người làm th khơng phải cơng chức cũng được điều
chỉnh bằng pháp luật khác nhau và cũng đang có xu hướng thống nhất;
- Th mang tính ngắn hạn đang trở thành xu hướng chung;
- Công chức (civil servants);

- Không phải công chức (Non-civil service employees) được thuê theo
luật việc làm nhưng có những điều kiện đặc biệt. Xu hướng gia tăng loại này.
- Người làm việc tạm thời, không thường xuyên;
- Nhà quản lý hay những người đảm nhận chức danh quản lý [42].
1.1.1.2. Cách tiếp cận viên chức ở Việt Nam
Khái niệm viên chức được quy định tại điều 2 của Luật viên chức năm
2010 do Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành “Viên
chức là công dân Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm việc tại
đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương từ
quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật”[29].
Từ những quy định trong văn bản pháp luật trên, ta có thể hiểu khái
niệm về viên chức thơng qua một số nội dung cụ thể sau đây:


11

+ Viên chức là những công dân Việt Nam qua quá trình tuyển dụng
theo một quy trình nhất định để vào làm tại các vị trí cơng việc cụ thể
+ Địa điểm công tác là làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập
trực thuộc sự quản lý của Nhà nước;
+ Chế độ hợp đồng làm việc của viên chức theo quy định mới nhất tại
Điều 2 của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều trong Luật cán bộ, công chức và
Luật viên chức được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban
hành năm 2019 (với nội dung sửa đổi, bổ sung điều 25 trong luật viên chức
2010), có hiệu lực thi hành từ 01/07/2020 là chế độ hợp đồng làm việc có xác
định thời hạn.
Mã ngạch viên chức là mã số phân chia viên chức làm căn cứ xây
dựng, quản lý đội ngũ viên chức theo từng nghề nghiệp, chuyên môn và cấp
bậc phù hợp; các chuyên ngành viên chức có thể kể đến như giáo dục, y tế,
giải trí… các nhân viên trong cơ quan nhà nước khác.

Đối với từng ngành nghề, viên chức sẽ được chia thành các ngạch khác
nhau. Cụ thể viên chức sẽ được chia thành 06 bảng như sau:
- Ngạch viên chức chuyên ngành tương đương với ngạch chuyên viên
cao cấp
- Ngạch viên chức chuyên ngành tương đương với ngạch chuyên viên
chính
- Viên chức chuyên ngành tương đương với ngạch chuyên viên:
- Ngạch viên chức chuyên ngành tương đương với ngạch cán sự:
- Ngạch nhân viên
- Mã ngạch giáo viên giáo dục nghề nghiệp
Viên chức là một cụm từ để chỉ một nhóm người cụ thể làm việc cho
các tổ chức của nhà nước. Điều này cũng giống như cụm từ công chức. Công
chức cũng là một cụm từ để chỉ một nhóm người đặc biệt làm việc cho nhà


12

nước. Do tính chất tương đối đó nên tùy theo từng điều kiện cụ thể của từng
quốc gia mà cả hai cụm từ viên chức và công chức cũng để chỉ nhóm người
làm việc cho các cơ quan nhà nước.
Trong văn bản pháp luật từ 1959 đến giai đoạn 1998, nói chung người
làm việc cho Nhà nước khơng có sự tách biệt để phân chia thành từng nhóm
người ở từng loại cơ quan nhà nước khác nhau. Tất cả những ai làm việc cho
nhà nước sử dụng cụm từ nhân viên nhà nước. Và “Tất cả các nhân viên cơ
quan Nhà nước đều phải trung thành với chế độ dân chủ nhân dân, tuân theo
Hiến pháp, pháp luật hết lòng phục vụ nhân dân” [26].
Cùng với sự thống nhất đất nước, Hiến pháp 1980 ra đời thay thế cho
Hiến pháp 1959. Người làm việc cho nhà nước khơng có những tên gọi khác.
Cụm từ “nhân viên Nhà nước” được sử dụng. và không sử dụng cụm từ viên
chức. Tuy nhiên, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành văn bản quy định riêng về

viên chức và không sử dụng cụm từ nhân viên nhà nước như Hiến pháp sử
dụng.
Người làm việc cho nhà nước gọi chung là viên chức được chia thành 3
loại: A,B,C và phân thành 10 nhóm (tướng được với một số nước gọi là
ngạch), đánh số từ 0-9.
- Nhóm 9. Viên chức lãnh đạo cơ quan, xí nghiệp.
- Nhóm 8. Viên chức lãnh đạo các bộ phận cấu thành trong cơ quan, xí
nghiệp.
- Nhóm 7. Viên chức chun mơn làm cơng tác kinh tế và kỹ thuật.
- Nhóm 6. Viên chức chuyên môn làm công tác nông nghiệp, lâm
nghiệp, ngư nghiệp.
- Nhóm 5. Viên chức chun mơn làm cơng tác y tế, văn hố, giáo dục,
nghiên cứu khoa học.
- Nhóm 4: Viên chức chun mơn làm cơng tác quan hệ quốc tế.


13

- Nhóm 3: Viên chức chun mơn làm cơng tác pháp chế
- Nhóm 2. Viên chức làm cơng tác hạch tốn và kiểm tra.
- Nhóm 1. Viên chức làm cơng tác hành chính, chuẩn bị tư liệu.
- Nhóm 0. Viên chức làm công tác phục vụ.
Như vậy, giai đoạn này, cụm từ viên chức được sử dụng cho tất cả
những ai làm việc cho nhà nước.
Cụm từ viên chức nhà nước xuất hiện trở lại trong văn bản pháp luật
nhà nước cao nhất- Hiến pháp 1992. Theo đó “Các cơ quan nhà nước, cán bộ,
viên chức nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên
hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự quan sát của nhân
dân”[27]. Nhưng Hiến pháp không sử dụng cụm từ công chức.
Trong văn bản pháp luật cấp thấp hơn, chưa có văn bản nào quy định

cụ thể ai là công chức và ai là viên chức, nhưng văn bản về tiền lương xác
định cụ thể: Hệ thống bảng lương các ngạch công chức, viên chức và phụ cấp
chức vụ lãnh đạo khu vực hành chính, sự nghiệp. Mặc dù cụm từ viên chức
được sử dụng, nhưng khơng có chuẩn mực riêng.
Cụm từ viên chức được hiểu khi có Luật viên chức (2010). Và từ đây
và các văn bản pháp luật hướng dẫn thực hiện luật, cụm từ viên chức được
xác định cụ thể:
- Điều kiện là công dân Việt Nam ;
- Được tuyển dụng theo vị trí việc làm;
- Chế độ làm việc là hợp đồng;
- Nơi làm việc: đơn vị sự nghiệp công lập;
- Lương được trả từ ngân sách nhà nước và một phần từ nguồn thu.
Như vậy cho đến năm 2010, cách hiểu về viên chức mới được xác lập
bằng văn bản pháp luật cao nhất là “Luật viên chức”.Và đây cũng là nét đặc
trưng của các phân loại người làm việc cho nhà nước của Việt Nam[29].


14

Cần chú ý “Hoạt động nghề nghiệp của viên chức là việc thực hiện
công việc hoặc nhiệm vụ trong đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của
pháp luật về viên chức và các pháp luật có liên quan và viên chức sẽ được
phân loại theo hạng nghề nghiệp”[16]
- Viên chức giữ chức danh nghề nghiệp hạng I;
- Viên chức giữ chức danh nghề nghiệp hạng II;
- Viên chức giữ chức danh nghề nghiệp hạng III;
- Viên chức giữ chức danh nghề nghiệp hạng IV.
Đây chính là cơ sở quan trong để xây dựng kế hoạch đào tạo bồi dưỡng
viên chức nhằm phần biệt với đào tạo bồi dưỡng cơng chức như hiện nay.
Tóm lại, viên chức là mơt bộ phận người làm việc cho nhà nước, nhưng

gắn liền với các tổ chức với tên gọi là “đơn vị sự nghiệp của nhà nước”.
Tùy thuộc vào các quy định loại tổ chức nào thuộc nhóm đơn vị sự
nghiệp nhà nước để xác định viên chức. Đồng thời theo pháp luật hiện hành
cũng quy định cách thức xếp hạng nghề nghiệp cho viên chức làm việc trong
các đơn vị sự nghiệp công lập. tuy thuộc vào từng lĩnh vực sẽ có tiêu chuẩn
hạng nghề nghiệp khác nhau.
Và cũng có những giai đoạn, người làm việc cho nhà nước có thể phân
biệt thành những nhóm riêng biệt. Pháp luật nhà nước Việt Nam hiện hành
(Luật cán bộ công chức; luật viên chức) phân chia người làm việc cho nhà
nước thành:
- Cán bộ;
- Công chức
- Viên chức
- Người lao động làm việc cho nhà nước


15

Trong điều kiện cụ thể của thể chế chính trị Việt Nam, cả bốn nhóm
người đó đều có thể luân chuyển, chuyển từ loại này sang loại khác bằng
những thủ tục do pháp luật nhà nước quy định.
1.1.2. Cơ sở giáo dục nghề nghiệp
Giáo dục nghề nghiệp là một bậc học của hệ thống giáo dục quốc dân
nhằm đào tạo trình độ sơ cấp, trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng và các
chương trình đào tạo nghề nghiệp khác cho người lao động, đáp ứng nhu cầu
nhân lực trực tiếp trong sản xuất, kinh doanh và dịch vụ, được thực hiện theo
hai hình thức là đào tạo chính quy và đào tạo thường xuyên [30].
Mục tiêu chung của giáo dục nghề nghiệp là nhằm đào tạo nhân lực
trực tiếp cho sản xuất, kinh doanh và dịch vụ, có năng lực hành nghề tương
ứng với trình độ đào tạo; có đạo đức, sức khỏe; có trách nhiệm nghề nghiệp;

có khả năng sáng tạo, thích ứng với mơi trường làm việc trong bối cảnh hội
nhập quốc tế; bảo đảm nâng cao năng suất, chất lượng lao động; tạo điều kiện
cho người học sau khi hồn thành khóa học có khả năng tìm việc làm, tự tạo
việc làm hoặc học lên trình độ cao hơn.
Còn mục tiêu cụ thể đối với từng trình độ của giáo dục nghề nghiệp
được quy định như sau:
Đào tạo trình độ sơ cấp để người học có năng lực thực hiện được các
công việc đơn giản của một nghề;
Đào tạo trình độ trung cấp để người học có năng lực thực hiện được các
cơng việc của trình độ sơ cấp và thực hiện được một số công việc có tính
phức tạp của chun ngành hoặc nghề; có khả năng ứng dụng kỹ thuật, công
nghệ vào công việc, làm việc độc lập, làm việc theo nhóm;
Đào tạo trình độ cao đẳng để người học có năng lực thực hiện được các
cơng việc của trình độ trung cấp và giải quyết được các cơng việc có tính
phức tạp của chuyên ngành hoặc nghề; có khả năng sáng tạo, ứng dụng kỹ


16

thuật, công nghệ hiện đại vào công việc, hướng dẫn và giám sát được người
khác trong nhóm thực hiện cơng việc.
Căn cứ vào Điều 5 Luật Giáo dục nghề nghiệp, hiện nay cơ sở giáo dục nghề
nghiệp bao gồm:
Trung tâm giáo dục nghề nghiệp;
Trường trung cấp;
Trường cao đẳng.
Cơ sở giáo dục nghề nghiệp được tổ chức theo các loại hình sau đây:
Cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập là cơ sở giáo dục nghề nghiệp
thuộc sở hữu Nhà nước, do Nhà nước đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất;
Cơ sở giáo dục nghề nghiệp tư thục là cơ sở giáo dục nghề nghiệp

thuộc sở hữu của các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức
kinh tế tư nhân hoặc cá nhân, do các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề
nghiệp, tổ chức kinh tế tư nhân hoặc cá nhân đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất;
Cơ sở giáo dục nghề nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi gồm cơ sở giáo dục
nghề nghiệp 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài; cơ sở giáo dục nghề
nghiệp liên doanh giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài.
Cơ cấu tổ chức của trường trung cấp, trường cao đẳng công lập, tư thục bao
gồm:
- Hội đồng trường đối với trường trung cấp, trường cao đẳng công lập;
hội đồng quản trị đối với trường trung cấp, trường cao đẳng tư thục;
- Hiệu trưởng, phó hiệu trưởng;
- Các phịng hoặc bộ phận chuyên môn, nghiệp vụ;
- Các khoa, bộ môn;
- Các hội đồng tư vấn;


17

- Phân hiệu; tổ chức nghiên cứu khoa học và công nghệ; tổ chức phục
vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học và triển khai ứng dụng; cơ sở sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ (nếu có).
Cơ cấu tổ chức của trung tâm giáo dục nghề nghiệp công lập, tư thục bao
gồm:
- Giám đốc, phó giám đốc;
- Các phịng hoặc bộ phận chuyên môn, nghiệp vụ;
- Các tổ bộ môn;
- Các hội đồng tư vấn;
- Các đơn vị phục vụ đào tạo; cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ (nếu
có).
Cơ sở giáo dục nghề nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi được tự chủ về cơ cấu

tổ chức.
Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập, tư thục
- Xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển cơ sở giáo dục nghề nghiệp.
- Tổ chức đào tạo đối với các trình độ đào tạo nghề nghiệp theo quy
định sau đây:
Trung tâm giáo dục nghề nghiệp tổ chức đào tạo trình độ sơ cấp, đào
tạo nghề nghiệp phổ thơng và tư vấn hướng nghiệp cho học sinh theo chương
trình giáo dục phổ thông;
Trường trung cấp tổ chức đào tạo trình độ trung cấp, trình độ sơ cấp;
Trường cao đẳng tổ chức đào tạo trình độ cao đẳng, trình độ trung cấp
và trình độ sơ cấp.
- Tổ chức đào tạo thường xuyên
- Tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong tuyển sinh và quản lý người học.
- Công bố công khai mục tiêu, chương trình đào tạo; điều kiện để bảo
đảm chất lượng dạy và học; mức học phí và miễn, giảm học phí; kết quả kiểm


18

định chất lượng đào tạo; hệ thống văn bằng, chứng chỉ của cơ sở giáo dục
nghề nghiệp; vị trí việc làm sau khi tốt nghiệp và các biện pháp kiểm tra,
giám sát chất lượng đào tạo.
- Tổ chức giảng dạy, học tập theo mục tiêu, chương trình đào tạo; cấp
bằng, chứng chỉ giáo dục nghề nghiệp cho người học; tổ chức cho người học
học tập, thực hành và thực tập tại doanh nghiệp thông qua hợp đồng với
doanh nghiệp.
- Được sử dụng chương trình đào tạo của nước ngồi đã được tổ chức
giáo dục, đào tạo nước ngoài hoặc quốc tế có uy tín cơng nhận về chất lượng
để thực hiện nhiệm vụ đào tạo theo quy định của pháp luật.
- Liên kết hoạt động đào tạo trong nước; liên kết hoạt động đào tạo với

nước ngoài theo quy định của Luật này và pháp luật có liên quan.
- Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực theo quy định của pháp
luật.
- Xây dựng, đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị đào tạo theo yêu cầu chuẩn
hóa, hiện đại hóa.
- Tuyển dụng, sử dụng, quản lý nhà giáo, cán bộ quản lý, viên chức,
người lao động; tổ chức cho nhà giáo thực tập sản xuất tại doanh nghiệp để
cập nhật, nâng cao kỹ năng nghề; tổ chức cho nhà giáo, viên chức, người lao
động và người học tham gia các hoạt động xã hội.
- Thực hiện kiểm định và bảo đảm chất lượng đào tạo theo quy định.
- Tư vấn đào tạo, tư vấn việc làm miễn phí cho người học.
- Được thành lập doanh nghiệp, được tổ chức hoạt động khoa học và
công nghệ, sản xuất, kinh doanh, dịch vụ theo quy định của pháp luật.
- Đưa nội dung giảng dạy về ngôn ngữ, phong tục, tập quán, pháp luật
có liên quan của nước mà người lao động đến làm việc và pháp luật có liên


19

quan của Việt Nam vào chương trình đào tạo khi tổ chức đào tạo cho người
lao động đi làm việc ở nước ngoài.
- Nghiên cứu khoa học để phục vụ và nâng cao chất lượng đào tạo; ứng
dụng các kết quả nghiên cứu, chuyển giao công nghệ vào thực tiễn sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ.
- Thực hiện quy chế dân chủ trong cơ sở giáo dục nghề nghiệp.
- Có cơ chế để người học, nhà giáo và xã hội tham gia đánh giá chất
lượng đào tạo nghề nghiệp.
- Thực hiện chế độ thông tin, báo cáo và chịu sự giám sát, thanh tra,
kiểm tra theo quy định của pháp luật.
- Các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.

1.1.3. Viên chức trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp
Viên chức làm việc tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp cơng lập có
những đặc điểm chung như những viên chức khác, đồng thời có đặc điểm
riêng của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp như sau:
- Lao động khơng mang tính quyền lực cơng, chỉ thuần túy là lao động
nghề nghiệp mang tính chun mơn, nghiệp vụ nhằm cung cấp kiến thức, kỹ
năng cho sinh viên theo chương trình, kế hoạch giáo dục theo quy định, quản
lý sinh viên trong các hoạt động giáo dục do Nhà trường tổ chức, chịu trách
nhiệm về chất lượng, hiệu quả giáo dục, nghiên cứu và ứng dụng thực tiễn
cho người học.
- Hoạt động nghề nghiệp của viên chức gắn liền với sứ mệnh của Nhà
trường, ln địi hỏi, tìm tịi đáp ứng với mục tiêu đã đề ra. Bởi vậy, trong
hoạt động của viên chức Nhà trường luôn phải tuân thủ quy định của ngành,
giữ gìn phẩm chất, danh dự, uy tín, gương mẫu, bảo vệ chính đáng lợi ích cho
học sinh, sinh viên.


20

- Tâm huyết với nghề, giữ gìn phẩm chất, danh dự, uy tín, lương tâm;
có tinh thần đồn kết, thương yêu, giúp đỡ đồng nghiệp trong cuộc sống và
trong công tác; có lịng nhân ái, bao dung, độ lượng, đối xử hòa nhã với học
sinh, sinh viên, học viên (sau đây gọi chung là người học), đồng nghiệp; bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của người học, đồng nghiệp và cộng
đồng.
- Tận tụy với công việc, thực hiện đúng điều lệ, quy chế, nội quy của cơ
sở giáo dục nghề nghiệp, của ngành. Được hoạt động nghề nghiệp ngoài thời
gian làm việc quy định trong hợp đồng làm việc, trừ trường hợp pháp luật có
quy định khác; được ký hợp đồng vụ việc với cơ quan, tổ chức mà đơn vị
khác mà pháp luật không cấm nhưng phải hồn thành nhiệm vụ được giao và

có sự đồng ý của người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập; được góp vốn
nhưng khơng tham gia quản lý, điều hành công ty trách nhiệm hữu hạn, công
ty cổ phần, công ty hợp danh, hợp tác xã, bệnh viện tư, trường học và tổ chức
nghiên cứu khoa học tư, trừ trường hợp pháp luật chun ngành có quy định
khác.
- Cơng bằng trong giảng dạy và giáo dục, đánh giá đúng thực chất năng
lực của người học, thực hành tiết kiệm, chống bệnh thành tích, chống tham
nhũng, lãng phí.
- Quyền của viên chức mang tính hướng mở hơn cơng chức vì hoạt
động mang tính chun mơn, nghiệp vụ do đó có thể là điều kiện để phát huy
được tài năng, tính sáng tạo cũng như khả năng cống hiến cho xã hội trong
điều kiện tình hình đất nước đổi mới như hiện nay.
- Viên chức quản lý là người được bổ nhiệm giữ chức vụ quản lý có
thời hạn, chịu trách nhiệm điều hành, tổ chức thực hiện một hoặc một số công
việc trong đơn vị sự nghiệp công lập nhưng không phải là công chức và được
hưởng phụ cấp chức vụ quản lý. Bên cạnh quy định với quyền của viên chức,


21

thì các quy định về nghĩa vụ của viên chức cũng được quy định phù hợp với
đặc điểm hoạt động nghề nghiệp của viên chức.
Nhà giáo trong cơ sở hoạt động giáo dục nghề nghiệp
- Nhà giáo trong cơ sở hoạt động giáo dục nghề nghiệp bao gồm nhà
giáo dạy lý thuyết, nhà giáo dạy thực hành hoặc nhà giáo vừa dạy lý thuyết
vừa dạy thực hành.
- Nhà giáo trong trung tâm giáo dục nghề nghiệp, trường trung cấp
được gọi là giáo viên; nhà giáo trong trường cao đẳng được gọi là giảng viên.
- Chức danh của nhà giáo trong cơ sở giáo dục nghề nghiệp bao gồm
giáo viên, giáo viên chính, giáo viên cao cấp; giảng viên, giảng viên chính,

giảng viên cao cấp.
- Nhà giáo trong cơ sở hoạt động giáo dục nghề nghiệp phải đáp ứng
các tiêu chuẩn sau đây: Có phẩm chất, đạo đức tốt; đạt trình độ chuẩn được
đào tạo về chuyên môn và nghiệp vụ; có đủ sức khỏe theo yêu cầu nghề
nghiệp; có lý lịch rõ ràng.
Trình độ chuẩn được đào tạo của nhà giáo
- Nhà giáo dạy trình độ sơ cấp phải có bằng tốt nghiệp trung cấp trở lên
hoặc có chứng chỉ kỹ năng nghề để dạy trình độ sơ cấp.
- Nhà giáo dạy lý thuyết chun mơn trình độ trung cấp phải có bằng
tốt nghiệp đại học trở lên; nhà giáo dạy thực hành trình độ trung cấp phải có
chứng chỉ kỹ năng nghề để dạy thực hành trình độ trung cấp.
- Nhà giáo dạy lý thuyết chun mơn trình độ cao đẳng phải có bằng tốt
nghiệp đại học trở lên; nhà giáo dạy thực hành trình độ cao đẳng phải có
chứng chỉ kỹ năng nghề để dạy thực hành trình độ cao đẳng.
- Nhà giáo vừa dạy lý thuyết vừa dạy thực hành trình độ trung cấp,
trình độ cao đẳng phải đạt chuẩn của nhà giáo dạy lý thuyết và chuẩn của nhà
giáo dạy thực hành.


22

- Nhà giáo khơng có bằng tốt nghiệp cao đẳng sư phạm, cao đẳng sư
phạm kỹ thuật hoặc bằng tốt nghiệp đại học sư phạm, đại học sư phạm kỹ
thuật thì phải có chứng chỉ nghiệp vụ sư phạm.
- Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp ở
trung ương quy định nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng nghề
và chứng chỉ kỹ năng nghề để dạy thực hành ở các trình độ; quy định nội
dung chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho nhà giáo trong các cơ sở
hoạt động giáo dục nghề nghiệp.
Tuyển dụng, đánh giá và bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ đối

với nhà giáo
- Việc tuyển dụng nhà giáo phải bảo đảm các tiêu chuẩn, trình độ chuẩn
được đào tạo quy định tại khoản 4 Điều 53 và Điều 54 của Luật này và được
thực hiện theo quy định của pháp luật về lao động, pháp luật về viên chức, ưu
tiên tuyển dụng làm nhà giáo đối với người có kinh nghiệm trong thực tế sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ phù hợp với ngành, nghề giảng dạy [17].
- Nhà giáo phải được đánh giá, phân loại hằng năm theo quy định của
pháp luật.
- Việc bồi dưỡng chuẩn hóa, bồi dưỡng nâng cao về chun mơn,
nghiệp vụ sư phạm, kỹ năng nghề, tin học, ngoại ngữ; thực tập tại doanh
nghiệp đối với nhà giáo được thực hiện theo quy định của Thủ trưởng cơ quan
quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp ở trung ương.
1.1.4. Khái niệm về đào tạo bồi dưỡng viên chức
Hiện nay, các thuật ngữ “đào tạo”, “bồi dưỡng” và “đào tạo bồi dưỡng”
đang được sử dụng khá rộng rãi và trở thành phổ biến. Tuy nhiên, việc phân
định thế nào là đào tạo, thế nào là bồi dưỡng và đào tạo bồi dưỡng cũng cần
được hiểu một cách nhất quán.


23

Theo Từ điển tiếng Việt do GS. Hoàng Phê chủ biên (Nxb. Từ điển
Bách khoa, Hà Nội, 2010), Đào tạo - đó là làm cho trở thành người có năng
lực theo những tiêu chuẩn nhất định; Còn Bồi dưỡng - đó là làm cho tăng
thêm sức của cơ thể bằng chất bổ tăng thêm năng lực hoặc phẩm chất [25]
Theo Đại từ điển do GS. Nguyễn Như Ý chủ biên (Nxb. Văn hóa Thơng tin, Hà Nội, 1998), Đào tạo - đó là dạy dỗ, rèn luyện để trở nên người
có hiểu biết, có nghề nghiệp; Cịn bồi dưỡng - đó là làm cho khỏe thêm, mạnh
thêm và tốt hơn, giỏi hơn [40]
Phân tích những nét nghĩa chính của hai khái niệm “đào tạo” và “bồi
dưỡng” được các Từ điển giải thích trên đây cho thấy, đây là hai khái niệm,

mặc dù có những nét nghĩa tương đồng nhất định (như đều chỉ quá trình làm
tốt hơn, lành mạnh hơn, chuyên nghiệp hơn cho khách thể), song đây là hai
khái niệm không đồng nghĩa nhau bằng những nội hàm nghĩa rất cụ thể - mà
trước hết, đó là sự khu biệt cơ bản về chất của cả một quá trình giáo dục. Nếu
như khái niệm “đào tạo” được hiểu là một q trình dài, khép kín nhằm trang
bị và xây dựng cho khách thể các tố chất mà trước đó khách thể đó khơng có;
Cịn khái niệm “bồi dưỡng” chỉ được coi là một giai đoạn ngắn, bổ trợ, nhằm
bồi bổ thêm, làm tốt thêm và nâng cao hơn các tố chất vốn đã có sẵn của
khách thể.
Hiện nay, theo các văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam có sử dụng
hai từ ngữ “đào tạo” và “bồi dưỡng” cũng cho thấy các nội hàm khác nhau
khá rõ ràng trên cả trên bình diện cấu tạo từ và cú pháp - ngữ nghĩa.
Nghị định 18/2010/NĐ-CP ngày 5/3/2010 của Chính phủ về đào tạo, bồi
dưỡng công chức đã đưa ra cách hiểu về đào tạo và bồi dưỡng như sau:
“Đào tạo là q trình truyền thụ, tiếp nhận có hệ thống những tri thức,
kỹ năng theo quy định của từng cấp học, bậc học”.


24

“Bồi dưỡng là hoạt động trang bị, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng
làm việc”[15].
Theo cách hiểu trên, đào tạo là quá trình truyền đạt một lượng kiến
thức nhất định cho một đối tượng học tập cụ thể mà quá trình truyền đạt này
phải là một qui trình khép kín với những chuẩn mực và hệ phương pháp dạy
và học cụ thể, trong một khoảng thời gian nhất định. Yếu tố xuất phát điểm
của năng lực, kiến thức đầu vào của đối tượng được đào tạo không nhất thiết
làm rõ, nhưng năng lực và kiến thức đầu ra (sau quá trình truyền đạt, dạy và
học) phải được qui chuẩn và xác định rõ các tiêu chuẩn đã đạt được. Sự
chuyển biến về chất lượng năng lực và kiến thức của đối tượng được đào tạo

sau khi trải qua một qui trình dạy và học để có thể đảm nhận và đáp ứng được
yêu cầu của một chuyên ngành đã được học.
Bồi dưỡng là quá trình truyền đạt thêm một lượng kiến thức nhất định
cho một đối tượng học tập cụ thể, trong đó khơng nhất thiết phải làm rõ về
quá trình và hệ phương pháp truyền đạt thêm, cũng không nhất thiết phải thay
đổi cơ bản chất lượng năng lực và kiến thức của người học, mà chỉ cần cung
cấp thêm năng lực và kiến thức cho họ.
Như vậy, đến nay cả về mặt khoa học và pháp lý, đã có sự thống nhất
cơ bản về các khái niệm “đào tạo” và “bồi dưỡng” và tồn tại với 2 khái niệm
độc lập. Tuy nhiên, bên cạnh 02 khái niệm đào tạo và bồi dưỡng là những
khái niệm độc lập, trong thực tiễn vẫn còn một quan niệm mới là đào tạo bồi
dưỡng là một thuật ngữ chung không tách rời.
Đào tạo bồi dưỡng
Có thể nói, đào tạo và bồi dưỡng tuy là hai khái niệm khác nhau – như
đã giải thích trên đây, nhưng lại có cùng một mục đích chung làm cho người
lao động có trình độ chun môn, khả năng xử lý công việc và năng lực cơng
tác được tốt hơn. Trên thực tế có một số hoạt động đào tạo, hoặc bồi dưỡng


25

rất khó phân chia thành đào tạo hoặc bồi dưỡng, bởi lẽ giữa chúng có sự đan
xen và kế thừa lẫn nhau.
Trong hoạt động thực tiễn, trừ một số cơ sở đào tạo thuộc hệ thống giáo
dục quốc dân, có cấp bằng học theo cấp học, bậc học, còn lại nhiều cơ sở giáo
dục đào tạo vẫn coi việc đào tạo và bồi dưỡng là một quá trình và cấp chứng
chỉ hoặc bằng cấp bao gồm cả hai quá trình đào tạo và bồi dưỡng. Trên thế
giới, cơ quan hành chính của các nước như Mỹ, Nhật Bản, Thái Lan,
Singapore… không đặt ra nhiệm vụ tổ chức đào tạo các trình độ trung cấp,
cao đẳng, đại học và sau đại học cho công chức. Điều này được giải nghĩa:

khi được tuyển dụng và bổ nhiệm vào một vị trí nhất định, người công chức
đã phải đáp ứng các tiêu chuẩn của vị trí đó, trong đó có tiêu chuẩn về trình
độ đào tạo. Khi cần nguồn nhân lực có trình độ cao hơn, họ sẽ tổ chức tuyển
dụng những đối tượng đã được đào tạo trình độ họ cần mà không tổ chức
hoặc cử công chức đi đào tạo.
Như vậy, việc phân định độc lập giữa đào tạo và bồi dưỡng hiện nay
cũng chỉ mang tính chất tương đối, trong nhiều trường hợp khơng hồn tồn
xác định chính xác khi nào diễn ra quá trình đào tạo, khi nào thực hiện bồi
dưỡng. Chẳng hạn, một công chức được bổ nhiệm vào vị trí lãnh đạo sẽ được
học chương trình đào tạo bồi dưỡng. Nếu như coi lãnh đạo là một nghề
nghiệp thì trước đó, người lãnh đạo này chưa được đào tạo, chưa được học
một cách bài bản để “tiếp nhận có hệ thống những tri thức, kỹ năng” theo quy
định của bậc và chức vụ quy định. Khi được tham gia khóa đào tạo và bồi
dưỡng chương trình lãnh đạo quản lý, người lãnh đạo đó vừa được đào tạo,
vừa được bồi dưỡng, trong đào tạo có bồi dưỡng và trong bồi dưỡng có đào
tạo. Do vậy, trong trường hợp này, đào tạo bồi dưỡng tồn tại là một khái niệm
độc lập.


×