Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Tài liệu Báo cáo " Luật bình đẳng giới - sự cần thiết và một số nội dung cơ bản " pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.46 KB, 9 trang )



Th«ng tin
T¹p chÝ luËt häc sè 3/2008 61





TS. D−¬ng TuyÕt Miªn *
1. Sự cần thiết của việc ban hành Luật
bình đẳng giới
Ngày nay, trên thế giới, mặc dù nhiều
quốc gia đã đạt được những tiến bộ quan
trọng trong sự nghiệp giải phóng phụ nữ,
thực hiện bình đẳng giới, song phụ nữ vẫn
chưa được hưởng đầy đủ các quyền và lợi
ích được nêu trong pháp luật quốc gia và
quốc tế. Từ trước cho đến nay, “chưa một
quốc gia nào trên thế giới được công nhận đã
đạt bình đẳng nam nữ”.
(1)

Trong những năm gần đây, trong xu thế
hội nhập với thế giới, nước ta đã đạt được
những thành tựu đáng kể thuộc các lĩnh vực
khác nhau trong đó có lĩnh vực bình đẳng
giới. Theo Báo cáo đánh giá tình hình giới ở
Việt Nam, tháng 12/2006 của Ngân hàng thế
giới (WB), Ngân hàng phát triển châu Á
(ADB), Vụ phát triển quốc tế Anh (DFID)


và Cơ quan phát triển quốc tế Canađa
(CIDA) thì “Việt Nam là một trong những
nước dẫn đầu thế giới về tỉ lệ phụ nữ tham
gia các hoạt động kinh tế, là một trong
những nước tiến bộ hàng đầu về bình đẳng
giới,… là quốc gia đạt được sự thay đổi
nhanh chóng nhất về xóa bỏ khoảng cách
giới trong 20 năm qua ở khu vực Đông Á”.
Chiếm hơn 50% dân số và gần 50% lực
lượng lao động xã hội, ngày nay càng có
nhiều phụ nữ tham gia vào hầu hết các lĩnh
vực của đời sống xã hội và giữ những chức
vụ quan trọng trong bộ máy Nhà nước. Cụ
thể là: “Hiện có tới 27,31% đại biểu nữ
trong Quốc hội (cao nhất ở châu Á và là một
trong những nước có tỉ lệ nữ đại biểu Quốc
hội cao nhất thế giới); tỉ lệ nữ tốt nghiệp đại
học là 36,24%; thạc sĩ 33,95%; tiến sĩ
25,69% ”.
(2)
Vị thế của người phụ nữ trong
gia đình và xã hội đang dần dần được nâng
lên rõ rệt. Những thông tin nói trên đã phản
ánh rõ nét những thành tựu về bình đẳng giới
đã đạt được ở nước ta trong thời gian qua,
phản ánh hướng đi đúng đắn của những
chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta thời
gian gần đây trong việc tạo điều kiện cho
phụ nữ Việt Nam phát triển.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu kể

trên, vấn đề thực hiện cũng như đảm bảo
quyền bình đẳng của phụ nữ ở nước ta vẫn
còn một số tồn tại. Các mục tiêu về tiến bộ
phụ nữ và bình đẳng giới chưa được các
ngành, các cấp quan tâm thực hiện một cách
thường xuyên hoặc nếu có làm thì chỉ là hô
hào hình thức, chưa biến thành chương trình,
hoạt động cụ thể. Lao động nữ vẫn còn
chiếm tỉ lệ cao trong nông nghiệp, một số
ngành nghề, dịch vụ, phụ nữ làm việc chiếm
tỉ lệ cao nhưng còn ít được đào tạo nghề và
được trả lương thấp hơn nam giới trong cùng
* Giảng viên chính Khoa luật hình sự
Trường Đại học Luật Hà Nội


Th«ng tin
62 T¹p chÝ luËt häc sè 3/2008

một loại hình công việc nhất là ở các khu
công nghiệp. Hiện tượng phân biệt đối xử
với cán bộ, công chức nữ trong tuyển dụng,
đào tạo và bổ nhiệm vẫn còn tồn tại không
chỉ ở nông thôn mà còn ở các thành phố
lớn.
(3)
Phụ nữ và trẻ em gái nghèo, dân tộc
thiểu số có ít cơ hội học tập và chăm sóc sức
khỏe. Tỉ lệ trẻ em gái ở vùng núi cao đến
trường chỉ chiếm từ 10 -15 %; các biện pháp

tránh thai vẫn tập trung vào phụ nữ (có tới
57% áp dụng biện pháp đặt vòng tránh thai
trong khi chỉ 4,7% sử dụng bao cao su, số
lượng phụ nữ áp dụng biện pháp triệt sản cao
gấp 11 lần nam giới).
(4)
Vấn đề tảo hôn, nạn
phân biệt đối xử và ngược đãi phụ nữ, lạm
dụng tình dục trẻ em gái, mại dâm chưa
được giảm đáng kể đặc biệt là tình trạng
buôn bán phụ nữ và trẻ em đang có xu
hướng gia tăng. Theo số liệu của Bộ công
an, so với năm 2005, con số phụ nữ và trẻ
em gái bị lừa bán qua biên giới tăng hơn 72
%, số nạn nhân tăng 138%. Cơ hội phụ nữ
tham gia quản lí nhà nước, xã hội vẫn còn
nhiều hạn chế. Tỉ lệ nữ tham gia ủy viên
trung ương khoá X chỉ có 7,5% (chính thức)
và 14,3% (dự khuyết), cấp ủy đảng cấp tỉnh
chỉ có 11,75%, cấp huyện 14,74%, cấp xã
15,08%; đại biểu hội đồng nhân dân cấp tỉnh
23,8%, cấp huyện 23,2%, cấp xã 20,1%; tỉ lệ
phụ nữ có trình độ sau đại học còn thấp, chỉ
có 39,1% thạc sĩ, 17,5% tiến sĩ, 13,2% phó
giáo sư, 3,1% giáo sư.
Tình hình trên cho thấy vấn đề thực hiện
quyền bình đẳng giới ở nước ta vẫn còn bất
cập đòi hỏi phải có cơ sở pháp lí toàn diện
để bảo vệ quyền lợi chính đáng của người
phụ nữ. Về mặt pháp lí, thực chất vấn đề

bình đẳng giới được quy định rải rác trong
nhiều văn bản khác nhau nhưng chưa tập
trung, thống nhất. Trong khi đó, xu hướng
của nhiều nước trên thế giới hiện nay đều
xây dựng Luật bình đẳng giới hoặc luật bảo
vệ quyền lợi của phụ nữ, ví dụ như Na Uy,
Thụy Điển, Thụy Sĩ Vì vậy, chủ trương
của Đảng và Nhà nước ta xúc tiến việc soạn
thảo và ban hành Luật bình đẳng giới là hoàn
toàn đúng đắn, theo kịp xu hướng phát triển
của thời đại trong xu hướng hội nhập. Ban
hành Luật bình đẳng giới đáp ứng nhu cầu
cấp thiết hiện nay trong xã hội ta thể hiện:
+ Ban hành Luật bình đẳng giới để tiếp
tục thể chế hoá các chủ trương, đường lối
của Đảng về bình đẳng giới và tiến bộ của
phụ nữ.
+ Ban hành Luật bình đẳng giới nhằm
khắc phục tình trạng phân biệt đối xử về giới
và những khoảng cách giới trong thực tế.
+ Ban hành Luật bình đẳng giới góp
phần hoàn thiện hệ thống pháp luật bình
đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ, khắc
phục tình trạng chưa thực hiện nghiêm túc
các quy định về quyền bình đẳng của phụ
nữ, góp phần xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa.
+ Việc ban hành Luật bình đẳng giới là
sự tiếp tục khẳng định quyết tâm của Việt
Nam trong thực hiện mục tiêu bình đẳng

giới, hội nhập khu vực và quốc tế.
2. Giới thiệu một số nội dung cơ bản
của Luật bình đẳng giới
Luật bình đẳng giới được Quốc hội khoá
XI nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,


Th«ng tin
T¹p chÝ luËt häc sè 3/2008 63

kì họp thứ 10 thông qua ngày 29/11/2006, có
hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/7/2007. Luật
bình đẳng giới gồm có 6 chương và 44 điều.
Chương I (từ Điều 1 đến Điều 10 - Những
quy định chung. Chương này quy định một
số vấn đề chung có liên quan đến bình đẳng
giới như: Phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp
dụng, mục tiêu bình đẳng giới, các nguyên
tắc bình đẳng giới, chính sách của Nhà nước
về bình đẳng giới Đặc biệt trong chương
này có giải thích một số thuật ngữ như giới,
giới tính, bình đẳng giới, định kiến giới
Chương II (từ Điều 11 đến Điều 18) -
Bình đẳng giới trong các lĩnh vực của đời
sống xã hội và gia đình. Chương này quy
định bình đẳng giới trong các lĩnh vực chính
trị, kinh tế, lao động, giáo dục đào tạo, khoa
học công nghệ, văn hoá thông tin, thể dục
thể thao, y tế, gia đình.
Chương III (từ Điều 19 đến Điều 24) -

Các biện pháp bình đẳng giới. Chương này
quy định các vấn đề như các biện pháp thúc
đẩy bình đẳng giới, bảo đảm các nguyên tắc
cơ bản về bình đẳng giới trong việc hoàn
thiện hệ thống pháp luật, lồng ghép vấn đề
bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy
phạm pháp luật, thẩm tra lồng ghép vấn đề
bình đẳng giới
Chương IV (từ Điều 25 đến Điều 34) -
Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình,
cá nhân trong việc thực hiện và đảm bảo
bình đẳng giới. Chương này quy định phân
cấp tương đối rõ về trách nhiệm của Chính
phủ, các cơ quan quản lí nhà nước, cơ quan
bộ và ngang bộ, các ủy ban nhân dân các
cấp, các tổ chức xã hội như mặt trận tổ quốc,
hội liên hiệp phụ nữ trong việc thực hiện
và đảm bảo bình đẳng giới.
Chương V (từ Điều 35 đến Điều 42) -
Thanh tra, giám sát và xử lí vi phạm pháp
luật về bình đẳng giới. Chương này quy
định về nội dung nhiệm vụ, quyền hạn của
thanh tra về bình đẳng giới, nhiệm vụ,
quyền hạn của các cơ quan có thẩm quyền
giám sát thực hiện bình đẳng giới như Quốc
hội, Ủy ban thường vụ quốc hội, Hội đồng
dân tộc, giải quyết khiếu nại, tố cáo về bình
đẳng giới
Chương VI (từ Điều 43 đến Điều 44) -
Điều khoản thi hành. Mục tiêu mà Luật bình

đẳng giới hướng tới là là xoá bỏ phân biệt
đối xử về giới, tạo cơ hội như nhau cho nam
và nữ trong phát triển kinh tế - xã hội và phát
triển nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng giới
thực chất giữa nam, nữ và thiết lập, củng cố
quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam, nữ trong
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình.
Đối tượng áp dụng của Luật bình đẳng
giới là cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị,
tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị
xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị
sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân, gia
đình và công dân Việt Nam. Cơ quan, tổ
chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động
trên lãnh thổ Việt Nam, cá nhân nước ngoài
cư trú tại Việt Nam.
Do dung lượng bài viết có hạn, tác giả
xin trình bày một số nội dung cơ bản trong
Luật bình đẳng giới. Trước hết, chúng ta cần
tìm hiểu một số thuật ngữ được trình bày


Th«ng tin
64 T¹p chÝ luËt häc sè 3/2008

trong Luật bình đẳng giới. “Giới” được hiểu
là đặc điểm, vị trí, vai trò của nam và nữ
trong tất cả các mối quan hệ xã hội (cần
phân biệt “giới” với “giới tính”, “giới tính”
chỉ các đặc điểm sinh học của nam, nữ). Còn

Bình đẳng giới được hiểu là việc nam, nữ có
vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện
và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự
phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ
hưởng như nhau về thành quả của sự phát
triển đó. Phân biệt đối xử về giới là việc hạn
chế, loại trừ, không công nhận hoặc không
coi trọng vai trò, vị trí của nam và nữ, gây
bất bình đẳng giữa nam và nữ trong các lĩnh
vực của đời sống xã hội và gia đình. Hoạt
động bình đẳng giới là hoạt động do cơ
quan, tổ chức, gia đình, cá nhân thực hiện
nhằm đạt mục tiêu bình đẳng giới. Chỉ số
phát triển giới (GDI) là số liệu tổng hợp
phản ánh thực trạng bình đẳng giới, được
tính trên cơ sở tuổi thọ trung bình, trình độ
giáo dục và thu nhập bình quân đầu người
của nam và nữ.
Đảm bảo bình đẳng giới, trước hết cần
phải xây dựng chính sách, pháp luật quy
định bảo vệ bình đẳng giới – đây là công cụ
pháp lí hữu hiệu tối quan trọng. Bên cạnh đó,
cần phải xây dựng những chương trình, kế
hoạch cụ thể để những chính sách, quy định
có liên quan về bình đẳng giới thực sự đi vào
đời sống. Tất cả những công việc trên phải
được tiến hành có định hướng, trên cơ sở các
nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới. Các
nguyên tắc này là những tư tưởng chỉ đạo
xuyên suốt trong quá trình xây dựng đường

lối chính sách, xây dựng và áp dụng pháp
luật, trong việc thực hiện các hoạt động gia
đình và xã hội. Theo Điều 6 Luật bình đẳng
giới, các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng
giới bao gồm 6 nguyên tắc như sau:
1. Nam, nữ bình đẳng trong các lĩnh vực
của đời sống xã hội và gia đình.
2. Nam, nữ không bị phân biệt đối xử về giới.
3. Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới
không bị coi là phân biệt đối xử về giới.
4. Chính sách bảo vệ và hỗ trợ người mẹ
không bị coi là phân biệt đối xử về giới.
5. Bảo đảm lồng ghép vấn đề bình đẳng
giới trong xây dựng và thực thi pháp luật.
6. Thực hiện bình đẳng giới là trách nhiệm
của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân.
Để thực hiện Luật bình đẳng giới thực sự
đi vào đời sống, Nhà nước phải có chiến
lược xây dựng các chính sách của mình để
dựa vào đó, các văn pháp pháp luật của Nhà
nước liên quan đến vấn đề này được xây
dựng và áp dụng trong thực tế. Cụ thể là:
+ Nhà nước phải có chính sách bảo đảm
bình đẳng giới trong mọi lĩnh vực chính trị,
kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình; hỗ trợ
và tạo điều kiện cho nam, nữ phát huy khả
năng, có cơ hội như nhau để tham gia vào
quá trình phát triển và thụ hưởng thành quả
của sự phát triển.
+ Nhà nước phải có chính sách bảo vệ,

hỗ trợ người mẹ khi mang thai, sinh con và
nuôi con nhỏ; tạo điều kiện để nam, nữ chia
sẻ công việc gia đình.
+ Nhà nước có chính sách áp dụng
những biện pháp thích hợp để xoá bỏ phong


Th«ng tin
T¹p chÝ luËt häc sè 3/2008 65

tục, tập quán lạc hậu cản trở thực hiện mục
tiêu bình đẳng giới.
+ Nhà nước có chính sách khuyến khích
cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân tham gia
các hoạt động thúc đẩy bình đẳng giới.
+ Nhà nước có chính sách hỗ trợ hoạt
động bình đẳng giới tại vùng sâu, vùng xa,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có
điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn;
hỗ trợ những điều kiện cần thiết để nâng chỉ
số phát triển giới đối với các ngành, lĩnh vực
và địa phương mà chỉ số phát triển giới thấp
hơn mức trung bình của cả nước.
Vấn đề bình đẳng giới đòi hỏi toàn thể
xã hội mà trước hết là các cơ quan nhà nước,
các tổ chức và công dân phải tích cực tham
gia thực hiện. Để bình đẳng giới được thực
hiện hiệu quả, có chiều sâu trên thực tế thì
vai trò của quản lí nhà nước là vô cùng quan
trọng. Vì vậy, Điều 8 Luật bình đẳng giới

quy định về nội dung quản lí nhà nước về
bình đẳng giới. Cụ thể là:
+ Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến
lược, chính sách, mục tiêu quốc gia về bình
đẳng giới.
+ Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản
quy phạm pháp luật về bình đẳng giới.
+ Ban hành và tổ chức thực hiện các biện
pháp thúc đẩy bình đẳng giới.
+ Tuyên truyền, phổ biến chính sách,
pháp luật về bình đẳng giới.
+ Xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ hoạt động về bình đẳng giới.
+ Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp
luật về bình đẳng giới; giải quyết khiếu nại,
tố cáo và xử lí vi phạm pháp luật về bình
đẳng giới.
+ Thực hiện công tác thống kê, thông tin,
báo cáo về bình đẳng giới.
+ Hợp tác quốc tế về bình đẳng giới.
Một nội dung rất quan trọng của Luật
bình đẳng giới là luật này đã quy định rõ nội
dung bình đẳng giới trong các lĩnh vực của
đời sống xã hội và gia đình. Cụ thể là bình
đẳng giới trong các lĩnh vực chính trị, kinh
tế, lao động, giáo dục đào tạo, khoa học công
nghệ, văn hoá thông tin, thể dục thể thao, y
tế, gia đình (từ Điều 11 đến Điều 18). Qua
những quy định này, phụ nữ có thể hiểu rõ
hơn về quyền lợi cũng như trách nhiệm của

mình trong các hoạt động gia đình và xã hội.
Cụ thể như sau:
- Bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị
+ Nam, nữ bình đẳng trong tham gia
quản lí nhà nước, tham gia hoạt động xã hội.
+ Nam, nữ bình đẳng trong tham gia xây
dựng và thực hiện hương ước, quy ước của
cộng đồng hoặc quy định, quy chế của cơ
quan, tổ chức.
+ Nam, nữ bình đẳng trong việc tự ứng
cử và được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc
hội, đại biểu hội đồng nhân dân; tự ứng cử
và được giới thiệu ứng cử vào cơ quan lãnh
đạo của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị -
xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp,
tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp.
+ Nam, nữ bình đẳng về tiêu chuẩn
chuyên môn, độ tuổi khi được đề bạt, bổ
nhiệm vào cùng vị trí quản lí, lãnh đạo của
cơ quan, tổ chức.


Th«ng tin
66 T¹p chÝ luËt häc sè 3/2008

+ Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới
trong lĩnh vực chính trị bao gồm:
• Bảo đảm tỉ lệ thích đáng nữ đại biểu
Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân phù
hợp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới;

• Bảo đảm tỉ lệ nữ thích đáng trong bổ
nhiệm các chức danh trong cơ quan nhà
nước phù hợp với mục tiêu quốc gia về bình
đẳng giới.
- Bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế
+ Nam, nữ bình đẳng trong việc thành
lập doanh nghiệp, tiến hành hoạt động sản
xuất, kinh doanh, quản lí doanh nghiệp, bình
đẳng trong việc tiếp cận thông tin, nguồn
vốn, thị trường và nguồn lao động.
+ Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới
trong lĩnh vực kinh tế bao gồm:
• Doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động
nữ được ưu đãi về thuế và tài chính theo quy
định của pháp luật;
• Lao động nữ khu vực nông thôn được
hỗ trợ tín dụng, khuyến nông, khuyến lâm,
khuyến ngư theo quy định của pháp luật.
- Bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động
+ Nam, nữ bình đẳng về tiêu chuẩn, độ
tuổi khi tuyển dụng, được đối xử bình đẳng
tại nơi làm việc về việc làm, tiền công, tiền
thưởng, bảo hiểm xã hội, điều kiện lao động
và các điều kiện làm việc khác.
+ Nam, nữ bình đẳng về tiêu chuẩn, độ
tuổi khi được đề bạt, bổ nhiệm giữ các chức
danh trong các ngành, nghề có tiêu chuẩn
chức danh.
+ Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới
trong lĩnh vực lao động bao gồm:

• Quy định tỉ lệ nam, nữ được tuyển
dụng lao động;
• Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực
cho lao động nữ;
• Người sử dụng lao động tạo điều kiện
vệ sinh an toàn lao động cho lao động nữ
làm việc trong một số ngành, nghề nặng
nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất
độc hại.
- Bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục
và đào tạo
+ Nam, nữ bình đẳng về độ tuổi đi học,
đào tạo, bồi dưỡng.
+ Nam, nữ bình đẳng trong việc lựa chọn
ngành, nghề học tập, đào tạo.
+ Nam, nữ bình đẳng trong việc tiếp cận
và hưởng thụ các chính sách về giáo dục,
đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ.
+ Nữ cán bộ, công chức, viên chức khi
tham gia đào tạo, bồi dưỡng mang theo con
dưới ba mươi sáu tháng tuổi được hỗ trợ
theo quy định của Chính phủ.
+ Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới
trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo bao gồm:
• Quy định tỉ lệ nam, nữ tham gia học
tập, đào tạo;
• Lao động nữ khu vực nông thôn được
hỗ trợ dạy nghề theo quy định của pháp luật.
- Bình đẳng giới trong lĩnh vực khoa học
và công nghệ

+ Nam, nữ bình đẳng trong việc tiếp cận,
ứng dụng khoa học và công nghệ.
+ Nam, nữ bình đẳng trong việc tiếp cận
các khoá đào tạo về khoa học và công nghệ,
phổ biến kết quả nghiên cứu khoa học, công
nghệ và phát minh, sáng chế.


Th«ng tin
T¹p chÝ luËt häc sè 3/2008 67

- Bình đẳng giới trong lĩnh vực văn hoá,
thông tin, thể dục, thể thao
+ Nam, nữ bình đẳng trong tham gia các
hoạt động văn hoá, thông tin, thể dục, thể thao.
+ Nam, nữ bình đẳng trong hưởng thụ văn
hoá, tiếp cận và sử dụng các nguồn thông tin.
- Bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế
+ Nam, nữ bình đẳng trong tham gia các
hoạt động giáo dục, truyền thông về chăm
sóc sức khỏe, sức khoẻ sinh sản và sử dụng
các dịch vụ y tế.
+ Nam, nữ bình đẳng trong lựa chọn,
quyết định sử dụng biện pháp tránh thai, biện
pháp an toàn tình dục, phòng, chống lây
nhiễm HIV/AIDS và các bệnh lây truyền qua
đường tình dục.
+ Phụ nữ nghèo cư trú ở vùng sâu, vùng
xa, là đồng bào dân tộc thiểu số, trừ các đối
tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc,

khi sinh con đúng chính sách dân số được hỗ
trợ theo quy định của Chính phủ.
- Bình đẳng giới trong gia đình
+ Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong
quan hệ dân sự và các quan hệ khác liên
quan đến hôn nhân và gia đình.
+ Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ ngang nhau
trong sở hữu tài sản chung, bình đẳng trong
sử dụng nguồn thu nhập chung của vợ chồng
và quyết định các nguồn lực trong gia đình.
+ Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong
việc bàn bạc, quyết định lựa chọn và sử dụng
biện pháp kế hoạch hoá gia đình phù hợp; sử
dụng thời gian nghỉ chăm sóc con ốm theo
quy định của pháp luật.
+ Con trai, con gái được gia đình chăm
sóc, giáo dục và tạo điều kiện như nhau để
học tập, lao động, vui chơi, giải trí và phát triển.
+ Các thành viên nam, nữ trong gia đình
có trách nhiệm chia sẻ công việc gia đình.
Để việc thực hiện vấn đề bình đẳng giới
cũng như bảo vệ quyền lợi của phụ nữ thực
sự có hiệu quả trên thực tế, Điều 10 đã quy
định các hành vi bị nghiêm cấm thực hiện do
xâm phạm bình đẳng giới. Đó là:
1. Cản trở nam, nữ thực hiện bình đẳng giới.
2. Phân biệt đối xử về giới dưới mọi hình thức.
3. Bạo lực trên cơ sở giới.
4. Các hành vi khác bị nghiêm cấm theo
quy định của pháp luật.

Bốn hành vi bị nghiêm cấm nói trên là
cơ sở để nhà làm luật mô tả cụ thể các hành
vi vi phạm Luật bình đẳng giới trong các
lĩnh vực khác nhau (Điều 40, 41). Những
quy định này là cơ sở pháp lí quan trọng để
cơ quan chức năng có thẩm quyền căn cứ
vào đó để xử lí người có hành vi vi phạm
Luật bình đẳng giới. Ngoài ra, những quy
này cũng có vai trò giáo dục, răn đe đối với
những người vốn có tư tưởng định kiến về
giới để họ tự giác tuân thủ Luật bình đẳng
giới. Đây là những quy định thể hiện rõ
chính sách nghiêm minh của Nhà nước ta đối
với những hành vi xâm phạm bình đẳng giới.
Cụ thể như sau:
Các hành vi vi phạm pháp luật về bình
đẳng giới trong lĩnh vực chính trị bao gồm:
+ Cản trở việc nam hoặc nữ tự ứng cử,
được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội,
đại biểu hội đồng nhân dân, vào cơ quan
lãnh đạo của tổ chức chính trị, tổ chức chính
trị, xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề
nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội, nghề


Th«ng tin
68 T¹p chÝ luËt häc sè 3/2008

nghiệp vì định kiến giới;
+ Không thực hiện hoặc cản trở việc bổ

nhiệm nam, nữ vào cương vị quản lí, lãnh
đạo hoặc các chức danh chuyên môn vì định
kiến giới;
+ Đặt ra và thực hiện quy định có sự
phân biệt đối xử về giới trong các hương
ước, quy ước của cộng đồng hoặc trong quy
định, quy chế của cơ quan, tổ chức.
Các hành vi vi phạm pháp luật về bình
đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế bao gồm:
+ Cản trở nam hoặc nữ thành lập doanh
nghiệp, tiến hành hoạt động kinh doanh vì
định kiến giới;
+ Tiến hành quảng cáo thương mại gây
bất lợi cho các chủ doanh nghiệp, thương
nhân của một giới nhất định.
Các hành vi vi phạm pháp luật về bình
đẳng giới trong lĩnh vực lao động bao gồm:
+ Áp dụng các điều kiện khác nhau trong
tuyển dụng lao động nam và lao động nữ đối
với cùng một công việc mà nam, nữ đều có
trình độ và khả năng thực hiện như nhau, trừ
trường hợp áp dụng biện pháp thúc đẩy bình
đẳng giới;
+ Từ chối tuyển dụng hoặc tuyển dụng
hạn chế lao động, sa thải hoặc cho thôi việc
người lao động vì lí do giới tính hoặc do việc
mang thai, sinh con, nuôi con nhỏ;
+ Phân công công việc mang tính phân
biệt đối xử giữa nam và nữ dẫn đến chênh
lệch về thu nhập hoặc áp dụng mức trả lương

khác nhau cho những người lao động có
cùng trình độ, năng lực vì lí do giới tính;
+ Không thực hiện các quy định của
pháp luật lao động quy định riêng đối với lao
động nữ.
Các hành vi vi phạm pháp luật về bình
đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo
bao gồm:
+ Quy định tuổi đào tạo, tuổi tuyển sinh
khác nhau giữa nam và nữ;
+ Vận động hoặc ép buộc người khác
nghỉ học vì lí do giới tính;
+ Từ chối tuyển sinh những người có đủ
điều kiện vào các khoá đào tạo, bồi dưỡng vì
lí do giới tính hoặc do việc mang thai, sinh
con, nuôi con nhỏ;
+ Giáo dục hướng nghiệp, biên soạn và
phổ biến sách giáo khoa có định kiến giới.
Các hành vi vi phạm pháp luật về bình
đẳng giới trong lĩnh vực khoa học và công
nghệ bao gồm:
+ Cản trở nam, nữ tham gia hoạt động
khoa học, công nghệ;
+ Từ chối việc tham gia của một giới trong
các khoá đào tạo về khoa học và công nghệ.
Các hành vi vi phạm pháp luật về bình
đẳng giới trong lĩnh vực văn hoá, thông tin,
thể dục, thể thao bao gồm:
+ Cản trở nam, nữ sáng tác, phê bình văn
học, nghệ thuật, biểu diễn và tham gia các

hoạt động văn hoá khác vì định kiến giới;
+ Sáng tác, lưu hành, cho phép xuất bản
các tác phẩm dưới bất kỳ thể loại và hình
thức nào để cổ vũ, tuyên truyền bất bình
đẳng giới, định kiến giới;
+ Truyền bá tư tưởng, tự mình thực hiện
hoặc xúi giục người khác thực hiện phong
tục tập quán lạc hậu mang tính phân biệt đối
xử về giới dưới mọi hình thức.
Các hành vi vi phạm pháp luật về bình


Th«ng tin
T¹p chÝ luËt häc sè 3/2008 69

đẳng giới trong lĩnh vực y tế bao gồm:
+ Cản trở, xúi giục hoặc ép buộc người
khác không tham gia các hoạt động giáo dục
sức khỏe vì định kiến giới;
+ Lựa chọn giới tính thai nhi dưới mọi
hình thức hoặc xúi giục, ép buộc người khác
phá thai vì giới tính của thai nhi.
Các hành vi vi phạm pháp luật về bình
đẳng giới trong gia đình bao gồm:
+ Cản trở thành viên trong gia đình có đủ
điều kiện theo quy định của pháp luật tham
gia định đoạt tài sản thuộc sở hữu chung của
hộ gia đình vì lí do giới tính.
+ Không cho phép hoặc cản trở thành
viên trong gia đình tham gia ý kiến vào việc

sử dụng tài sản chung của gia đình, thực hiện
các hoạt động tạo thu nhập hoặc đáp ứng các
nhu cầu khác của gia đình vì định kiến giới.
+ Đối xử bất bình đẳng với các thành
viên trong gia đình vì lí do giới tính.
+ Hạn chế việc đi học hoặc ép buộc thành
viên trong gia đình bỏ học vì lí do giới tính.
+ Áp đặt việc thực hiện lao động gia
đình, thực hiện biện pháp tránh thai, triệt sản
như là trách nhiệm của thành viên thuộc một
giới nhất định.
Nếu cá nhân hoặc tổ chức có một trong
các hành vi vi phạm kể trên thì sẽ bị xử lí
nghiêm theo quy định của pháp luật. Cụ
thể là:
+ Người nào có hành vi vi phạm pháp
luật về bình đẳng giới thì tuỳ theo tính chất,
mức độ vi phạm mà bị xử lí kỉ luật, xử lí
hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm
hình sự.
+ Cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi
vi phạm pháp luật về bình đẳng giới mà gây
thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định
của pháp luật.
Tóm lại, Luật bình đẳng giới thể hiện rõ
quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước
ta trong việc bảo đảm quyền bình đẳng giới.
Những quy định này không chỉ mang tính
chặt chẽ, súc tích mà còn bám sát thực tiễn.
Nhằm đẩy mạnh việc triển khai Luật này

trong thực tế, hiện nay, Hội liên hiệp phụ nữ
Việt Nam đang xây dựng mô hình giám sát
việc thực hiện Luật về bình đẳng giới.
(5)
Vấn
đề quan trọng ở đây là sự phối hợp, tổ chức
thực thi Luật bình đẳng giới giữa các cơ
quan, tổ chức, cá nhân như thế nào để luật
này thực sự có chỗ đứng trong cuộc sống./.

(1).Xem: Báo cáo phát triển con người của Liên hợp
quốc, năm 2003.
(2).Xem: ngày 14/8/2007.
(3). Hiện nay, việc tuyển dụng ở một số cơ quan (kể
cả cơ quan nhà nước và tư nhân) đã ghi rõ chỉ tuyển
dụng ứng viên vào một số vị trí là nam giới và không
tuyển nữ giới hoặc ưu tiên ứng viên nam.
- Xem: “Liệu có thể bình đẳng giới”, http://vietnamexpress.
net/vietnam/ban-doc-viet ngày 16/3/2006.
(4).Xem: Bình đẳng giới trong công tác kế hoạch
hóa gia đình,
story.php
(5). Dự án do Cơ quan hợp tác quốc tế Tây Ban Nha
tài trợ cho Tổ chức hoà bình và phát triển, được thực
hiện thông qua Hội LHPNVN. Dự án được thực hiện
không chỉ giúp Hội thực hiện tốt quyền và trách
nhiệm đã được pháp luật quy định mà còn góp phần
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lí nhà nước nói
chung, hướng vào các hoạt động vì bình đẳng giới và
sự phát triển của phụ nữ Việt Nam.

- Xem: CatId=
203&NewsId=7781&lang=VN

×