Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Bài tập lớn học kỳ Trách nhiệm bồi thường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.34 KB, 24 trang )

VẤN ĐỀ 01: THƠNG TIN TRONG GIÁO KẾT HỢP ĐỒNG

Tóm tắt Bản án số 18A/2016/DSST ngày 15/06/2016 của Tòa án nhân dân TP.
Tuy Hòa tỉnh Phú Yên về việc “Tranh chấp đặt cọc”.
Ngày 29/9/2015 vợ chồng ông Linh, bà Lộc có giao kết hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất với ơng Thành, bà Dinh, theo đó vợ chồng ơng Linh đã đặt cọc cho vợ
chồng ông Thành 50.000.000 đồng. Tuy nhiên, sau khi đặt cọc, ông Linh mới biết lô đất
ông đang mua của ông Thành là đất cấp theo NĐ 64 và đã được thông báo thu hồi nên
ông Linh khởi kiện ông Thành yêu cầu trả lại tiền cọc. Theo nhận định của HĐXX, mục
đích vợ chồng ông Linh mua đất là để xây nhà ở, phải là đất thổ cư theo quy định của
pháp luật, tuy nhiên, đất mà ông Thành bán cho ông Linh là đất vườn theo NĐ 64 và đã
có thơng báo thu hồi nhưng khi giao kết hợp đồng đặt cọc thì ông Thành không cung cấp
đúng thông tin cho ông Linh. Mặt khác, vợ chồng ông Thành cũng không phải là chủ sở
hữu của lơ đất này. Do đó, hợp đồng đặt cọc bị vơ hiệu, hai bên hồn trả cho nhau những
gì đã nhận và các bên đều có lỗi nên khơng phải bồi thường thiệt hại.
1.1.

Theo Tịa án, bên bán có nghĩa vụ cung cấp thơng tin cho bên mua về

lơ đất chuyển nhượng khơng?
Theo Tịa án, bên bán phải có nghĩa vụ cung cấp thơng tin cho bên mua về lơ đất
chuyển nhượng.
Trong phần XÉT THẤY, có đoạn: “Xét về lỗi của các bên dẫn đến giao dịch dân
sự vơ hiệu thì thấy rằng: Vợ chồng ơng Thành là người cho rằng là chủ quyền sử dụng
đất nói trên buộc phải biết và đương nhiên phải biết toàn bộ diện tích đất mua bán với vợ
chồng ơng Linh là thuộc đất nông nghiệp cấp theo nghị định 64 và đã được thông báo
nằm trong quy hoạch giải tỏa, mặt khác đất này không đứng tên của vợ chồng ông Thành
nhưng đã cung cấp thông tin sai dẫn đến sự nhầm lẫn nên vợ chồng ông Linh đã xác lập
giao dịch. ”



1.2.

Đối với hoàn cảnh như trong vụ án, BLDS 2015 có buộc bên bán phải

cung cấp thơng tin về lơ đất chuyển nhượng khơng? Vì sao?
BLDS 2015 có quy định về vấn đề này, cụ thể tại khoản 1 Điều 387 BLDS 2015:
“Trường hợp một bên có ảnh hưởng đến việc chấp nhận giao kết hợp đồng của bên kia
thì phải thông báo cho bên kia biết”. BLDS 2015 chỉ quy định một cách chung nhất về
vấn đề này mà không quy định về chế định xử lý nếu vi phạm, ngoại trừ trong trường hợp
gây thiệt hại phải bồi thường.
BLDS 2015 quy định về vấn đề này là với mục đích hạn chế các trường hợp lừa dối,
giấu giếm các thơng tin có hại, bất lợi để nhằm mục đích cho bên kia tin và ký hợp đồng
để có lợi cho bên lời dối.
1.3.

Việc Tòa án đã theo hướng giao dịch dân sự vơ hiệu do nhầm lẫn có

thuyết phục khơng? Vì sao
Việc Tịa án đã theo hướng giao dịch dân sự vô hiệu do nhầm lẫn là không thuyết
phục. Vì: Tịa án chỉ quan tâm đến hậu quả của việc nhầm lẫn dẫn đến khơng đạt được
mục đích của giao dịch mà bỏ qua một điều quan trọng khác là việc người bị nhầm lẫn có
thuộc trường hợp biết hoặc phải biết rằng họ đã nhầm lẫn khi giao kết hợp đồng hay
khơng. Trong bản án có đoạn: “đất của ông Thành là đất cấp theo NĐ 64 và đã được
thông báo thu hồi bởi UBND phường 9, TP. Tuy Hịa” trong trường hợp này thì ơng
Thành thuộc trường hợp phải biết việc lô đất bị thu hồi và có nghĩa vụ phải báo cho ơng
Linh nhưng ơng lại khai rằng mình khơng biết. Cho nên trường hợp này không thể áp
dụng quy định hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn. Việc không cung cấp những thông tin này,
khơng phải là hành vi có lỗi vơ ý mà bên bán đã cố tình che giấu thơng tin để bên mua
hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên
đã xác lập giao dịch dân sự đó.

1.4.

Đối với hồn cảnh như trong vụ án, BLDS 2015 có cho phép xử lý theo

hướng giao dịch chuyển nhượng vô hiệu do nhầm lẫn khơng? Vì sao?


Đối với hoàn cảnh như trong vụ án, BLDS 2015 không cho phép xử lý theo hướng
giao dịch chuyển nhượng do nhầm lẫn. Vì căn cứ theo khoản 1 Điều 387 BLDS 2015 quy
định: “Trường hợp một bên có thơng tin ảnh hưởng đến việc chấp nhận giao kết hợp
đồng của bên kia thì phải thơng báo cho bên kia biết.”, theo như quy định này thì ơng
Thành phải có nghĩa vụ thông báo cho vợ chồng ông Linh biết về vấn đề lô đất này bị thu
hồi để quy hoạch, giải tỏa, mà theo bản án thì ơng Thành đã không cung cấp rõ thông tin
này cho vợ chồng ông Linh.
Ở đây, có thể xử lý theo hướng giao dịch chuyển nhượng vô hiệu do bị lừa dối theo
quy định tại Điều 127 BLDS 2015. Hành vi của ông Thành thỏa mãn các dấu hiệu:
+ Ông Thành là bên có nghĩa vụ cung cấp thơng tin về miếng đất đó cho ơng Linh.
Nhưng ở đây, ơng Thành đã khơng cung cấp rõ thông tin làm ông Linh hiểu sai lệch về
chủ thể, tính chất của đối tượng, nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch
dân sự đó
+ Nội dung lừa dối về việc ơng Thành không phải là chủ sở hữu của mảnh đất nói
trên và việc tồn bộ diện tích đất mua bán thuộc đất nông nghiệp, nằm trong giải tỏa, thu
hồi.


VẤN ĐỀ 02: HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU MỘT PHẦN VÀ HẬU QUẢ HỢP
ĐỒNG VÔ HIỆU

Quyết định số 22/2020/DS-GĐT ngày 23/04/2020 của Hội đồng thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao.

Ngày 27/07/2011 bà Dung ký kết với ông Học, bà Mỹ hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại Tổ 2, khu phố Ninh Thành. Tuy nhiên
diện tích đất thổ 252,6m2 là tài sản chung của bà Dung và 3 anh chị (Khánh, Tuấn, Vy).
Hợp đồng ủy quyền được UBND thị trấn Lộc Ninh chứng thực ngày 27/07/2011 thể hiện
3 anh chị cùng ủy quyền cho bà Dung được làm thủ tục ký kết Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền đất như trên. Nay xảy ra tranh chấp hợp đồng giữa
nguyên đơn là anh Khánh, anh Tuấn, chị Vy với bị đơn là ông Học, bà Mỹ do 3 anh chị
không thừa nhận ký vào hợp đồng ủy quyền nêu trên.
Hội đồng thẩm phán cho rằng phần quyền sử dụng, quyền sở hữu của bà Dung đã
chuyển nhượng cho vợ chồng ông Học nếu đúng quy định pháp luật thì có hiệu lực. Cịn
phần quyền sử dụng, quyền sở hữu của 3 anh chị Khánh, Tuấn, Vy là vơ hiệu.
Tóm tắt quyết định 319/2011/DS-GĐT ngày 28/3/2011 của Tịa dân sự Tịa án
nhân dân tối cao.
Ngun đơn: ơng Trịnh Văn Vinh
Bị đơn: ơng Đào Văn Lộc, bà Hồng Thị Lan
Ơng Trịnh Văn Vinh và vợ chồng ơng Lộc thiết lập hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất diện tích 953m2 giá 100.000.000 đồng vào ngày 17/7/2006. Ông Vinh giao
trước cho ông Lộc 45.000.000 đồng. Đây là đất trồng lúa mà hợp đồng chuyển nhượng
lại ghi đất màu nên ông Lộc phải làm thủ tục chuyển đổi mục đích sử dụng. 17/3/2007
biết ơng Lộc khơng có sổ đỏ để giao nên ông Vinh hẹn thời gian khác giao tiền. Vợ chồng
ơng Lộc khơng đồng ý chuyển nhượng nữa. Ơng Vinh yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp


đồng chuyển nhượng. Diện tích 953m2 đất mà vợ chồng ông Đào Văn Lộc chuyển
nhượng cho ông Trịnh Văn Vinh ngày 9/9/2005 là đất trồng lúa. Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất nêu trên khơng được chính quyền địa phương cho phép
chuyển nhượng. Hơn nữa, ông Vinh mới trả cho ông Lộc được 45.000.000 đồng bằng
45% giá trị thửa đất mà hai bên thỏa thuận trong hợp đồng. Do đó hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất chuyển nhượng đất giữa ông Lộc với ông Vinh bị vô hiệu.
Hủy bản án sơ thẩm và phúc thẩm, giao hồ sơ vụ án lại cho Tịa án nhân dân tỉnh Bình

Thuận xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
2.1. Khi nào hợp đồng vô hiệu một phần, vơ hiệu tồn bộ? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời.
Theo Điều 407 BLDS 2015: “1. Quy định về giao dịch dân sự vô hiệu từ Điều 123
đến Điều 133 của Bộ luật này cũng được áp dụng đối với hợp đồng vô hiệu.
2. Sự vô hiệu của hợp đồng chính làm chấm dứt hợp đồng phụ, trừ trường hợp các bên
có thỏa thuận hợp đồng phụ được thay thế hợp đồng chính. Quy định này khơng áp dụng
đối với biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
3. Sự vô hiệu của hợp đồng phụ không làm chấm dứt hợp đồng chính, trừ trường hợp các
bên thỏa thuận hợp đồng phụ là một phần không thể tách rời của hợp đồng chính.”
Vì thế ta chia ra 2 trường hợp đó là hợp đồng dân sự vơ hiệu tồn phần và hợp đồng
vô hiều từng phần. Căn cứ theo Điều 130 BLDS 2015 hợp đồng vô hiệu một phần là
“Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần khi một phần nội dung của giao dịch dân sự vô hiệu
nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của phần còn lại của giao dịch.”
Hợp đồng vơ hiệu tồn bộ tương tự với việc giao dịch dân sự vơ hiệu tồn bộ căn cứ
theo Điều 122 BLDS 2015 “Giao dịch dân sự khơng có một trong các điều kiện được quy
định tại Điều 117 của Bộ luật này thì vơ hiệu, trừ trường hợp Bộ luật này quy định khác.”
Vậy hợp đồng vô hiệu tồn bộ khi khơng thỏa mãn các điều kiện quy định tại Điều 117
và ngoài ra trong trường hợp toàn bộ nội dung của hợp đồng vi phạm các quy định cụ thể
tại Điều 123 đến Điều 129 BLDS 2015.


2.2. Đoạn nào cho thấy trong Quyết định số 22 đã có việc chuyển nhượng tài
sản chung của hộ gia đình mà khơng có sự đồng ý của tất cả các thành viên của hộ
gia đình?
Đoạn cho thấy trong Quyết định số 22 đã có việc chuyển nhượng tài sản chung của
hộ gia đình mà khơng có sự đồng ý của tất cả các thành viên của hộ gia đình: “Hợp đồng
ủy quyền của UBND thị trấn Lộc Ninh chính thực ngày 27/07/2011 thể hiện các anh chị
Khánh, Vy, Tuấn cùng ủy quyền cho bà Dung được làm thủ tục ký kết Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại Tổ 2, khu phố Ninh Thành,

nhưng các anh chị Khánh, Vy, Tuấn không thừa nhận ký vào Hợp đồng ủy quyền nêu
trên. Bà Dung cho rằng chữ ký của bên ủy quyền không phải do các anh chị Khánh,
Tuấn, Vy ký, ai ký bà Dung không biết. Tại kết luận giám định số 1055/C54B ngày
25/7/2013, Phân viện Khoa học hình sự tại TP. HCM đã kết luận “Sử dụng các phương
tiện hỗ trợ, tiến hành nghiên cứu, phân tích so sánh, đánh giá các đặc điểm của chữ kí
cần giám định và mẫu so sánh thấy chưa đủ cơ sở kết luận giám định”. UBND thị trấn
Lộc Ninh thừa nhận vào thời điểm chứng thực chữ ký, khơng có mặt các anh chị Khánh,
Tuấn, Vy…”
2.3. Đoạn nào trong Quyết định số 22 cho thấy Hội đồng thẩm phán theo
hướng hợp đồng chuyển nhượng trên chỉ vô hiệu một phần?
Đoạn cho thấy trong Quyết định số 22 Hội đồng thẩm phán theo hướng hợp đồng
chuyển nhượng trên chỉ vô hiệu một phần: “Tuy nhiên tại Điều 216, khoản 1 Điều 223
BLDS 2005 quy định: “Sở hữu chung theo phần là sở hữu chung mà trong đó phần
quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu được xác định đối với tài sản chung; Mỗi chủ sở hữu
chung theo phần có quyền, nghĩa vụ đối với tài sản thuộc sở hữu chung tương ứng với
phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”; “Mỗi chủ sở hữu
chung theo phần có quyền định đoạt phần quyền sở hữu của mình theo thỏa thuận hoặc
theo quy định của pháp luật”. Trường hợp này, do các thành viên trong gia đình khơng
có thỏa thuận về quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất, nên xác
định quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất của các thành viên trong


hộ gia đình theo phần và áp dụng quy định về sở hữu chung theo phần để giải quyết.
Theo đó, phần quyền sử dụng, quyền sở hữu của bà Dung đã chuyển nhượng cho vợ
chồng ông Học nếu đúng quy định của pháp luật thì có hiệu lực.”
2.4. Suy nghĩ của anh chị về việc Hội đồng Thẩm phán theo hướng hợp đồng
chuyển nhượng trên chỉ vô hiệu một phần?
Theo em, việc Hội đồng Thẩm phán theo hướng hợp đồng chuyển nhượng chỉ vơ
hiệu một phần là hợp lý. Vì căn cứ Điều 216 BLDS 2005 về sở hữu chung theo phần:
“1. Sở hữu chung theo phần là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ

sở hữu được xác định đối với tài sản chung.
2. Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền, nghĩa vụ đối với tài sản thuộc sở hữu
chung tương ứng với phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp có thoả thuận khác.”.
Và căn cứ khoản 1 Điều 233 BLDS 2005 về định đoạt tài sản chung:
“1. Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền định đoạt phần quyền sở hữu của mình
theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật.”.
Trường hợp này do các thành viên trong gia đình khơng có thỏa thuận về quyền sử
dụng đất và quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất, nên việc xử lý quyền sử dụng đất và
quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất của các thành viên trong hộ gia đình theo phần và
áp dụng quy định về sở hữu chung theo phần để giải quyết. Như vậy, quyền sử dụng và
quyền sở hữu của bà Dung đã chuyển nhượng cho vợ chồng ông Học có hiệu lực nếu
đúng quy định của pháp luật. Quyền sử dụng, quyền sở hữu của các anh chị Khánh, Tuấn,
Vy là vô hiệu theo quy định tại Điều 135 BLDS 2005. Tức là hợp đồng chuyển nhượng
trên chỉ vô hiệu một phần, điều đó phù hợp với các quy định của BLDS 2005.


2.5. Thay đổi về hậu quả của hợp đồng vô hiệu giữa BLDS 2005 với BLDS
2015?
Thứ nhất, BLDS 2015 đã tách vấn đề “hoa lợi, lợi tức” là đối tượng của hợp đồng
vô hiệu ra khỏi quy định về khôi phục lại tình trạng ban đầu. Cụ thể:
BLDS 2005: Khoản 2 Điều 137: “Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khơi
phục lại tình trạng ban đầu, hồn trả cho nhau những gì đã nhận;…trừ trường hợp tài sản
giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật...”.
BLDS 2015: Khoản 2, 3 Điều 131: “2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khơi
phục lại tình trạng ban đầu, hồn trả cho nhau những gì đã nhận…
3. Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức khơng phải hồn trả lại hoa lợi, lợi
tức đó.”
Theo BLDS 2005, “hoa lợi, lợi tức” là vấn đề của “khôi phục lại tình trạng ban
đầu”. Tuy nhiên ở thời điểm trước khi giao dịch được xác lập thì hoa lợi, lợi tức chưa tồn
tại nên nếu buộc bên nhận tài sản (như bên mua, bên được tặng cho) làm phát sinh hoa

lợi, lợi tức trả cho bên giao tài sản (như bên bán, bên tặng cho) thì sẽ dẫn đến tình trạng
bên giao tài sản được nhận những thứ khơng có ở tình trạng ban đầu.Tức là đã khơng hề
khơi phục lại tình trạng ban đầu mà làm cho bên giao tài sản vào hồn cảnh hơn cả tình
trạng ban đầu.
Như vậy, BLDS 2015 đã khắc phục được hạn chế, sai sót đó khi tách đã tách vấn đề
“hoa lợi, lợi tức” là đối tượng của hợp đồng vô hiệu ra khỏi quy định về khơi phục lại
tình trạng ban đầu ra thành một khoản riêng.
Thứ hai: Có quy định mới là việc trả “hoa lợi, lợi tức” cần phải có yếu tố “ngay
tình” của người nhận tài sản
Tại Điều 601 BLDS 2005 thì tiêu chí để xác định số phận của hoa lợi, lợi tức khi
giao dịch dân sự vô hiệu là sự ngay tình của người chiếm hữu tài sản khơng có căn cứ
pháp luật và trên thực tế Tịa án cũng giải quyết trên cơ sở Điều 601.


BLDS 2015 đã thêm quy định tại Khoản 3 Điều 131: “Bên ngay tình trong việc thu
hoa lợi, lợi tức khơng phải hồn trả lại hoa lợi, lợi tức đó”. Xác định hoa lợi, lợi tức của
người chiếm hữu tài sản khơng có căn cứ pháp luật bằng cáh dựa vào việc có yếu tố ngay
tình hay khơng.
Thứ ba: BLDS 2015 thêm Khoản 5 Điều 131 với nội dung: “Việc giải quyết hậu quả
của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật này, luật khác có
liên quan quy định.”
2.6. Trong quyết định số 319, lỗi của các bên được Tòa giám đốc thẩm xác định
như thế nào?
Trong quyết định 319, lỗi của các bên được Tịa giám đốc thẩm xác định:
“Diện tích 953m2 đất mà vợ chồng ông Đào Văn Lộc chuyển nhượng cho ông Trịnh
Văn Vinh ngày 9/9/2005 là đất trồng lúa. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
nêu trên không được chính quyền địa phương cho phép chuyển nhượng. Hơn nữa, ông
Vinh mới trả cho ông Lộc được 45.000.000 đồng bằng 45% giá trị thửa đất mà hai bên
thỏa thuận trong hợp đồng. Do đó hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất chuyển
nhượng đất giữa ông Lộc với ông Vinh bị vô hiệu.”.

“Trong trường hợp này, ông Vinh mới trả được 45.000.000 đồng trên tổng giá trị
thửa đất là 100.000.000 đồng tức là mới trả 45% giá trị thửa đất, cả hai bên cùng có lỗi
khi giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu ông Vinh chỉ được bồi thường thiệt hại là ½
chênh lệch giá của 45% giá trị thửa đất theo giá thị trường.”.
2.7. Quyết định số 319, Tịa dân sự cho biết ơng Vinh sẽ được bồi thường như
thế nào?
Quyết định số 319, Tòa dân sự cho biết ông Vinh chỉ được bồi thường thiệt hại là ½
chênh lệch giá của 45% giá trị thửa đất theo giá thị trường.
2.8. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa dân sự.
Theo Nghị quyết 01/2003/NQ-HĐTP


Nếu các bên đều có lỗi tương đương nhau làm cho hợp đồng mua bán nhà ở vơ
hiệu, thì mỗi bên chịu trách nhiệm 1/2 giá trị thiệt hại; nếu mức độ lỗi của họ khơng
tương đương nhau, thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại được xác định theo mức độ lỗi
của mỗi bên.
Nếu bên mua có lỗi làm cho hợp đồng mua bán nhà ở vơ hiệu, thì bên bán chỉ phải
trả cho bên mua số tiền đã nhận và bên mua phải giao lại nhà cho bên bán (nếu đã nhận);
nếu bên mua có lỗi làm cho nhà ở bị hư hỏng hoặc tháo dỡ thì phải bồi thường khoản tiền
do bên bán phải bỏ ra để sửa chữa, khơi phục lại tình trạng ban đầu do bên mua làm hư
hỏng hoặc tháo dỡ nhà. Trong trường hợp giá nhà giảm mà bên bán bị thiệt hại thì bên
mua phải bồi thường cho bên bán khoản tiền chênh lệch giá được xác định theo cách thức
hướng dẫn tại điểm c tiểu mục 2.4 mục 2 này.
Nếu bên bán có lỗi làm cho hợp đồng mua bán nhà ở bị vơ hiệu, thì bên bán phải trả
cho bên mua số tiền đã nhận và bên mua phải giao lại nhà cho bên bán (nếu đã nhận).
Trong trường hợp có sự chênh lệch giá nhà mà bên mua bị thiệt hại thì bên bán phải bồi
thường khoản tiền chênh lệch giá được xác định theo cách thức hướng dẫn tại điểm c tiểu
mục 2.4 mục 2 này.
Khoản tiền chênh lệch được tính theo tỷ lệ số tiền bên mua nhà đã trả.
Trong trường hợp này Tòa án chưa xác định rõ được lỗi của các bên làm cho hợp

đồng bị vơ hiệu. Vậy nên cách giải quyết của Tịa án chưa đủ thuyết phục.
2.9. Với các thông tin trong Quyết định số 319, ông Vinh sẽ được bồi thường
khoản tiền cụ thể là bao nhiêu? Vì sao?
Với các thơng tin trong Quyết định số 319, ông Vinh sẽ được bồi thường khoản tiền
cụ thể là:


Giá chênh lệch là 233.550.000đ



45% giá chênh lệch là: 105.097.500đ



52.548.750đ

Số tiền ơng Vinh sẽ được bồi thường là: ½ của 105.097.500đ là


VẤN ĐỀ 03: BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ CĨ THỜI
HẠN
Tóm tắt quyết định 05/2020/KDTM-GĐT ngày 26/02/2020 của HĐTP Tịa án
nhân dân tối cao
Ngun đơn là Cơng ty TNHH K.N.V kiện bị đơn là Công ty TNHH sản xuất và
thương mại phân bón Cửu Long Việt Nam và Ngân hàng TMCP Việt Á về việc tranh
chấp hợp đồng bảo lãnh. Cụ thể là, Công ty Cửu Long vi phạm nghĩa vụ giao hàng nên
Công ty K.N.V đã gửi Công văn đề nghị Ngân hàng Việt Á thực hiện trách nhiệm bảo
lãnh trước 17 giờ 00 phút ngày 09/5/2016. Về phía Ngân hàng Việt Á, đến khi hết hiệu
lực của Thư bảo lãnh Ngân hàng Việt Á mới thông báo về việc không thực hiện việc bảo

lãnh do chưa nhận được Thư bảo lãnh bản gốc trước 17 giờ 00 phút ngày 09/5/2016. Tòa
giám đốc thẩm cho rằng Tòa án sơ thẩm và phúc thẩm buộc Ngân hàng Việt Á phải thực
hiện nghĩa vụ hồn trả cho Cơng ty TNHH K.N.V số tiền tạm ứng còn thiếu là
1.510.000.000đ là có căn cứ và cho rằng Cơng ty TNHH K.N.V nộp bản gốc Thư bảo
lãnh khi đã hết hạn hiệu lực nên Ngân hàng Việt Á có quyền từ chối thực hiện nghĩa vụ
bão lãnh là không đúng với bản chất vụ án. Vậy nên quyết định giữ nguyên bản án phúc
thẩm số 17/2017/KDTM-PT ngày 09/8/2017 về việc tranh chấp hợp đồng bảo lãnh.
3.1 Thư bảo lãnh của Ngân hàng có thời hạn như thế nào?
Thư bảo lãnh của Ngân hàng có thời hạn đến hết 17 giờ 00 ngày 09/05/2016. Tức là
Ngân hàng đảm bảo cho Cty Cửu Long về việc giao hàng chậm nhất trong vòng 20 ngày
làm việc kể từ ngày Cty Cửu Long nhận được tiền ký quỹ/tạm ứng của Cty K.N.V (ngày
nhận tiền 15/04/2016).
3.2 Nghĩa vụ của Cty Cửu Long đối với Cty KNV có phát sinh trong thời hạn
bảo lãnh của Ngân hàng không?
Nghĩa vụ giao hàng của Cty Cửu Long đối với Cty KNV đã phát sinh kể từ ngày
15/04/2016. Còn thời hạn bảo lãnh được Ngân hàng ra ngày 14/04/2016 đến 09/05/2016.


Như vậy, nghĩa vụ của Cty Cửu Long đối với Cty KNV đã phát sinh trong cùng với thời
hạn bảo lãnh của Ngân hàng.
3.3 Theo Tòa án nhân dân tối cao, khi người có quyền (Cty KNV) khởi kiện
Ngân hàng trả nợ thay sau khi thời hạn bảo lãnh kết thúc thì Ngân hàng có cịn
trách nhiệm của người bảo lãnh khơng? Đoạn nào của Quyết định có câu trả lời?
Theo Tịa án nhân dân tối cao, khi người có quyền (Cty KNV) khởi kiện Ngân hàng
trả nợ thay sau khi thời hạn bảo lãnh kết thúc thì Ngân hàng vẫn còn trách nhiệm của
người bảo lãnh.
Đoạn của Quyết định có câu trả lời:
“Đến ngày 11/05/2016, khi đã hết thời hạn hiệu lực của Thư bảo lãnh … Như vậy,
lý do từ chối thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của Ngân hàng Việt Á là không thể chấp nhận.”
(Trang 6 Quyết định)

3.4 Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tối cao.
Hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao về biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ có thời hạn của Ngân hàng khi mà thời hạn bảo đảm đã kết thúc là hợp lý. Vì
phía Cty Cửu Long đã vi phạm nghĩa vụ giao hàng trong 20 ngày, đồng thời Cty K.N.V
cũng đã gửi công văn yêu cầu Ngân hàng thực hiện trách nhiệm bảo lãnh trước khi thời
hạn bảo lãnh kết thúc. Và có thể thấy ngân hàng đã khơng thông báo ngay cho Cty K.N.V
trong thời hạn bảo lãnh về việc hồ sơ yêu cầu không đầy đủ, mà lại lấy lý do Công ty Cửu
Long đề nghị Ngân hàng Việt Á tạm thời ngưng việc hoàn trả tiền để từ chối bảo lãnh và
sau đó đến ngày 11/5/2016 mới đưa ra lý do Công ty K.N.V thiếu Thư bảo lãnh bản gốc
để từ chối yêu cầu thanh toán theo Thư bảo lãnh là không đúng thực tế thực hiện hợp
đồng (bên bán không thực hiện nghĩa vụ giao hàng). Như vậy, Tịa án buộc Ngân hàng
phải hồn trả cho Cơng ty K.N.V số tiền tạm ứng cịn thiếu 1,51 tỉ đồng là có căn cứ.



VẤN ĐỀ 04: GIẢM MỨC BỒI THƯỜNG DO HOÀN CẢNH KINH TẾ KHÓ
KHĂN
4.1.

Từng điều kiện được quy định trong BLDS để giám mức bồi thường do

thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế.
Theo Khoản 2 Điều 585 quy định về “Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại
có thể được giảm mức bồi thường nếu khơng có lỗi hoặc có lỗi vơ ý và thiệt hại q lớn
so với khả năng kinh tế của mình.”
Như vậy người gây thiệt hại chỉ có thể được giảm mức bồi thường khi có đủ hai
điều kiện song song với nhau, sau đây:


Do khơng có lỗi hoặc có lỗi vơ ý mà gây thiệt hại;




Thiệt hại xảy ra quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của

người gây thiệt hại, có nghĩa là thiệt hại xảy ra mà họ có trách nhiệm bồi thường so với
hồn cảnh kinh tế trước mắt của họ cũng như về lâu dài họ khơng thể có khả năng bồi
thường được tồn bộ hoặc phần lớn thiệt hại đó
4.2.

Trong tình huống trên, việc Tòa án áp dụng các quy định về giảm mức

bồi thường thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của anh Nam để ấn định mức
bồi thường có thuyết phục khơng? Vì sao?
Việc Tịa án áp dụng các quy định về giảm mức bồi thường do thiệt hại quá lớn so
với khả năng kinh tế của anh Nam để ấn định mức bồi thường là không thuyết phục.
Theo Bộ luật dân sự 2015 người gây thiệt hại chỉ được giảm mức bồi thường thiệt
hại nếu “khơng có lỗi” hoặc “lỗi vô ý” và đồng thời thiệt hại quá lớn so với khả năng
kinh tế của họ. Xét trong tình huống trên Anh Nam trong lúc thực hiện công việc do Ủy
ban nhân dân giao do vô ý gây thiệt hại cho Bà Chính thì được Tịa án giảm mức bồi
thường Tuy nhiên lỗi vô ý không đủ để giảm mức bồi thường vì như chúng ta đã biết cịn
phải thêm điều kiện nữa liên quan đến hồn cảnh kinh tế trước mắt và lâu dài của anh
Nam. Ở đây Tịa án khơng nói rõ liệu hồn cảnh kinh tế của anh Nam có thực sự khơng


thể đáp ứng đươc mức bồi thường cho bà Chính trong thời gian trước mắt hoặc lâu dài
hay không mà chi nói “thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của anh Nam”.


VẤN ĐỀ 05: BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO NGUỒN NGUY HIỂM CAO

ĐỘ GÂY RA
Tóm tắt quyết định giám đốc thẩm số: 30/2010/DS-GĐT ngày 22/01/2020 của
Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.
Quyết định giám đốc thẩm về vụ án “địi bồi thường thiệt hại tính mạng” giữa
ngun đơn anh Nguyễn Hữu Công và bị đơn là chi nhánh điện Cái Bè do ơng nguyễn
Bạch làm đại điện, ngồi ra cịn có người có quyền và nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn
Văn Ri và anh Nguyễn Văn Sua. Nội dung như sau, Con trai của nguyên đơn bị điện giật
chết do đường dây hạ thế chạy ngang qua nhà ông Dũng bị hở mạch điện dẫn điện qua
mái tole nhà ông Dũng đến dây chằng bằng sắt xuống đất, lúc này con trai của nguyên
đơn đi ngang qua chạm vào dây chằng dẫn đến tử vong. Nghĩ đường đường do chi nhánh
điện Cái bè quản lí nên nguyễn đơn yêu cầu chi nhánh Cái Bè phải bồi thường thiệt hại
bao gồm: Chi phí mai táng; tổn thất về tinh thần cho gia đình, tổng cộng là 28.000.000
đồng nhưng phía bị đơn cho rằng trách nhiệm quản lí khơng cịn thuốc về mình nên
khơng đồng ý với số tiền mà nguyên đơn yêu cầu. Sau cùng, quyết định của Tòa án nhân
dân Tối cao là hủy bản án phúc thẩm và sơ thẩm về vụ án “đòi bồi thường thiệt hại tính
mạng” giao hồ sơ vụ án cho Tịa sơ thẩm để xét xử lại.
5.1. Đoạn nào của Quyết định cho thấy Tòa án đã vận dụng chế định bồi
thường thiệt do nguồn nguy hiểm cáo độ gây ra?
Trong phần xét thấy có đoạn: “Theo quy định tại Điều 627 Bộ luật dân sự 1995
(Điều 623 Bộ luật dân sự 2005) thì chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu,
sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi khơng có lỗi (trừ các
trường hợp thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại, thiệt hại xảy ra
trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết....)”.


5.2. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án xác định đây là bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Theo em, Tòa án đã xác định đúng về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao
độ gây ra. Theo quy định tại Khoản 3 Điều 601 BLDS 2015, “Chủ sở hữu, người chiếm
hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi khơng có lỗi, trừ

trường hợp thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại.” Mà người bị
thiệt hại là anh Nguyễn Hữu Lợi hồn tồn khơng có lỗi nên phải được bồi thường. Xét
trách nhiệm về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, thì có hành vi do
chính nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, có thiệt hại xảy ra và có mối quan hệ nhân quả.
Hành vi do chính nguồn nguy hiểm cao độ gây ra ở đây là của đường dây dẫn điện kéo
ngang bên trên mái nhà anh Dũng (nhà bỏ trống không ai ở) chạm vào mái tole tạo ra 2
điểm đứt vỏ nhựa, lộ dây nhơm phía trong, khiến cho dây điện bị hở mạch điện. Thiệt hại
do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chính là tính mạnh của anh Nguyễn Hữu Lợi. Do đó,
có mối quan hệ nhân quả giữa việc dây điện bị hở mạch (được xem là nguồn nguy hiểm
cao độ) với thiệt hại (làm chết người) xảy ra. Chính vì thế, việc Tịa án xác định đây là
bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là có căn cứ. Trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra phát sinh cho cả chủ sở hữu hay
người sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ.
5.3. Tịa dân sự có cho biết ai là chủ sở hữu đường dây điện hạ thế gây thiệt hại
khơng?
Tịa dân sự có biết chủ sở hữu của đường dây điện hạ thế gây thiệt hại. Tại trang 4
của Bản án có ghi rõ chủ sở hữu là Công ty điện lực 2.
5.4. Theo anh/chị, ai là chủ sở hữu đường dây hạ thế gây thiệt hại?
Theo em, chủ sở hữu đường dây hạ thế gây thiệt hại là Cơng ty điện lực 2. Vì Cơng
ty điện lực 2 là bên bán điện cho Tổ điện 4 theo hợp đồng mua bán điện.


5.5. Theo Tòa dân sự, chủ thể nào sẽ chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho
gia đình nạn nhân?
Theo Tồ dân sự thì cả 2 chủ thể là chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ là Công ty
điện lực 2 và bên quản lý, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ là Tổ điện 4 thuộc ấp 3 xã
Tân Hưng huyện Cái Bè sẽ chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho gia đình nạn nhân.
Tịa dân sự theo quy định tại điều 627 BLDS 1995 (điều 623 BLDS 2005).
5.6. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân
tối cao liên quan đến xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho gia

đình nạn nhân.
Theo em, hướng xử lý trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao là hợp tình hợp
lý. Theo khoản 3 Điều 601 BLDS 2015 có quy định như sau: “Chủ sở hữu, người chiếm
hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi khơng có lỗi, trừ
trường hợp thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại.” Mà trong
trường hợp này, anh Nguyễn Hữu Lợi là người bị thiệt hại và hồn tồn khơng có lỗi.
Nên chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường
thiệt hại, chính là Cơng ty điện lực và Tổ điện 4 thuộc ấp 3 xã Tân Hưng huyện Cái Bè.
Xét chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, thì chủ sở hữu (Cơng ty điện lực 2) là
người thực hiện các quyền đối với tài sản, trong đó có quyền khai thác cơng dụng và
hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản, do đó khi tài sản gây ra thiệt hại, thì chủ sở hữu phải bồi
thường là hoàn toàn phù hợp. Chủ sở hữu có thể phải chịu trách nhiệm ngay cả khi khơng
trực tiếp chiếm hữu, sử dụng mà giao cho người khác chiếm hữu sử dụng, do đó khơng
thể áp dụng khoản 2 Điều 601 BLDS 2015 để đưa trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho
người được giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ. Bên cạnh đó, người được
giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ có thể là người được giao thông qua
một giao dịch dân sự hoặc có thể thơng qua một quyết định của cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền, quyết định của người sử dụng lao động. Theo hướng dẫn tại điểm đ tiểu mục
2 mục III Nghị quyết số 03/2006, người được giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm
cao độ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra phải


là người được giao thông qua một giao dịch. Người được giao chiếm hữu, sử dụng nguồn
nguy hiểm cao độ cũng phải bồi thường thiệt hại ngay cả khi không có lỗi trong việc
chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ. Xét về hợp đồng bán điện giữa Công ty
điện lực 2 và Tổ điện 4 thì ngồi việc bên bán (là cơng ty điện lực) phải có trách nhiệm
cung cấp điện an toàn cho đường dây tải điện, thì bên mua điện (là tổ điện 4) cũng phải
có trách nhiệm quản lý đường dây tải điện không bị hư hỏng. Nhưng đường dây tải điện
lúc anh Nguyễn Hữu Lợi đi ngang qua đã bị hư hỏng nặng, dẫn đến bị rò rỉ điện, điều này
gây ra cái chết cho anh Lợi. Do đó, trên tinh thần của Nghị quyết số 03/2006 thì trách

nhiệm bồi thường thiệt hại cho gia đình của nguyên đơn cũng thuộc về người được giao
chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ là Tổ điện 4.


VẤN ĐỀ 06: BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO NGƯỜI THI HÀNH CƠNG
VỤ GÂY RA

Tóm tắt án số 02/2015/HSST ngày 15/4/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú
Yên.
Vào đêm ngày 11, rạng sáng 12/05/2015, Ngô Thanh Kiều cùng với Trần Minh
Cường, Ngô Thanh Sơn sử dụng ô tô đột nhập trái phép vào nhà bà Nguyễn Thị Thuẫn
trộm cắp tài sản gồm 14.000.000 đồng và 5 điện thoại di động. Sơn bị cơ quan điều tra
bắt giữ, Cường ra đầu thú ít lâu sau, và cuối cùng Kiều bị bắt khi đang ở nhà. Lê Đức
Hồn ( phó trưởng CA thành phố Tuy Hịa, trưởng ban chun án 312T) phân cơng các
trinh sát viên Nguyễn Minh Quyền, Phạm Ngọc Mẫn, Đỗ Như Huy, Nguyễn Tấn Quang,
Nguyễn Thân Thảo Thành canh gác, xét hỏi Kiều. Năm người trên đã đánh đập, tra tấn
khiến cho Kiều tử vong trên đường cấp cứu ở Bệnh viện đa khoa tỉnh Phú Yên.
5.1.

Những khác biệt cơ bản về thiệt hại được bồi thường khi một cá nhân

chết theo Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và BLDS.
Đối với những chi phí phải bồi thường:
- Tại Điều 25, 27 Luật trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước thì bao gồm
các chi phí sau:
+ Chi phí khám bệnh, chữa bệnh theo quy định của pháp luật về khám bệnh, chữa
bệnh cho người bị thiệt hại trước khi chết.
+ Chi phí bồi dưỡng sức khỏe cho người bị thiệt hại trước khi chết được xác định
là 01 ngày lương tối thiểu vùng tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh cho 01 ngày khám bệnh,
chữa bệnh theo số ngày trong hồ sơ bệnh án.

+ Chi phí cho người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian khám bệnh, chữa
bệnh trước khi chết được xác định là 01 ngày lương tối thiểu vùng tại cơ sở khám bệnh,
chữa bệnh cho 01 ngày chăm sóc người bị thiệt hại.


+ Chi phí cho việc mai táng người bị thiệt hại chết được xác định theo mức trợ
cấp mai táng theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội.
+ Và bồi thường thiệt hại về tinh thần cho gia đình nạn nhân.
- Tại Điều 591, 593 BLDS 2015 thì các chi phí cần được bồi thường bao gồm:
+ Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm theo quy định tại Điều 590 của Bộ luật này;
+ Chi phí hợp lý cho việc mai táng.
+ Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng;
+ Thiệt hại khác do luật quy định.
+ Và bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế
thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu khơng có những người này thì người mà người bị
thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại.
Đối với chi phí mai táng:
- Theo khoản 4 Điều 25 Luật trách nhiệm bồi thường thiệt hại Nhà nước thì chi phí
mai táng được xác định theo mức trợ cấp mai táng theo quy định của pháp luật về bảo
hiểm xã hội.
- Theo điểm b khoản 1 Điều 591 BLDS 2015 thì chi phí hợp lý cho việc mai táng.
Đối với tiền cấp dưỡng cho nghững người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng:
- Theo khoản 5 Điều 25 Luật trách nhiệm bồi thường thiệt hại Nhà nước thì là một
tháng lương tối thiểu vùng tại nơi người được cấp dưỡng đang cư trú cho mỗi tháng thực
hiện nghĩa vụ cấp dường. Trừ trường hợp pháp luật có quy định khác hoặc đã được xác
định theo bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền.
- Theo BLDS 2015 thì khơng nói rõ.



Đối với mức bồi thường thiệt hại về tinh thần cho gia đình người bị thiệt hại về tính
mạng:
- Theo khoản 4 Điều 27 Luật trách nhiệm bồi thường thiệt hại nhà nước thì được
xác định là 360 tháng lương cơ sở.
- Theo BLDS 2015 thì thỏa thuận. Nếu khơng thỏa thuận được thì mức tối đa cho
một người có tính mạng bị xâm phạm khơng q một trăm lần mức lương cơ sở do Nhà
nước quy định.
5.2.

Hoàn cảnh như trong vụ việc trên có được Luật trách nhiệm bồi

thường của Nhà nước điều chỉnh khơng? Vì sao?
Hồn cảnh như trong vụ việc trên không được Luật trách nhiệm bồi thường Nhà
nước điều chỉnh.
Vì đây là sự vi phạm của người thi hành cơng vụ trong q trình tố tụng dân sự
nhưng trường hợp này không được quy định tại Điều 18 Luật trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước về phạm vi trách nhiệm bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự.
5.3.

Nếu hồn cảnh như trong vụ án trên xảy ra sau khi BLDS 2015 có

hiệu lực, hướng gải quyết có khác hướng giải quyết trong vụ án khơng? Vì sao?
Trong trường hợp hồn cảnh như trên xảy ra sau khi BLDS 2015 có hiệu lực, hướng
giải quyết khơng thay đổi. Vì:
- Thứ nhất, về mức bồi thường tổn thất tinh thần khi tính mạng bì xâm phạm, điểm
khác biệt giữa BLDS 2005 và BLDS 2015 là mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần
khi các bên không thỏa thuận được, ở BLDS 2005 mức tối đa không quá 60 tháng lương
tối thiểu do Nhà nước quy định, còn ở BLDS 2015 quy định mức tối đa cho một người có
tính mạng bị xâm phạm khơng q một trăm lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.

Nếu tính số tiền bồi thường tổn thất tinh thần theo BLDS 2015 là: 1. 390. 000 đồng x 100
= 139. 000. 000 đồng, tuy nhiên trong vụ án này các bị cáo đã tự nguyện bồi thường tổng
số tiền là 186. 000. 000 đồng cho khoản bù đắp tổn thất về tinh thần và chi phí mai táng


(trong đó chi phí mai táng là 30. 000. 000 đồng) là cao hơn số tiền mà luật quy định nên
khơng có sự thay đổi về mức phạt bồi thường tổn thất tinh thần;
- Thứ hai, việc các bị cáo sử dụng nhục hình và thiếu trách nhiệm gây hậu quả
nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến tính mạng của anh Kiều không thuộc phạm vi bồi
thường của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2009 (Điều 26 Luật Trách nhiệm
bồi thường của Nhà nước 2009) nên không được bồi thường tinh thần theo mức 360 lần
mức lương cơ sở. Cho nên dù là áp dụng BLDS 2005 hay BLDS 2015 cũng không ảnh
hưởng đến quyết định này;
- Thứ ba, áp dụng quy định tại Điều 598 BLDS 2015 về bồi thường thiệt hại do
người thu hành công vụ gây ra: “Nhà nước có tách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi
trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra theo quy định của Luật trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước.” thì việc quyết định của Tịa án về nghĩa vụ cấp dưỡng cho 2 con
của người bị hại là của Cơng an TP Tuy Hịa là phù hợp với pháp luật hiện hành. Có
chăng sự thay đổi là về việc cơ quan Nhà nước có quyền yêu cầu người thi hành công vụ
gây thiệt hại hàn trả lại cho Ngân sách khoản tiền mà Nhà nước thực hiện nghĩa vụ đối
với gia đình người bị hại chưa được Tòa án nhắc đến.



×