LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với sự phát triển của Thế giới ,Việt nam đã và đang từng bước đi lên và đạt
được những thành tựu to lớn đặc biệt là lĩnh vực kinh tế .Với chủ trương của Đảng và
nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng của XHCN
sau hơn 20 năm đổi mới các hoạt động kinh tế đã trở nên khá sôi động và tạo nên sắc
thái mới cho nên kinh tế .Cùng với đà thắng lợi của đất nước trong công cuộc đổi mới
nền kinh tế ngành ngân hàng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ và mục tiêu đổi mới của
mình đã tiến được những bước quan trọng trong hệ thống các công cụ quản lý lãi suất
được coi là nhạy cảm nhất nó thực sự là vấn đề nóng bỏng nhất thu hút được nhiều tầng
lớp dân cư trong xã hội .
Lãi suất với tư cách là một trong những cơng cụ của chính sách tiền tệ được nhiều
nhà kinh tế quan tâm nghiên cứu và từ lâu được nhiều quốc gia trên thế giới sử dụng như
một công cụ hữu hiệu điều tiết nền kinh tế .Đặc biệt là trong cơ chế thị trường lãi suất
trở thành công cụ đắc lực để Ngân Hàng Nhà Nước thực thi chính sách tiền tệ nhằm điều
tiết các mối quan hệ giữa tiết kiệm và đầu tư , lạm phát và tăng trưởng kinh tế ... Trong
từng thời kỳ nhất định cho nên việc thi hành một chính sách lãi suất thích hợp là vơ cùng
phức tạp mà vai trị đó thuộc ngân hàng nhà nước .Để đáp ứng nhu cầu đòi hỏi ngày
càng cao của nền kinh tế thị trường các nghiệp vụ ngân hàng đã không ngừng đổi mới và
phát triển để phù hợp với điều kiện thực tiễn của đất nước . Với trọng trách to lớn đó
Ngân Hàng Nhà Nước đã thường xuyên điều chỉnh lãi suất cho phù hợp phát triển khả
năng linh hoạt của các Ngân hàng thương mại .
Xuất phát từ những vấn đề mang tính thời sự của lãi suất trên cơ sở những kiến thức
đã học cùng với những kiến thức trong khuân khổ tài liệu cho phép , em xin trình bày đề
tài :“ Lãi suất tín dụng Ngân Hàng và sự điều hành lãi suất của ngân hàng nhà nước
Việt Nam” Bàn về lãi suất có nhiều vấn đề đề cập song trong khuân khổ của một đề án
và kiến thức có hạn, em chỉ đề cập đến một số vấn đề cơ bản nhất.
Em xin chân thành cảm ơn Thầy giáo PGS –TS Lê Đức Lữ đã giúp đỡ em hồn
thành đề án này. Trong q trình nghiên cứu về đề tài trên, do trình độ và khả năng có
hạn nên bài viết này khơng thể tránh khỏi những sai sót. Em rất mong nhận được sự góp
ý của các thầy cơ giáo để hồn thành tốt đề án này.
1 .NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LÃI SUẤT TÍN DỤNG
1.1.Nguồn gốc và bản chất của lợi tức
Những người có vốn tiền tệ nhàn rỗi nhưng chưa có nhu cầu tiêu dùng ,đầu tư thì
họ có thể cho người khác vay sử dụng số vốn này. Tất nhiên họ vẫn là người sở
hữu số vốn này.Những người đi vay sau khi chấp nhận một cơ chế nào đó của
người cho vay đặt ra,thì họ được vay vốn. người đi vay có toàn quyền sử dụng số
vốn này trong thời gian đã thoả thuận.Tuy nhiên họ không phải là người sở hữu số
vốn trên.Như vậy, trong quan hệ tín dụng,quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn đã
tách rời với nhau.Do đó để đảm bảo an tồn vốn của mình,người cho vay phải
“ràng buộc” người đi vay bằng những cơ chế tín dụng hết sức nghiêm ngặt.
Người đi vay sử dụng vốn vào mục đích kinh doanh-sản suất,lợi nhuận được
tạo ra trong quá trình này tất yếu được phân chia theo một tỷ lệ thoả đáng giữa
người đi vay và người cho vay,tương ứng với nguồn vốn bỏ vào sản suất kinh
doanh. Phần lợi nhuận dành cho người cho vay được gọi là lợi tức.
Như vậy về bản chất ,lợi tức là một phần của lợi nhuận được tạo ra trong quá trình
sản suất mà người đi vay phải nhượng lại cho người cho vay theo tỷ lệ vốn đã được
sử dụng.
Về số lượng lợi tức được xem xét từ hai phía :
* Về phía người đi vay ,lợi tức là số tiền ngoài phần vốn,mà người đi vay
phải trả cho người cho vay sau một thời gian sử dụng tiền vay
* Về phía người cho vay,lợi tức là khoản chênh lệch tăng thêm giữa số tiền
thu về và số tiền phát ra ban đầu,mà người sở hữu vốn thu được sau một thời gian
cho vay nhất định.
Nếu vốn được coi như là một loại hàng hố,có thể mua bán trên thị trường
vốn,thì lợi tức chính là giá cả được hình thành trong quá trình mua bán vốn trên thị
trường.giá cả này cũng lên xuống theo quan hệ cung cầu của vốn,nhưng khác với
giá cả của các loại hàng hố thơng thường :phản ánh và xoay xung quanh giá trị
của chúng.Giá cả của vốn hồn tồn khơng phản ánh được giá trị của vốn.Nó chỉ
bằng một phần rất nhỏ so với giá trị của vốn.Chính vì thế giá cả của vốn được coi
là một loại giá cả đặc biệt
Trên thực tế,nếu chỉ xem xét về số lượng,thì lợi tức chưa phản ánh được hiệu
quả của số vốn cho vay phát ra.Vì vậy,trong kinh doanh tiền tệ,lơi tức luôn luôn
được so sánh với số vốn cho vay để xác định khả năng sinh lời của từng loại vốn
cho vay trên thị trường.chỉ tiêu đánh giá hiệu quả này chính là lãi suất tín dụng.
1.2.Khái niệm về lãi suất tín dụng
Một trong những đặc trưng của tín dụng là sau một thời gian nhất định người
sử dụng phải hoàn trả cho người chuyển nhượng một lượng giá trị lớn hơn giá trị
ban đầu. Phần giá trị lớn hơn chính là lợi tức tín dụng. Lợi tức tín dụng chính là
phần người đi vay phải trả cho người cho vay.Lợi tức tín dụng được coi như là một
hình thái bí ẩn của giá cả vốn vay,vì nó phải trả cho giá trị sử dụng của vốn vay(đó
chính là khả năng đầu tư sinh lời hoặc đáp ứng nhu cầu tiêu dùng).Lợi tức tín dụng
cũng biến động theo quan hệ cung cầu trên thị trường vốn như giá cả hàng hố
thơng thường. Nhưng lợi tức tín dụng chỉ là hình thái bí ẩn của giá cả vốn vay mà
theo mức đó là hình thái giá cả phi lý,vì nó chỉ phải trả cho giá trị sử dụng mà
khơng phải là quyền sở hữu cũng không phải quyền sử dụng vĩnh viễn mà chỉ là
trong một thời gian nhất định hơn nữa lợi tức tín dụng cũng khơng phải là biểu
hiện bằng tiền của giá trị vốn vay như giá cả hàng hố thơng thường mà nó độc lập
tương đối hay nhỏ hơn nhiều so với giá trị vốn vay. Lợi tức tín dụng là số tuyệt đối
nên để biểu hiện một cách tổng quát về lợi tức tín dụng người ta sử dụng chỉ tiêu
tương đối là lãi suất tín dụng .
Lãi suất tín dụng là tỷ lệ % giữa số tiền mà người đi vay phải trả cho người cho
vay (lợi tức) trên tổng số tiền vay sau một thời gian nhất định sử dụng số tiền vay
đó.Lãi suất tín dụng có thể được tính theo tháng hoặc năm ( ở Việt Nam thường
công bố theo tháng cịn hầu hết các nước cơng bố theo năm)
Tuỳ theo từng hình thức tín dụng mà người ta phân biệt lãi suất tín dụng thành
các loại khác nhau với những qui địng cụ thể khác nhau.
Lãi suất tín dụng thương mại tính trên cơ sở giá giữa việc trả tiền ngay với
việc kéo dài thời gian trả tiền. người ta thông báo cho người mua biết có thể mua
chịu hoặc trả tiền ngay và néu trả tiền ngay có thể giảm giá 2%.
Lãi suất tín dụng nhà nước chính là lãi suất các trái phiếu,tín phiếu theo công bố
khi nhà nước phát hành trái phiếu tín phiếu.lãi suất này có thể cố định trong suốt
thời gian vay.
Ví dụ: Loại tín phiếu có thời hạn 3 năm lãi suất 6% thì trong suốt thời hạn 3
năm , người mua tín phiếu đựợc hưởng lãi suất 6%/năm.Lãi suất cũng có thể biến
đổi.Ví dụ cũng loại tín phiếu 3 năm năm đầu công bố hay ghi trên mặt phiếu còn
năm thứ 2 năm thứ 3 sẽ điều chỉnh theo tình hình cụ thể của những năm đó (có thể
lên hoặc xuống theo thị trường).
Trong thực tế lãi suất được quan niệm thống nhất là :”Lãi suất tín dụng là tỷ lệ
phần trăm so sánh giữa số lợi tức thu được với số tiền bỏ ra cho vay trong một thời
kỳ nhất định”.
số lợi tức thu được trong kỳ
Lãi suất tín dụng
=
--------------------------------- × 100 (%)
số tiền vay phát ra trong kỳ
Trong đó lợi tức tín dụng là số tiền người đi vay phải trả cho người cho vay
ngoài phần vốn gốc sau một thời gian sử dụng tiền vay,hay nói cách khác đó chính
là phần giá trị tăng thêm so với phần vốn gốc mà người cho vay thu được sau một
thời gian nhất định. Lãi suất tín dụng là một chỉ tiêu đặc biệt đánh giá mức độ lợi
tức cao hay thấp khác nhau.
1.3.Phân Loại Lãi Suất Tín Dụng
Có nhiều tiêu chí phân loại lãi suất tín dụng ngân hàng.
1.3.1 . Căn cứ vào thời hạn tín dụng
Lãi suất được chia thành 3 loại :
- Lãi suất ngắn hạn áp dụng đối với các khoản tín dụng ngắn hạn
-
Lãi suất trung hạn áp dụng đối với các khoản tín dụng trung hạn
- Lãi suất tín dụng dài hạn áp dụng đối với các khoản tín dụng dài hạn
1.3.2. Căn cứ vào các loại hình tín dụng (phân loại theo chủ thể tham gia quan hệ
tín dụng).
Lãi suất được chia thành các loại sau:
-
Lãi suất tín dụng thương mại : áp dụng khi các doanh nghiệp cho nhau vay
dưới hình thức mua ban chịu hàng hố .
Nó được tính như sau:
Lãi suất =
TDTM
Giá cả hàng hố
bán chịu
-
Giá cả hàng hoá
bán trả tiền ngay
* 100%
Giá cả hàng hoá bán chịu
-
Lãi suất tiền gửi : là lãi suất trả cho các khoản tiền gửi .Nó được áp dụng để
tính tiền lãi phải trả cho người gửi tiền .
- Lãi suất tiền vay: là lãi suất người đi vay phải trả cho Ngân hàng do việc sử
dụng vốn vay của Ngân hàng . Nó được áp dụng để tính lãi mà khách hàng
phải trả cho Ngân hàng .
-
Lãi suất chiết khấu : áp dụng khi Ngân hàng cho khách hàng vay dưới hình
thức chiết khấu thương phiếu hoặc giấy tờ có giá trị khác chưa đến hạn
thanh toán của khách hàng . Nó được tính bằng tỷ lệ % trên mệnh giá của
giấy tờ có giá trị và được khấu trừ ngay khi Ngân hàng phát tiền vay cho
khách hàng.
-
Lãi suất tái chiết khấu: Lãi suất tái chiết khấu là lãi suất Ngân Hàng Nhà
Nước (NHNN) cho các tổ chức tín dụng vay trên cơ sở những chứng từ có
giá của ngân hàng thương mại. Đây là lãi suất phạt đối với ngân hàng
thương mại khi thiếu hụt khả năng thanh tốn. NHNN thơng qua lãi suất tái
chiết khấu tác động vào lãi suất thị trường.
Thí dụ, việc NHNN nâng lãi suất tái chiết khấu buộc các ngân hàng thương
mại phải tăng dự trữ để đảm bảo khả năng thanh toán. Đồng thời ngân hàng thương
mại cũng phải tăng lãi suất cho vay để bù đắp những chi phí cho những khoản tăng
thêm dự trữ, do vậy mà lãi suất thị trường tăng lên. Ngược lại, việc giảm lãi suất tái
chiết khấu của NHNN cho phép các ngân hàng thương mại giảm dự trữ và hạ lãi
suất cho vay, do đó mà hạ lãi suất thị trường.
- Lãi suất liên Ngân hàng : là lãi suất mà Ngân hàng áp dụng khi cho nhau vay
trên thị trường liên Ngân hàng .
- Lãi suất cơ bản: Là lãi suất được các Ngân hàng sử dụng làm cơ sở để ổn
định mức lãi suất kinh doanh của mình .
- Lãi suất tín dụng Nhà nước : áp dụng khi Nhà nước đi vay của các chủ thể
khác nhau trong xã hội dưới hình thức phát hành tín phiếu hoặc trái phiếu .
- Lãi suất tín dụng tiêu dùng : áp dụng khi doanh nghiệp cho người lao động
vay phục vụ nhu cầu tiêu dùng cá nhân .
1.3.3. Căn cứ vào giá trị thực của lãi suất
Lãi suất được chia thành 2 loại :
- Lãi suất danh nghĩa là lãi suất tính theo giá trị danh nghĩa của tiền tệ vào
thời điểm nghiên cứu hay nói cách khác là lãi suất chưa trừ đi tỷ lệ lạm phát.
Lãi suất danh nghĩa thường được cơng bố chính thức trong các quan hệ tín
dụng, trên các phương tiên thông tin đại chúng.
-
Lãi suất thực tế : Là lãi suất được điều chỉnh lại cho đúng theo những thay
đổi về lạm phát .Hay nói cách khác là lãi suất đã loại trừ đi tỷ lệ lạm phát
Nó bao gồm 2 loại :
> Lãi suất thực tính trước ( dự tính ): là lãi suất thực được điều chỉnh
lại cho đúng theo đúng những thay đổi dự tính về lạm phát
> Lãi suất thực tính sau : là lãi suất thực được điều chỉnh lại cho đúng
theo những thay đổi trên thực tế về lạm phát
Công thức tính :
Lãi suất danh nghĩa = lãi suất thực + tỷ lệ lạm phát
Hoặc
Lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa – tỷ lệ lạm phát
Vì được điều chỉnh lại theo đúng những thay đổi về lạm phát nên lãi suất
thực tế phản ánh chính xác hơn thu nhập từ việc cho vay cũng như chi phí thật của
việc cho vay
1.3.4. Căn cứ vào mức ổn định của lãi suất :
Lãi suất được chia làm hai loại .
-
Lãi suất cố định : là lãi suất áp dụng cố định trong suất thời hạn vay .
Nó có ưu điểm : Người gửi tiền và vay tiền biết trước số tiền lãi được trả
và phải trả .Bên cạnh đó nó có nhược điểm bị ràng buộc vào một lãi suất
nhất định trong một thời hạn nào đó dù cho các loại lãi suất khác thay đổi
như thế nào .
- Lãi suất thả nổi : Là lãi suất có thể thay đổi lên xuống và có thể báo trước
hoặc khơng báo trước.
Lãi suất thả nổi có lợi cho cả hai bên khi nhận và trả tiền đều tính theo
một lãi suất chung là lãi suất hiện tại
1.3.5 . Căn cứ vào cách tính lãi :
Lãi suất được chia làm 2 loại lãi đơn và lãi kép
- Lãi suất đơn là lãi suất tính một lần trên số vốn gốc cho suất kỳ hạn vay
Cơng thức tính : I = C0 . i . n
Trong đó :
I số tiền lãi
C0 vốn gốc
i là lãi suất
n số kỳ
Trong đó thời kỳ gửi vốn phải tương đương với thời kỳ của lãi suất
- Lãi suất kép : là mức lãi suất có tính đến giá trị đầu tư lại của lợi tức thu được
trong thời hạn sử dụng tiền vay
Công thức : C = C0 ( 1+i)n
Trong đó :
C số tiền thu được theo lãi gộp sau n kỳ
C0 vốn gốc ban đầu
i lãi suất
n số kỳ gửi vốn
Các loại lãi suất tín dụng được hình thành một cách đa dạng trong nền kinh tế
thị trường.Đại bộ phận chúng đều do NHNN kiểm soát và khống chế.Xu hướng
chung sẽ tiến tới một lãi suất phổ thông đơn giản.Hiện nay,ở các nước chậm phát
triển lãi suất tín dụng cịn cao.Cịn ở các nước có nền kinh tế phát triển lãi suất
thường hạ.Ngày nay do sự hội nhập kinh tế giữa các quốc gia,cho nên mặt bằng lãi
suất có cơ hội được thiết lập giữa nhiều nước trong khu vực và nhiều nước trên thế
giới.
1.4. Nguyên tắc xác định lãi suất :
Như đã nói, lãi suất tín dụng chính là giá cả của tín dụng, là tỷ lệ % tính theo
một thời hạn xác định ( ngày, tuần, tháng, q, năm... ) dùng làm căn cứ để tính
tốn số lợi tức tín dụng mà các chủ thể tín dụng phải trả ( đối với chủ thể đi vay )
hoặc nhận được ( đối với chủ thể cho vay ) để điều hồ lợi ích của các chủ thể
tham gia quan hệ tín dụng. Do vậy, việc xác định lãi suất tín dụng sao cho hợp lý là
một vấn đề vô cùng quan trọng sao cho đảm bảo được lợi ích giữa các chủ thể
trong quan hệ tín dụng.
Những ngun tắc xác định lãi suất hình thành theo cơ chế thị trường:
1.4.1.Căn cứ vào quan hệ cung-cầu tiền vay:
- Cung tiền vay chịu tác động của các yếu tố:
+ Mức thu nhập: sự gia tăng thu nhập trong nền kinh tế sẽ làm tăng các
khoản tiền dư thừa ngoài chi tiêu dẫn đến sự tăng lên của cung tiền vay qua đó
kéo lãi suất hạ xuống.
+ Mức lạm phát: sự gia tăng lạm phát làm cho giá trị thực tế của các khoản
tiền giảm xuống làm cho giá trị các khoản tiền thu về khi cho vay giảm,cung
tiền giảm , đẩy lãi suất tăng lên.
+ Mức rủi ro của việc cho vay: khi mức rủi ro trong cho vay tăng lên,làm
giảm bớt việc cho vay,cung về tiền vay giảm đẩy lãi suất lên cao.
- Những yếu tố tác động đến cầu tiền vay:
+ Mức lợi tức kì vọng của các cơ hội đầu tư: Khi mức lợi tức này tăng
làm tăng nhu cầu về vốn đầu tư,cầu tiền vay tăng đẩy lãi suất lên cao.
+ Mức lạm phát: Sự gia tăng lạm phát làm giảm chi phí thực tế của việc
sử dụng tiền vay,cầu về tiền vay tăng đẩy lãi suất lên cao.
+ Mức bội chi ngân sách nhà nước: ngân sách nhà nước bội chi làm tăng
cầu tiền vay dẫn đến lãi suất tăng.
Khi cung tiền vay nhỏ hơn cầu tiền vay thì lãi suất tăng và ngược lại.Khi cung
tiền vay bằng cầu tiền vay thì lãi suất ổn định.
1.4.2.Căn cứ vào thời hạn cho vay:
Lãi suất
tín dụng
<
ngắn hạn
Lãi suất
tín dụng <
trung hạn
Lãi suất
tín dụng
dài hạn
1.4.3.Căn cứ vào cơ chế lãi suất dương:
Tỷ lệ
Lãi suất
lạm phát
bình quân
<
huy động
<
vốn bình quân
Lãi suất
cho vay
bình quân
Tỷ suất
≤
lợi nhuận
bình quân.
1.5.Các yếu tố ảnh hưởng đến lãi suất tín dụng:
- Cung và cầu về tiền vay
Như phần trên đã đề cập, cung-cầu tiền vay có ảnh hưởng đến sự biến động lãi
suất
- Mức độ rủi ro trong việc hoàn trả vốn:
Khi mức độ rủi ro càng cao thì người ta sẽ tính lãi suất càng cao và ngược
lại.Do đó,tuỳ theo điều kiện đảm bảo và mức độ bảo toàn vốn vay của các khoản
tiền vay mà lãi suất có thể cao hay thấp.
- Số lượng vay và thời hạn vay:
Thông thường số lượng lớn và thời hạn vay dài sẽ được tính lãi suất cao hơn số
lượng nhỏ và thời hạn ngắn vì mức độ rủi ro thường cao hơn.
- Mức sinh lời của nền kinh tế:
Mức lãi suất cho vay chỉ được chấp nhận khi nó nhỏ hơn mức sinh lời của nền
kinh tế để đảm bảo cho người vay có lãi khi sử dụng vốn trong q trình sản suất
kinh doanh . Mức sinh lời cao thì lãi suất sẽ cao và ngược lại.
-
Thu và chi ngân sách:
Khi ngân sách nhà nước bội chi,chính phủ bù đắp bội chi bằng cách phát hành
và bán tín phiếu,trái phiếu chính phủ,làm tăng nhu cầu vay tiền và tăng lãi suất.
Ngược lại khi ngân sách bội thu sẽ tăng mức cung của quỹ cho vay làm cho lãi
suất giảm.
- Chi phí hoạt động ngân hàng:
Vì : lãi suất cho vay = lãi suất huy động + chi phí hoạt động ngân hàng.
Do đó chi phí hoạt động ngân hàng cao sẽ đẩy lãi suất tăng và chi phí hoạt động
giảm sẽ làm lãi suất giảm.
Như vậy để duy trì mức lãi suất vừa phải ,thúc đẩy nhu cầu vay vốn thì các
ngân hàng cần tích cực giảm chi phí hoạt động cũng như thu hẹp các bộ phận cán
bộ dư thừa hay cán bộ kém năng lực,tiết kiệm chi phí để giảm lãi suất cho vay.
- Lạm phát:
Khi lạm phát cao thì người cho vay sẽ không muốn cho vay,cung tiền vay
giảm xuống trong khi cầu tiền vay tăng lên (do chi phí cho khoản vay giảm đi) đẩy
lãi suất tăng cao.
Lãi suất tín dụng chịu tác động của rất nhiều yếu tố cho nên để xây dựng
một chính sách lãi suất hợp lý,các nhà quản lý,các cơ quan chức năng có liên quan
phải có một cách nhìn nhận tổng hợp sát thực để có những quyết định đúng đắn
đem lại lợi ích cho người đi vay cũng như đảm bảo quyền lợi của người cho vay,
bảo toàn đồng vốn và đảm bảo cho các Ngân Hàng Thương Mại( NHTM) ,tổ chức
tín dụng kinh doanh có lãi và cao hơn nữa là ổn định giá trị đồng tiền,thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế.
1.6.Ý nghĩa của lãi suất tín dụng trong nền kinh tế thị trường
Lãi suất tín dụng là một trong những địn bẩy kinh tế quan trọng của nền
kinh tế thị trường .Nó tác động đến tất cả các doanh nghiệp có sử dụng vốn tín
dụng nói riêng và do đó đến tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân nói
chung .Tác dụng của lãi suất được thể hiện ở những nội dung sau đây:
1.6.1.Lãi suất tín dụng là cơng cụ điều tiết kinh tế vĩ mô:
Lãi suất tạo nên khoản chi phí của người đi vay vì vậy sự biến động của lãi
suất có tác động đến đầu tư đến tiêu dùng qua đó tác động đến các mục tiêu của
nền kinh tế vĩ mô biểu hiện trong các trường hợp :
-
Lãi suất thấp → kích thích đầu tư , kích thích tiêu dùng → tăng tổng cầu → sản
lượng tăng, giá tăng, thất nghiệp giảm→ nội tệ có xu hướng giảm giá so với
ngoại tệ .
-
Lãi suất cao→ hạn chế đầu tư , hạn chế tiêu dùng→ giảm tổng cầu → sản lượng
giảm →giảm giá→ thất nghiệp tăng→ nội tệ có xu hướng tăng giá so với ngoại
tệ
Tăng hay giảm lãi suất cho vay,sẽ làm vốn của doanh nghiệp giảm xuống hay
tăng lên . Như vậy quyết định đến việc thu hẹp hay mở rộng sản suất .Tình trạng
này sẽ dẫn đến số lượng công việc làm trong xã hội tăng lên hay giảm xuống .Điều
đó có nghĩa rằng,lãi suất tín dụng đã có ảnh hưởng trực tiếp đến việc giải quyết
tình trạng thất nghiệp trong xã hội
Mặt khác, tăng hay giảm lãi suất tiền gửi ,đặc biệt là lãi suất tái chiết khấu sẽ
có ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng ngoại tệ đi vào trong nước .Do đó sẽ ảnh
hưởng đến cung cầu ngoại tệ dẫn đến sự thay đổi tỷ giá và quan hệ xuất nhập khẩu
trong từng thời kỳ.
Như vậy,có thể khẳng định lãi suất là cơng cụ điều tiết kinh tế vĩ mơ.
1.6.2.Lãi suất tín dụng là công cụ điều chỉnh kinh tế vi mô.
Trong nền kinh tế,thường xảy ra những đột biến ở từng khu vực hay trong
toàn bộ nền kinh tế quốc dân do những nguyên nhân không lường trước được . Khi
xảy ra những hiện tượng như vậy chính phủ thường sử dụng những cơng cụ kinh tế
trong đó có lãi suất tín dụng để điều chỉnh lại những quan hệ tạo điều kiện cho
kinh tế khu vực,ngành hay toàn bộ nền kinh tế phát triển .Chẳng hạn,trong điều
kiện lạm phát ,chính phủ có thể tăng lãi suất tiền gửi để rút bớt tiền trong lưu thơng
về , hoặc có thể áp dụng mức lãi suất khác nhau giữa các khu vực , để điều hồ lưu
thơng tạo mặt bằng giá cả hợp lý, đảm bảo cho sản suất và lưu thông hàng hoá phát
triển.
Là công cụ điều chỉnh kinh tế vi mô, lãi suất tín dụng phải được xử lý kịp
thời và chính xác. Điều đó địi hỏi hệ thống ngân hàng phải nắm vững thông tin
kinh tế, biết xử lý thông tin, để có những quyết định chính xác trong việc thực hiện
chính sách lãi suất.
1.6.3. Lãi suất tín dụng là cơng cụ khuyến khích cạnh tranh giữa các ngân hàng
thương mại
Trong khung lãi suất cho phép, để tăng khối lượng nguồn vốn huy động đồng
thời để mở rộng quan hệ tín dụng với khách hàng, các NHTM có thể nâng lãi suất
tiền gửi và hạ lãi suất cho vay . Đây chính là hoạt động cạnh tranh giữa các ngân
hàng thương mại. Thực chất của quá trình này là phân chia khối lượng tiền gửi và
mở rộng phạm vi ảnh hưởng của ngân hàng ra thị trường. Để đảm bảo cạnh tranh
thắng lợi, mỗi ngân hàng thương mại đều có chiến lược khách hàng của
mình.Chiến lược này được thực hiện bằng lãi suất ưu đãi . Muốn vậy các ngân
hàng thương mại đều tìm mọi biện pháp giảm thấp chi phí kinh doanh và chi phí
quản lý. Sự cạnh tranh lành mạnh giữa các NHTM sẽ tạo ra lợi ích kinh tế chung
cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
1.6.4.Lãi suất tín dụng là cơng cụ khuyến khích tiết kiệm và đầu tư.
Theo lý thuyết tài chính, chúng ta có thể đưa ra một phương trình đơn giản về thu
nhập.
Thu nhập = Tiêu dùng + Tiết kiệm
Phương trình này khơng những đúng với đặc điểm tài chính của các hộ gia
đình, các doanh nghiệp mà cả đối với nền tài chính quốc gia. Giả sử , trong điều
kiện của một nền kinh tế bình thường, tỷ lệ giữa tiêu dùng và tiết kiệm là hợp lý.
Để tăng tỷ lệ tiết kiệm,khuyến khích đầu tư, tức là tăng khả năng tài chính cho tồn
bộ nền kinh tế quốc dân ,thì biện pháp có hiệu quả nhất là tăng lãi suất huy động
vốn. Khi lãi suất huy động vốn tăng lên, thì trước hết các hộ gia đình phải xem xét
lại các khoản chi cho tiêu dùng thường xuyên ,có thể giảm chi hoặc hoãn một số
khoản chi này , để tăng thêm tỷ lệ tiết kiệm trong tổng thu nhập. Sau đó từ khoản
tiết kiệm này, họ sẽ chọn hướng đầu tư : Gửi vào ngân hàng , vào quĩ bảo hiểm ,
hay đầu tư vào thị trường chứng khốn... khi thấy có lợi hơn.
Như vậy có thể khẳng định lãi suất là cơng cụ can thiệp có hiệu lực để phân
chia giữa quỹ tiêu dùng và tiết kiệm .Nhưng nâng lãi suất huy động vốn đến mức
độ nào ,thì cần phải cân nhắc thận trọng để đảm bảo sự phát triển hài hồ của nền
kinh tế quốc dân.
1.6.5 Lãi suất là cơng cụ đo lường tình trạng của nền kinh tế
Người ta thấy rằng trong giai đoạn đang phát triển của nền kinh tế lãi suất có
xu hướng tăng do cung cầu quỹ cho vay đều tăng trong đó tốc độ tăng của cầu quỹ
cho vay lớn hơn tốc độ tăng của cung quỹ cho vay.
Ngược lại ,trong giai đoạn suy thoái của nền kinh tế lãi suất có xu hướng
giảm xuống
Do vậy ,thơng thường nhìn vào xu hướng biến động của lãi suất ta thấy được
tình trạng sức khoẻ của nền kinh tế .
Lãi suất là biến số thường xuyên biến động trong nền kinh tế . Căn cứ vào sự
biến động đó của lãi suất người ta có thể dự báo được các yếu tố khác của nền kinh
tế như tính sinh lời của các cơ hội đầu tư , mức lạm phát dự tính mức thiếu hụt của
ngân sách người ta có thể dựa vào lãi suất trong một thời kỳ để dự báo tình hình
kinh tế trong tương lai .
2.CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT TÍN DỤNG NGÂN HÀNG CỦA
NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG
Lãi suất là cơng cụ có ý nghĩa khi thực hiện chính sách tiền tệ, NHNN sẽ căn
cứ vào thực trạng của nền kinh tế để quy định một số chỉ tiêu lãi suất áp dụng trong
toàn hệ thống ngân hàng. Thông thường, người ta thường quy định hai chỉ tiêu cơ
bản là lãi suất cơ bản và lãi suất tái chiết khấu.
2.1. Lãi suất cơ bản:
Lãi suất cơ bản là lãi suất có tác dụng chi phối tất cả các loại lãi suất khác
hình thành trong nền kinh tế thị trường. Đó là loại lãi suất chiếm vị trí quan trọng
trong cơ chế thị trường.
Lãi suất cơ bản do NHNN xác định và công bố trên cơ sở tình hình thực tế
của thị trường và mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia.
Lãi suất cơ bản có một số chức năng nhất định. Nó là cơng cụ để điều hành
chính sách tiền tệ quốc gia. Qua lãi suất cơ bản, NHNN tác động vào thị trường
tiền tệ, thúc đẩy, mở rộng hay thu hẹp tín dụng, giữ mức tương quan cần thiết giữa
tổng cung và tổng cầu tiền tệ. Mặt khác, lãi suất cơ bản là giá cả sử dụng vốn trong
hoạt động tín dụng, là cở sở hình thành lãi suất thị trường, tức là lãi suất kinh
doanh tiền tệ. Nó là điểm dung hồ một cách tự nhiên lợi ích của người gửi tiền,
của người vay tiền và của Tổ Chức Tín Dụng(TCTD)
Lãi suất cơ bản được xác định một cách trực tiếp dưới nhiều góc độ. Nếu
đứng trên giác độ bảo vệ lợi ích của khách hàng ( người gửi tiền và người vay vốn)
người ta quy định lãi suất tiền gửi tối thiểu và lãi suất cho vay tối đa. Điều này có
nghĩa là, vì lợi ích của người gửi tiền, các TCTD không được hạ lãi suất một cách
tuỳ tiện và vì yêu cầu phát triển sản xuất, các tổ chức tín dụng khơng được tăng lãi
suất cho vay quá mức. Nếu đứng trên giác độ bảo vệ lợi ích của các TCTD, tạo
khuôn khổ cạnh tranh lành mạnh, đảm bảo an toàn hệ thống các TCTD, người ta
quy định lãi suất cơ bản theo chiều hướng ngược lại đó là quy định lãi suất tiền gửi
tối đa và lãi suất cho vay tối thiểu. Điều này làm cho các TCTD khơng được vì
muốn tạo lợi thế trong cạnh tranh mà nâng lãi suất huy động quá cao hoặc cho vay
theo lãi suất quá thấp, gây thiệt hại chung cho toàn hệ thống các TCTD.
Khi xác định lãi suất cơ bản phải tính đến tổng thể quan hệ cung cầu vốn
thông qua một loạt các yếu tố trong hoạt động kinh doanh tiền tệ thơng thường. Đó
là tỷ suất lợi nhuận bình quân, mức tăng trưởng kinh tế, chỉ số lạm phát dự báo
hàng quý, hàng năm, lãi suất thực dương cho người gửi tiền, bù đắp chi phí và có
lãi cho TCTD, u cầu điều hành chính sách tiền tệ từng thời kỳ, rủi ro trong hoạt
động tín dụng, mức độ dự trữ bắt buộc, lãi suất hình thành trên thị trường tiền tệ
nói chung, mối tương quan giữa lãi suất nội tệ và lãi suất ngoại tệ, mối tương quan
giữa lãi suất và tỷ giá hối đoái...
2.2 .Lãi suất tái chiết khấu.
Khi nền kinh tế phát triển cả chiều sâu lẫn chiều rộng, NHNN chuyển sang điều
hành lãi suất một cách gián tiếp, mang nặng yếu tố kinh tế. Đó là lãi suất tái chiết
khấu của NHNN. Lãi suất tái chiết khấu ( hay cịn gọi là lãi suất chiết khấu) có tác
động và có ý nghĩa hướng dẫn lãi suất thị trường một cách gián tiếp, tức là tác
động đến lãi suất kinh doanh của các TCTD.
Lãi suất chiết khấu chủ yếu ảnh hưởng đến cung ứng tiền tệ bằng cách ảnh
hưởng đến khối lượng cho vay chiết khấu và cơ số tiền tệ. Một sự tăng lên trong
cho vay chiết khấu sẽ làm tăng cơ số tiền tệ và tăng cung ứng tiền tệ. Còn một sự
giảm xuống trong cho vay chiết khấu sẽ làm giảm bớt cơ số tiền tệ và thu hẹp cung
ứng tiền tệ.
Ngoài việc sử dụng làm công cụ để tác động đến cơ số tiền tệ và cung ứng tiền
tệ, lãi suất chiết khấu còn được sử dụng để giúp cho việc tránh khỏi những cơn sụp
đổ tài chính vì ngân hàng đóng vai trị là người cho vay cuối cùng. NHNN đóng
vai trị là người cho vay cuối cùng không chỉ cho các NHTM mà cịn cho cả hệ
thống tài chính nói chung. NHNN cung cấp dự trữ cho hệ thống ngân hàng khi các
ngân hàng bị đe doạ phá sản, do đó ngăn chặn xảy ra những cơn sụp đổ ngân hàng
và tài chính.
Lãi suất chiết khấu có hai tác dụng: tác dụng về lượng đối với khối lượng tiền tệ
trong lưu thông và tác dụng về giá đối với cơ cấu lãi suất trong nền kinh tế.
Tác dụng về lượng: Việc phân tích q trình tạo tiền đã cho thấy các NHTM
sau khi tạo ra tiền ghi sổ còn phải tiền trung ương để đảm bảo. Nhu cầu này khiến
họ phải đi vay ở NHNN bằng cách tái chiết khấu một phần chứng từ có giá của
mình. Việc tái cấp vốn của NHNN cho các NHTM có tác dụng về lượng đối với
khối lượng tiền tệ vì nó dẫn đến việc phát hành tiền của NHNN cho các NHTM để
họ có thể chi trả cho việc rút vốn khỏi các NHTM.
Tác dụng về giá: NHNN tái chiết khấu các chứng từ do NHTM xuất trình với
điều kiện NHTM phải trả một tỷ suất nhất định do NHNN đơn phương quy định.
Lãi suất này gọi là tỷ suất chiết khấu hay lãi suất chiết khấu. Các loại lãi suất cho
vay tư nhân tức là lãi suất tín dụng cấp cho nền kinh tế và lãi suất cho vay Nhà
nước đều gắn chặt với lãi suất tái chiết khấu.
Mỗi khi tỷ suất chiết khấu thay đổi đều có xu hướng làm tăng hay giảm chi phí
cho vay của NHNN đối với các NHTM và do đó khuyến khích hoặc cản trở nhu
cầu xin vay.
Mặt khác, khi kho bạc muốn bán tín phiếu kho bạc cho lĩnh vực ngân hàng thì
họ phải chào một lãi suất tương đương với tỷ suất chiết khấu. Nói cách khác, khi
ấn định tỷ suất chiết khấu, NHNN cũng ấn định luôn mức lãi suất đi vay của Nhà
nước.
Như vậy, lãi suất chiết khấu chính là một cơng cụ để NHNN điều hành chính
sách lãi suất tín dụng ngân hàng sao cho phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền
tệ quốc gia.
3.THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT CỦA NGÂN
HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
3.1 BỐI CẢNH CHUNG
Năm 1986 là năm mở đầu thời kì chuyển hướng từ nền kinh tế kế hoạch hoá
tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Với cơ chế kinh
tế mới, tất cả các tổ chức kinh tế được tự chủ về tài chính, sản xuất, kinh doanh và
tung ra hoạt động theo cơ chế thị trường.
Phối hợp với xu hướng của hệ thống ngân hàng Việt Nam bắt đầu chuyển
đổi. Đặc trưng của quá trình này là: Tách hệ thống ngân hàng từ một cấp sang hai
cấp.
-
Ngân hàng nhà nước ( NHNN ): Thực hiện nhiệm vụ phát hành tiền, quản lý
vĩ mô hoạt động ngân hàng.
-
Hệ thống ngân hàng thương mại: Kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ tín dụng.
Sự chuyển đổi diễn ra 3 năm 1986 – 1990 song chưa có những chuyển biến
rõ nét, vẫn mang dáng dấp ngân hàng thời bao cấp. Trong giai đoạn này, sự đổ vỡ
hàng loạt các quỹ tín dụng nhân dân đã gây cho nền kinh tế những tổn thất lớn.
Nhưng cũng từ đó chúng ta đã có những bài học kinh nghiệm quý báu và tiếp tục
kiên trì con đường đơỉ mới.
Từ năm 1990 đến nay là giai đoạn đổi mới và phát triển hệ thống ngân hàng.
Hệ thống ngân hàng Việt Nam chuyển hướng nhanh để hồ nhập nền kinh tế thị
trường có sự điều tiết của nhà nước. Trong năm 1990, hai pháp lệnh hoạt động
ngân hàng được ban hành trong đó khẳng định:
-
Vị trí chức năng của ngân hàng nhà nước: Là ngân hàng trung ương, cơ quan
ngang bộ thuộc chính phủ, thay mặt nhà nước thực thi chính sách tiền tệ; làm
nhiệm vụ quản lý hành chính đối với tồn bộ hệ thống ngân hàng. Xác lập rõ
quan hệ giữa ngân hàng nhà nước và ngân sách là quan hệ vay trả chứ không
phải là quan hệ cấp phát.
-
Hệ thống ngân hàng thương mại: Kinh doanh tiền tệ và tương đối độc lập với
ngân hàng nhà nước trong hoạt động kinh doanh.
Chính sách tiền tệ bắt đầu được hình thành:
Trong thời kì bao cấp, lượng tiền phát hành là bao nhiêu, phục vụ mục đích
gì đều do chính phủ quyết định. Nhưng do suy thoái kinh tế, ngân sách quốc gia bị
thâm hụt. Nhằm bù đắp vào những khoản chi tiêu ngân sách, nhà nước tăng lượng
tiền phát hành vào lưu thông dẫn đến nạn lạm phát phi mã, nền kinh tế lâm vào
khủng hoảng. Do vậy khơng thể duy trì cơ chế này.
Năm 1991 ngân hàng nhà nước Việt Nam bắt tay vào xây dựng chính sách
tiền tệ với mục tiêu ổn định đồng tiền Việt Nam, tăng trưởng kinh tế. Việc xác định
lượng tiền cung ứng hàng năm phục vụ hai mục tiêu đó sao cho lượng tiền cung
ứng đủ, vừa đảm bảo phương tiện lưu thông sản xuất không bị ách tắc vừa kiềm
chế lạm phát.
Kết quả được minh hoạ qua bảng sau :
Năm
Chỉ số lạm phát
Chỉ số phát triển
kinh tế
1989
34.7%
1990
67.5%
1991
68%
1992
17.5%
1993
5.2%
1994
14.4%
6.8%
5.1%
6%
8.3%
8%
8.5-9%
Hệ thống các tổ chức tín dụng phát triển đa thành phần theo pháp lệnh ngân
hàng và hoạt động ngày càng có hiệu quả. Hệ thống ngân hàng thương mại QD
đóng vai trị chủ đạo trong hệ thống các tổ chức tín dụng. Hoạt động kinh doanh
tiền tệ, vàng bạc đá quý ngày càng được mở rộng.
Sau khi tổng kết và đánh giá đến tháng 10/1998, hai pháp lệnh ngân hàng cũ
đã được thay thế bằng hai luật ngân hàng mới. Luật ngân hàng nhà nước và luật
các tổ chức tín dụng và ngân hàng đã được xây dựng trên cơ sở kế thừa hai pháp
lệnh và phản ánh kịp thời những thay đổi lớn lao trong lĩnh vực ngân hàng.
3.2. Các giai đoạn thực hiện chính sách lãi suất của Ngân Hàng nhà Nước ở
Việt Nam
3.2.1
Chính sách lãi suất trước tháng 3/1989:
Là thời kì điều hành theo cơ chế lãi suất âm
Tuy từng thời gian ngân hàng nhà nước có điều chỉnh lãi suất, nhưng do lạm
phát phi mã, lãi suất ln trong tình trạng âm. Điều này có nghĩa là:
- Lãi suất tiền gửi thấp hơn mức lạm phát.
-
Lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất huy động và thấp hơn mức lạm phát.
Hệ thống lãi suất âm có nhiều tiêu cực :
- Khả năng huy động vốn đi với yêu cầu rút bớt tiền lưu thông, giảm bớt áp
lực của tiền đối với giá của hàng hoá bị hạn chế nhiều.
- Nhu cầu vay vốn tăng lên không thực chất, tạo lợi nhuận giả tạo cho các
doanh nghiệp.
-
Ngân hàng bao cấp qua lãi suất cho khách hàng, tạo lỗ khơng đáng có cho
ngân hàng, ngân hàng khơng thể kinh doanh tiền tệ bình thường theo cơ chế
thị trường.
- Khơng có tác dụng khuyến khích khu vực dân cư gửi tiền tiết kiệm vào hệ
thống ngân hàng, họ tăng nắm giữ vàng bạc và ngoại tệ. Ngân hàng thiếu
vốn, lợi nhuận thấp nên khơng có khả năng cho vay ra nền kinh tế.
Năm
Lãi suất thực
3.2.2
1986
- 6,6%
1987
- 5,8%
Chính sách lãi suất từ tháng 3/1989:
Ngân hàng nhà nước đã chủ động sử dụng công cụ lãi suất, chuyển từ lãi
suất âm qua lãi suất dương. Để thu hút tiền trong lưu thông và kiềm chế được lạm
phát, tránh bao cấp qua lãi suất, ngân hàng nhà nước đã nâng lãi suất huy động lên
một mức rất cao trong một thời gian ngắn (lãi suất tiết kiệm khơng kì hạn
9%/tháng – tức là 109%/năm ; Lãi suất tiết kiệm 3 tháng 12%/tháng – túc là 144%/
năm).
Nhờ vậy đã :
-
Thu hút một khối lượng lớn tiền trong lưu thông, tăng nguồn vốn tín dụng, gìm
lạm phát, kích thích tăng trưởng phát triển.
- Chuyển lãi suất âm qua lãi suất dương, tức là lãi suất tiền gửi cao hơn lạm phát,
lãi suất cho vay cao hơn lãi suất huy động, xử lý hài hồ lợi ích người gửi tiền
người vay vốn và tổ chức tín dụng.
- Hệ thống lãi suất cịn phức tạp, còn nhiều mức lãi suất tiền gửi và tiền vay: Đối
với ngành kinh tế (cơng, nơng, thương nghiệp) có mức lãi suất riêng ; Đối với
các thành phần kinh tế (quốc doanh, ngồi quốc doanh) cịn phân biệt lãi suất.
- Mức thực dương phi thực tế (năm 1991 – lãi suất thực 25,6% ; năm 1992 –
17,9%) đã kích thích nạn đầu cơ tiền tệ, khan hiếm tiền mặt trong lưu thơng và
làm tê liệt hoạt động tín dụng đầu tư phát triển.
3.2.3
Chính sách lãi suất từ 1/10/1993:
Ngân hàng nhà nước vừa áp dụng lãi suất trần (cho vay) vừa áp dụng lãi suất
thoả thuận.
a)
Lãi suất Trần : Cho vay doanh nghiệp nhà nước 1,8%/tháng ; Kinh tế ngoài
quốc doanh 2,1%/tháng.
b)
Lãi Suất Thoả thuận : Trường hợp ngân hàng không huy động đủ vốn để cho
vay theo lãi suất quy định phải phát hành kì phiếu với lãi suất cao hơn thì được
áp dụng lãi suất thoả thuận.
Trên thực tế khoảng 30-60% tổng dư nợ lúc bấy giờ là từ các khoản cho vay
bằng lãi suất thoả thuận mà các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và hộ nông dân
với lãi suất 2,3-3,5%/tháng. Với cơ chế lãi suất thoả thuận, có thể hiểu là đủ tự do
hố một phần lãi suất, hoặc đó là cơ chế cho vay với lãi suất cứng đi đôi với một
biên độ dao động nhất định.
Từ cơ chế cho vay theo lãi suất thoả thuận, các ngân hàng thương mại đã
cho vay theo lãi suất khá cao với doanh nghiệp ngoài quốc doanh và hộ nơng dân.
Điều đó cũng nói lên một tất yếu khách quan la lãi suất đã theo nhu cầu vốn ở nơng
thơn lớn hơn và chi phí hoạt động ngân hàng ở nơng thơn cao thì lãi suất cho vay
sẽ cao hơn các khu vực khác.
Thời kì cho vay theo lãi suất thoả thuận, các ngân hàng đạt được mức chênh
lệch lãi suất cho vay và lãi suất huy động rất cao, phổ biến là từ 0,7 – 1%/tháng,
cho nên hầu hết các ngân hàng thương mại đều có mức lợi nhuận cao trong khi các
doanh nghiệp và hộ nơng dân lại gặp khó khăn về tài chính. Từ thực trạng này,
quốc hội khố IX, kì họp thứ 8 tháng 10/1995 đã thông qua nghị quyết bỏ thuế
doanh thu hoạt động tín dụng ngân hàng, đồng thời khống chế chênh lệch giữa lãi
suất cho vay và lãi suất huy động 0,35%/tháng.
Đây là duyên cớ để ra đời cơ chế lãi suất trần hoàn toàn và bãi bỏ lãi suất
cho vay thoả thuận từ 01/01/1996.
3.2.4
Chính sách lãi suất từ 01/01/1996:
Trên cơ sở nghị quyết của quốc hội về mức chênh lệch lãi suất 0,35%/tháng, nên
ngân hàng nhà nước đã quyết định điều hành chính sách lãi suất theo trần lãi suất
nhằm khống chế lãi suất cho vay tối đa và các ngân hàng thương mại chỉ được
hưởng chênh lệch 0,35%/tháng bao gồm cả chi phí, thuế, lợi nhuận thay cho việc
quy định các mức lãi suất tiền gửi cụ thể và xố bỏ lãi suất cho vay thoả thuận.
Chính sách điều hành lãi suất vừa quy định trần lãi suất vừa khống chế chênh lệch
0,35%/tháng nên có quan điểm cho rằng thực chất của nó là vừa quy định trần vừa
quy định sàn lãi suất.
Trần lãi suất cho vay được quy định thành nhiều mức khác nhau, xuất phát
từ đặc điểm có nhiều loại hình tổ chức tín dụng hoạt động trên các địa bàn khác
nhau, cung cầu vốn khác nhau, quy, mơ khác nhau và do đó chi phí khác nhau, nên
quy định nhiều mức trần lãi suất cho vay khác nhau, lúc đầu có 4 trần :
- Trần lãi suất cho vay ngắn hạn : Là lãi suất thấp nhất áp dụng cho khu vực
thành thị.
- Trần lãi suất cho vay trung dài hạn : Cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn một
chút do thời hạn dài dễ gặp rủi ro.
- Trần lãi suất cho vay trên địa bàn nông thôn : Cao hơn trần lãi suất ngắn hạn và
trung dài hạn do điều kiện hoạt động ở địa bàn nơng thơn khó khăn hơn thành
thị.
- Trần lãi suất của quỹ tín dụng đối với các thành viên : Là trần lãi suất cao nhất
do quỹ tín dụng mới lập thí điểm, quy mơ nhỏ lẻ, chi phí hoạt động cao.
Ưu điểm:
- Lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa của các tổ chức tín dụng không ngừng giảm
theo cùng sự giảm về tỷ lệ lạm phát.
- Lãi suất cho vay trung dài hạn giảm nhưng tăng tương đối so với lãi suất ngắn
hạn, tăng dần và dẫn đến cao hơn so với lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa, phù
hợp dần với thông lệ quốc tế và nguyên lý chung.
- Các quyết đinh đảm bảo được cả 3 lợi ích : Nền kinh tế quốc dân, tổ chức tín
dụng và người gửi tiền.
- Việc quy định chênh lệch lãi suất đã thúc đẩy các tổ chức tín dụng đi vào cạnh
tranh trong kinh doanh tiền tệ. Thay vì sự quy định từng loại lãi suất cụ thể như
trước đây, ngân hàng nhà nước chỉ khống chế mức chênh lệch giữa lãi suất cho
vay bình quân và lãi suất huy động bình quân, các tổ chức tín dụng được tự chủ
trong việc ấn định các mức lãi suất huy động cụ thể.
- Chính sách lãi suất này đã kích thích hoạt động tín dụng phát triển, tăng trưởng
kinh tế, tạo việc làm, góp phần thực hiện cơng nghiệp hố - hiện đại hố đất
nước.
Hạn chế:
- Việc ấn định mức chênh lệch lãi suất 0,35%/tháng gây khó khăn cho hoạt động
của ngân hàng và các biện pháp để giám sát sự thực hiện quy định này là hầu
như khơng có.
- Trần lãi suất cho vay nông thôn cao hơn thành thị tạo động lực cho các ngân
hàng thương mại mở rộng hoạt động song lại bị cản trở trong việc thực hiện
chính sách ưu đãi nơng nghiệp, khuyến khích nơng nghiệp phát triển.
Từ 21/01/1998 đến 08/2000:
Tại kì họp thứ hai, tháng 12/1997 quốc hội khoá IX cho phép bỏ mức chênh
lệch 0,35%/tháng, đồng thời để thu hẹp sự cách biệt giữa mức lãi suất cho vay giữa
thành thị và nông thôn, ngân hàng nhà nước với quyết định số
39/1998_QĐ_NHNH1, quy định các mức lãi suất mới, rút từ 4 trần xuống còn 3
trần và khoảng cách giữa các trần cũng khơng cịn xa nhau như trước.
- Trần lãi suất cho vay ngắn hạn 1,2%/tháng.
- Trần lãi suất cho vay trung dài hạn 1,25%/tháng.
- Trần lãi suất cho vay quỹ tín dụng cho vay các thành viên 1,5%/tháng.
Việc quản lý lãi suất theo trên có những ưu điểm sau:
- Trong phạm vi trần, các tổ chức tín dụng được tự do hố ấn định mức lãi suất
cho vay tiền gửi cụ thể, linh hoạt, phù hợp điều kiện kinh doanh, thực hiện điều
kiện kinh doanh, thực hiện cạnh tranh lành mạnh, từng bước tự do hố lãi suất.
- Phù hợp với đặc điểm, chi phí hoạt động ngân hàng ở các vùng khác nhau.
- Tạo mặt bằng chung về lãi suất trong cả nước, xoá bỏ lãi suất thoả thuận, vượt
quá xa mức lãi suất do ngân hàng nhà nước quy định.
- Có trần khống chế sẽ bảo vệ lợi ích người vay, tổ chức tín dụng và người gửi
tiền.
- Đảm bảo vai trò quản lý của ngân hàng nhà nước về lãi suất trong giai đoạn đầu
của thị trường tiền tệ mới hình thành trong nền kinh tế thị trường.
- Lãi suất tiền gửi được hoàn toàn tự do.
Tuy nhiên, quản lý theo trần lãi suất là cách quản lý hành chính trong giai
đoạn nền kinh tế thị trường còn sơ khai, chưa phát huy được hết mặt tích cực, nhạy
cảm của nó. Lợi dụng mức khống chế "cứng" nhiều tổ chức tín dụng cho vayngay
theo mức tối đa, đụng trần lãi suất để tối đa hố lợi nhuận. Nó ít linh hoạt, không
được điều chỉnh theo quan hệ cung cầu vốn và điều kiện khó khăn thuận lợi của
từng vùng.
3.2.5
Chính sách lãi suất từ 8/2000 đến nay :
Đang thực hiện điều hành chính sách lãi suất bằng cơng cụ lãi suất cơ bản.
Ngày 02/08/2000 thống đốc ngân hàng nhà nước đã ban hành các quyết định
về việc thay đổi cơ chế điều hành lãi suất có hiệu lực thi hành từ ngày 05/08/2000.
- Quyết định số 241/2000_QĐ_NHNH1 về việc thay đổi cơ chế điều hành lãi
suất cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng.
- Quyết định số 242/2000_QĐ_NHNH1 công bố lãi suất cơ bản làm cơ sở cho
các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam đối voứi
khách hàng.
- Quyết định số 243/2000_QĐ_NHNH1 công bố biên độ lãi suất đô la Mỹ làm cơ
sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất cho vay bằng đô la Mỹ.
- Quyết định số 244/2000_QĐ_NHNH1 về việc cung cấp thông tin tham khảo về
lãi suất của các ngân hàng thương mại cho ngân hàng nhà nước.
Đây chính là giai đoạn cụ thể hố những quyết sách chiến lược đã được nêu
ra trong trong luật ngân hàng nhà nước, khoản 2 điều 19 xác định "lãi suất cơ bản
là lãi suất do ngân hàng nhà nước công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn
định làm lãi suất kinh doanh" ; Điều 18 quy định "ngân hàng nhà nước xác định và
công bố lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn".
Việc chuyển hướng này có nhiều lí do, song về cơ bản là bởi lãi suất trần đã
trở thành một công cụ chỉ cịn tính hình thức, xơ cứng mất hết tác dụng đối với nền
kinh tế. Nền tảng kinh tế vĩ mô trong nước chưa cho phép thực hiện tự do hoá lãi
suất, do vậy thực hiện chính sách lãi suất theo lãi suất cơ bản là bước chuyển giao
từ việc điều hành hành chính sang việc để thị trường xác định và nhà nước chỉ tác
động qua các công cụ kinh tế.
Nội dung chủ yếu của cơ chế điều hành lãi suất mới :
Lãi suất cơ bản được hình thành trên cơ sở nguyên tắc thị trường nhưng với
bước đi thích hợp thận trọng, phù hợp với điều kiện thực tế của thị trường tiền tệ ;
từng bước tiến tới tự do hoá lãi suất, quốc tế hoá hoạt động tài chính trong nước,
đồng thời với các biện pháp phát triển thị trường tiền tệ và nâng cao năng lực điều
hành của các tổ chức tín dụng, xử lý lãi suất đồng Việt Nam trong mối quan hệ với
lãi suất ngoại tệ và chính sách tỷ giá, quản lý ngoại hối. Cụ thể là:
o
Đối với lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam :
Ngân hàng nhà nước bãi bỏ quy định trần lãi suất cho vay của tổ chức tín
dụng với khách hàng, chuyển sang xác định và công bố lãi suất cơ bản và tỷ lệ biên
độ %, dựa trên việc tham khảo lãi suất cho vay ngắn hạn thông thường các ngân
hàng thương mại áp dụng với khách hàng vay có uy tín trong việc sử dụng vốn
vay, trả nợ, có rủi ro thấp.
Lãi suất cho vay và huy động của tổ chức tín dụng gắn với lãi suất cơ bản.
Theo đó lãi suất cho vay của tổ chức tín dụng cao nhất = lãi suất cơ bản + tỷ lệ %.
Lãi suất cơ bản và biên độ được công bố hàng tháng, trường hợp cần thiết ngân
hàng nhà nước sẽ công bố điều chỉnh kịp thời, tại thời điểm hiện nay là:
- Lãi suất cơ bản là 0,73%/tháng.
- Biên độ trên đối với lãi suất cho vay ngắn hạn là 0,3%/tháng.
- Biên độ trên đối với lãi suất cho vay trung và dài hạn là 0,5%/tháng.