Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Quan điểm của mác – angghen về thời kì quá độ trực tiếp từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (77.85 KB, 11 trang )

Trường đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội

TIỂU LUẬN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
KHOA HỌC

Chủ đề 8:
Quan điểm của Mác – Angghen về thời kì quá độ trực tiếp
từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.

1


Mục lục
A. Lời nói đầu...........................................................................3
B. Nội dung
I. Tư tưởng của C.Mác-Angghen về thời kì
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
cộng sản và về phương thức sản xuất trong..................4
tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gô ta”.
II. Quan điểm của C.Mác-Lenin và tư tưởng
Hồ Chí Minh về thời kì quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản.
1. Quan điểm của C.Mác về thời kì quá độ........................5
lên chủ nghĩa cộng sản.
2. Quan điểm của Lenin về thời kì quá độ..........................6
lên chủ nghĩa xã hội
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kì ..................................7
q độ lên chủ nghĩa xã hội
III. Phương thức sản xuất chủ nghĩa cộng sản
1. Giai đoạn thấp..................................................................8
2. Giai đoạn cao....................................................................9


C. Kết luận..................................................................................10
D. Tài liệu tham khảo..................................................................11

2


A. Lời nói đầu.
Chủ nghĩa xã hội khơng phải là một sự xuất hiện tự nhiên hay từ
trong suy nghĩ, ý thức của một nhà thiên tài nào mà nó được xuất hiện từ
thực tế khách quan của đời sống xã hội, từ quá trình đấu tranh giữa các
giai cấp với nhau. Khi nghiên cứu về quá trình phát triển của lồi người
C.Mác đã rút ra kết luận: Q trình phát triển của xã hội lồi người là q
trình lịch sử tự nhiên. Điều này có nghĩa là nó có q trình phát sinh, phát
triển và diệt vong. Chính các cuộc cách mạng xã hội đã làm cho xã hội
loài người chuyển từ xã hội thấp đến xã hội cao hơn.
C.Mác và Ph.Angghen khơng những chỉ ra tính tất yếu khách quan
sự ra đời của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa, mà còn chỉ ra
rằng: chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản tất yếu phải trải qua thời kì
quá độ. Đây là thời kì cải biến cách mạng toàn diện từ lực lượng sản xuất
đến quan hệ sản xuất, từ cơ sở kinh tế đến kiến trúc thượng tầng, để xóa
bỏ pháp quyền tư sản và hoàn thiện các đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản.
Hai ông đã dùng khái niệm chủ nghĩa cộng sản, coi đây là một phương
thức sản xuất phát triển cao hơn, tốt đẹp hơn phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa. Sau này chủ nghĩa xã hội được coi là giai đoạn thấp của chủ
nghĩa cộng sản.

3


B. Nội dung.

I.
Tư tưởng của C.Mác-Angghen về thời kì quá độ từ chủ nghĩa
tư bản lên chủ nghĩa cộng sản và về phương thức sản xuất
trong tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gơ ta”.
Phân tích các qui luật phát triển của xã hội tư bản chủ nghĩa, C.Mác
cùng với Angghen đã rút ra kết luận về sự diệt vong tất yếu của phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và sự thay thế nó bằng phương thức sản
xuất cộng sản chủ nghĩa. Hai ông trước hết chỉ rõ sự tiến bộ lịch sử của
chế độ tư bản, vai trò cực kì to lớn của nó trong việc phát triển sức sản
xuất và xã hội hóa lao động; mặt khác, cũng chỉ ra giới hạn, tạm thời về
mặt lịch sử của chế độ đó. C.Mác-Angghen đã dự báo rằng: “Sự tập trung
tư liệu sản xuất, và xã hội hóa lao động đạt đến cái điểm mà chúng ta
khơng cịn thích hợp vỏ tư bản chủ nghĩa của chúng nữa. Cái vỏ đó vỡ
tung ra. Giờ tận số của chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa đã điểm. Những kẻ
đi tước đoạt bị tước đoạt”.
Nhưng cái vỏ đó khơng tự nó vỡ tung ra mà phải thông qua cuộc
cách mạng bắt đầu bằng việc giai cấp vô sản dẫn đầu quần chúng lao động
nổi dậy giành lấy chính quyền. C.Mác viết: “Cách mạng nói chung lật đổ
chính quyền hiện có và phá hủy những quan hệ cũ là một hành vi chính
trị. Nhưng chủ nghĩa xã hội khơng thể được thực hiện mà khơng có cách
mạng. Chủ nghĩa xã hội cần đến hành vi chính trị bởi lẽ nó cần tiêu diệt và
phá hủy cái cũ”.
C.Mác chỉ ra rằng: “Giai cấp cơng nhân biết rằng nó phải trải qua
nhiều giai đoạn khác nhau của cuộc đấu tranh giai cấp. Nó biết rằng việc
thay thế những điều kiện của lao động tự do và liên hợp, chỉ có thể là một
sự nghiệp tiến triển trong thời gian sau một quá trình phát triển lâu dài”.
Trong khi phê phán cương lĩnh Go-ta, C.Mác đồng thời nêu ra
những nhiệm vụ của cuộc đấu tranh cho cách mạng xã hội chủ nghĩa, cho
thằng lợi của chun chính vơ sản, cho việc tước đoạt giai cấp tư sản.
Nhưng ý kiến đó của C.Mác khơng những có ý nghĩa vơ cùng lớn lao

trong thời kì đó đối với giai cấp công nhân, mà ngay cả bây hiện tại,
những ý kiến ấy cũng giúp cho chúng ta thấy rõ được con đường phải đi
trong cái mớ hẩu lớn những học thuyết về chủ nghĩa tư bản nhân dân do
bọn tư bản đưa ra và đủ các loại học thuyết này nọ do bọn cơ hội chủ
nghĩa, bọn cải lương chủ nghĩa và bọn xét lại chủ nghĩa đang tung ra để
lừa bịp nhân dân trên tồn thế giới.
Đó là một mặt có ý nghĩa quan trọng của tác phẩm này của C.Mác.
Mặt khác khơng hồn tồn chỉ đóng khung trong luận chiến chống tư
4


tưởng của Lát-xan, nó cịn giải quyết một cách chính diện những vấn đề
quan trọng nhất trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tác phẩm
này tổng kết kinh nghiệm của tất cả các cuộc cách mạng trước kia, của
tồn bộ phong trào cơng nhân thế giới và tổng kết học thuyết của Mác về
nhà nước, C.Mác đã đề ra một luận điểm vô cùng quan trọng về thời kì
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản trong thời kì đó: “Giữa
xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa, là một thời kì
cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kì
ấy, là một thời kì q độ chính trị, và nhà nước của thời kì ấy khơng thể
là cái gì khác hơn là nền chun chính cách mạng của giai cấp vơ
sản”.
II.

Quan điểm của C.Mác-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh về thời
kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản.
1. Quan điểm của C.Mác về thời kì quá độ lên chủ nghĩa cộng
sản.
Luận điểm quan trọng của Mác là luận điểm về hai giai đoạn của
chủ nghĩa cộng sản. Trong tác phẩm “phê phán cương lĩnh Go-ta”, qua

nhận xét về cương lĩnh của Lat-xan dự thảo cho Đảng cơng nhân Đức,
C.Mác đã trình bày quan điểm của mình về hai giai đoạn của chủ nghĩa
cộng sản về nguyên tắc phân phối trong mỗi giai đoạn.
C.Mác chỉ ra rằng, cần phân biệt rõ “xã hội cộng sản chủ nghĩa đã
phát triển trên những cơ sở của chính nó”, hay là “giai đoạn cao hơn”, với
“một xã hội cộng sản chủ nghĩa vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa”,
hay là “giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa, lúc nó vừa mới lọt
lịng từ xã hội tư bản chủ nghĩa ra sau những cơn đau đẻ dài”.
Mỗi giai đoạn có những đặc điểm riêng: Nói về giai đoạn đầu của
chủ nghĩa cộng sản C.Mác chỉ ra rằng, đó là một xã hội mà về phương
diện kinh tế, đạo đức, tinh thần còn mang những dấu vết của xã hội cũ mà
nó đã lọt lịng ra. Chính vì vậy, trong giai đoạn này cịn có những thiếu sót
khơng thể tránh khỏi. Về mặt kinh tế, đó là sự thiếu sót trong khâu phân
phối. Trong giai đoạn này việc phân phối được thực hiện theo nguyên tắc
phân phối sản phẩm tiêu dùng theo số lượng và chất lượng lao động. Sự
tiến bộ của nguyên tắc này là ở chỗ nó khơng thừa nhận một sự phân biệt
giai cấp nào cả, bất cứ người lao động nào cũng như nhau. Một cống hiến
của mỗi người được đo bằng một thước đo như nhau, tức là bằng hiệu quả
lao động. Sự thiếu sót khơng thể tránh khỏi của ngun tắc này là ở chỗ
nó khơng thừa nhận sự không ngang nhau về thể chất, về tinh thần, năng
khiếu, tóm lại là về năng lực lao động. Do đó, “quyền ngang nhau ấy là
5


một quyền không ngang nhau đối với một lao động không ngang nhau”.
Về việc phân phối những vật phẩm tiêu dùng vẫn phải tuân theo nguyên
tắc trong việc trao đổi hàng hóa – vật ngang giá: một số lượng lao động
dưới một hình thức này được đổi lấy cùng một số lượng lao động dưới
một hình thức khác. Vì vậy, ở đây về nguyên tắc cái quyền ngang nhau
cũng là cái quyền tư sản, tuy rằng ở đây nguyên lí và thực tiễn khơng cịn

mâu thuẫn với nhau nữa.
Chỉ đến một giai đoạn cao hơn, tức là dưới chủ nghĩa cộng sản thực
sự, khi đã tạo ra những tiền đề vật chất và tinh thần, “khi mà sự phụ thuộc
có tính chất nơ dịch con người của họ khơng cịn nữa và cùng với nó, sự
đối lập giữa lao động trí óc và lao động chân tay cũng sẽ khơng cịn nữa,
khi mà lao động sẽ trở thành khơng những là phương tiện để sinh sống mà
bản thân nó cịn là nhu cầu bậc nhất của sự sống. Khi mà cùng với sự phát
triển toàn diện của các cá nhân, năng suất của họ cũng ngày càng tăng lên
và tất cả các nguồn của cải của xã hội đều tuôn ra dồi dào – chỉ khi đó
người ta mới có thể vượt hẳn ra khỏi giới hạn chật hẹp của cái quyền tư
sản và xã hội mới có thể ghi trên lá cờ của mình: Làm theo năng lực,
hưởng theo nhu cầu”. Điều phân biệt này hết sức quan trọng về lí luận
cũng như thực tiễn.
2. Quan điểm của Lenin về thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Lenin đã kế thừa học thuyết C.Mác và vận dụng sáng tạo học thuyết
đó vào điều kiện cách mạng của nước Nga. Phát triển quan điểm về sự
“rút ngắn” trong phát triển kinh tế xã hội của C.Mác-Angghen, Lenin đã
nêu ra: “Với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản các nước tiên tiến, các nước
lạc hậu có thể tiến tới chế độ Xô viết, và qua những giai đoạn phát triển
nhất định, tiến tới chủ nghĩa cộng sản, không phải trải qua giai đoạn phát
triển của chủ nghĩa tư bản”.
Như vậy, đối với nước kinh tế kém phát triển khi dành được chính
quyền thì khơng phải q độ lên chủ nghĩa cộng sản mà là quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản). Lenin khẳng định
hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa (mà giai đoạn thấp là xã hội
chủ nghĩa), tất yếu phải là hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa trên
cả ba yếu tố: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, và kiến trúc thượng
tầng. Mặt khác ông cũng chỉ ra rằng “chủ nghĩa xã hội sẽ như thế nào khi
nó đạt tới những hình thức hồn chỉnh của nó, điều đó chúng ta khơng
biết, khơng thể nói lên được...” bởi chúng ta cịn chưa đủ tài liệu để nói về

chủ nghĩa xã hội, “những viên gạch để xây dựng chủ nghĩa xã hội còn
chưa làm xong. Chúng ta cần phải hết sức thận trọng và chính xác. Điều
6


đó và chỉ điều đó mới sẽ làm cho cương lĩnh của chúng ta có sức hấp dẫn”
nếu ngược lại “cương lĩnh đó của chúng ta chỉ là ảo tưởng”.
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kì q độ lên chủ nghĩa xã
hội.
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và
sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của
sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lenin vào điều kiện
cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, tiếp thu văn hóa nhân loại”.
Những luận điểm của Hồ Chí Minh về quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam được hình thành, được chính muồi từ khi người giác ngộ chủ
nghĩa Mác – Lenin, trờ thành người cộng sản vào những năm 20 của thế
kỉ XX đến khi Người ở cương vị lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà
nước, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng giải phóng dân tộc và xây
dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Hồ Chí Minh là người theo đuổi đến
cùng lí tưởng và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Người trung thành với
chủ nghĩa Mác – Lenin, đồng thời phát triển, sáng tạo học thuyết, chủ
nghĩa ấy và thực sự là Người đã có những đóng góp, những cống hiến làm
sống động chủ nghĩa Mác – Lenin trong thực tiễn. Sáng tạo nổi bật và
cống hiến xuất sắc nhất của Hồ Chí Minh là đã giải quyết thành cơng và
có thể coi như một mẫu mực kinh điển về quan hệ giữa dân tộc và giai
cấp, giữa dân tộc và nhân loại trên lập trường của giai cấp vô sản, của
cách mạng vơ sản, giữa giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, xã hội
và con người, giữa cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân với cách mạng xã
hội chủ nghĩa. Người đã tìm thấy câu trả lời cho sự lựa chọn con đường

phát triển của đất nước. Quyết định lựa chọn chủ nghĩa xã hội là quyết
định Người theo đuổi suốt cuộc đời. Đối với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã
hội là một chân lí, đồng thời là một niềm tin: khơng có lực lượng gì ngăn
cản được mặt trời mọc, cũng khơng có lực lượng gì ngăn cản được chủ
nghĩa xã hội phát triển.
III.

Phương thức sản xuất chủ nghĩa cộng sản.
Hai giai đoạn của xã hội chủ nghĩa cộng sản... Sự khác nhau về mặt
khoa học giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là ở chỗ: Danh từ
trên chỉ giai đoạn đầu (giai đoạn thấp) của xã hội mới, lọt lòng từ chủ
nghĩa tư bản, cịn danh từ dưới chi giai đoạn sau đó, giai đoạn cao hơn của
xã hội đó.
1. Giai đoạn thấp.
7


Trong cuốn sách “phê phán cương lĩnh Gô-ta”, giai đoạn này là giai
đoạn chưa phát triển trên cơ sở của riêng nó, nó vừa thốt thai từ chủ
nghĩa tư bản. Vì vậy trên mọi phương diện cịn mang những dấu vết của
xã hội cũ. C.Mác viết: “Cái xã hội mà chúng ta nói ở đây (trong khi phân
tích cương lĩnh của Đảng công nhân) là một xã hội cộng sản, nhưng
không phải là xã hội cộng sản đã phát triển trên những cơ sở riêng của nó,
mà trái lại, là một xã hội cộng sản vừa trong xã hội tư bản thốt ra, vì vậy
mà mọi phương diện kinh tế, đạo đức, trí tuệ, xã hội ấy cịn mang những
dấu vết của xã hội cũ, xã hội đã đẻ ra nó”.
Chính cái xã hội cộng sản ấy, xã hội vừa mới thoát thai từ chủ nghĩa
tư bản mà ra và trong mọi lĩnh vực, mà vẫn còn mang dấu vết của xã hội
cũ, C.Mác gọi là giai đoạn đầu thai hay giai đoạn thấp của xã hội cộng
sản. Giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản chưa thể thực hiện được cơng

bằng và bình đẳng về mặt của cải, thì vẫn cịn chênh lệch, bất cơng nữa,
nhưng tình trạng người bóc lột người thì khơng cịn nữa, vì khơng ai có
thể chiếm tư liệu sản xuất, cơng xưởng, máy móc, đất đai... làm của riêng
được.
Trong giai đoạn này nguyên tắc phân phối là phân phối theo lao
động, về vấn đề này C.Mác viết: “Ở đây rõ ràng cũng là một nguyên tắc
như nguyên tắc điều tiết việc trao đổi hàng hóa, miễn là sự trao đổi ngang
nhau. Nội dung và hình thức khác nhau vì những điều kiện vốn đã khác
nhau, thì khơng ai có thể cung cấp được cái gì khác ngồi lao động của
mình, và mặt khác vì ngoài những vật phẩm tiêu dùng của cá nhân ra thì
khơng cịn cái gì khác có thể trở thành tài sản của cá nhân được. Nhưng
đối với việc phân phối những vật phẩm ấy giữa những người sản xuất cá
biệt thì nguyên tắc chỉ đạo cũng vẫn như là việc trao đổi hàng hóa ngang
giá; cùng một số lượng lao động dưới một hình thức này đổi lấy cùng một
số lượng lao động như thế dưới một hình thức khác”.

2. Giai đoạn cao của xã hội cộng sản.
C.Mác nói: “Trong giai đoạn cao của xã hội cộng sản, khi mà cá
nhân khơng cịn phụ thuộc một cách nơ lệ vào sự phân công nữa, và sự đối
lập giữa lao động trí óc với lao động chân tay cũng theo đó mà khơng cịn
nữa, khi mà lao động sẽ khơng phải chỉ là một phương tiện để sống nữa,
8


mà tự nó sẽ biến thành nhu cầu bậc nhất cho đời sống, khi mà lực lượng
sản xuất cũng đã tăng lên cùng với sự phát triển toàn diện của các cá nhân
và tất cả những nguồn tài phú công cộng đều tn ra dồi dào, thì chỉ khi
đó người ta nói có thể hồn tồn vượt khỏi giới hạn chật hẹp của pháp
quyền tư sản và xã hội”.
Trong giai đoạn đầu, trong bước đầu chủ nghĩa cộng sản chưa thể

hồn tồn chín muồi về kinh tế, chưa thể hồn tồn thốt khỏi những tập
tục hay những tàn tích của chủ nghĩa tư bản. Do đó có hiện tượng đáng
chú ý là: “Cái quan điểm chật hẹp của pháp quyền tư sản”, vẫn được duy
trì dưới chế độ cộng sản, trong giai đoạn đầu của nó. Đương nhiên về mặt
phân phối vật phẩm tiêu dùng thì pháp quyền tư bản tất nhiên địi hỏi phải
có một nhà nước kiểu tư sản, vì nếu khơng có một bộ máy đủ sức cưỡng
bức người ta tuân theo những tiêu chuẩn của quyền lợi thì quyền lợi có
cũng như khơng...

9


C. Kết luận.
Như vậy, trên cơ sở kế thừa có phê phán những tư tưởng, quan điểm
của các nhà kinh tế tư sản, với thực tiễn của chủ nghĩa tư bản, C.MácAngghen đã thành cơng trong việc phân tích chủ nghĩa tư bản. Các ông đã
khẳng định phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là phương
thức tồn tại vĩnh viễn mà tất yếu sẽ diệt vong và được thay thế bằng
phương thức sản xuất cao hơn, tốt đẹp hơn, nên nó phải phát triển qua hai
giai đoạn để hình thành nên những đặc trưng cơ bản của nó.

10


D. Tài liệu tham khảo
C.Mác – Angghen “Phê phán cương lĩnh Gota”

11




×