Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần và ảnh hưởng của nó trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (86.26 KB, 15 trang )

Trường đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội

TIỂU LUẬN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
KHOA HỌC
Chủ đề 18
Xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần và ảnh hưởng
của nó trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam.

Sinh viên thực hiện:
Mã sinh viên:
Lớp:
Giảng viên hướng dẫn:

1


Mục lục:
A. Mở đầu...................................................................................3
B. Nội dung
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lenin
về vấn đề tồn tại nhiều thành phần kinh tế .......................4
trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
2. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong
thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
a. Thành phần kinh tế.......................................................4
b. Cơ sở khách quan của việc tồn tại kinh tế
nhiều thành phần trong thời kì quá độ lên...................5
chủ nghĩa xã hội.
c. Thực trạng nền kinh tế nước ta khi
bước vào thời kì quá độ...............................................6


d. Các thành phần kinh tế tồn tại ở Việt Nam..................6
3. Ảnh hưởng của cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần trong quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam.
a. Lợi ích...........................................................................10
b. Hạn chế..........................................................................13
C. Kết luận....................................................................................14
D. Tài liệu tham khảo....................................................................15

2


A. Lời nói đầu.
Hiện nay trên thế giới, các quốc gia đang cố gắng xây dựng nên mơ hình
kinh tế có sự kết hợp chặt chẽ giữa kế hoạch và thị trường, mà trong đó cơ
cấu nhiều thành phần là cốt lõi. Riêng đối với nước ta, sau thời gian dài
duy trì mơ hình kinh tế tập trung đã nhận ra sự khơng phù hợp của mơ
hình này. Chính vì thế mà năm 1986, Đại hội Đảng VI đã đề ra đường lối
đổi mới toàn diện nền kinh tế xã hội nhằm đưa đất nước dần thoát ra khỏi
cuộc khủng hoảng vào những năm cuối thập kỉ 80. Có thể nói đây là mốc
quan trọng đánh dấu sự ra đời của kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Hiện nay nền kinh tế nhiều thành phần của nước ta đang
trong quá trình chuyển đổi. Các thành phần kinh tế đan xen vào nhau, vừa
hợp tác, vừa cạnh tranh với nhau, luôn có sự vận động và chuyển hóa
trong q trình phát triển. Việc phân tích cơ cấu kinh tế nhiều thành phần
và ích lợi của nó có ý nghĩa vơ cùng quan trọng trong việc phát triển Kinh
tế - Xã hội trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Biết
những mặt mạnh để phát huy và những mặt còn hạn chế để khắc phục,
chúng ta sẽ mau chóng xây dựng được nền kinh tế phát triển hồn thiện và

vững chắc, đưa đất nước ra khỏi đói nghèo, phát triển toàn diện về mọi
mặt, sánh ngang với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
Để có thể hiểu rõ hơn về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta, bài
tiểu luận này em xin chọn đề tài 18: “Xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều
thành phần và ảnh hưởng của nó trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam hiện nay”.

3


B. Nội dung.
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lenin về vấn đề tồn tại nhiều
thành phần kinh tế trong thời kì quá độ (TKQĐ) lên chủ nghĩa xã
hội.
Theo Lenin thì đặc điểm cơ bản nhất của TKQĐ là sự tồn tại nền
kinh tế nhiều thành phần và xã hội nhiều giai cấp. Trong TKQĐ, nền
kinh tế có tính chất q độ. Nó khơng cịn là nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa, nhưng cũng chưa là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Lenin chỉ ra:
“Danh từ quá độ có nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế, có phải nó có
nghĩa là trong chế độ hiện nay, có những thành phần, những bộ phận
những mảng của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội không? Bất cứ
ai cũng đều thừa nhận là có, song vấn đề cơ bản là phải xem xét nước
mình tồn tại những thành phần kinh tế nào”.
Trong TKQĐ, chưa có thành phần kinh tế nào giữ vai trò thống trị,
chi phối các thành phần kinh tế khác, mà chúng chỉ là những mảnh,
những bộ phận hợp thành kết cấu kinh tế - xã hội trong một hệ thống
nhất biện chứng. Mỗi thành phần kinh tế có kiểu tổ chức sản xuất kinh
doanh của nó, hợp thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.
Theo Mác và Angghen thì kinh tế Nhà nước là một bộ phận quan
trọng, nó ra đời từ sự chín muồi của các tiền đề kinh tế - xã hội.

2. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kì quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.
a, Thành phần kinh tế:
Thành phần kinh tế là những khu vực kinh tế, những hình thức kinh
tế dựa trên những hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất và
thích ứng với trình độ nhất định của lực lượng sản xuất. Như vậy, khi
định nghĩa thành phần kinh tế phải căn cứ vào quan hệ kinh tế mà
trước hết là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, do đó thành phần kinh
tế cũng có nghĩa là chế độ kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường hiện
đại, người ta không sử dụng thuật ngữ thành phần kinh tế mà dùng
thuật ngữ khu vực kinh tế, nhưng dù dùng thuật ngữ nào thì cũng căn
4


cứ vào vốn, tài sản thuộc về ai, nếu thuộc về nhà nước thì là khu vực
kinh tế nhà nước, nếu thuộc về tư nhân thì là khu vực kinh tế tư nhân.
b, Cơ sở khách quan của việc tồn tại kinh tế nhiều thành phần
trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
Khi cách mạng thành công, chúng ta phải tiếp thu nền sản xuất do
xã hội trước để lại, bên cạnh nền sản xuất lớn tư bản dựa trên tư hữu
lớn tư bản về tư liệu sản xuất thì tồn tại sản xuất nhỏ của những nơng
dân, thợ thủ công dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất. Chúng đều là
đối tượng cải tạo theo chủ nghĩa xã hội nhưng bằng những biện pháp
khác nhau:
- Đối với tư hữu lớn tư bản chủ nghĩa, chúng ta thực hiện quốc
hữu hóa xã hội chủ nghĩa để chuyển thành sở hữu toàn dân do
nhà nước thống nhất quản lí. Quốc hữu hóa là chia theo từng
giai đoạn. Giai đoạn đầu quốc hữu hóa những doanh nghiệp
quan trọng và lớn. Tiếp theo đến những doanh nghiệp vừa và
cuối cùng là các doanh nghiệp nhỏ. Điều này rất có lợi về kinh

tế chính trị. Vì vậy, dù muốn hay khơng trong thời kì q độ vẫn
cịn tồn tại kinh tế tư bản tư nhân.
- Đối với tư hữu hóa nhỏ nông dân, thợ thủ công... chúng ta cải
tạo thông qua con đường hợp tác hóa để chuyển từ kinh tế cá thể
thành kinh tế tập thể dưới các loại hình hợp tác xã khác nhau,
mà hợp tác hóa dựa trên nhiều nguyên tắc trong đó nguyên tắc
cơ bản nhất là tự nguyện vì vậy phải có thời gian. Do đó dù
muốn hay khơng trong thời kì q độ vẫn còn tồn tại kinh tế cá
thể, tiểu chủ.
- Nhà nước đầu tư xây dựng mới các doanh nghiệp của nhà nước
thuộc sở hữu toàn dân, đây là chỗ dựa kinh tế cho nhà nước.
Sự phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia không đều về lực lượng sản
xuất giữa các ngành các vùng, các doanh nghiệp. Chính sự phát triển
khơng đều đó quyết định quan hệ sản xuất, trước hết là hình thức, qui
mơ và quan hệ sở hữu phải phù hợp với nó, nghĩa là tồn tại các quan
5


hệ sở hữu không giống nhau. Với đường lối đổi mới và phát triển nền
kinh tế mở, từ đó hình thành nên các doanh nghiệp liên doanh giữa
nước ta với nước ngồi hoặc doanh nghiệp có 100% vốn của nước
ngồi. Nhà nước cùng các nhà tư bản, các công ty trong và ngồi
nước, hình thành kinh tế tư bản nhà nước.
Như vậy, việc thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời
kì q độ khơng có ý nghĩa về mặt lí luận mà cịn trong thực tiễn.
c, Thực trạng nền kinh tế nước ta khi bước vào thời kì quá độ:
Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát thấp, nền
kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ, tự cấp tự túc, còn ở tình trạng phổ
biến của tiểu tư sản giản đơn, lực lượng sản xuất lạc hậu, năng suất lao
động thấp, quan hệ sản xuất cịn yếu kém gây khó khăn cản trở cho sự

phát triển và tăng trưởng kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đang
trong thời kì hình thành, thu nhập quốc dân đầu người thấp, là một
trong số quốc gia nghèo và chậm phát triển.
d, Các thành phần kinh tế tồn tại ở Việt Nam:
- Thành phần kinh tế Nhà nước:
Thành phần kinh tế này dựa trên hình thức sở hữu Nhà nước về tư
liệu sản xuất. Kinh tế Nhà nước là thành phần kinh tế cơ bản bao gồm
các doanh nghiệp Nhà nước, các tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước
như đất đai, ngân sách tài nguyên thiên nhiên. Phần góp vốn của Nhà
nước vào các doanh nghiệp cổ phần hay liên doanh với các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác trong và ngoài nước. Kinh tế
Nhà nước là một thành phần kinh tế có nhiều bộ phận hợp thành trong
đó, doanh nghiệp Nhà nước là bộ phận nòng cốt. Ở nước ta, kinh tế
Nhà nước được hình thành chủ yếu bằng hai con đường: quốc hữu hóa
những cơ sở kinh tế của chính quyền cũ và một số cơ sở kinh tế của tư
bản tư nhân, hoặc Nhà nước đầu tư xây dựng mới từ nguồn vốn ngân
sách tự có, vốn vay hoặc nhận viện trợ của nước ngoài.
Trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế Nhà nước khơng ngừng
lớn mạnh và đóng vai trị chủ đạo, nó nắm những lĩnh vực then chốt
6


trong nền kinh tế, những ngành, những lĩnh vực có tác động đến toàn
bộ các hoạt động kinh tế - xã hội hoặc có ý nghĩa quan trọng đối với
sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, chính trị của đất nước như
ngành điện, nước, giao thơng, thơng tin liên lạc, cơng nghiệp quốc
phịng... Nó là một cơng cụ có sức mạnh vật chất mang tính quyết định
để Nhà nước điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, vai trò
chỉ đạo của kinh tế quốc doanh chưa được đảm bảo. Nguyên nhân là

do ý thức chủ quan, duy ý chí, coi các đơn vị kinh tế quốc doanh càng
nhiều thì càng mau chóng xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội mà
khơng chú ý đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ nhận thức sai lầm
đó, các đơn vị kinh tế quốc doanh chỉ có số lượng mà khơng có chất
lượng, hầu như khơng có sức cạnh tranh trên thị trường.
Một hình thức doanh nghiệp đang được khuyến khích phát triển đó
là cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước. Mục đích của việc này là
nhằm thu hút nguồn vốn từ người lao động, hạn chế tiêu cực, nâng cao
tinh thần lao động. Đặc biệt Nhà nước có chính sách động viên chính
các cán bộ, cơng nhân của doanh nghiệp mua cổ phần. Trong các
doanh nghiệp đó, Nhà nước nắm phần lớn cổ phần hoặc cổ phần
khống chế. Vấn đề còn vướng mắc là Nhà nước cần hoàn chỉnh qui
chế và tiêu chuân lựa chọn hội đồng quản lí, giám đốc điều hành và
tuyên truyền cho mọi người thấy lợi ích to lớn của việc cổ phần hóa.
- Thành phần kinh tế hợp tác:
Thành phần kinh tế này dựa trên hình thức sở hữu tập thể về tư liệu
sản xuất, trừ ruộng đất trong nông nghiệp thuộc sở hữu của Nhà nước.
Đây là hình thức liên kết tự nguyện của những người lao động nhằm
kết hợp sức mạnh của từng thành viên với sức mạnh tập thể để giải
quyết có hiệu quả hơn những vấn đề của sản xuất, kinh doanh... Thành
phần kinh tế này tồn tại trong mọi ngành nghề kinh tế và dưới nhiều
7


hình thức. Ở nước ta nó tồn tại chủ yếu dưới dạng tập đồn sản xuất
và hợp tác xã.
Nhìn chung kinh tế tập thể đã có những đóng góp quan trọng trong
công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Nhưng khi cả nước cùng bước
vào công cuộc xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là sau
khi bước vào cơ chế thị trường nó đã bộc lộ các khuyết điểm của

mình, làm cho sản xuất trì trệ, đời sống của người lao động châm được
cải tiến.
Từ sau Đại hội Đảng VI, thành phần kinh tế này đã có những thay
đổi rõ rệt. Chẳng hạn, trong nơng nghiệp: “Từ 18.631 hợp tác xã năm
1989 giảm xuống còn gần 12000 hợp tác xã năm 1991, trong đó 15%
đổi mới có kết quả, khoảng 30% số hợp tác xã đang trong q trình
chuyển đổi, số cịn lại chỉ tồn tại một cách hình thức, tiến tới xóa bỏ”.
Đồng thời với nó là sự ra đời của một số hợp tác xã kiểu mới tuy vẫn
còn nhiều hạn chế nhưng đã có những đóng góp nhất định cho nền
kinh tế.
- Thành phần kinh tế tư bản tư nhân:
Thành phần kinh tế này dựa trên hình thức sở hữu tư nhân tư bản
chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và chế độ bóc lột lao động làm thuê. Nó
bao gồm những đơn vị kinh tế mà 100% vốn của tư bản tư nhân, hoặc
số vốn của họ chiếm tỉ lệ khống chế. Kinh tế tư bản tư nhân gồm cả
kinh tế tư bản trong nước và tư bản ngoài nước, một bộ phận tồn tại
sẵn trong nền kinh tế do lịch sử để lại, cịn đa số được hình thành
trong thời gian gần đây. Đảng đã chỉ rõ: “Khuyến khích tư bản tư nhân
đầu tư vào sản xuất, yên tâm làm ăn lâu dài, bảo hộ quyền sở hữu và
lợi ích hợp pháp, tạo điều kiện thuận lợi đi đôi với tăng cường quản lí,
hướng dẫn làm ăn đúng pháp luật, có lợi cho quốc kế dân sinh”.
Từ khi có nhận thức đúng đắn về vấn đề này, Nhà nước đã có
những chính sách khuyến khích thành phần kinh tế tư bản tư nhân
phát triển trong các lĩnh vực như giao thông vận tải, may mặc, xuất
8


khẩu, khách sạn, du lịch... Nó góp phần khơng nhỏ vào việc đáp ứng
nhu cầu xã hội, huy động được nguồn vốn lớn của các nhà tư bản, đặc
biệt là các cơng ty nước ngồi đầu tư vào nước ta, góp phần vào sự

tăng trưởng của nền kinh tế. Tuy nhiên sự phát triển của thành phần
kinh tế này mới tập trung ở những lĩnh vực thương nghiệp, dịch vụ, du
lịch, khách sạn... với qui mô và dự án nhỏ chứ chưa phát triển mạnh
trong lĩnh vực sản xuất – kinh doanh.
- Thành phần kinh tế tư bản Nhà nước:
Thành phần kinh tế này dựa trên hình thức sở hữu hỗn hợp về vốn
giữa kinh tế Nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước và nước
ngoài bằng nhiều phương pháp góp vốn hợp tác liên doanh.
Kinh tế Nhà nước có vai trị chủ đạo trong nền kinh tế kết hợp với
những tiềm năng to lớn về vốn, cơng nghệ, khả năng tổ chức quản lí
của các nhà tư bản đã làm cho thành phần kinh tế này có nhiều lợi thế
to lớn. Các doanh nghiệp này có sức cạnh tranh lớn, điều kiện hợp tác
rộng, hoạt động vì lợi ích của bản thân các nhà tư bản cũng như của
công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Hiện nay chúng đã đóng
góp vào sự tăng trưởng kinh tế, tăng thêm kim ngạch xuất khẩu, tạo
các chỗ làm nhiều hơn. Với sự góp mặt của kinh tế tư bản tư nhân và
tư bản Nhà nước nền kinh tế nước ta đã có nhiều bước tiến lên đáng
kể. Đó là minh chứng cho đường lối lãnh đạo sáng suốt của Đảng và
Nhà nước ta.
- Thành phần kinh tế cá thể, tiểu thủ:
Thành phần kinh tế này dựa trên hình thức sở hữu cá thể về tư liệu
sản xuất và lao động của bản thân họ. Nó tồn tại ở phạm vi tương đối
lớn, chủ yếu là dưới dạng các cơ sở sản xuất – kinh doanh của những
hộ nông dân, thợ thủ công, những người buôn bán nhỏ,... nó được
khuyến khích phát triển trong rất nhiều ngành nghề và ở hầu hết các
vùng của nền kinh tế. Ưu điểm của thành phần kinh tế này là linh hoạt.
nhạy bén, phát huy nhanh và hiệu quả sử dụng vốn lớn. Nó có thể là
9



một mắt xích của sản xuất, hỗ trợ cho các cơ sở lớn, lại có thể là một
cơ sở độc lập. tự sản xuất và tiêu dùng.
Trong suốt thời kì quá độ, đặc biệt là trong chặng đường đầu,
thành phần kinh tế này cũng có vai trị quan trọng trong việc đáp ứng
nhu cầu cho sản xuất cũng như cho tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Nó
khơng chi đem lại lợi ích về mặt kinh tế mà cịn duy trì và phát triển
những di sản văn hóa dân tộc, nhất là ở các làng nghề truyền thống.
Như vậy, cùng với các thành phần kinh tế khác kinh tế cá thể,tiểu
chủ cũng đang và sẽ góp phần vào sự phát triển kinh tế ở nước ta.
3. Ảnh hưởng của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
a, Lợi ích:
Các thành phần kinh tế ở Việt Nam trong những năm qua đã góp
phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế đất nước. Tạo công ăn việc
làm ổn định cho người lao động, góp phần tăng năng suất lao động, cải
thiện đời sống cho người dân.
Cụ thể là:
- Năm 1986, trong tổng số lao động đang làm việc trong nền kinh
tế quốc doanh thì 14,5% thuộc biên chế nhà nước, 72,2% là xã
viên các tổ chức kinh tế tập thể; 13,3% là những người làm kinh
tế cá thể cơ chế tạo việc làm dẫn đến lao động thuộc biên chế
nhà nước dư thừa quá lớn, số xã viên tăng cao một cách hình
thức. Từ 1986 đến 1998, số lao động thu hút vào các kinh tế cá
thể, tiểu chủ ở thành thị tăng trên 7,4 triệu người, số lao động
làm việc trong thành phần tư bản nhà nước và tư bản tư nhân đạt
gần 0,5 triệu người.
- Nguồn thu ngân sách nhà nước ngày càng nhận được nhiều hơn
từ sự phát triển kinh tế nhiều thành phần.
- Thuế thu từ doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài từ 6% năm
1988 đã chiếm 11,5% năm 1989 và tăng cao trong các năm sau.

- Thuế cơng thương nghiệp và dịch vụ ngồi quốc doanh chiếm tỉ
trọng ổn định trong khoảng 12% đến 16%
10


- Thuế nơng nghiệp chiếm tỉ trọng ổn định. Nhìn chung mức thuế
của thành phần kinh tế nhà nước vẫn chiếm tỉ trọng cao hơn so
với các thành phần kinh tế khác.
Mỗi thành phần kinh tế có vị trí, vai trị và tác dụng to lớn của nó
trong cơng việc phát triển nền kinh tế mà thành phần kinh tế khác
khơng thể thay thế được. Nó làm cho trình độ sản xuất, phân cơng lao
động phát triển, xã hội hóa cao. Phát triển các thành phần kinh tế là cơ
sở phát triển sản xuất hàng hóa, phát triển kinh tế thị trường, tạo thuận
lợi cho cơ chế thị trường hoạt động có hiệu quả. Phát triển các thành
phần kinh tế có tác dụng phát triển cơ sở vật chất, kĩ thuật, công nghệ,
động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong, bên ngoài, động viên mọi
tầng lớp nhân dân xây dựng kinh tế, phục vụ cho cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Điều này cũng góp phần ổn định chính trị - xã
hội của đất nước, nó là cơ sở vững chắc để đảm bảo sự dân chủ về
kinh tế. Cơ sở của dân chủ kinh tế là bảo đảm cho sự tự do của mọi
công dân trong hoạt động kinh tế với thành phần kinh tế phù hợp.
Đồng thời mọi công dân, mỗi thành phần kinh tế đều phải có nghĩa vụ
kinh tế đối với xã hội theo qui định của pháp luật. Như vậy, mọi người
dân đều có thể làm giàu chính đáng. Đó là tiền đề cho dân chủ hóa đời
sống kinh tế - xã hội và thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Việc phát triển kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam thời gian vừa
qua đã tạo điều kiện để nền kinh tế Việt Nam hội nhập vào q trình
tồn cầu hóa kinh tế. Hiến pháp 1992 ghi nhận sở hữu tư nhân là 1
trong 3 chế độ sở hữu chủ yếu trong nền kinh tế. Sự ghi nhận này

chảng những giải phóng sức sản xuất một lực lượng kinh tế to lớn của
quốc gia mà cịn tạo ra một căn cứ pháp lí vững chắc để tư nhân nước
ngoài đầu tư vào Việt Nam mà khơng sợ bị quốc hữu hóa hay bị đặt
vào một quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa như trước đổi mới tại Việt
Nam.
11


Việc xóa bỏ độc quyền ngoại thương của kinh tế nhà nước đã từng
bước được thực hiện trong suốt quá trình đổi mới vừa qua. Sự điều
chỉnh này đã mở ra những khả năng to lớn và hiện thực để nền kinh tế
Việt Nam đẩy mạnh hội nhập quốc tế về mặt thương mại. Hiến pháp
1992 qui định quyền tự do kinh doanh của công dân. Với quyền này,
công dân Việt Nam ngoài việc trở thành người lao động trong các tổ
chức kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, cịn có thể trở thành những
người chủ kinh doanh trong các tô chức thuộc các thành phần kinh tế
khác. Với tư cách là chủ kinh doanh công dân Việt Nam có nhiều điều
kiện hơn để tham gia vào nền kinh tế khu vực, nền kinh tế thế giới
không chỉ trên lĩnh vực thương mại mà trên lĩnh vực đầu tư trí tuệ.

b, Hạn chế:
Thực tiễn, nền kinh tế trong những năm qua đã cho thấy thành
phần kinh tế nhà nước với hiệu quả hoạt động đã không tương xứng
với vai trị chủ đạo vốn có của nó xét về mặt lí thuyết.
Vấn đề bình đẳng trước pháp luật về quyền và nghĩa vụ của các
thành phần kinh tế còn nhiều bất cập.
Việc xử lí mối quan hệ giữa làm giàu và bóc lột, giữa tư bản và lao
động làm thuê trong quá trình phát triển cơ cấu các thành phần kinh tế
đang là những vấn đề lí luận nổi cộm cần phải được nghiên cứu, làm
rõ.


12


C. Kết luận.
Rõ ràng các thành phần kinh tế tồn tại ở nước ta hiện nay vơ cùng
phức tạp, chính vì vậy, trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế
mới, việc nhận thức vận dụng đúng qui mô, phạm vi của các thành phần
kinh tế sẽ đảm bảo vững chắc cho tăng trưởng và phát triển nhanh, bền
vững nền kinh tế đất nước “mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng về
quyền lợi và nghĩa vụ trước pháp luật”. Điều đó khẳng định rằng mỗi
thành phần kinh tế đều có vai trị nhất định đối với tồn bộ nền kinh tế
quốc dân. Chúng ta cần tăng cường vai trị quản lí kinh tế của nhà nước xã
hội chủ nghĩa và làm cho khu vực kinh tế nhà nước đủ mạnh, có thực lực,
sẽ đảm bảo vững chắc cho mọi thành phần kinh tế phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa trong cơ chế thị trường vì một dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

13


D. Tài liệu tham khảo
Kinh tế xã hội Việt Nam thực trạng, xu thế và giải pháp (NXB Thống kê)

14



×