Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

(SKKN 2022) vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học văn bản bài ca ngất ngưởng của nguyễn công trứ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.96 KB, 26 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT VĨNH LỘC

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP THẢO LUẬN NHÓM
TRONG DẠY HỌC VĂN BẢN “BÀI CA NGẤT NGƯỞNG”
CỦA NGUYỄN CÔNG TRỨ

Người thực hiện: Đinh Thị Duyên
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc mơn: Ngữ văn

THANH HỐ, NĂM 2022


MỤC LỤC
Nội dung
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
3. Kết luận và kiến nghị


3.1. Kết luận.
3.2. Kiến nghị.

Trang
1
1
1
1
1
2
2
4
6
19
20
20
20


1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài.
Trong những năm gần đây, rất nhiều học sinh có xu hướng coi nhẹ và
chán học môn văn, yếu kém về năng lực cảm thụ văn chương, lạnh lùng vô cảm
trước nỗi đau của những số phận trong tác phẩm cũng như ngoài đời sống. Có
thể nói đây là hệ quả tất yếu của phương pháp dạy học văn truyền thống. Đó là
lối dạy truyền thụ một chiều, thầy đọc, trò ghi, thầy say sưa giảng bài, trò tiếp
nhận thụ động và ghi nhớ một cách máy móc. Vì thế giờ học trở nên buồn tẻ,
khơng khí lớp học nặng nề, căng thẳng, không gợi được ở các em niềm hứng
thú. Để khắc phục lối truyền thụ tri thức một chiều, lối học thụ động, máy móc
này, địi hỏi người giáo viên phải sử dụng phối hợp nhiều phương pháp, phương

pháp dạy học truyền thống và phương pháp dạy học hiện đại, trong đó phương
pháp dạy học thảo luận nhóm được rất nhiều nhà giáo dục quan tâm và được
đánh giá là có hiệu quả. Với phương pháp này, người học sẽ tự giác, tích cực,
chủ động tiếp thu kiến thức, đồng thời có điều kiện bộc lộ suy nghĩ của mình,
tạo khơng khí học tập sơi nổi, kích thích tất cả học sinh tham gia vào quá trình
học tập, đáp ứng mục tiêu giáo dục đề ra: “lấy học sinh làm trung tâm”.
Nguyễn Cơng Trứ khơng chỉ là nhà chính trị, nhà qn sự lỗi lạc mà ơng
cịn là nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc. Nói đến sự nghiệp văn chương của
Nguyễn Công Trứ, người ta không thể không nhắc đến thơ hát nói. Ơng được
xem là ơng hồng của thể hát nói. Nói đến thơ hát nói của Nguyễn Công Trứ nức
danh nhất là “Bài ca ngất ngưởng”. Đây là kiệt tác tiêu biểu cho cá tính và
phong cách văn chương của Nguyễn Công Trứ. Bởi vậy, tác phẩm được tuyển,
dẫn trong hầu hết các cơng trình biên soạn, nghiên cứu về ông và cũng được đưa
vào giảng dạy trong chương trình Ngữ văn lớp 11 tập 1. Bài thơ được làm theo
một thể loại văn học tương đối khó. Mặt khác, thời gian tác phẩm ra đời có một
khoảng cách vô cùng lớn đối với các em học sinh hiện nay. Do đó, người dạy
gặp khó khăn trong soạn giảng, cịn người học gặp khó khăn trong việc tiếp nhận
văn bản.
Xuất phát từ những lý do trên, với mong muốn góp phần cải tiến phương
pháp dạy học, nâng cao hiệu quả dạy học văn, đồng thời phát huy tính chủ động,
sáng tạo và rèn luyện một số kỹ năng tiếp nhận văn bản cho học sinh, tôi mạnh
dạn trao đổi và chia sẻ cùng đồng nghiệp sáng kiến kinh nghiệm: Vận dụng
phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học văn bản “Bài ca ngất ngưởng”
của Nguyễn Công Trứ.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Thơng qua đề tài nghiên cứu, người viết đề xuất một cách dạy học văn
bản “Bài ca ngất ngưởng” để tìm ra một hướng đi mới trong dạy học Ngữ văn
nhằm nâng cao hiệu quả công tác giảng dạy của bản thân, tạo động lực, hứng
thú, tình yêu, sự say mê với môn học cho các em, góp phần vào cơng cuộc đổi
mới tồn diện phương pháp dạy học Ngữ văn.

1.3. Đối tượng nghiên cứu.
- Phương pháp dạy học thảo luận nhóm.
- Hoạt động dạy học văn bản “Bài ca ngất ngưởng”.
- Đối tượng thực nghiệm.
1


1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi đã sử dụng kết hợp nhiều phương
pháp nghiên cứu khác nhau như:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận:
+ Nghiên cứu các cơ sở lý luận có liên quan đến đề tài.
+ Nghiên cứu nội dung chương trình sách giáo khoa lớp 11 chương trình
cơ bản, tài liệu chuẩn kiến thức kĩ năng và các tài liệu của nhiều tác giả khác.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
+ Tổng kết kinh nghiệm giáo dục: Trao đổi tổng kết kinh nghiệm dạy học.
+ Thực nghiệm sư phạm: Nhằm xác định hiệu quả của nội dung đề xuất.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
2.1.1. Định nghĩa phương pháp thảo luận nhóm.
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về phương pháp thảo luận nhóm.
Theo tác giả Nguyễn Văn Cường “Dạy học nhóm là một hình thức xã hội
của dạy học, trong đó học sinh của lớp học được chia thành các nhóm nhỏ trong
khoảng thời gian giới hạn, mỗi nhóm tự lực hồn thành các nhiệm vụ học tập
trên cơ sở phân công và hợp tác làm việc. Kết quả làm việc của nhóm sau đó
được trình bày và đánh giá trước tồn lớp” [1]. Tác giả Phan Trọng Ngọ cũng
cho rằng:“Thảo luận nhóm là phương pháp trong đó nhóm lớn (lớp học) được
chia thành những nhóm nhỏ để tất cả các thành viên trong lớp đều được làm
việc và thảo luận về một chủ đề cụ thể và đưa ra ý kiến chung của nhóm mình về
vấn đề đó.” [2]. Thống nhất với các quan điểm trên, Nguyễn Trọng Sửu trong

cơng trình “Dạy học nhóm - phương pháp dạy học tích cực” viết: “Dạy học
nhóm là một hình thức của xã hội học tập, trong đó học sinh của một lớp được
chia thành các nhóm nhỏ trong khoảng thời gian nhất định, mỗi nhóm tự lực
hồn thành các nhiệm vụ học tập trên cơ sở phân công và hợp tác làm việc, kết
quả làm việc của nhóm sau đó được trình bày và đánh giá trước lớp”[3].
Từ các định nghĩa trên, chúng ta có thể đi đến kết luận: Thảo luận nhóm là
một phương pháp dạy học hiện đại, lấy người học làm trung tâm. Với phương
pháp này, người học được làm việc cùng nhau theo các nhóm nhỏ và mỗi một
thành viên trong nhóm đều có cơ hội tham gia vào giải quyết các nhiệm vụ học
tập trong một khoảng thời gian nhất định dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
2.1.2. Mục đích của phương pháp thảo luận nhóm.
Nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, tự lực của học sinh: Trong thảo
luận nhóm, học sinh phải tự giải quyết nhiệm vụ học tập, địi hỏi sự tham gia
tích cực của các thành viên, đồng thời các thành viên cũng có trách nhiệm về kết
quả làm việc của mình.
Phát triển năng lực cộng tác làm việc của học sinh: Học sinh được luyện
tập kỹ năng cộng tác, làm việc với tinh thần đồng đội, các thành viên có sự quan
tâm và khoan dung trong cách sống, cách ứng xử…
Giúp cho học sinh có điều kiện trao đổi, rèn luyện khả năng ngơn ngữ
thơng qua hợp tác làm việc trong nhóm, phát triển năng lực giao tiếp, biết lắng
nghe, chấp nhận và phê phán ý kiến người khác. Đồng thời, các em biết đưa ra
những ý kiến và bảo vệ ý kiến của mình.
2


Giúp cho học sinh có sự tự tin trong học tập, vì học sinh học tập theo hình
thức hợp tác và qua giao tiếp xã hội - lớp học, cho nên các em sẽ mạnh dạn và
không sợ mắc phải những sai lầm.
Hình thành phương pháp nghiên khoa học cho học sinh: Thơng qua thảo
luận nhóm, nhất là q trình tự lực giải quyết các vấn đề bài học, các em hình

thành dần phương pháp nghiên cứu khoa học, rèn luyện và phát triển năng lực
khoa học trong mọi vấn đề cuộc sống.
Tăng cường tri thức, hiệu quả trong học tập: Áp dụng phương pháp dạy học
này, học sinh có thể nắm bài ngay trên lớp, hình thành những tri thức sáng tạo
thông qua sự tự tư duy của mỗi thành viên, khích thích học sinh tìm kiếm những
nguồn tri thức có liên quan đến vấn đề thảo luận. Trên cơ sở đó, các em sẽ thu
lượm những kiến thức cho bản thân thơng qua q trình tìm kiếm tri thức.
2.1.3. Nhiệm vụ của giáo viên và học sinh trong giờ thảo luận nhóm.
2.1.3.1. Nhiệm vụ của giáo viên:
Trước khi tiến hành thảo luận nhóm, giáo viên cần chuẩn bị vấn đề thảo
luận. Vấn đề phù hợp với phương pháp thảo luận nhóm là vấn đề có tính chất
tranh luận. Một vấn đề có tính tranh luận là vấn đề có nhiều cách lí giải, suy
tưởng, đơi khi có mâu thuẫn. Sự thành cơng của thảo luận nhóm là giáo viên đưa
ra được các vấn đề thú vị, thách thức học sinh trả lời, buộc học sinh cùng nhau
hợp tác để tìm ra câu trả lời.
Tiếp theo, giáo viên hướng dẫn học sinh tìm và đọc tài liệu liên quan đến
vấn đề thảo luận. Tài liệu bao gồm sách giáo khoa và các tài liệu khác sách tham
khảo, phim ảnh…
Sau cùng, giáo viên tiến hành phân nhóm. Việc thành lập nhóm dựa trên số
lượng học sinh trong lớp và nội dung bài học. Số lượng thành viên trong nhóm
tối ưu là từ 4 đến 7 người. Cách chia nhóm có thể hoàn toàn ngẫu nhiên, hoặc
tùy theo tiêu chuẩn của giáo viên.
Khi học sinh thảo luận nhóm, giáo viên di chuyển chung quanh các nhóm,
im lặng quan sát các nhóm làm việc. Khi học sinh gặp khó khăn, bế tắc hay
tranh luận ngoài đề, giáo viên kịp thời can thiệp, hướng dẫn nhóm ra khỏi bế tắc
hoặc quay lại vấn đề đang thảo luận. Hướng dẫn ở đây là đưa ra vài chi tiết liên
quan đến giải pháp, đặt lại câu hỏi cho sáng rõ hơn chứ không đưa ra giải pháp.
Nếu nhóm im lặng quá lâu do hết ý hay khơng ai có ý kiến, giáo viên tìm hiểu lí
do và đặt câu hỏi cho học sinh trả lời. Trường hợp trong nhóm có thành viên
“ngơi sao” hoặc có thành viên quá nhút nhát, giáo viên khéo léo giải quyết vấn

đề bằng cách cho rằng ý kiến của thành viên nổi trội là đáng ghi nhận nhưng
giáo viên muốn nghe ý kiến của học sinh nhút nhát.
Cuối buổi thảo luận, nhiệm vụ của giáo viên là nhận xét, bổ sung, định
hướng đúng vấn đề, ghi nhận đóng góp của nhóm, cho điểm.
2.1.3.2. Nhiệm vụ của học sinh:
Học sinh phải chuẩn bị ý kiến cho vấn đề thảo luận, tham gia thảo luận.
Nếu ý kiến trùng với ý kiến của bạn đã đề cập trước thì học sinh cần phải bổ túc
thêm hay đưa ra một ý khác.
Học sinh bảo vệ ý kiến của mình bằng những dẫn chứng, lí lẽ thuyết phục.
Nếu ý kiến của bản thân khác với ý kiến của cả nhóm và phải chấp nhận ý kiến
3


đúng đắn. Trong khi thảo luận, học sinh cần ghi chép những ý kiến thảo luận
trên vở nháp.
Cuối buổi thảo luận, học sinh nhóm trưởng có trách nhiệm trình bày ý kiến
của nhóm trước lớp.
2.1.4. Các bước tiến hành thảo luận nhóm.
Bước 1: Sau khi chia nhóm, giáo viên giới thiệu nội dung và cung cấp
thông tin, định hướng cho việc thảo luận và đề ra nhiệm vụ cụ thể cho các nhóm.
Bước 2: Thảo luận nhóm: từng nhóm ngồi từng cụm với nhau để dễ dàng
trao đổi ý kiến, giáo viên dễ dàng quan sát, động viên hoặc gợi ý nếu cần trong
khi cả nhóm đang thảo luận. Nhóm trưởng có nhiệm vụ thu thập các ý kiến trong
nhóm để báo cáo trước lớp.
Bước 3: Thảo luận lớp: các nhóm báo cáo trước lớp, nếu cần các nhóm có
thể thảo luận với nhau để đi đến kết luận.
Bước 4: Giáo viên tổng kết và khái quát kết quả bài học.
2.1.5. Ưu điểm, hạn chế của phương pháp thảo luận nhóm.
* Ưu điểm:
Phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh, tạo sự đoàn kết, hợp tác giữa

các thành viên trong nhóm và mở rộng giao lưu với các học sinh khác, góp phần
tích cực trong q trình xây dựng nội dung bài học.
Giáo viên rèn luyện dần phương pháp học tập, nghiên cứu và thái độ học tập
tập thể, trên cơ sở đó sẽ tạo điều kiện tốt cho các em học tập cao hơn.
Rèn luyện vốn ngôn ngữ cho các em trong quá trình giao tiếp, kết chặt tình
bạn bè qua những lời nói sẻ chia, thơng cảm và yêu thương.
Giúp các em tự tin qua những lần thảo luận, thuyết trình, đồng thời rèn
luyện năng lực tư duy và phát hiện vấn đề.
Thảo luận nhóm là cơ hội tốt cho các em học tập, trao đổi với nhau. Các em
sẽ góp nhặt những kiến thức của nhau mà hồn chỉnh dần kiến thức của mình.
* Hạn chế:
Thời gian học tập trên lớp bị bó hẹp ở tiết học (45 phút/ tiết), nên giáo viên
sử dụng không khéo sẽ không cung cấp hết nội dung bài học vì phương pháp
này rất mất thời gian.
Do phải tập hợp học sinh thành những nhóm, giáo viên khơng nói rõ cách
chuẩn bị nhóm trước thì lớp học sẽ rối loạn hoặc mất trật tự, bị lãng phí nhiều
thời gian.
Nếu trình độ học sinh trong nhóm khơng đều nhau thì những học sinh giỏi,
khá sẽ lấn lướt những học sinh trung bình, yếu. Các em trung bình, yếu sẽ khơng
có điều kiện nói lên ý kiến riêng của mình. Từ đấy, các em sẽ mặc cảm, bất mãn,
lơ là và không chú ý vào buổi thảo luận.
Số lượng học sinh trong lớp quá đông (mỗi lớp trên 40 HS) cũng gây
những khó khăn cho việc vận dụng thảo luân nhóm vào việc dạy và học.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Trong những năm qua, theo yêu cầu của đổi mới phương pháp nhằm nâng
cao chất lượng dạy học, phương pháp thảo luận nhóm được giáo viên sử dụng
trong nhiều giờ dạy nhất là những giờ thao giảng, hội giảng. Khi dự giờ các tiết
học có sử dụng phương pháp này, chúng tơi thấy có những tiết dạy thành công
4



nhưng một số tiết dạy vẫn cịn có những hạn chế. Cụ thể:
2.2.1. Về phía giáo viên:
Việc lựa chọn vấn đề thảo luận nhóm chưa mang tính chất tranh luận, hấp
dẫn nên chưa khơi dậy tính tích cực của học sinh. Việc lựa chọn vấn đề thảo luân
là khâu then chốt quyết định sự thành bại của phương pháp dạy học này. Vấn đề
khơng hay, q dễ hoặc q khó khơng phù hợp với trình độ học sinh sẽ khơng
huy động, thu hút được học sinh tập trung thảo luân, nếu có thì cũng chỉ mang
tính chất đối phó.
Thao tác chia nhóm: Có trường hợp chia nhóm quá lớn hoặc quá nhỏ,
không phù hợp với vấn đề cần thảo luận và đặc điểm của lớp học. Việc chia
nhóm cịn đơn điệu, chủ yếu chia theo bàn (2 bàn/nhóm).
Thao tác chọn nhóm trưởng: Nhóm trưởng khơng do nhóm tự bầu hoặc
ln chuyển giữa các thành viên trong nhóm mà do giáo viên chọn một học sinh
khá trong nhóm chuyên trách. Điều này khiến cho các học sinh khác trong nhóm
mất đi cơ hội thể hiện mình cũng như cơ hội rèn luyện năng lực trình bày vấn đề
trước nhóm và tập thể lớp.
Thao tác quan sát, hỗ trợ học sinh khi thảo luận: Một số giáo viên khi giao
nhiệm vụ xong thường ngồi tại chỗ nên không quan sát, bao quát hết được học
sinh trong lớp làm gì trong thời gian thảo luận, dẫn tới tình trạng có học sinh
làm việc riêng, nói chuyện trong thời gian này. Giáo viên cũng khơng nắm bắt
được những khó khăn, lúng túng của học sinh trong q trình thảo ln để có sự
gợi ý, hỗ trợ kịp thời.
Thao tác tổng kết: Sau khi viết phương án trả lời ra bảng hoặc ra giấy,
nhóm trưởng thay mặt nhóm đọc kết quả thảo luận trước lớp hoặc viết lên bảng.
Giáo viên gọi học sinh khác nhận xét, bổ sung và kết luận. Thao tác này được
lặp đi lặp lại khá đơn điệu, nhàm chán.
2.2.2. Về phía học sinh:
Trong thời gian thảo luận, chỉ có số ít học sinh làm việc thật sự (nhóm
trưởng và HS khá, giỏi trong nhóm), cịn lại các em thường ngồi chơi, nói

chuyện, làm việc riêng. Một số học sinh khơng ý thức được sự cần thiết phải hợp
tác để chiếm lĩnh tri thức nên nhiều khi các em biến hoạt động thảo luận thành
cơ hội để tán gẫu, lãng phí thời gian, gây ồn ào, ảnh hưởng tới lớp khác.
Câu trả lời của học sinh thường lặp lại những kiến thức trong sách giáo
khoa, thiếu sức sáng tạo.
Vì những hạn chế trên mà phương pháp thảo luận nhóm thường được vận
dụng mang tính hình thức, đối phó, chủ yếu trong các giờ hội giảng, hầu như rất
ít được vận dụng trong những giờ học bình thường. Mặt khác, thảo luận nhóm
là phương pháp mất nhiều thời gian và số lượng học sinh trong lớp quá đông
cũng là nguyên nhân dẫn đến việc giáo viên không vận dụng phương pháp này.
Thực tế giảng dạy những năm qua của bản thân và dự giờ của đồng nghiệp
ở trường văn bản “Bài ca ngất ngưởng", tôi nhận thấy:
Hệ thống câu hỏi của giáo viên trong bài học chỉ là những câu hỏi tái hiện.
Điều này dẫn đến tâm lí nhàm chán cho người học vì những kiến thức đó đã có
sẵn trong sách giáo khoa.
5


Giáo viên chưa đưa ra được những tình huống có vấn đề để học sinh tìm
tịi, phát hiện. Do đó dẫn đến những kết luận của giáo viên về nội dung liên quan
đến bài học mang tính áp đặt cho người học. Học sinh tiếp nhận một cách thụ
động và sẽ quên ngay khi bài học kết thúc.
Học sinh khi làm bài kiểm tra về tác phẩm, chỉ đơn giản là tái hiện lại tác
phẩm mà khơng có sự bình luận, đánh giá, liên hệ...bởi trong quá trình học các
em không được trải nghiệm cùng cùng tác giả.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
Dạy học nhóm khơng phải là một phương pháp độc tơn. Nó cũng có những
hạn chế nhất định, nếu tổ chức khơng khéo dễ gây nên tình trạng kiến thức bị
gián đoạn, không hệ thống, thiếu lôgic, chỉnh thể tác phẩm bị phá vỡ, khơng khí,
tình cảm của giờ văn dễ bị xâm phạm. Nên khi vận dụng, chúng ta cần đảm bảo

một số nguyên tắc sau:
2.3.1. Câu hỏi thảo luận phải có tính vấn đề:
Câu hỏi có tính vấn đề là câu hỏi chứa đựng mâu thuẫn (giữa cái đã biết và
cái chưa biết) tạo nên tình huống có vấn đề, đồng thời kích thích được tính tích
cực, chủ động và phát huy tư duy sáng tạo trong hoạt động cảm thụ văn học của
học sinh.
Câu hỏi có vấn đề khơng nhằm mục đích tái hiện tri thức đã có mà yêu cầu
học sinh phải biết sử dụng “cái đã biết” để làm phương thức tìm tịi, nghiên cứu
những giá trị tri thức mới.
Cần lưu ý, vấn đề được nêu trong tác phẩm văn chương khơng phải có từ ý
định chủ quan của giáo viên mà vấn đề phải được đặt ra từ bản thân của tác
phẩm văn chương có nhiều ẩn số cần được giải mã về nội dung và hình thức và
từ vấn đề khó khăn, vướng mắc nảy sinh từ tầm đón nhận của học sinh trong q
trình tiếp nhận tác phẩm.Vấn đề trong tác phẩm văn chương thường là tư tưởng,
chủ đề, ý nghĩa tác phẩm hoặc tính hiệu quả của nghệ thuật xây dựng hình
tượng, xây dựng tính cách, kết cấu phi logic, sử dụng chi tiết như một điểm sáng
thẩm mĩ, các biện pháp tu từ…
Ngồi ra, nhiều khi sự thành cơng hay hạn chế của tác phẩm cũng là những
vấn đề. Nắm được vấn đề đặt ra từ tác phẩm và khả năng tiếp nhận của học sinh
được xem là bước khởi đầu quan trọng, có tính chất quyết định khi sử dụng
phương pháp thảo luận nhóm. Như vậy, muốn xây dựng được câu hỏi thảo luận
có vấn đề, giáo viên phải dựa vào những hiểu biết của mình về tác phẩm để đặt
học sinh vào tình huống có vấn đề, tổ chức cho học sinh giải quyết vấn đề bằng
câu hỏi gợi mở.
2.3.2. Thành lập nhóm học tập:
Trong việc thành lập nhóm, giáo viên cần lưu ý đến điều kiện lớp học, sĩ số
học sinh trong lớp cũng như nội dung bài học để có cách phân chia phù hợp.
Cách phân chia nhóm là tiền đề quan trọng làm nên thành công cho việc thảo
luận nhóm. Giáo viên nên phân chia các thành viên trong mỗi nhóm gồm các
học sinh giỏi, khá, trung bình, yếu, có cả nam và nữ nhằm khắc phục tình trạng

học sinh tự lựa chọn những thành viên thân thiết với nhau vào cùng một nhóm,
hoặc nhóm phân chia theo trình độ học tập. Việc phân chia như thế đảm bảo tính
6


cơng bằng, khơng phân biệt giới tính, trình độ, học sinh phải có trách nhiệm hỗ
trợ lẫn nhau để đi đến mục tiêu chung.
Số lượng nhóm, số lượng thành viên trong nhóm và thời gian thảo luận
phải phụ thuộc vào số lượng học sinh trong lớp hoặc vấn đề thảo luận nảy sinh
từ nội dung bài học. Cụ thể:
Với vấn đề thảo luận có tính chất phức tạp, chứa nhiều nội dung cần làm
sáng tỏ, hoặc có nhiều cách lí giải chúng ta nên chia nhóm gồm đủ trình độ học
sinh, số lượng thành viên từ 4 - 5 học sinh thời gian thảo luận khoảng 4 - 7 phút.
Với thời gian và cấu trúc nhóm đó, các em sẽ chia nhau đảm nhận những vấn đề
khác nhau nhằm hoàn thành nhiệm vụ mà giáo viên giao phó.
Với vấn đề thảo luận có tính chất đơn giản chúng ta nên sử dụng loại nhóm
2 học sinh và thời gian thảo luận trong khoảng 1-2 phút.
Bên cạnh đó, việc phân cơng nhiệm vụ cho từng thành viên trong nhóm
cũng góp phần quan trọng tạo hiệu quả cho quá trình học tập. Mỗi thành viên
trong nhóm phải được phân cơng nhiệm vụ rõ ràng và phải cùng hợp tác để giải
quyết nhiệm vụ chung của cả nhóm. Tránh tình trạng học sinh đùn đẩy trách
nhiệm cho nhau cũng như trong nhóm chỉ có vài thành viên làm việc cịn các
thành viên khác khơng hợp tác hoặc làm việc riêng. Giáo viên có thể u cầu
học sinh bầu nhóm trưởng, thư kí hoặc do giáo viên chỉ định và sau lượt thảo
luận, vai trị của các thành viên trong nhóm thay đổi để khắc phục tình trạng chỉ
có một học sinh chun trách nhiệm vụ này.
2.3.3. Vai trò của giáo viên trong quá trình thảo luận nhóm:
Trong khi học sinh thảo luận nhóm, giáo viên di chuyển chung quanh các
nhóm, im lặng quan sát các nhóm làm việc. Khi học sinh gặp khó khăn, bế tắc,
giáo viên kịp thời can thiệp, hướng dẫn nhóm ra khỏi bế tắc bằng những câu hỏi

gợi mở.
Với những vấn đề phức tạp, để giải quyết được học sinh cần phải nắm vững
bài học và có cách nhìn tổng quát. Ban đầu, các em sẽ gặp lúng túng, thậm chí
nói lan man khơng vào trọng tâm. Để các em giải quyết được, giáo viên cần định
hướng gợi mở. Trên những định hướng đó, các em sẽ dễ dàng tiến hành thảo
luận.
Giáo viên dẫn dắt học sinh vận dụng tư duy vốn có của các em giải quyết
từng vấn đề: gợi lại những tri thức đã có từ trước, khơi gợi những suy nghĩ trong
các em thông qua vốn sống của các em.
Khi gặp trường hợp trong nhóm có thành viên “ngơi sao” hoặc có thành
viên q nhút nhát, giáo viên kịp thời can thiệp, hạn chế những học sinh nói q
nhiều, khích lệ, động viên học sinh nhút nhát phát biểu ý kiến.
2.3.4. Trình bày và đánh giá kết quả:
Đại diện các nhóm sẽ lên trình bày kết quả trước tồn lớp: trình bày miệng
hoặc trình bày miệng với báo cáo viết kèm theo. Có thể kèm theo minh họa bằng
tranh ảnh hoặc biểu diễn. Đại diện nhóm có thể là nhóm trưởng hoặc một thành
viên khác trong nhóm do giáo viên chỉ định. Kết quả trình bày của các nhóm
được đánh giá và rút ra những kết luận cho việc học tập tiếp theo.
Giáo viên đóng vai trò trọng tài chốt lại những nội dung cơ bản, khen
thưởng những nhóm thảo luận tốt, động viên, khuyến khích để tạo hứng thú cho
7


học sinh. Hình thức khen thưởng có thể là biểu dương cũng có thể là cho thêm
điểm thưởng vào điểm hoạt động nhóm.
2.3. 5. Vận dung phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học văn bản
“Bài ca ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ:
Việc lựa chọn vấn đề thảo luận là khâu then chốt, quyết định sự thành bại
của phương pháp này. 80% thành cơng của thảo luận nhóm là giáo viên đưa ra
được các vấn đề thảo luận thú vị. Đối với “Bài ca ngất ngưởng”, của Nguyễn

Công Trứ, giáo viên chia lớp học thành bốn nhóm và đưa ra các vấn đề để các
em thảo luận. Thời gian thảo luận của mỗi nhóm 5 phút.
Nhóm 1: Nhan đề của tác phẩm thường hàm chứa cả đề tài, chủ đề, tư
tưởng và cả linh hồn của tác giả. Bài thơ có nhan đề là “Bài ca ngất ngưởng”,
em hãy giải thích ý nghĩa nhan đề bài thơ?
Giáo viên gợi ý: Trong bài thơ, từ “ngất ngưởng” được sử dụng mấy
lần? Anh/ chị hãy xác định nghĩa của từ “ngất ngưởng” qua các văn cảnh sử
dụng đó?
* Học sinh thảo luận theo nhóm:
* Đại diện nhóm trình bày:
- Bài ca: Bài thơ được viết theo thể loại hát nói, là thể tổng hợp giữa ca
nhạc và thơ, có tính chất tự do, thích hợp với việc thể hiện con người cá nhân.
- Nghĩa gốc của từ “ngất ngưởng”: Miêu tả tư thế của con người, sự vật,
ngả nghiêng, chực đổ nhưng khơng đổ.
àĐây là trạng thái gây cảm giác rất khó chịu cho người xung quanh, như
trêu trọc, trêu ngươi.
- Nghĩa hàm ẩn: Thái độ sống khác người, ln xem mình ở vị trí cao hơn
người khác, thái độ sống thoải mái, phóng túng, ngang tàng, vượt thế tục của
con người.
- Ngoài nhan đề, từ “ngất ngưởng” xuất hiện bốn lần trong bài thơ, ở các
câu 4, 8, 12 và 19.
+ Lần thứ nhất, từ “ngất ngưởng” xuất hiện để miêu tả hình ảnh của
Nguyễn Cơng Trứ khi có cơng danh vinh hiển và đảm nhiệm những trọng trách
quan trọng: Thủ khoa, Tham tán, Tổng đốc Đông. Lúc này, ông tỏ rõ là người có
khí khái của một vị quan ngạo nghễ và đặc biệt là có tài năng thao lược.
+ Lần thứ hai, từ “ngất ngưởng” cũng dùng để khắc hoạ hình ảnh của
chính Nguyễn Cơng Trứ, nhưng lúc này đã ở trong hoàn cảnh khác - trở thành
dân thường. Thế nhưng dù vai trị xã hội có thay đổi thì ơng vẫn bộc lộ phong
thái tự tại, phóng khống của mình.
+ Từ “ngất ngưởng” ở lần thứ ba trong câu “Bụt cũng nực cười ông ngất

ngưởng” thêm lần nữa khẳng định cá tính ngang tàng của nhà thơ. Thế nên, mặc
dù nói về thú chơi ngơng của mình, Nguyễn Cơng Trứ tỏ rõ việc muốn khẳng
định những gì thuộc về nét riêng biệt của bản thân, dù có thể nó khác biệt rất
nhiều với số đơng.
+ Ở lần cuối, “ngất ngưởng” diễn tả nhân cách của Nguyễn Công Trứ
trong việc xem thường vinh hoa phú quý, tĩnh tại thưởng ngoạn những sở thích
bản thân mà khơng màng đến điều tiếng của nhân gian, thế sự. Ơng khơng muốn
bị ràng buộc, gị ép trong bất cứ điều gì.
8


à Bài thơ thể hiện phong cách sống, cái dáng vẻ của một tinh thần ngạo
nghễ, tự coi mình hơn người, trên thiên hạ. Đây cũng là tư thế chung của tồn
bài. Từ đó khẳng định cách sống tự do của bậc tài tử phong lưu, không ngần
ngại khẳng định cá tính của mình. Thái độ sống ngất ngưởng đầy thách thức
trước những tôn ti phép tắc khắc kỉ của xã hội phong kiến.
Nhóm 2: Trong thời gian làm quan Nguyễn Công Trứ đã “ngất ngưởng”
như thế nào?
* Học sinh thảo luận theo nhóm:
* Đại diện nhóm trình bày:
- Câu thơ mở đầu: “Vũ trụ nội mạc phi phận sự”
+ Là một câu thơ toàn chữ Hán
àGợi sự trang trọng, thái độ kiêu hãnh của nhà thơ.
àCâu thơ được hiểu là: Mọi việc trong trời đất đều là phận sự của ta.
àĐó là thái độ của bậc quân tử có tài kinh bang tế thế, sự dõng dạc, tự tin
và ý thức sâu sắc về vai trò, trách nhiệm của chính mình với dân với nước.
- Câu thứ hai: “Ơng Hi Văn tài bộ đã vào lồng”
+ Danh xưng độc đáo, ít thấy trong Văn học trung đại: “Hi Văn”.“Hi”: Là
hiếm có, hi hữu. “Văn”: Là văn chương.
+ Tài bộ: tài năng lớn, nhiều tài năng.

+ Lồng: là trời đất, vũ trụ. Vào lồng: làm quan được xem là bị giam hãm
trong lồng, mất tự do.
à Ông coi việc nhập thế làm quan như một trói buộc, nhưng đó là điều
kiện, phương tiện để thể hiện hồi bão vì dân vì nước và tài năng của mình.
- Câu 3, 4, 5, 6: Liệt kê tài năng hơn người:
+ Giỏi văn chương: thủ khoa (đỗ đầu)
+ Tài dùng binh (thao lược)
àTài năng lỗi lạc, xuất chúng: văn võ song toàn.
+ Khoe danh vị xã hội hơn người:
+ Tham tán: quan văn giúp trông coi việc quân dưới quyền một viên
tướng.
+ Tổng đốc: chức quan đứng đầu bộ máy cai trị một tỉnh lớn.
+ Đại tướng (bình định Trấn Tây): chức tướng cao nhất trong quân đội.
+ Phủ doãn: chức quan đứng đầu tỉnh nơi có đặt thủ đơ.
àƠng tự hào mình là một người tài năng lỗi lạc, danh vị vẻ vang, văn vẻ
toàn tài.
- Hệ thống từ Hán Việt uy nghiêm, trang trọng, âm điệu nhịp nhàng, nhiều
điệp ngữ: khẳng định tài năng lỗi lạc, địa vị xã hội vẻ vang, xứng đáng một con
người xuất chúng.
àSáu câu thơ đầu là lời từ thuật chân thành của nhà thơ lúc làm quan.
Khẳng định tài năng và lí tưởng trung quân, lòng tự hào về phẩm chất, năng lực
và thái độ sống tài tử, phóng khống, khác đời, ngạo nghễ của một người có khả
năng xuất chúng.

9


àNhư vậy cái ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ không phải tiêu cực
mà sự khẳng định bản thân của mình, là bản lĩnh dám sống ở đời và một phong
cách sống tài hoa tài tử.

Nhóm 3: Nguyễn Cơng Trứ khi về hưu thể hiện sự “ngất ngưởng” ra sao?
* Học sinh thảo luận theo nhóm:
* Đại diện nhóm trình bày:
- Câu thơ thứ 7: “Đô môn giải tổ chi niên”
+ Là một câu thơ chữ Hán.
+ Đánh dấu năm Nguyễn Cơng Trứ về hưu.
- Ơng sống theo ý chí và sở thích cá nhân:
+ Cưỡi bị cái, đeo đạc ngựa cho bò.
+ Từ một vị đại thần “ tay kiếm cung”, nay sống một cuộc đời bình dị
“nên dạng từ bi” đi vãn cảnh chùa, đi thăm thú những danh lam thắng cảnh
mang theo những nàng hầu xinh đẹp.
àSở thích kì lạ, khác thường, thậm chí có phần bất cần và ngất ngưởng
+ Bụt cũng nực cười: hành động của tác giả là những hành động khác
thường, ngược đời, đối nghịch với quan điểm của các nhà nho phong kiến.
àCá tính người nghệ sĩ mong muốn sống theo cách riêng.
- Quan niệm sống:
+ “Được mất dương dương người thái thượng. Khen chê phơi phới ngọn
đơng phong”: Tự tin đặt mình sánh với “thái thượng”, tức sống ung dung tự tại,
không quan tâm đến chuyện khen - chê, được - mất của thế gian.
+ “Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng”: tạo cảm giác cuộc sống phong phú,
thú vị, từ “khi” lặp đi lặp lại tạo cảm giác vui vẻ triền miên.
+ “Không phật, không tiên, không vướng tục”: không phải là Phật, không
phải là tiên, không vướng tục, sống thốt tục à Ơng chẳng giống ai, sống khơng
giống ai, sống ngất ngưởng.
- Khẳng định mình là một danh tướng, trung thần, trọn vẹn đạo vua tơi
chẳng kém gì Trái Tuân, Nhạc Phi, Hàn Kì, Phú Bật những anh tài đời Hán, đời
Tống bên Trung Quốc.
àTóm lại 12 câu thơ giữa xây dựng hình tượng có ý vị trào phúng
nhưng đằng sau nụ cười ấy là một thái độ, một quan niệm nhân sinh mang màu
sắc hiện đại vì nó khẳng định và đề cao cá tính, ý thức sâu sắc về cá tôi cá nhân.

àCuộc sống nhàn tản, ung dung có phần “ ngơng”. Tuy “ngất ngưởng”
mà vẫn trong sạch thanh cao sống theo ý chí và sở thích cá nhân, một con người
vượt lên trên thói tục.
àLối sống ấy cũng là một cách tự khẳng định, một sự đối lập với xã hội
phong kiến với những định kiến khắt khe.
- Câu cuối vừa hỏi vừa khẳng định: mình là một đại thần trong triều,
khơng có ai sống ngất ngưởng như ông cả.
- Nêu bật sự khác biệt của mình so với đám quan lại khác: cống hiến,
nhiệt huyết.
- Ý thức muốn vượt ra khỏi quan niệm “đạo đức” của nhà nho.
- Thể hiện tấm lòng sắt son, trước sau như một đối với dân, với nước.
10


- Ngất ngưởng nhưng phải có thực tài, thực danh.
àKhẳng định bản lĩnh, khẳng định tài năng sánh ngang bậc danh tướng.
Tự khẳng định mình là bề tơi trung thành.
- Câu thơ cuối là sự tự ý thức về tài năng, phẩm chất và quan niệm sống
thoát tục của Nguyễn Cơng Trứ. Qua đó ta thấy rõ một nhân cách cứng cỏi, một
tài năng, một phẩm giá của một danh sĩ nửa đầu thế kỉ XIX.
Nhóm 4: Nếu xem ngất ngưởng là một phong cách sống. Đó có phải là
cách sống lập dị không? Muốn thể hiện phong cách sống tích cực như Nguyễn
Cơng Trứ, tuổi trẻ cần có những phẩm chất và năng lực gì?
* Học sinh thảo luận theo nhóm:
* Đại diện nhóm trình bày:
Nguyễn Cơng Trứ đã có một cuộc đời hoạt động tích cực trong xã hội.
Ông đã cống hiến hết tài năng và nhiệt huyết của mình cho đất nước. Đó là một
con người có bản lĩnh, có quan niệm sống tích cực, biết sống và dám sống cho
mình.
- Ngất ngưởng là một phong cách sống có bản lĩnh, có cá tính, trung thực,

thẳng thắn, ý thức rất rõ về bản thân – bao hàm cả những điều lí tưởng và trần
tục. Nó khác xa với lối sống lập dị của một số người.
- Người muốn có bản lĩnh, cá tính như thế phải có những phẩm chất trí tuệ
và năng lực thực sự.
2.3.6. Giáo án thực nghiệm.
I. Mục tiêu
1. Về kiến thức.
- Cảm nhận được tâm hồn tự do phóng khống cùng thái độ tự tin của
Nguyễn Công Trứ.
- Nắm được những tri thức cơ bản về đặc điểm của thể loại hát nói.
2. Về kĩ năng.
- Rèn kĩ năng phân tích thơ hát nói theo đặc trưng thể loại.
3. Về thái độ.
- Trân trọng tài năng, nhân cách của Nguyễn Công Trứ .
- Sống có bản lĩnh, sống là chính mình.
4. Định hướng hình thành năng lực.
- Năng lực giải quyết vấn đề: Tiếp nhận một thể loại văn học mới: hát nói,
lý giải được "hiện tượng Nguyễn Công Trứ" được thể hiện trong văn bản, thể
hiện quan điểm cá nhân khi đánh giá cái tôi Nguyễn Công Trứ.
- Năng lực sáng tạo: Xác định được lối sống, phong cách sống Nguyễn
Công Trứ từ những góc nhìn khác nhau; học sinh trình bày được suy nghĩ và
cảm xúc của mình trước “hiện tượng Nguyễn Cơng Trứ”, nên có những suy nghĩ
sáng tạo.
- Năng lực hợp tác: thảo luận nhóm để giải quyết vấn đề giáo viên đặt ra.
- Năng lực thưởng thức văn học, cảm thụ thẩm mỹ: cảm nhận được vẻ đẹp
của ngôn ngữ văn học; nhận ra được những giá trị thẩm mỹ như cái đẹp/cái xấu,
cái cao cả/cái thấp hèn...
II. Chuẩn bị của giáo viên và học sinh
1. Chuẩn bị của giáo viên.
11



- Học liệu: SGK, sách giáo viên, giáo án, tư liệu có liên quan.
2. Chuẩn bị của học sinh.
- SGK, bài soạn, sưu tầm tư liệu có liên quan.
- Đọc ít nhất 2 lần văn bản bài học.
III. Tổ chức các hoạt động học tập
1. Ổn định lớp.
2. Kiểm tra bài cũ.
3. Bài mới.
* Hoạt động 1: Khởi động
- GV trình chiếu tranh ảnh về Nguyễn Cơng Trứ.
- u cầu HS đọc, ngâm thơ liên quan đến tác giả.
- HS thực hiện nhiệm vụ:
- GV nhận xét và dẫn vào bài mới:
Trong lịch sử văn học Việt Nam, người ta thường nói đến chữ ‘ngơng”:
ngơng như Tản Đà, ngơng như Nguyễn Tuân và ngông như Nguyễn Công Trứ.
Bài học hôm nay sẽ giúp chúng ta hiểu được chữ ngông ấy của nhà thơ Nguyễn
Công Trứ trong “Bài ca ngất ngưởng”.
* Hoạt động 2: Hình thành kiến thức
Hoạt động của GV và HS
* Thao tác 1 : Tìm hiểu tác giả.
- GV: Nêu những nét cơ bản về
cuộc đời và sự nghiệp sáng tác
của Nguyễn Công Trứ?
- HS: Dựa vào phần Tiểu dẫn và
các tài liệu tham khảo khác để
trả lời.
- GV: Trên cơ sở những ý trình
bày của HS, nhấn mạnh những

nét chính cần lưu ý về tác giả.

Yêu cầu cần đạt
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả.
- Nguyễn Cơng Trứ ( 1778-1858) tự là Tồn
Chất, hiệu là Ngộ Trai, biệt hiệu Hi Văn.
- Quê: làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh
Hà Tĩnh.
- Xuất thân trong gia đình Nho học.
- Ơng là người có tài năng, có tâm huyết
trên nhiều lĩnh vực hoạt động xã hội, văn
hóa, kinh tế, quân sự.
- Con đường làm quan của Nguyễn Cơng
Trứ có nhiều thăng trầm.
- Nguyễn Cơng Trứ là người có cơng lớn
trong việc giúp dân lấn đất khai hoang vùng
ven biển lập ra hai huyện Kim Sơn và Tiền
Hải.
- Trước khi mất ông còn dâng sớ xin tòng
quân đánh Pháp.
- Sự nghiệp thơ ca: Ông để lại trên 50 bài
thơ, trên 60 bài ca trù và một bài phú nổi
tiếng “ Hàn nho phong vị phú” viết bằng
chữ Nơm. Ngồi ra cịn có một số bài thơ
chữ Hán.
- Phong cách thơ văn: thể hiện sự tự do
phóng khống, ngang tàng.
12



* Thao tác 2 : Tìm hiểu bài thơ
- GV: Nêu hoàn cảnh sáng tác,
thể loại của bài thơ?
- GV: Bài hát nói ở dạng đầy đủ
mỗi bài gồm 11 câu, chia làm 3
khổ: Khổ đầu 4 câu, khổ giữa 4
câu, khổ cuối 3 câu=> Bài hát
nói chính cách.
+ Có trường hợp bài hát nói dơi
khổ hay khuyết khổ giữa. Người
ta gọi là bài hát nói biến cách.
Nhìn vào số lượng câu trong văn
bản xác định đây là bài hát nói
chính cách hay biến cách?
- GV: Bài hát nói có thể chia làm
mấy phần? Nội dung của mỗi
phần?
* Thao tác 3 : Hướng dẫn HS
đọc hiểu văn bản
GV gọi hs đọc bài thơ:
Yêu cầu đọc chính xác, đúng
nhịp, đọc với giọng hóm hỉnh,
hài hước và hướng dẫn hs giải
thích từ khó.
HS đọc, cả lớp theo dõi.
GV cho học sinh thảo luận
nhóm
- Thời gian: 5 phút
- HS thảo luận, đại diện nhóm

trình bày
- GV nhận xét chốt ý.
Nhóm 1: Bài thơ có nhan đề là
“Bài ca ngất ngưởng”. Em hãy
giải thích ý nghĩa nhan đề bài
thơ?
- GV gợi ý: Trong bài thơ, từ
“Ngất ngưởng” được sử dụng
mấy lần? Anh/ chị hãy xác định
nghĩa của từ “ Ngất ngưởng” qua
các văn cảnh sử dụng đó?
- HS thảo luận
- GV gọi HS trình bày theo

- Nguyễn Cơng Trứ là người đầu tiên có
cơng đem đến cho hát nói một nội dung phù
hợp với chức năng và cấu trúc của nó.
2. Bài thơ
a. Hồn cảnh sáng tác.
- Bài thơ được sáng tác trong thời gian ông
cáo quan về ở ẩn tại quê nhà. (Năm 1848)
b. Thể loại.
- Bài thơ làm theo thể hát nói, một thể thơ
vận luật tương đối tự do, phóng khống, kết
hợp giữa thơ và nhạc, thích hợp với việc thể
hiện con người cá nhân.
- Văn bản này là bài hát nói biến cách.
c. Bố cục : 2 phần
- Phần 1: Sáu câu đầu: Quan niệm sống ngất
ngưởng khi làm quan.

- Phần 2: Còn lại: Quan niệm sống ngất
ngưởng khi về hưu.
II. Đọc hiểu văn bản

1. Nhan đề bài thơ.
- Bài ca: Bài thơ được viết theo thể loại hát
nói, là thể tổng hợp giữa ca nhạc và thơ, có
tính chất tự do thích hợp với việc thể hiện
con người cá nhân.
- Nghĩa gốc của từ ngất ngưởng: Miêu tả tư
thế của con người, sự vật ngả nghiêng, chực
đổ nhưng không đổ.
àĐây là trạng thái gây cảm giác rất khó
chịu cho người xung quanh, như trêu trọc,
trêu ngươi.
13


nhóm.
- Các nhóm khác bổ sung ý kiến.

Nhóm 2: Trong thời gian làm
quan Nguyễn Công Trứ đã ngất
ngưởng như thế nào?
GV gợi mở: Em hiểu câu mở
đầu của bài thơ như thế nào?
Nhận xét cách biểu đạt của nhà
thơ?
Tại sao ông coi việc ra làm
quan là mất tự do vậy mà vẫn ra

làm quan?

- Nghĩa hàm ẩn: Thái độ sống khác người,
ln xem mình ở vị trí cao hơn người khác,
thái độ sống thoải mái, phóng túng, ngang
tàng, vượt thế tục của con người.
- Ngoài nhan đề, từ ngất ngưởng xuất hiện
bốn lần ở các câu 4, 8, 12 và19.
àBài thơ thể hiện cách sống tự do của bậc
tài tử phong lưu, khơng ngần ngại khẳng
định cá tính của mình, tự coi mình hơn
người, trên thiên hạ. Thái độ sống ngất
ngưởng đầy thách thức trước những tôn ti
phép tắc khắc kỉ của xã hội phong kiến.
2. Phần 1: Ngất ngưởng ở chốn quan
trường.
- Câu thơ mở đầu: “Vũ trụ nội mạc phi phận
sự”
+ Là một câu thơ toàn chữ Hán
àGợi sự trang trọng, thái độ kiêu hãnh của
nhà thơ.
àCâu thơ được hiểu là: Mọi việc trong trời
đất đều là phận sự của ta.
àĐó là thái độ của bậc quân tử có tài kinh
bang tế thế, sự dõng dạc, tự tin và ý thức sâu
sắc về vai trò, trách nhiệm của chính mình
với dân với nước.
- Câu thứ hai: “Ơng Hi Văn tài bộ đã vào
lồng”.
+ Danh xưng độc đáo, ít thấy trong Văn học

trung đại: “Hi Văn”.“Hi”: Là hiếm có, hi
hữu. “Văn”: Là văn chương.
+ Tài bộ: tài năng lớn, nhiều tài năng.
+ Lồng: là trời đất, vũ trụ. Vào lồng: làm
quan được xem là bị giam hãm trong lồng,
mất tự do.
à Ông coi việc nhập thế làm quan như một
trói buộc, nhưng đó là điều kiện, phương
tiện để thể hiện hồi bão vì dân vì nước và
tài năng của mình.
- Câu 3, 4, 5, 6: Liệt kê tài năng hơn người:
+ Giỏi văn chương (khi thủ khoa)
+ Tài dùng binh (thao lược)
àTài năng lỗi lạc xuất chúng: văn võ song
toàn
+ Khoe danh vị xã hội hơn người:
14


Nhóm 3: Quãng đời về hưu, nhà
thơ đã có cách sống và quan
niệm sống như thế nào? Nhận
xét về cách sống và quan niệm
sống của tác giả?

+ Tham tán
+ Tổng đốc
+ Đại tướng (bình định Trấn Tây)
+ Phủ dỗn Thừa Thiên
àTự hào mình là một người tài năng lỗi

lạc, danh vị vẻ vang, văn vẻ toàn tài.
- Hệ thống từ Hán Việt uy nghiêm, trang
trọng, âm điệu nhịp nhàng, nhiều điệp ngữ:
khẳng định tài năng lỗi lạc, địa vị xã hội vẻ
vang, xứng đáng một con người xuất chúng.
àSáu câu thơ đầu là lời từ thuật chân thành
của nhà thơ lúc làm quan. Khẳng định tài
năng và lí tưởng trung quân, lòng tự hào về
phẩm chất, năng lực và thái độ sống tài tử,
phóng khống khác đời ngạo nghễ của một
người có khả năng xuất chúng. Hay thái độ
sống của người qn tử bản lĩnh, đầy tự tin,
kiên trì lí tưởng.
àNhư vậy cái ngất ngưởng của ông không
phải tiêu cực mà sự khẳng định bản thân của
mình, là bản lĩnh dám sống ở đời, và một
phong cách sống tài hoa tài tử.
3. Phần 2: Ngất ngưởng khi về hưu.
- Câu 7: “Đô môn giải tổ chi niên”
+ Là một câu thơ chữ Hán.
+ Đánh dấu năm Nguyễn Công Trứ về hưu.
- Khi Nguyễn Công Trứ về hưu, không thấy
yến tiệc linh đình, tặng phẩm, ngựa quý vua
ban mà thay vào đó là: Cưỡi bị, đeo đạc
ngựa cho bị.
- Từ một vị đại thần “ tay kiếm cung”, nay
sống một cuộc đời bình dị “ nên dạng từ bi”
đi vãn cảnh chùa, đi thăm thú những danh
lam thắng cảnh mang theo những nàng hầu
xinh đẹp.

à Sở thích kì lạ, khác thường, thậm chí có
phần bất cần và ngất ngưởng
- Bụt cũng nực cười: thể hiện hành động của
tác giả là những hành động khác thường,
ngược đời, đối nghịch với quan điểm của
các nhà nho phong kiến.
àCá tính người nghệ sĩ mong muốn sống
theo cách riêng
- Thái độ coi khinh mọi chuyện trên đời:
15


+ “Được mất dương dương người thái
thượng. Khen chê phơi phới ngọn đơng
phong”: Tự tin đặt mình sánh với “thái
thượng”, tức sống ung dung tự tại, không
quan tâm đến chuyện khen - chê, được - mất
của thế gian.
+ “Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng”: tạo
cảm giác cuộc sống phong phú, thú vị, từ
“khi” lặp đi lặp lại tạo cảm giác vui vẻ triền
miên.
+ “Không phật, không tiên, không vướng
tục”: không phải là Phật, không phải là tiên,
không vướng tục, sống thốt tục à Ơng
chẳng giống ai, sống khơng giống ai, sống
ngất ngưởng.
- Khẳng định mình là một danh tướng, trung
thần, trọn vẹn đạo vua tơi chẳng kém gì Trái
Tuân, Nhạc Phi, Hàn Kì, Phú Bật những anh

tài đời Hán, đời Tống bên Trung Quốc.
àTóm lại 12 câu thơ giữa xây dựng hình
tượng có ý vị trào phúng
nhưng đằng sau nụ cười ấy là một thái độ,
một quan niệm nhân sinh mang màu sắc
hiện đại vì nó khẳng định và đề cao cá tính,
ý thức sâu sắc về cá tơi cá nhân.
àCuộc sống nhàn tản, ung dung có phần
“ ngông”. Tuy “ngất ngưởng” mà vẫn trong
sạch thanh cao sống theo ý chí và sở thích
cá nhân, một con người vượt lên trên thói
tục.
àLối sống ấy cũng là một cách tự khẳng
định, một sự đối lập với xã hội phong kiến
với những định kiến khắt khe.
- Câu cuối vừa hỏi vừa khẳng định: mình là
một đại thần trong triều, khơng có ai sống
ngất ngưởng như ơng cả.
- Nêu bật sự khác biệt của mình so với đám
quan lại khác: cống hiến, nhiệt huyết.
- Ý thức muốn vượt ra khỏi quan niệm “đạo
đức” của nhà nho.
- Thể hiện tấm lòng sắt son, trước sau như
một đối với dân, với nước.
- Ngất ngưởng nhưng phải có thực tài, thực
danh.
16


Nhóm 4: Nếu xem ngất ngưởng

là một phong cách sống. Đó có
phải là cách sống lập dị khơng?
Muốn thể hiện phong cách sống
tích cực như Nguyễn Cơng Trứ,
tuổi trẻ cần có những phẩm chất
và năng lực gì?
* Thao tác 4: Tổng kết
- GV: Hãy khái quát nội dung và
nghệ thuật của bài thơ?
- HS khái quát

àKhẳng định bản lĩnh, khẳng định tài năng
sánh ngang bậc danh tướng. Tự khẳng định
mình là bề tôi trung thành.
- Câu thơ cuối là sự tự ý thức về tài năng,
phẩm chất và quan niệm sống thốt tục của
Nguyễn Cơng Trứ. Qua đó ta thấy rõ một
nhân cách cứng cỏi, một tài năng, một phẩm
giá của một danh sĩ nửa đầu thế kỉ XIX.
- Nguyễn Cơng Trứ đã tự khẳng định mình
là con người trung thần, làm trịn đạo vua
tơi, điều này góp phần khẳng định thêm
quan niệm về chí làm trai của tác giả ở đầu
bài thơ.
- Tự hào khẳng định tài năng và cơng lao
của mình một cách đĩnh đạc hào hùng.
àTun ngơn khẳng định cá tính, sự mong
muốn vượt ngồi quan điểm đạo đức Nho
gia thông thường. Đối với ông, ngất ngưởng
phải có thực danh và thực tài. Vậy cái ngất

ngưởng của ông không phải tiêu cực mà sự
khẳng định bản thân của mình, là bản lĩnh
dám sống ở đời, và một phong cách sống tài
hoa tài tử.
- Ngất ngưởng là một phong cách sống có
bản lĩnh, có cá tính, trung thực, thẳng thắn,
ý thức rất rõ về bản thân. Nó khác xa với lối
sống lập dị của một số người
- Người muốn có bản lĩnh, cá tính như thế
phải có những phẩm chất trí tuệ và năng lực
thực sự.
III. Tổng kết
1. Nội dung.
- Đề cao bản lĩnh cá nhân trong cuộc sống.
- Bộc lộ cái tôi cá nhân đối lập trực diện với
xã hội phong kiến đương thời.
2. Nghệ thuật.
- Thể hát nói có sự hịa hợp giữa nhạc và thơ
tự do, phóng khống.
- Nhan đề, thi đề độc đáo.
- Nghệ thuật liệt kê, sử dụng điển cố.

* Hoạt động 3: Luyện tập
Câu hỏi 1: Theo em, từ “ngất ngưởng” trong bài thơ “Bài ca ngất ngưởng” của
Nguyễn Công Trứ được hiểu là?
A. Nguyễn Cơng Trứ giữ chức quan cao vì vậy sợ ngồi không vững.
17


B. Cách sống vượt lên trên những khn mẫu, gị bó. Thể hiện tính cách, thái độ,

cách sống ngang tàng của Nguyễn Công Trứ.
C. Nguyễn Công Trứ làm bài thơ này khi ngồi ở trên núi cao chênh vênh.
D. Một thái độ khoe tài, cố tình làm những điều khác ngftrais vpis thế tục, với lễ
giáo phong kiến.
Đáp án : B
Câu hỏi 2: Câu thơ “Vũ trụ nội mạc phi phận sự” được hiểu là:
A. Tuyên bố xa lánh vòng danh lợi.
B. Sự kiêu hãnh của một đấng nam nhi sống trong trời đất.
C. Thể hiện quan niệm cao đẹp của một nhà Nho chân chính về bổn phận, nghĩa
vụ của mình với cuộc đời, với dân, với nước.
D. Thái độ bàng quan về trách nhiệm với đất nước.
Đáp án : C
Câu hỏi 3: Câu thơ “Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng” sử dụng biện pháp nghệ
thuật gì?
A. Nhân hóa
B. Hốn dụ
C. Nói tránh
D. Ẩn dụ
Đáp án: D
Câu hỏi 4: Đáp án nào sau đây không phải giá trị nội dung của bài thơ “Bài ca
ngất ngưởng”?
A. Bài thơ thể hiện rõ thái độ sống của Nguyễn Công Trứ giai đoạn cuối đời, sau
những trải nghiệm đắng cay của cuộc sống quan trường.
B. Ngất ngưởng là cách Nguyễn Công Trứ thể hiện bản lĩnh cá nhân trong cuộc
sống.
C. Thái độ coi thường danh lợi, vượt lên thói thường để sống cuộc sống tự do, tự
tại.
D. Bài thơ viết về những kỉ niệm đẹp đẽ, vinh hoa phú quý của những ngày
Nguyễn Cơng Trứ cịn làm quan.
Đáp án: D

* Hoạt động 4: Vận dụng.
Đọc đoạn thơ sau và trả lời các câu hỏi:
“Vũ trụ nội mạc phi phận sự,
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
Lúc bình Tây, cờ Đại tướng,
Có khi về, Phủ dỗn Thừa Thiên”
( Trích Bài ca ngất ngưởng- Nguyễn Công Trứ)
Câu 1: Xác định thể thơ của đoạn thơ trên?
Câu 2: Câu thơ “Vũ trụ nội mạc phi phận sự” được hiểu như thế nào ? Ý nghĩa
của câu thơ là gì ?
Câu 3: Phân tích hiệu quả của phép liệt kê trong đoạn thơ trên?
Câu 4: Nêu nội dung chính của đoạn thơ ?
18


Gợi ý trả lời:
Câu 1: Thể thơ của đoạn thơ: Thể hát nói
Câu 2: Câu thơ “Vũ trụ nội mạc phi phận sự” được hiểu: Trong trời đất, khơng
có việc gì khơng phải là phận sự của ta. Ý nghĩa của câu thơ là thể hiện quan
niệm của nhà nho đầy tự tin, tự hào vào tài trí và lí tưởng của mình.
Câu 3: Phép liệt kê trong đoạn thơ: Nguyễn Cơng Trứ liệt kê các vị trí, chức
quan ơng đã trải qua. Đó là những vị trí cao nhất trong phạm vi của nó: Thủ
khoa (đứng đầu khoa thi Hương, tức Giải nguyên), Tham tán (đứng đầu đội quan
văn tham chiến: Tham tán quân vụ, Tham tán đại thần), Tổng đốc (Đứng đầu
một tỉnh hoặc vài ba tỉnh), Đại tướng (cầm đầu đội qn bình Trấn Tây), Phủ
dỗn (Đứng đầu ở kinh đô).
Hiệu quả nghệ thuật của phép liệt kê : khẳng định niềm tự hào về một tài
năng lỗi lạc, xuất chúng mà bất cứ kẻ sĩ nào thời trung đại cũng mơ ước và nể

trọng. Qua đó, tác giả cũng tự cho rằng mình hơn người ở tài năng, một trong
những biểu hiện đầu tiên về ngất ngưởng trong bài thơ.
Câu 4: Nội dung chính của đoạn thơ: Nguyễn Công Trứ với lối sống ngất
ngưởng khi đương chức, đương quyền.
* Hoạt động 5: Tìm tịi, mở rộng
- Vẽ sơ đồ tư duy bài thơ “Bài ca ngất ngưởng”
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
Với cách làm này tôi nhận thấy: Đảm bảo mục tiêu bài học đề ra. Học
sinh được làm việc thực sự, có sự tương tác giữa giáo viên với học sinh, giữa
học sinh với giáo viên, giữa học sinh với học sinh. Giờ học sôi nổi, thoải mái,
nhẹ nhàng. Giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn, định hướng cho học sinh đọc
hiểu văn bản, học sinh khám phá ra vẻ đẹp của tác phẩm, phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo của học sinh trong giờ học. Tạo cho lớp học một khơng khí
đối thoại, tranh luận, em nào cũng được hoạt động.
Đa số các em hiểu bài và biết vận dụng. Học sinh rất hào hứng, sôi nổi
trước các vấn đề mà giáo viên đưa ra. Tính tích cực của học sinh được phát huy
tối đa. Học sinh được bày tỏ ý kiến và trình bày những cảm nhận riêng của cá
nhân.
Tôi đã ra đề kiểm tra cho hai lớp mình dạy và kết quả đạt được như sau:
Lớp
1 B11
(Đối
chứng)
11 B4
(Thực
nghiệm)

Sĩ số


Giỏi
Số
%
lượng

Khá
Số
%
lượng

Trung bình
Số
%
lượng

Yếu, kém
Số
%
lượng

41

0

0

10

24


26

64

5

12

42

4

9

28

67

10

24

0

0

19


Qua kết quả trên tôi nhận thấy: lớp 11 B4 có tỉ lệ khá, giỏi đạt 76 %, cao

hơn so với lớp 11 B11 (đạt 24%); đặc biệt ở lớp 11 B4 khơng có học sinh có
điểm yếu, kém. Vì vậy tôi cho rằng, mức độ tiếp thu bài và hiểu rõ vấn đề khi
vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học văn bản tương đối tốt.
Điều đó chứng tỏ phương pháp này rất có hiệu quả.
3. Kết luận và kiến nghị
3.1. Kết luận.
Phương pháp thảo luận nhóm là một phương pháp dạy học hiện đại, phát
huy tính tích cực, chủ động, tự lực của học sinh, là một trong những phương
pháp thích hợp để vận dụng vào dạy học tác phẩm. Phương pháp này có thể giúp
học sinh tự giác, hứng thú tìm hiểu hiểu tác phẩm, từng bước tri giác ngơn ngữ
đế tưởng tượng, phân tích, khái quát theo con đường cảm xúc hóa phù hợp với
quy luật cảm thụ văn chương.
Cần lưu ý là phương pháp thảo luận nhóm khơng phải là phương pháp sư
phạm độc tơn. Nó cũng có những hạn chế nhất định. Trong quá trình dạy tác
phẩm, giáo viên cần vận dụng phối hợp nhiều phương pháp khác nhau thì bài
dạy mới mang lại hiệu quả cao.
3.2. Kiến nghị.
* Đối với Sở Giáo dục và đào tạo: Tổ chức các chuyên đề về giảng dạy
văn học trong trường phổ thông đặc biệt là những văn bản nghị luận để giáo
viên có thể học hỏi nhằm nâng cao chất lượng dạy và học.
* Đối với nhà trường: Thường xuyên tố chức dịp thao giảng, dự giờ để
giáo viên học sinh có thể học hỏi, rút kinh nghiệm cho những bài giảng vốn khô
khan, khó hiểu.
* Đối với giáo viên: Phải nỗ lực rèn luyện không ngừng, chuẩn bị kĩ bài
giảng, sưu tầm và lựa chọn những câu chuyện, bài thơ, giai thoại phù hợp với
bài học cụ thể; thiết kế các bước lên lớp hợp lí, chặt chẽ.
Phương pháp dạy học khơng phải là lí thuyết trừu tượng mà được cụ thể
bằng thiết kế bài giảng và tiến trình bài giảng trên lớp. Là một giáo viên trẻ, việc
đưa ra một phương pháp chỉ là kinh nghiệm mang tính cá nhân được rút ra từ
chính thực tiễn giảng dạy của bản thân nên khơng thể tránh khỏi những thiếu

sót. Rất mong được sự góp ý của các đồng nghiệp.
Tơi xin chân thành cảm ơn !

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 15 tháng 05 năm 2022
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết
khơng sao chép nội dung của người khác
Người viết

20


Đinh Thị Duyên

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Nguyễn Văn Cường (2010), Một số vấn đề chung về đổi mới phương pháp
dạy học ở trường trung học phổ thông, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
[2]. Phan Trọng Ngọ (2005), Dạy học và phương pháp dạy học trong nhà
trường, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.
[3]. Nguyễn Trọng Sửu (2008), ‘Dạy học nhóm, phương pháp dạy học tích cực’,
Tạp chí giáo dục số 171.
[4]. Sách giáo khoa Ngữ văn 11 tập 1 cơ bản, NXB Giáo dục, 2008.
[5]. Thiết kế bài học Ngữ văn 11 tập 1, tác giả Phan Trọng Luận chủ biên NXB
Giáo dục, 2010.
[6]. Các tài liệu trên các trang mạng Internet:

- Nguồn
- Nguồn


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC CẤP CAO HƠN XẾP
LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Đinh Thị Duyên.
Chức vụ : Giáo viên.
Đơn vị công tác: Trường THPT Vĩnh Lộc.
TT

Tên đề tài SKKN

1.

Một vài kinh nghiệm giúp học
sinh làm tốt phần đọc hiểu trong
đề thi THPT quốc gia môn Ngữ
văn
Hướng dẫn học sinh đọc hiểu
văn bản “Chiếc thuyền ngoài
xa” của Nguyễn Minh Châu
theo cấu trúc mở

2.

Cấp đánh
giá xếp loại

Sở GD & ĐT
Thanh Hóa
Sở GD & ĐT
Thanh Hóa

Kết quả
đánh giá
xếp loại
Loại C

Năm học
đánh giá
xếp loại
2016 - 2017

Loại C

2019 - 2020


×