Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN CỦA HỆTHỐNG NHTM NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (277.62 KB, 27 trang )

Bài thảo luận
***
“NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN CỦA HỆ
THỐNG NHTM NHÀ NƯỚC VIỆT NAM”
***
Bố cục:
Phần I: Giới thiệu chung về NHTM nhà nước.
Phần II: Thực trạng sử dụng vốn ở các NHTM nhà nước.
Phần III: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ở các
NHTM nhà nước.
Phần I: Giới thiệu chung về NHTM nhà nước ở Việt Nam
1 Lịch sử
- Sự hình thành và phát triển của các NHTM "nhà nước" ở Việt Nam là
một bộ phận trong quá trình lịch sử của ngành Ngân hàng Việt Nam
- Từ năm 1986 đến năm 1990, nước ta thực hiện tách dần chức năng quản
lý của Ngân hàng Nhà nước ra khỏi chức năng kinh doanh tiền tệ, tín
dụng, chuyển hoạt động ngân hàng sang hạch toán, kinh doanh xã hội
chủ nghĩa. Cơ chế mới về hoạt động ngân hàng đã được hình thành và
hoàn thiện dần.
- Tháng 5/1990, hai pháp lệnh Ngân hàng ra đời (Pháp lệnh Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam và Pháp lệnh Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và
công ty tài chính ) đã chính thức chuyển cơ chế hoạt động của hệ thống
Ngân hàng Việt Nam từ 1 cấp sang 2 cấp – Trong đó lần đầu tiên đối
tượng nhiệm vụ và mục tiêu hoạt động của mỗi cấp được luật pháp phân
biệt rạch ròi
- Trong thời gian này, 4 ngân hàng thương mại quốc doanh lớn đã được
thành lập gồm: 1) Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam; 2) Ngân hàng đầu
tư và phát triển Việt Nam; 3) Ngân hàng Công thương Việt Nam; 4)
Ngân hàng ngoại thương Việt Nam.
- Tháng 9/1997, thành lập Ngân hàng phát triển Nhà Đồng bằng Sông cửu
long theo Quyết định số 769/TTg


- Như vậy đến đây, chúng ta có 5 NHTM nhà nước ở Việt Nam, với 4 ngân
hàng lớn có quy mô hàng đầu trong các NHTM. Ngân hàng thương mại
nhà nước lúc này đúng nghĩa là NHTM do Nhà nước thành lập, thuộc sở
hữu nhà nước, thực hiện toàn bộ các hoạt động ngân hàng và các hoạt
động kinh doanh khác có liên quan nhằm mục tiêu lợi nhuận và các chính
sách kinh tế của nhà nước. Việc nhà nước giao nhiệm vụ thực hiện chính
sách kinh tế cho các ngân hàng này không phải bất nguồn từ quyền lực
của nhà nước mà bắt nguồn từ quyền lực của chủ sở hữu đối với ngân
hàng.
- Từ năm 2004-2005 đã có nhiều ý kiến muốn tiến hành cổ phần hóa các
NHTM nhà nước.
- Tháng 6/2008, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam được cổ phần hóa,
chính thức chuyển đổi thành Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt
Nam(Vietcombank)
- Tháng 9/2008, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt phương án cổ phần hóa
Ngân hàng Công thương Việt Nam, trở thành Ngân hàng TMCP Công
thương Việt Nam(VietinBank)
- Tháng 2/2011, Ngân hàng NN và PTNT Việt Nam Agribank chuyển đổi
hoạt động sang mô hình Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên do
Nhà nước làm chủ sở hữu 100% vốn điều lệ.
- Tháng 7/2011, Ngân hàng quốc doanh thứ ba được duyệt cổ phần hóa là
Ngân hàng Thương mại cổ phần Phát triển nhà đồng bằng Sông Cửu
Long (MHB)
- Tháng 4/2012, BIDV chính thức thành ngân hàng thương mại cổ phần,
tên đầy đủ là: Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt
Nam
- Đối với các ngân hàng đã được cổ phần hóa nói trên, chúng không còn
hoàn toàn đúng nghĩa là "ngân hàng thương mại nhà nước" nữa. Tuy
nhiên, nhà nước vẫn nắm phần lớn cổ phần trong đó. Riêng với Ngân
hàng Agribank, Ngân hàng Nhà nước kiên quyết trong vòng 5 năm tới

không đặt vấn đề cổ phần hóa.
2 Một số đặc điểm
- NHTM nhà nước sẽ được giao thực hiện một số Chính sách của Chính
phủ, trong một số hoàn cảnh cụ thể.
Chẳng hạn, thực hiện Nghị quyết 02/NQ-CP ngày 7-1-2013 của Chính
phủ về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ
trợ thị trường, giải quyết nợ xấu, ngày 15-5-2013 Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam đã ban hành Thông tư 11/2013/TT-NHNN quy định về cho vay
hỗ trợ nhà ở. Cùng ngày, Bộ Xây dựng cũng ban hành Thông tư
07/2013/TT-BXD hướng dẫn việc xác định các đối tượng được vay vốn
hỗ trợ nhà ở. Bắt đầu từ ngày 1-6-2013 các Ngân hàng Thương mại Nhà
nước bao gồm: Ngân hàng NN và PTNT Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng
TMCP Ngoại thương Việt Nam và Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng
sông Cửu Long triển khai giải ngân gói 30.000 tỷ đồng hỗ trợ nhà ở xã
hội. Chương trình của gói tín dụng này sẽ dành 70% cho người dân vay
mua nhà ở xã hội có quy mô từ 70m2/căn hộ trở xuống, có giá bán dưới
15 triệu đồng/m2, 30% còn lại dùng để cho vay đối với doanh nghiệp là
chủ đầu tư dự án nhà ở xã hội và doanh nghiệp là chủ đầu tư dự án nhà ở
thương mại được chuyển đổi công năng sang nhà ở xã hội.
- Ở Việt Nam, các NHTM nhà nước chiếm thị phần lớn, gần như tuyệt đối,
và có tiềm lực tài chính lớn do có sự trợ giúp từ nhà nước. Các NHTM
NN Việt Nam vẫn chiếm tỷ trọng rất lớn về tín dụng (từ 60-85%) cũng
như tiền gửi (74,3% đến 88%), mặc dù xu thế này đang có chiều hướng
giảm dần. Điều này là do yếu tố lịch sử, các NHTM ngoài quốc doanh
mới thành lập ở Việt Nam nên uy tín chưa cao, hoặc phạm vi hoạt động
của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài chưa rộng. Điều này sẽ tạo nên
một môi trường cạnh tranh gần với độc quyền nhóm.
Quy mô của các ngân hàng này sẽ mang lại cho họ lợi thế để cạnh tranh
với các đối thủ nhỏ hơn. Tuy nhiên, các ngân hàng tư nhân hiện nay đang

vươn lên về nhiều mặt, biểu hiện rõ sự cố gắng trong việc chiếm lĩnh một
phần không nhỏ của thị trường đang tăng trưởng.
- Có thể thấy khá rõ những tài sản vô hình nữa mà ngân hàng quốc doanh
được hưởng, đó là sự thiên vị của công chúng so với các ngân hàng “tư
nhân”. Từ “quốc doanh” đối với đại bộ phận người Việt Nam vẫn đồng
nghĩa với một thực thể lớn, vững chắc và an toàn. Đó là cái mà chúng ta
gọi là niềm tin. Ngân hàng rất thích khái niệm này, vì nếu cảm giác tin
tưởng này vẫn còn thống lĩnh, thì tiền gửi vẫn cứ chảy vào ngân hàng với
chi phí tương đối thấp. Việc tiến hành các hoạt động PR và marketing tốn
kém trở nên dễ dàng hơn nhiều. Rõ ràng là, việc tiết kiệm ở đây đồng
nghĩa với lợi nhuận tốt hơn.
- Thêm nữa, tài sản hữu hình của ngân hàng quốc doanh có thể thấy được ở
khắp mọi nơi, từ bất động sản cho tới hệ thống những cơ sở và chi nhánh
toàn quốc. Ngân hàng Agribank đã có khoảng 2000 chi nhánh các cấp.
Hệ thống chi nhánh này đã giúp cho Ngân hàng Agribank được Bảo hiểm
xã hội ủy thác việc trả lương, đây là một hợp đồng kinh doanh tốt đến nỗi
kể cả ngân hàng tư nhân có uy tín nhất là Sacombank cũng không có khả
năng đạt được.
- Không kém phần quan trọng, là khi cần một số quyền miễn trừ để thực
hiện một số nhiệm vụ, thì những ngân hàng quốc doanh có nhiều khả
năng được cấp quyền miễn trừ này.
Tháng 9/2006, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành
quyết định cho phép NH Kỹ thương, NH Đầu tư & Phát triển và NH
Ngoại thương vượt định mức cho vay không quá 15% vốn đối với một
khoản nợ cho một pháp nhân. Điều này đã cho phép NH Kỹ thương,NH
Đầu tư & Phát triển và NH Ngoại thương huy động tổng số 1,27 tỉ USD
cho Tổng công ty Điện lực Việt Nam, với khoản đóng góp của từng ngân
hàng lần lượt là 321,3 triệu, 252,3 triệu và 659,9 triệu USD.
- Việc Việt Nam hội nhập sâu rộng hơn với thế giới, cũng như việc tiến
hành tái cấu trúc ngành ngân hàng trong những năm qua đã thúc đẩy các

ngân hàng thương mại Nhà nước phát triển hơn về nhiều mặt. Cơ chế thị
trường đã làm cho những ngân hàng quốc doanh xử sự giống những ngân
hàng tư nhân: cạnh tranh trong việc quản lý luồng tiền gửi, mở rộng
mạng lưới, thu hút những nhân sự có năng lực, tiến hành các chiến dịch
PR, phát triển văn hóa doanh nghiệp Những quy luật lạnh lùng của thị
trường buộc họ phải thay đổi, giải quyêt nhiều vấn đề "cố hữu" như nợ
xấu, nợ trực tiếp, quản trị rủi ro thấp để có thể giữ vững vị thế của mình
- Tóm lại, chúng ta đều hiểu rằng các ngân hàng quốc doanh rất khác so
với một ngân hàng tư nhân trung bình. Do đó, với những quy mô, lợi thế
to lớn của họ, cũng như các thách thức đặt ra, thì việc nâng cao tính hiệu
quả của những ngân hàng này thực sự là vấn đề cần xem xét.
Phần II: thực trạng sử dụng vốn của các NHTM nhà nước
hiện nay.
1) Thực trạng huy động vốn.
- Bằng các hình thức huy động vốn của mình, các NHTM nước ta đã huy
động được một số lượng vốn lớn để đáp ứng cho các nhu cầu hoạt động
kinh doanh của mình. Đây là một số trong số kết quả huy động vốn là của
các NHTM.
- Theo số liệu từ Ngân hàng Nhà nước, huy động vốn của toàn hệ thống
năm 2012 tăng khoảng 16%. Tuy không nằm trong tốp các ngân hàng
dẫn đầu về tăng trưởng huy động vốn nhưng khối ngân hàng thương mại
nhà nước cũng đạt mức tăng huy động vốn trên 20% như BIDV với 26%;
Agribank 21,5%; Techcombank 25,7%; Vietcombank 25,3%. Ngân hàng
Vietinbank trong khi đó chỉ đạt mức tăng 12,1%.
Tăng trưởng huy động vốn của 10 ngân hàng tốp đầu trong năm 2012
- Về con số tuyệt đối trong huy động vốn, khối NHTM nhà nước dẫn đầu.
cụ thể là Agribank dẫn đầu hệ thống ngân hàng với 540.000 tỷ đồng của
khách hàng gửi trong năm vừa qua. Đứng thứ hai là BIDV với 360.167
tỷ.Vị trí thứ 3 và thứ 4 thuộc về Vietinbank và Vietcombank với lần lượt
288.271 tỷ đồng và 284.514 tỷ đồng.

Sơ đồ: Tăng trưởng huy động vốn và tăng trưởng tín dụng ở VN
- Huy động vốn của các NHTM có tăng trưởng khá qua các năm (trừ năm
2008, có giảm sút, do tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu)
do việc đa dạng hóa sản phẩm huy động và phát triển mạng lưới chi
nhánh, phòng giao dịch.
- Mặc dù có mạng lưới rộng và thương hiệu mạnh, được người dân biết
đến, nhưng tốc độ tăng trưởng về huy động vốn của các NHTM CP có sự
bứt phá mạnh, thị phần đã tăng lên 31,23% so với 21,3% năm 2006,
khiến cho thị phần của các NHTM NN giảm. Hoạt động cho vay cũng có
tốc độ tăng trưởng cao, thậm chí còn tăng nóng trong năm 2007 và năm
2008, một số NHTM CP có tốc độ tăng từ 60% trở lên. Nhưng 6 tháng
đầu năm 2010, tăng trưởng tín dụng đạt 10,8%, nhưng đến cưới tháng 7,
tốc độ tăng trưởng đã khá hơn, với mức tăng gần 13,0% cho 7 tháng đầu
năm 2010. So với tốc độ tăng trưởng kinh tế, thì tốc độ tăng trưởng tín
dụng gấp 5 đến 6 lần được cho là tăng trưởng nóng, nhưng nhìn nhận một
cách sâu sắc có thể thấy, nếu không có sự tăng trưởng cao của tín dụng
trong vài năm qua, thì không có được tốc độ tăng GDP này.
2) Thực trạng sử dụng vốn
- Một số chỉ tiêu tài chính tính đến 30/4/2012.
- Lần đầu tiên trong lịch sử, Ngân hàng Nhà nước công bố công khai một
cách có hệ thống các thông tin về hoạt động tín dụng theo Thông tư
35/2011. Theo đó, tổng tín dụng tính đến 30/4/2012 là 2.617.320 tỷ đồng,
giảm 0,59% so với cuối năm 2011. Trong đó, tín dụng cho công nghiệp
chế biến, chế tạo có tăng trưởng 5,19% lên 607.846 tỷ đồng, chiếm tỷ
trọng lớn nhất trong tổng dư nợ toàn hệ thống. Tổng huy động từ dân cư
có mức tăng mạnh 11,78% trong 4 tháng, lên 1.449.453 tỷ đồng trong
khi tiền gửi của doanh nghiệp lại giảm 5,6% xuống 1.084.405 tỷ đồng.
Tính tổng, huy động từ dân cư và doanh nghiệp tăng 88 nghìn tỷ đồng,
tương đương 3,6% lên 2.533.858 tỷ đồng.
- Theo đánh giá của ông Nguyễn Đức Hùng Linh, Giám đốc Phân tích và

Tư vấn đầu tư - Khách hàng cá nhân của Công ty Chứng khoán Sài Gòn
(SSI Research), tiền gửi doanh nghiệp giảm có thể giải thích bằng hai
nguyên nhân. Thứ nhất, các doanh nghiệp rất thiếu vốn nên đã tích trữ
tiền để cho vay lẫn nhau mà không qua hệ thống ngân hàng. Thứ hai,
kinh tế khó khăn khiến lợi nhuận và dòng tiền của doanh nghiệp giảm
làm lượng tiền gửi ngân hàng cũng giảm. Trong khi đó, tổng phương tiện
thanh toán đến cuối tháng 4 là 3.035.790 tỷ đồng, tăng 3,14% (92 nghìn
tỷ đồng), thấp hơn mức tăng của huy động. Theo nhận định của SSI
Research, tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán và huy động có thể
giải thích được bằng việc Ngân hàng Nhà nước đã bơm khoảng 180
nghìn tỷ đồng ra thị trường để mua USD. Nếu trừ đi lượng tiền hút về
qua OMO và tín phiếu Ngân hàng Nhà nước (120-140 nghìn tỷ đồng) thì
lượng tiền chưa hút về vẫn còn 40-60 nghìn tỷ đồng.
- Tỷ lệ tín dụng/huy động toàn hệ thống đến 30/4 là 86%, tương đối cao so
với tỷ lệ 80% theo Thông tư 13. Điều đáng nói là tỷ lệ này ở khối ngân
hàng thương mại Nhà nước là 107,8% trong khi ở khối ngân hàng thương
mại cổ phần chỉ là 77,6%. Như vậy, khối ngân hàng thương mại Nhà
nước có vẻ đang hoạt động “thiếu an toàn” hơn so với khối ngân hàng
thương mại cổ phần. Điều này cũng thể hiện ở tỷ lệ an toàn vốn của khối
ngân hàng thương mại Nhà nước là 10,8% trong khi của khối ngân hàng
thương mại cổ phần là 14,2%. Trong các khối ngân hàng, khối ngân hàng
liên doanh và nước ngoài có tỷ lệ an toàn vốn cao nhất 32,54%, còn tỷ lệ
an toàn vốn tính chung của hệ thống là 14,55% (cao hơn khá nhiều mức
an toàn 9% quy định tại Thông tư 13).
- Nhờ có các đợt tăng vốn do phát hành cho cổ đông nước ngoài và trong
nước mà vốn tự có của khối ngân hàng thương mại Nhà nước tăng 12,5%
trong 4 tháng, cao hơn mức 5,55% của ngân hàng thương mại cổ phần.
Dù vốn tăng nhanh nhưng tỷ lệ sinh lời ROA và ROE của ngân hàng
thương mại Nhà nước vẫn cao, 0,43% và 4,87%, gần gấp đôi so với ROA
và ROE của khối ngân hàng thương mại cổ phần (0,23% và 2,51%).

Tổng tài sản toàn hệ thống cuối tháng 4 giảm 1,83% xuống còn
4.868.649 tỷ đồng. Mức giảm diễn ra ở cả ngân hàng thương mại Nhà
nước và ngân hàng thương mại cổ phần, nhưng mức giảm của ngân hàng
thương mại Nhà nước thấp hơn (-1,74%) so với mức giảm 2,3% của ngân
hàng thương mại cổ phần.
- Theo báo cáo tuần mới công bố của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), vào
tháng 5/2013, các ngân hàng thương mại đã đồng loạt điều chỉnh giảm lãi
suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VNĐ đối với một số lĩnh vực ưu tiên
về mức 10%/năm theo quy định của NHNN. Các ngân hàng thương mại
Nhà nước cũng điều chỉnh giảm tất cả các khoản vay có lãi suất trên
13%/năm về mức 13%/năm. Theo NHNN, hiện nay, lãi suất cho vay phổ
biến đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp
nhỏ và vừa, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao ở
mức 8-10%/năm;
Lãi suất cho vay lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác ở mức 9-11%/năm ở
khối ngân hàng thương mại Nhà nước, 11-12%/năm ở khối ngân hàng
thương mại cổ phần; trong đó, một số doanh nghiệp có tình hình tài chính
lành mạnh, minh bạch, phương án, dự án sản xuất kinh doanh hiệu quả đã
được các ngân hàng thương mại cho vay với mức lãi suất chỉ từ 7,5-
8%/năm.
Báo cáo của NHNN cũng cho thấy, lãi suất cho vay USD phổ biến 5-8%,
trong đó các ngân hàng thương mại Nhà nước là 4-5%/năm đối với ngắn
hạn, 6-7,5%/năm đối với trung và dài hạn; các ngân hàng thương mại cổ
phần khoảng 5,5-6,5%/năm đối với ngắn hạn, 6,5-8%/năm đối với trung
và dài hạn.
- Lãi suất huy động VND tiếp tục ổn định. Lãi suất huy động kỳ hạn từ 1 - 12
tháng của nhiều tổ chức tín dụng thấp hơn mức lãi suất tối đa đối với tiền
gửi bằng VNĐ theo quy định của NHNN.
Hiện nay, lãi suất huy động của các tổ chức tín dụng phổ biến ở mức 1,5-
2%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng; kỳ hạn 1

tháng đến dưới 12 tháng là 5-7,5%/năm; kỳ hạn từ 12 tháng trở lên là 8-
10,5%/năm.
Lãi suất huy động USD phổ biến 2%/năm đối với tiền gửi của dân cư và
0,5%/năm đối với tiền gửi của tổ chức.
- Tính đến 30/6/2013, tổng tài sản của các tổ chức tín dụng đạt 5.293.557 tỷ
đồng, tăng 387.642 tỷ đồng sau 1 năm. Tương tự, vốn tự có (không bao
gồm ngân hàng Chính sách xã hội)và vốn điều lệ của các tổ chức tín dụng
cũng tăng thêm lần lượt 21.390 tỷ đồng và 15.834 tỷ đồng - Nguồn: Ngân
hàng Nhà nước.
- Tính đến cuối tháng 6/2013, tổng tài sản của khối ngân hàng thương mại
nhà nước tăng thêm 314.289 tỷ đồng, tương ứng mức tăng 15,88% so với
1 năm trước đó. Tương tự, tài sản của khối ngân hàng liên doanh, nước
ngoài tăng 14,8%, trong khi mức tăng của khối ngân hàng cổ phần lại
không đáng kể. Còn với Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam, chuyển đổi từ
Qũy tín dụng Trung ương, mức tăng tổng tài sản sau 1 năm đạt mức
26,29%.
- Đáng chú ý, tổng tài sản của công ty tài chính, cho thuê lại giảm 8,9%
sau 1 năm, tháng 6/2013 so với tháng 6/2012 - Nguồn: Ngân hàng Nhà
nước.
Biểu đồ so sánh chỉ tiêu vốn tự có của của loại hình tổ chức tín dụng (không bao
gồm ngân hàng Chính sách xã hội), trong đó khối ngân hàng thương mại nhà nước
bao gồm cả Vietinbank và Vietcombank (đơn vị: tỷ đồng).
- Ở chỉ tiêu vốn tự có, khối ngân hàng thương mại cổ phần, công ty tài
chính - cho thuê đang cho thấy sự đi xuống với mức giảm lần lượt là 4%
và 13%, xét trong kỳ so sánh 30/6/2013 so với 30/6/2012. Trong khi đó,
trong cùng kỳ so sánh trên, vốn tự có của khối ngân hàng thương mại nhà
nước tăng 15,65%; ngân hàng liên doanh, nước ngoài (10,81%); Ngân
hàng Hợp tác xã Việt Nam (6,53%) - Nguồn: Ngân hàng Nhà nước.
Biểu đồ so sánh chỉ tiêu vốn điều lệ của của loại hình tổ chức tín dụng, trong đó
khối ngân hàng thương mại nhà nước bao gồm cả Vietinbank và Vietcombank

(Đơn vị: tỷ đồng) – Nguồn: Ngân hàng Nhà nước.

Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (không bao gồm ngân hàng Chính sách xã hội) - Nguồn:
Ngân hàng Nhà nước.
Tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động - Nguồn: Ngân hàng Nhà nước
- Không chỉ vậy, Theo VNEconomy, dữ liệu cập nhật đến 31/3/2012 cho
thấy, khối ngân hàng thương mại (NHTM) nhà nước chiếm quá nửa tổng
nợ xấu, tới 50,5%; nhóm thứ hai là khối NHTM cổ phần với 27,8%;
nhóm ngân hàng nước ngoài chiếm khá nhỏ (do sự hạn chế về quy mô)
với 4,2%; nhóm các tổ chức tín dụng khác 17.5%
Nợ xấu của các TCTD tính đến 31/3. (Nguồn: VNEconomy).
- Ông Nguyễn Hoàng Minh, Phó giám đốc NHNN chi nhánh TPHCM, cho
biết cho vay tiêu dùng cá nhân của các tổ chức tín dụng có tốc độ tăng
khá cao, vào cuối tháng 8 tốc độ tăng cho vay cá nhân là 40% so với cuối
năm 2012. Ông cũng cho biết hiện nay cho vay cá nhân chiếm khoảng từ
8%- 9% trong tổng dư nợ của các tổ chức tín dụng trên địa bàn.
- Trong khi đó, tỷ lệ cho vay/huy động của khối ngân hàng thương mại nhà
nước không thay đổi nhiều, giảm từ 96,77% vào cuối năm 2012 xuống
còn 96,69% vào cuối tháng 7 năm nay. Tính chung toàn hệ thống các tổ
chức tín dụng, tỷ lệ cho vay so với huy động vào cuối tháng 7 là 87,75%,
giảm so với mức 89,35% vào cuối năm ngoái.
- Xét về mặt hiệu quả, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của các ngân
hàng thương mại nhà nước đã giảm mạnh so với cuối năm 2012, trong
khi các ngân hàng cổ phần mặc dù giảm mạnh vào tháng 3 nhưng đã tăng
trở lại vào cuối tháng 7. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của các
ngân hàng thương mại nhà nước vào cuối tháng 7 là 5,28%, của khối
ngân hàng cổ phần là 3,05%, của ngân hàng liên doanh, nước ngoài là
3,23%, của các công ty tài chính, cho thuê tài chính là âm 4,94%, và của
toàn hệ thống là 3,86%.
- Mặc dù vẫn đang lỗ nhưng khối công ty tài chính và cho thuê tài chính đã

có sự cải thiện đáng kể về lợi nhuận, vì tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở
hữu của khối này vào cuối tháng 3-2013 là âm 31,4%, đến cuối tháng 7-
2013 chỉ còn âm 4,94%.
- Tại Vietcombank, tăng trưởng tín dụng chung giảm 1,6% đến hết 6 tháng
đầu năm. Trong đó, tín dụng bằng tiền đồng tăng 5%, nhưng tín dụng
ngoại tệ giảm đến 17%. Từ tháng 7 trở đi, tín dụng có cải thiện nhẹ tại
ngân hàng này. Đến cuối tháng 7, tăng trưởng tín dụng chung chỉ còn âm
0,2% so với cuối 2012. Việc giảm tín dụng cũng khiến cho thu nhập lãi
thuần giảm khoảng 10% so với cùng kỳ.
- Còn tại Vietinbank, theo ông Phạm Huy Thông, Phó tổng giám đốc, tín
dụng của ngân hàng chỉ mới tăng lại trong tháng 7, còn đến cuối tháng 6,
con số này vẫn âm. Theo ông Thông, việc tái cơ cấu lại hoạt động, cải
thiện chất lượng dư nợ đã được ngân hàng đẩy mạnh thực hiện trong 6
tháng đầu năm, điều này ảnh hưởng một phần đến con số tăng trưởng tín
dụng nói chung. Thêm vào đó, cho vay ngoại tệ giảm mạnh cũng khiến
cho dư nợ chung bị ảnh hưởng.
- Lý giải nguyên nhân một số ngân hàng tăng trưởng mạnh trong các tháng
gần đây, trong báo cáo triển vọng 6 tháng cuối năm 2013, Công ty chứng
khoán Vietcombank (VCBS) cho rằng tăng trưởng tín dụng tốt trong 4
tháng gần đây không đến từ 4 ngân hàng lớn là Vietcombank, BIDV,
Vietinbank và Agribank mà đến chủ yếu từ nhóm ngân hàng thương mại
cổ phần nhỏ hơn. Điều này do các ngân hàng trên đã đẩy mạnh cho vay
tiêu dùng như Sacombank, ACB.
Phần III: một số giải pháp nhằm nâng cao tính hiệu quả
trong việc sử dụng vốn của NHTM nhà nước.
1. Nhóm giải pháp nhằm đảm bảo môi trường hoạt động an toàn, hiệu quả
cho các ngân hàng thương mại
-Đối với các NHTM:
- Tiếp tục giám sát chặt chẽ hoạt động của một số NH kinh doanh hiệu quả
thấp, thua lỗ, yếu kém, nợ xấu tăng quá cao có nguy cơ mất khả năng chi

trả, mất khả năng thanh toán thì sẽ đưa vào kiểm soát đặc biệt.
- Chỉ đạo các biện pháp buộc một số NH tái cơ cấu nợ và nhanh chóng
lành mạnh hóa tình hình tài chính, nâng cao chất lượng và hiệu quả tín
dụng.
- Sửa đổi bổ sung các chính sách để tạo điều kiện bình đẳng cho hoạt động
ngân hàng và phù hợp với thông lệ quốc tế và phù hợp với từng NHTM
- Tăng cường công tác thanh tra giám sát ngân hàng của NHNN, đồng thời
thường xuyên theo dõi, đôn đốc quản ly chấn chỉnh từng NHTM, nhất là
các NH hoạt động kinh doanh thua lỗ, nợ xấu tăng cao và có nhiều sai
phạm sau thanh tra, kiểm tra ngăn chặn kịp thời rủi ro….Thực hiện tốt
mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp trong tiến trình hội nhập quốc tế của
Chính phủ, dự báo tình hình kinh tế ảnh hưởng của toàn cầu, căn cứ vào
chỉ đạo định hướng mức tăng trưởng tín dụng của NHNN Việt Nam, vào
mức tăng trưởng của các năm trước, để rà soát lại hoạt động tín dụng
trong thời gian qua, quản trị hợp ly tài sản Nợ - Có, khả năng thanh
khoản và nguồn vốn, sớm khắc phục việc sử dụng vốn bất hợp ly, để đảm
bảo an toàn và nâng cao hiệu quả kinh doanh; nâng cao chất lượng và đa
dạng hóa hoạt động, trong đó đặc biệt quan tâm đến chất lượng tín dụng;
phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng, phải đảm bảo sự an
toàn bền vững là yếu tố tiên quyết. Các NHTM thường xuyên dự báo và
bám sát những thuận lợi, khó khăn và khả năng khai thác các nguồn lực,
diễn biến kinh tế, xuất nhập khẩu tỷ giá, lãi suất thị trường để có các biện
pháp, hình thức huy động vốn phù hợp với yêu cầu đầu tư tín dụng và các
hoạt động kinh doanh, đảm bảo an toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn của các NHTM, góp phần ổn định tiền tệ, thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế; Đồng thời tạo ra bước đi vững chắc, chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế.
- Các NHTM cần thường xuyên rà soát để bổ sung, chỉnh sửa kịp thời hệ
thống quy chế, quy trình nội bộ, quản ly rủi ro ở tất cả các mặt hoạt động,
các NH chưa ban hành hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ cần khẩn

trương trình NHNN xem xét, chấp thuận.
- Các NHTM phải có chiến lược tăng vốn điều lệ bằng cách thông qua tăng
lợi nhuận, giảm nợ khó đòi. Cụ thể: Các NHTM phải đa dạng hóa mạng
lưới dịch vụ, phát triển các nghiệp vụ, dịch vụ truyền thống hiện có, đông
thời triển khai các dịch vụ hiện đại-những dịch vụ mang lại lợi nhuận
cao, rà soát và phân loại nợ để có hướng xử ly thích hợp.
- Phát triển mạnh các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, nâng cao sức cạnh
tranh của các NH, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế và đời sống xã hội
nước ta theo yêu cầu mới. Các NHTM phải phát triển dịch vụ theo xu
hướng nâng cao chất lượng dịch vụ truyền thống, phát triển các dịch vụ
mới.
- Phải chú trọng xây dựng thương hiệu, nâng cao uy tín không chỉ trong thị
trường nội địa mà còn phải hướng ra nước ngoài.
- Phát triển thị trường tài chính-tiền tệ, đáp ứng các yêu cầu gay gắt của
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Phát triển đông bộ các loại thị trường,
trong đó có thị trường tài chính, thị trường tiền tệ là chủ trương lớn của
Đảng và Nhà nước và là yêu cầu cần thiết hơn khi VN đang tiến gần tới
hội nhập vào khu vực và thế giới như AFTA, Hiệp định thương mại Việt
Mỹ, WTO.
- Trong cạnh tranh hoạt động nghiệp vụ ngân hàng, công nghệ ngân hàng
hiện đại giữ vai trò quan trọng. Khi thực hiện hiện đại hóa hoạt động,
công nghệ ngân hàng giữ vai trò quyết định, vì vậy hiện đại hóa công
nghệ ngân hàng là một nhiệm vụ tất yếu và cấp bách của các ngân hàng
nói chung nhằm vững bước trên con đường hội nhập.
- Đẩy mạnh trao đổi, hợp tác với các quốc gia và với các tổ chức quốc tế
để tranh thủ sự giúp đỡ và tăng cường khả năng hòa nhập vào thị trường
tài chính khu vực và trên toàn thế giới.
- Xây dựng một chiến lược tổng thể về cạnh tranh và hội nhập.
- Hoàn thiện mô hình tổ chức theo tiêu chuẩn quốc tế của một NHTM hiện
đại.

- Thiết lập và duy trì cơ chế kiểm tra, kiểm soát nội bộ.
2.Nhóm giải pháp nội tại từ phía các Ngân hàng thương mại.
a. Giải pháp hoàn thiện chiến lược kinh doanh đa năng, hiện đại phù hợp với
từng NH
- Nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh tín dụng
- Với chiến lược phát triển chung hiện nay hoạt động kinh doanh tín dung
là chủ đạo, là cơ sở tiến hành và thực hiện hoạt động kinh doanh khác của
ngân hàng. Cùng với việc tăng trưởng dư nợ khách hàng truyền thống.
NHTM cần đẩy mạnh công tác tiếp thị tìm kiếm khách hàng mới, cần bỏ
các thủ tục rườm rà, giảm tối thiểu thời gian trình duyệt và số lần ky hợp
đồng hợp đồng tín dung, cải thiện cơ bản mối quan hệ ngân hàng và bạn
hàng. Khi tính toán lãi suất đầu ra, NHTM nên áp dụng mức lãi suất cho
vay ưu đãi phù hợp nhất với khách hàng và đặc thù của hoạt động sản
xuất kinh doanh. Số lượng doanh nghiệp có mối quan hệ vay vốn tương
đối lớn, tài chính lành mạnh, hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Phương
hướng thời gian tới, NHTM sẽ hướng đến những khách hàng lớn và các
dự án có hiệu quả. Các doanh nghiệp được cấp chứng chỉ ISO 9001 là
mục tiêu của nhiều NHTM. Đảm bảo 100% dư nợ mới lành mạnh và tỷ lệ
an toàn cao. Để làm được điều đó về phía NHTM là nâng cao chất lượng
tín dụng trong đó quan trọng nhất là NHTM phải cho vay đúng đối tượng
tránh rủi ro rất lớn xảy ra.
- Một trong những hoạt động khá quan trọng của NHTM khi quyết định
các khoản cho vay là khâu thẩm định dự án nhất là đối với các dự án vay
trung và dài hạn. Những yếu tố chủ yếu khi thẩm định dự án tín dụng,
theo kinh nghiệm của các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, người
ta quan tâm đến 5 yếu tố: năng lực, uy tín, vốn, vật thế chấp, những điều
kiên. Đây là những điều kiên cần thiết khi phân tích đặc thù hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp xin vay vốn và là bước quyết định khi thực
hiện đánh giá khả năng cho vay. Nâng cao nghiệp vụ thẩm định dự án
cho vay đối với cán bộ công nhân viên chi nhánh là kết quả hết sức cần

thiết để đảm bảo cho các NHTM có các khoản dư nợ lành mạnh và ổn
định
- Đa dạng hóa các hình thức tín dụng.
- Đa dạng hóa các hình thức tín dụng của các ngân hàng bao gồm cả đa
dạng hóa về ngành cho vay, phương thức cho vay và loại tiền vay. Đa
dạng hóa vừa giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng vừa có thể thỏa mãn nhu
cầu vốn về số lượng và thời hạn đối với ngành kinh tế, NHTM nên xem
xét mở rộng các hình thức cho vay khác nhau phù hợp với từng đối tượng
khách hàng.
*Đa dạng hóa về phương thức cho vay: NHTM mới chỉ chú trọng đến cho vay
ngắn hạn theo phương thức cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức tín dụng, cho
vay dài hạn theo dự án. Vì vậy nhiều nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp để đầu
tư sản xuất mới, nâng cao năng lực sản xuất vượt quá thẩm quyền quy định của
NHTM. Để khắc phục hạn chế trên, trong thời gian tới NHTM cần nỗ lực hơn nữa
để cung cấp các hình thức tiêu dùng đa dạng, vừa nâng cao nghiệp vụ doanh
nghiệp, vừa khuyến khích các khách hàng sử dụng các hình thức dịch vụ của ngân
hàng như:
- Cho vay bắc cầu: Theo phương thức này, NHTM sẽ phối hợp với nhau để tài
trợ một dự án trung hoặc dài hạn nào đó. NHTM này sẽ cho các doanh nghiệp
các dự án vay vốn phục vụ cho một giai đoạn nhất định nào đó của dự án,
chuyển giao cho ngân hàng khác thực hiện. Với phương thức này, các ngân
hàng vừa có thể chia sẻ rủi ro, vừa giúp các doanh nghiệp Nhà nước thực hiện
được các dự án trung và dài hạn đem lại lợi ích cho xã hội.
- Cho vay đồng tài trợ: NHTM cần phải mở rộng hơn nữa các khách hàng là tổng
công ty – Công ty trực thuộc Bộ lâm nghiệp – thủy hải sản trên cơ sở cho vay
đối với các dự án khép kín từ khâu nguyên liệu đến khâu chế biến dịch vụ xuất
khẩu theo các phương thức cho vay đồng tài trợ song chủ yếu trên quan hệ nội
bộ các chi nhánh viên của NHTM.
- Tăng cường phương thức cho vay luân chuyển: Hiện tại, NHTM đang sử dụng
phổ biến phương thức cho vay từng món đối với các doanh nghiệp, coi đó là

biện pháp tối ưu để đảm bảo an toàn vốn vay và tạo ưu thế chủ động của mình.
Nhưng trên thực tế, phương thức cho vay theo món đòi hỏi mỗi lần vay doanh
nghiệp phải làm đơn kiêm khế ước xin vay, trình các chứng từ hợp đồng kinh tế
xin vay, phải qua nhiều khâu kiểm duyệt trước khi vay. Trong khi đó, nhu cầu
vốn hoạt động của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường đa dạng, phong
phú đòi hỏi độ nhanh nhạy cao. Vì vậy, các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả rất
ngại vay với phương thức này. Do đó để thu hút thêm lượng khách hàng đến
vay vốn tại NHTM cần áp dụng phương thức cho vay một cách linh hoạt, phù
hợp với đặc điểm chu chuyển vốn, độ tin cậy của khách hàng. Phương thức cho
vay món chỉ nên áp dụng với khách hàng vay vốn không thường xuyên, chu
chuyển vốn chậm, quá trình sản xuất kinh doanh dịch vụ dứt điểm từng dự án
hay từng thương vụ nhất định, khách hàng thiếu tín nhiệm trong quan hệ vay trả
với NHTM. Nhưng phương thức cho vay luân chuyển cũng dễ làm cho ngân
hàng mất thế chủ động về nguồn vốn kinh doanh vì các cam kết trong hợp đồng
vay trả. Để khắc phục điều đó, ngân hàng cần bổ sung, sửa đổi một số nội dung
trong bản hợp đồng tín dung như:
+ Khi đã xác định được mức cho vay tối đa đối với doanh nghiệp trên cơ sở tài
sản thế chấp, bảo lãnh hay sự tín nhiệm và mức phán quyết cho vay thì hai bên
kí kết hợp đồng tín dụng. Trong các điều khoản cho vay nên ghi là: Trong phạm vi
mức vay đã xác định, từng lần vay vón người đi vay phải gửi đến cho ngân hàng
các giấy tờ thanh toán, các chứng từ hay hợp đồng kinh tế và trê cơ sở đó ngân
hàng sẽ cho vay đáp ứng các như cầu vay vốn hợp ly của các bên vay kịp thời
trong khả năng nguồn vốn cho phép.
+ Toàn bộ số tiền thu bán hàng, thu kinh doanh của doanh nghiệp phải nộp
thường xuyên vào bên tài khoản vay luân chuyển, không được sử dung để quay
vòng tiếp ngoài quỹ ngân hàng.
+ Cán bộ tín dụng có trách nhiệm theo dõi, kiểm tra, và quyết toán các nội dung
của hợp đồng tín dung được kí kết, doanh nghiệp chịu sự kiểm tra, kiểm soát của
ngân hàng trong quá trình sử dụng vốn vay.
- Mở rộng cho vay tiêu dùng ở các chi nhánh của NHTM, trong đó tập trung

vào cán bộ trong ngành và khối công chức Nhà nước có thu nhập ổn định.
- Chú trọng đến ngành nghề cho vay và thủ tục cho vay.
Do các NHTM khả năng cấp tín dụng còn hạn chế nên các NHTM không nên
mở rộng quan hệ tín dụng với những doanh nghiệp không thuộc sở trường của
bản thân. Đơn cử như ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thì không
nên mở rộng quan hệ tín dụng với những tổng công ty có nhu cầu tín dụng lớn
như Tổng công ty Hàng không Việt Nam, Tổng công ty Bưu chính viễn thông,
…mà nên chú trọng vào các khách hàng hoạt động trong lĩnh vực sở trường của
mình là lĩnh vực nông nghiệp như Tổng công ty lương thực miền Bắc, Tổng
công ty vật tư nông sản…
- Cải tiến thủ tục cho vay.
Hiện nay, thủ tục cho vay của NHTM còn rườm rà. Để có thể cho vay được
món tiền, khách hàng phải qua nhiều “cửa ải” với một bộ hồ sơ phức tạp gồm
nhiều loại. Đơn xin vay vốn, dự án sản xuất kinh doanh, phiếu thẩm định dự án
sản xuất kinh doanh. Sau đó là khâu ghi về sự nhầm lẫn, nên phải chờ đến cán
bộ tín dụng hướng dẫn. Các cán bộ tín dụng phải hướng dẫn chi tiết cho khác
tín dụng hướng dẫn. Các cán bộ tín dụng phải hướng dẫn chi tiết cho khách
hàng. NHTM vẫn thường nhắc nhở mình cần phải đơn giản hóa các thủ tục cho
vay, giảm bớt phiền hà cho khách hàng trong việc kê khai để khách tự làm thì
mới đảm bảo tính khách quan, tính chính xác, NHTM dựa vào đó mà thẩm định
lại hạn chế bớt rủi ro.
- Nâng cao trình độ cán bộ tín dụng
Có thể nói trong cho vay, người cán bộ cho vay đóng một vai trò rất quan trọng,
thái độ và trình độ năng lực của cán bộ tín dụng ảnh hưởng trực tiếp đến khả
năng cho vay của ngân hàng. Cán bộ ngân hàng là người đầu tiên gặp gỡ, trao
đổi với khách hàng về hợp đồng vay trong tương lai. Nếu cán bộ tín dụng có
một phong cách làm việc tôn trọng đối tác, tận tình giải thích một cách cụ thể
cho khách hàng biết những giấy tờ mà khách hàng cần có trong hồ sơ xin vay,
giải đpá tư vấn kinh doanh cho khách hàng, để khi ra về khách hàng có được sự
hiểu biết đầy đủ về các giấy tờ mà mình cần đáp ứng, nơi xin xác nhận của các

giấy tờ đó. Năng lực, trình đô của cán bộ tín dụng ảnh hưởng trực tiếp đến quy
mô và chất lượng tín dụng của ngân hàng. Vì vậy, đội ngũ cán bộ tín dụng cần
phải được đào tạo, được coi trọng, được nâng cao trình độ chuyên môn. Trong
những năm tới, để hoàn thiện hơn nữa công tác tôt chức cán bộ, NHTM cần
phải thực thi những biện pháp sau:
- Thực hiện chuyên môn hóa cán bộ tín dụng. Hiện nay, tại các NHTM, các
cán bộ tín dụng mới chỉ được phân thành hai ban, đó là ban tín dụng hộ sản
xuất và ban tín dụng doanh nghiệp.
- Lựa chọn cán bộ làm công tác tín dụng: Do đặc tính của công tác này là giao
lưu với nhiều doanh nghiệp, nhiều thành phần kinh tế, nên việc lưa chọn cán
bộ tín dụng là rất quan trọng. Cán bộ được giao làm công tác này phải trung
thực, có kiến thức, trình độ, hiểu biết về kinh tế tài chính nhất định, có thâm
niên làm công việc nghiệp vụ ngân hàng.
- Tổ chức đào tạo lại cán bộ, mở rộng hình thức đào tạo tại chỗ như tổ chức
các buổi nói chuyện tọa đàm với các chuyên gia giỏi trong nước và quốc tế
về các lĩnh vực ngân hàng nói chung và lĩnh vực tín dụng nói riêng, về lĩnh
vực kinh tế - xã hội, về quản trị kinh doanh và tiếp thị, tổ chức các lớp học
ngắn ngày bổ ích.
- Có chế độ khen thưởng đối với cán bộ tín dụng giỏi để động viên người tốt
việc tốt. Trên cơ sở tổng quỹ lương cơ bản, xây dựng và thực hiện cơ chế
lương kinh doanh có tác dụng kích thích cán bộ tín dụng tìm ra các biện
pháp mở rộng đầu tư tín dụng, đồng thời đề cao trách nhiệm cá nhân hợp ly.
Ngoài ra, cần có hình thức phạt, đối xử rõ ràng với các cán bộ yếu kém về
nghiệp vụ, lười nghiên cứu, học tập.
- Hằng năm tổ chức hội thi cán bộ tín dụng giỏi nhằm tạo điều cho các cán bộ
tín dụng của NHTM có điều kiện nghiên cứu kỹ hơn các văn bản, nghị định
của Chính phủ, của ngành ngân hàng để nâng cao trình độ nhận thức về
chuyên môn, nghiệp vụ cho các cán bộ tín dụng, thực hiện được giao lưu
kinh nghiệm làm việc giữa các cán bộ tín dụng với nhau, nâng cao chất
lượng cán bộ tín dụng của NHTM.

b.Về công tác nguồn vốn.
Mở rộng huy động vốn là cơ sở để mở rộng hoạt động đầu tư tín dụng. Mặc dù
nguồn vốn huy động của NHTM qua các năm là tương đối lớn nhưng để có thể
đáp ứng tốt hơn nữa cho mục tiêu mở rộng tín dụng thì việc tăng trưởng nguồn
vốn là cần thiết vì một ngân hàng có vốn lớn sẽ có ưu thế trong cạnh tranh. Để
tăng nguồn vốn tạo tiền đề cho mở rộng đầu tư tín dụng của NHTM, thì trong
giai đoạn tới NHTM cần phải thực hiện một số biện pháp sau:
- Tìm kiếm các khách hàng có tiềm năng về nguồn vốn để nhận tiền vay, tiền
gửi. Lấy đối tượng doanh nghiệp vừa và nhỏ để mở rộng thanh toán không
dùng tiền mặt nhằm nâng cao dư nợ tài khoản tiền gửi thanh toán vững chắc.
- Chú trọng việc thu hút nguồn vốn từ dân cư trong đó chí y huy động vốn
trên 12 tháng bằng huy động tiết kiệm, ky phiếu, tiền gửi cá nhân để tạo sự
ổn định về nguồn vốn.
- Mở rộng rút tiền tự động ATM ở các điểm dân cư, các chi nhánh ngân hàng
cấp 4 nhằm huy động một lượng tiền nhàn rỗi trong dân cư. Đây là tiềm
năng lớn trong huy động nguồn vốn nhàn rỗi cần khai thác trong dân cư.
- Tạo sự gắn kết, gắn bó với các khách hàng cũ có lượng tiền gửi lớn để ổn
định và duy trì nguồn tiền gửi lớn với lãi suất rẻ bằng phương thức nối mạng
vi tính gắn với xử ly linh hoạt về lãi suất và phục vụ tại trụ sở của khách
hàng. Đồng thời tăng cường tiếp cận các tổ chức có nguồn tiền gửi khác
nhằm tránh rủi ro, lúng túng khi các khách hàng đến rút tiền.
- Tham gia mua bảo hiểm tiền gửi để tạo tâm ly an toàn hơn cho người gửi
nhằm thu hút khách hàng đến gửi tiền tại NHTM.
c. Kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế.
Đây là nghiệp vụ kinh doanh mới nhưng cũng có nhiều bước tiến đáng kể. Hiện
nay ngoại tệ trôi nổi trong dân cư là khá lớn, xây dựng chính sách huy động
ngoại tệ với lãi suất hợp ly sẽ thu hút một lượng đáng kể. NHTM cần đẩy mạnh
hơn nữa dịch vụ thanh toán L/C bởi nó tạo nên uy tín cho hoạt động Ngân hàng
mở ra nhiều triển vọng cho tương lai. Các hoạt động khác như chi trả kiều hối,
nhất là thanh toán thẻ tín dụng quốc tế cần đẩy mạnh hơn nữa.

d.Về công tác thu nợ.
Do môi trường kinh doanh hiện nay của các doanh nghiệp có nhiều biến động,
điều đó ảnh hưởng đến khả năng hoàn trả đúng gốc và lãi vay. Vì vậy, với các
khách hàng đã quen biết, ngân hàng nên linh hoạt hơn về vấn đề thu gốc và lãi.
Nghiên cứu các biện pháp thu nợ quá hạn đối với các trường hợp sử dụng vốn
vay sai mục đích một cách ráo riết hơn, đảm bảo giảm tỷ lệ và số tuyệt đối về
nợ quá hạn.
Ngoài ra NHTM cần chấp hành nghiêm chỉnh pháp lệnh kế toán thống kê của
Nhà nước, đảm bảo chính xác trung thực việc ghi chép sổ sách kế toán hợp lệ,
hợp pháp tạo điều kin thuận lợi cho kinh doanh phát triển đồng thời đảm bảo
thanh toán thu chi phù hợp. Công tác kiểm tra, kiểm toán tiến hành thường
xuyên liên tục nhằm nâng cao công tác tín dụng, đảm bảo vốn tín dụng an toàn
nợ quá hạn phát sinh không đáng kể.
3.Một số kiến nghị
a.Đối với Nhà nước.
- Nhà nước cần ban hành và hoàn thiện các bộ luật, văn bản có liên quan đến
môi trường pháp ly và kinh tế, thực hiện các chương trình hành động nhằm
tạo điều kin thuận lợi để các doanh nghiệp có môi trường kinh doanh ổn
định và lành mạnh, từ đó sử dụng vốn vay vào sản xuất kinh doanh có hiệu
quả, có lãi, từ đó cso thể trả gốc tiền vay và lãi vay cho ngân hàng, tạo được
uy tín trong quan hệ với các ngân hàng, có được cảm tình và lòng tin của
ngân hàng tăng kảh năng được vay vốn của ngân hàng qua đó phát triển, mở
rộng sản xuất kinh doanh, tạo công ăn việc làm,…Vì vậy nên chăng Nhà
nước cần thực hiện một số việc sau:
+ Nhà nước cần hỗ trợ để mở rộng nhiều ngành nghề khác nhau trong các lĩnh vực
khác nhau như công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, nông nghiệp. Nếu như chủ
trương hiện đại hóa hệ thống sản xuất được thực hiện thì sẽ có nhiều dự án thuộc
các lĩnh vực trên xin vay vốn của ngân hàng.
+ Tiếp tục đẩy nhanh, đảy mạnh công tác cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước
bởi đây là cách xếp loại các doanh nghiệp Nhà nước nhằm huy động các nguồn

lưucj từ các thành phần kinh tế khác nhau tham gia vào phát triển nền kinh tế tạo
điều kiên cho các doanh nghiệp có cơ hội tăng vốn tự có, trang trải nợ nần, tạo ra
sức mạnh mới dưới hình thức quản ly mới. Chính vì vậy các doanh nghiệp này mới
có thể tiếp cận được nguồn vốn cho vay của ngân hàng tạo điều kin cho cả hai phía
ngân hàng và khách hàng. Ngân hàng thì có thể mở rộng cho vay, giảm bớt nguồn
vốn còn kẹt không cho vay được và thu lợi nhuận từ hoạt động này. Còn khách
hàng có cơ hội vay vốn ngân hàng hơn để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh
của mình.
+ Nhà nước cần tiến hành xây dựng nhiều kế hoạch nâng cấp cơ sở hạ tầng, xây
đường xá để thu hút nhiều nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, tăng cường khả
năng cho vay vốn trung, dài hạn tại các ngân hàng.
- Đối với các khoản vay đảm bảo bằng tài sản của ngân hàng thì tài sản đảm
bảo đó cần phải có các giấy tờ hợp pháp cảu các cấp có thẩm quyền. Vì vậy,
các doanh nghiệp, các hộ tư nhân phải được sự xác nhận của các cấp có
thẩm quyền về quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất hợp pháp…Nhưng hiện
nay, luật về sở hữu tài sản chưa rõ ràng, chưa đồng bộ. Nhiều khu đất mặc
dù sở hữu hợp pháp nhưng không có giấy tờ trước bạ…Vì vậy, cần có các
quy chế, quy định đồng bộ của các ngành, các cơ quan.
- Một trong những điều kin vay vốn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
là phải tuân thủ chế độ kế toán thống kê của Nhà nước. Tuy nhiên, thực tế
qua thanh tra, kiểm tra các cấp, các ngành đều tổng kết các doanh nghiệp
quốc doanh chưa chấp hành nghiêm túc. Do vậy để ngân hàng có những
thông tin chính xác, kịp thời về các đơn vị vay vốn ngoài quốc doanh, đề
nghị Nhà nước phải có chính sách buộc các doanh nghiệp trên phải thực hiện
việc kế toán thống kê một cách đầy đủ, hợp pháp và tự giác. Để tránh tình
trạng gây khó khăn cho việc thẩm định của các cán bộ tín dụng vì chế đội kế
toán hiện hành, đòi hỏi Nhà nước cần phải có kết quả kiểm toán của Nhà
nước cuối mỗi năm tài chính.
- Nhà nước nên ban hành những chính sách, quy định cho phép thành lập
những cơ quan có chức năng định giá giá trị thực của tài sản. Bởi tại những

ngân hàng thương mại đa số hoạt động cho vay được tiến hành thông qua
việc doanh nghiệp có tài sản thế chấp, cầm cố. Đến khi doanh nghiệp có vốn
vay ngân hàng gặp khó khăn trong trả nợ ngân hàng thì buộc ngân hàng phải
thu hồi bằng tài sản thế chấp, cầm cố. Khi đó ngân hàng sẽ gặp phải rất
nhiều khó khăn. Nếu Nhà nước thành lập được các cơ quan giám định được
giá trị thực của tài sản và giám sát tài sản tỏng suốt quá trình thế chấp cầm
cốm bảo lãnh là một yếu tố rất quan trọng và cần thiết tạo điều kin thuận lợi
cho ngân hàng trong quá trình thu hồi vốn.
b.Đối với các Bộ ngành
- Phải đẩy nhanh hơn quá trình đổi mới kinh tế, xây dựng và hoàn thiện môi
trường kinh tế vĩ mô thông thoáng tạo điều kin cho các ngành, các thành
phần kinh tế hoạt động hiệu quả. Xây dựng và hoàn thiện môi trường pháp
ly, ổn định và có sức mạnh, có chính sách hỗ trợ tích cực công cuộc cải cách
của hệ thống NH nói chung và các ngân hàng thương mại nói riêng.
c.Đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
- Để thành công trong điều hành và quản lí hoạt động ngân hàng, NHNN phải
cải cách theo xu hướng tăng cường năng lực điều hành trong điều kiên hội
nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Chế độ kế toán, kiểm toán phải được đổi
mới đảm bảo minh bạch thông tin, tạo điều kiên cho hoạt động quản lí và
giám sát được thuận lợi. Xây dựng chiến lược đào tạo cán bộ ngân hàng lâu
dài, đảm bảo yêu cầu của hội nhập ngày càng gay gắt.
• Hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về tiền tệ và hoat
động ngân hàng nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động sử dụng vốn của
các Ngân hàng thương mại.
Trong những năm vừa qua, môi trường pháp lí có liên quan đến vấn đề hiệu
quả sử dụng vốn của NHTM đã có bước hoàn thiện khá tích cực, góp phần
cho hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng có được độ an toàn và hiệu quả
hơn, nợ xấu của NHTM được xử lí thuận lợi và nhanh hơn. Tuy vậy, cũng
còn không ít các bất cập của một số luật liên quan đến hoạt động sử dụng
vốn và bảo đảm an toàn trong sử dụng vón cho vay của NHTM.

- Tiến hành rà soát, bổ sung, chỉnh sửa cớ chế, chính sách và các văn bản phù
hợp với lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế trong lĩnh vực tiền tệ, ngân
hàng, đặc biệt là các cam kết gia nhập tôt chức thương mại thế giới(WTO)
- Xây dựng các luật và văn bản hướng dẫn có liên quan để tạo tính đông bộ,
nhất quán và hoàn chỉnh của hệ thống pháp luật về tiền tệ và hoạt đọng ngân
hàng, trong đó ưu tiên xây dựng Luật NHNN, Luật các TCTD(mới) và hệ
thống văn bản hướng dẫn triển khai hai luật này. Cụ thể:
Giai đoạn 2008:
+ Trình quốc hội Luật NHNN mới thay thế Luật các TCTD(1997), Luật sửa
đổi bổ sung một số điều luật NHNN(2003)
+ Trình quốc hội Luật các TCTD ( mới) thay thế Luật các TCTD(1997),
Luật sửa đổi bổ sung một số điều luật các TCTD(2004);
+ Trình Quốc hội Luật Bảo hiểm tiền gửi
+ Trình quốc hội Luật Giám sát an toàn hoạt động ngân hàng
- Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện căn bản cơ chế, chính sách về tín dụng, đầu
tư, bảo đảm tiền vay, ngoại hối huy động vốn, thanh toán và các hoạt động
ngân hàng khác; các quy định về quản lí và giám sát cung cấp dịch vụ ngân
hàng; cấp giấy phép và quản lí các loại hình TCTD; các quy định về mua
bán, sáp nhập, hợp nhất, giải thể và cơ cấu lại các TCTD.
• Tăng cường năng lực xây dựng, thực thi chính sách tiền tệ và chính sách
quản lí ngoại hối
- Tiếp tục hoàn thiện cơ chế điều hành các công cụ Chính sách tièn tệ, đặc biệt
là các công cụ gián tiếp mà vai trò chủ đạo là nghiệp vụ thị trường mở;
- Gắn kết chặt chẽ điều hành tỷ giá hối đoái với điều hành lãi suất; điều hành
nội tệ với điều hành ngoại tệ. Đổi mới cơ chế điều hành lãi suất và tỷ giá hối
đoái theo nguyên tắc thị trường.
- Xác định rõ trách nhiệm của NHNN trong việc điều hành CSTT lấy kiểm
soát lạm phát làm chức năng chính, đảm bảo tính công khai, minh bạch của
CSTT.
- Tăng cường những biện pháp điều chỉnh nhằm bảo đảm an toàn và hiệu quả

kinh doanh trong hoạt động ngân hàng, trong đó có NHTM.
- Cải tiến hệ thống thông tin tín dụng, nâng cấp hệ thống thanh toán và kế
toán của NHNN Việt Nam.
• Tăng cường năng lực giám sát của Ngân hàng nhà nước Việt Nam.
Tập trung cải cách và phát triển hệ thống giám sát ngân hàng theo các nội
dung chủ yếu sau:
- Đổi mới mô hình tổ chức của Thanh tra NHNN hiện nay theo hướng tập
trung, thống nhất, chuyên nghiệp và phù hợp với chuẩn mực quốc tế về
thanh tra, giám sát ngân hàng; thành lập Cục Giám sát an toàn hoạt động
ngân hàng thuộc cơ cấu tổ chức bộ máy của NHNN. Tập trung nâng cao
năng lực và đổi mới triệt để phương pháp giám sát dựa trên cơ sở rủi ro,
đồng thời nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động giám sát từ xa.
- Mở rộng danh mục các đối tượng chịu sự thanh tra, giám sát củ NHNN;
Hoàn thiện quy chế kiểm toán độc lập đối với các TCTD cho phù hợp với
thực tiễn Việt Nam và thông lệ quốc tế. Hoàn thiện quy chế về tổ chức và
hoạt động của cơ quan kiểm toán nội bộ và hệ thống kiểm soát nội bộ trong
các TCTD;
- Xây dựng và triển khai khuôn khổ quy trình và phương pháp thanh tra, giám
sát dựa trên cơ sở tổng hợp và rủi ro. Xây dựng hệ thống giám sát rủi ro
trong haotj động ngân hàng có khả năng cảnh báo sớm đối với các TCTD có
vấn đề và cácrủi ro trong hoạt động ngân hàng, ban hành quy định mới đánh
giá, xếp hạng các TCTD theo tiêu chuẩn CAMEL(S);
- Chỉnh sửa phù hợp các quy định, chính sách về bảo hiểm tiền gửi để buộc
các tổ chức tài chính – tín dụng có huy động tiền gửi theo quy định của Luật
các TCTD đều phải tham gia bảo hiểm tiền gửi. Nâng cao vai trò, năng lực
tài chính và họat động của Bảo hiểm Tiền gửi Việt Nam trong việc giám sát,
hỗ trợ, xử lí các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi gặp khó khăn và góp

×