Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Tài liệu Báo cáo " Tổ chức và quản lí đào tạo ở Khoa luật Đại học quốc gia Singapore " pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.24 KB, 8 trang )



®µo t¹o
t¹p chÝ luËt häc sè 8/2008 55

(1)



TS. NguyÔn Quèc Hoµn *
hoa luật Đại học quốc gia (ĐHQG)
Singapore được xem là một trong
những cơ sở đào tạo luật hàng đầu của châu
Á và thế giới. Ngay từ khi được thành lập từ
năm 1957, việc đào tạo của Khoa đã được
thực hiện trên cơ sở kết thừa những thành
tựu của các nền khoa học pháp lí phát triển
Ngày nay, việc giảng dạy tại đây đã kết hợp
quan điểm và triết lí đào tạo từ các truyền
thống pháp luật khác nhau trên thế giới. Thêm
vào đó, các học giả từ khắp các cơ sở đào tạo
luật nổi tiếng trên thế giới đến hội thảo, trao
đổi kinh nghiệm cũng như giảng dạy ở đây đã
tạo điều kiện thuận lợi để Khoa xây dựng
được quan điểm đào tạo riêng của mình.
Với khoảng 100 giảng viên cơ hữu cùng
với sự cộng tác của các học giả và giảng
viên từ nhiều cơ sở đào tạo khác trên thế
giới, Khoa luật ĐHQG Singapore vẫn luôn
tự hào về thế mạnh ở số lượng rất lớn các
môn học thuộc nhiều lĩnh vực pháp luật


khác nhau. Việc tiếp cận nghiên cứu và
giảng dạy pháp luật từ quan điểm rộng hơn,
sự đan xen giữa các hệ thống pháp luật
trong quá trình đào tạo cũng như số lượng
các môn học phong phú, các chương trình
đào tạo của Khoa luật đã đáp ứng được về
cơ bản những đòi hỏi ngày càng tăng lên
của thực tiễn pháp luật trong quá trình toàn
cầu hóa đối với kĩ năng và kiến thức của
của các luật gia. Vì vậy, hàng năm, Khoa
luật ĐHQG Singapore đã thu hút được sinh
viên từ nhiều quốc gia trên thế giới đến đây
để học tập và nghiên cứu. Trong tổng số
khoảng 250 sinh viên được tiếp nhận hàng
năm, có gần 100 sinh viên đến từ 50 quốc
gia và vùng lãnh thổ khác nhau trong khu
vực cũng như trên thế giới.
(2)

1. Các chương trình đào tạo tại Khoa luật
Khoa luật ĐHQG Singapore xây dựng hệ
thống chương trình đào tạo rất đa dạng nhằm
đáp ứng tối đa nhu cầu của người học. Bên
cạnh sự đa dạng của các môn học trong một
chương trình, Khoa luật còn thiết kế nhiều
chương trình đào tạo khác nhau với các đối
tượng khác nhau. Do đó, để nhận được bằng
cử nhân luật, sinh viên có thể theo học các
chương trình đào tạo khác nhau. Các chương
trình đào tạo được thực hiện tại Khoa luật

ĐHQG Singapore bao gồm:
- Chương trình đào tạo cử nhân luật
thông thường. Đây là chương đào tạo truyền
thống của Khoa thực hiện trong thời gian 4
năm; để có bằng cử nhân luật theo chương
trình này, sinh viên sẽ phải hoàn thành 160
tín chỉ theo quy định.
- Chương trình đào tạo cử nhân luật cho
những người đã có bằng cử nhân của lĩnh vực
khác. Để hoàn thành chương trình này, người
học phải hoàn thành các môn học của chương
trình đào tạo luật trong thời gian 3 năm.
K

*
Trung tâm
l
u
ật so sánh

Trường Đại học Luật Hà Nội


®µo t¹o
56 t¹p chÝ luËt häc sè 8/2008

- Chương trình đào tạo kép là chương
trình đào tạo đồng thời hai ngành khác nhau.
Hoàn thành chương trình này, người học sẽ
được nhận hai bằng đại học cùng một lúc.

Khoa luật ĐHQG Singapore có ba chương
trình đào tạo kép: Thứ nhất, chương trình
đào tạo quản trị kinh doanh và luật; thứ hai,
chương trình đào tạo kinh tế học và luật; thứ
ba, chương trình đào tạo cử nhân luật và cử
nhân khoa học về đời sống.
- Chương trình đào tạo chuyển tiếp cử
nhân luật và thạc sĩ chính sách công.
Chương trình này cho phép sinh viên có
thể có được bằng cử nhân luật và thạc sĩ
chính sách công trong khoảng thời gian từ
4 đến 5 năm. Trong chương trình này,
Khoa luật sẽ đảm nhiệm các kiến thức
thuộc lĩnh vực luật công, luật quốc tế, quản
trị… và một cơ sở đào tạo khác sẽ đảm
nhiệm các môn học khác mà các nhà hoạch
định chính sách cần có như tôn giáo, dân
tộc, lịch sử, chính trị…
- Ngoài ra, bắt đầu từ năm học 2007 -
2008, một chương trình đào tạo khác cũng
đang được xây dựng là sự kết hợp giữa Khoa
luật ĐHQG Singapore với Đại học New
York của Mĩ. Theo chương trình này, sinh
viên sẽ có cơ hội có được bằng cử nhân luật
của ĐHQG Singapore và bằng Thạc sĩ của
Đại học New York.
(3)

2. Cơ cấu chương trình đào tạo cử
nhân luật

(4)

Để nhận được bằng cử nhân luật, sinh
viên phải hoàn thành 160 tín chỉ. Đối với
người đã có bằng đại học của một ngành
khác, để nhận được bằng cử nhân luật, phải
hoàn thành 120 tín chỉ với ba năm. Mỗi năm
học, sinh viên phải hoàn thành 40 tín chỉ.
Trong toàn bộ chương trình đào tạo cử
nhân luật, có 88 tín chỉ thuộc về các môn
học bắt buộc, còn lại 72 tín chỉ là các môn
học tự chọn.
Hai năm đầu của chương trình đào tạo,
sinh viên phải hoàn thành 80 tín chỉ của các
môn học bắt buộc, 8 tín chỉ bắt buộc còn lại
sẽ được thực hiện trong năm thứ ba. Như
vậy, hai năm cuối, sinh viên sẽ chủ yếu là
theo học các môn học tự chọn.
- Các môn học bắt buộc.
Trong chương trình đào tạo đại học, chỉ
có 14 môn học bắt buộc và chiếm đến 88 tín
chỉ. Các môn học bắt buộc bao gồm:
Năm thứ nhất Học kì Số tín chỉ
Luật hợp đồng 1-2 8
Kĩ năng phân tích, viết và nghiên cứu pháp luật I 1 4
Luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng 1 8
Hệ thống pháp luật Singapore 1 4
Kĩ năng phân tích, viết và nghiên cứu pháp luật II 2 4
Luật hình sự 2 8
Lí luận về pháp luật 2 4



®µo t¹o
t¹p chÝ luËt häc sè 8/2008 57

Năm thứ hai Học kì Số tín chỉ
Luật công ti 1 8
Luật so sánh 1 4
Giới thiệu vể việc bào chữa trong xét xử
(*)
1 0
Những nguyên tắc của luật sở hữu 1 8
Luật công bình và Chế định uỷ thác 2 8
Luật công 2 8
Kĩ năng nghiên cứu các vụ án 2 4

Năm thứ ba Học kì Số tín chỉ
Chứng cứ và tố tụng 1 hoặc 2 8
(*) Môn học này không xác định số lượng tín chỉ. Với mục đích cung cấp cho sinh viên những kĩ năng và những
vấn đề cơ bản liên quan đến phiên toà xét xử như việc trình bày tại phiên toà, đề xuất các tình tiết, chuẩn bị các
chứng cứ tại toà án… Toàn bộ thời lượng của môn học này kéo dài trong 3 giờ và việc đánh giá cũng rất đơn
giản chỉ là đạt hay không đạt.
- Các môn học tự chọn.
Tổng số các môn học tự chọn có thể
được thực hiện tại Khoa luật của ĐHQG
Singapore là khoảng gần 90 môn học khác
nhau. Các môn học tự chọn được phát triển
theo sáu nhóm khác nhau là luật về sở hữu
trí tuệ và công nghệ, luật công ti và luật
thương mại, luật biển, công pháp và tư pháp

quốc tế, luật so sánh và nghiên cứu pháp luật
châu Á, pháp luật và xã hội.
Với số lượng các môn học tự chọn như
vậy, sinh viên có thể chọn bất kì môn học
nào trong số đó miễn là họ tích lũy đủ 32 tín
chỉ của các môn tự chọn trong năm thứ ba và
40 tín chỉ tự chọn trong năm thứ tư. Việc xây
dựng hệ thống các môn học tự chọn như vậy
được xem là một trong những mục tiêu quan
trọng mà Khoa luật ĐHQG Singapore cung
cấp cho sinh viên, nhờ đó sinh viên có thể
phát huy tối đa năng lực cá nhân cũng như
mục tiêu làm việc trong tương lai của họ.
Hơn nữa, việc xây dựng hệ thống các môn
học bắt buộc sẽ tạo điều kiện cho người học
sau khi ra trường, nếu cần có kiến thức của
môn học mà họ chưa chọn trong quá trình
đào tạo đại học có thể trở lại trường theo học
môn học đó nếu họ có nhu cầu.
Tuy nhiên, để tránh tình trạng sinh viên
tập trung vào một số môn tự chọn. Khoa luật
xác định số lượng sinh viên được chọn môn
học nào đó trên cơ sở số lượng giảng viên có
thể đảm nhiệm. Chẳng hạn, môn học nào đó
chỉ có 4 giảng viên, Khoa có thể quy định số
lượng sinh viên được chọn môn học này theo
tỉ lệ được quy định (thường là 15-20 sinh
viên trên một giảng viên) Như vậy, với bốn
giảng viên đảm nhiệm môn học này, trong
một học kì, chỉ có 60 đến 80 sinh viên được



®µo t¹o
58 t¹p chÝ luËt häc sè 8/2008

chọn môn học này. Sau khi sinh viên đăng
kí, hệ thống máy tính sẽ giúp cho khoa có
thể sàng lọc số lượng sinh viên đã chọn môn
học này theo thứ tự ưu tiên từ 1 đến 60.
Những sinh viên đã chọn môn học này
nhưng không đủ điều kiện để tham gia môn
học sẽ chọn các môn học khác và máy tính
cũng thực hiện việc sàng lọc để chọn số
lượng sinh viên tương ứng với số lượng
giảng viên có thể đảm nhiệm môn học đó.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong
việc chọn môn học của sinh viên một mặt
đảm bảo cho sinh viên có thể dễ dàng đăng
kí các môn tự chọn, mặt khác, nó cũng tạo ra
cơ hội cạnh tranh giữa các sinh viên và tạo ra
động lực cố gắng học tập của sinh viên đối
với tất cả các môn học mà sinh viên đã hoàn
thành trong hai năm đầu của quá trình học
tập cũng như các môn học của các kì học
trước mà sinh viên đã lựa chọn. Việc xác
định số lượng sinh viên tham dự môn học tự
chọn còn đảm bảo để tất cả các môn học đã
được Hội đồng khoa học của Khoa thông
qua đều được thực hiện trong các năm học
và phù hợp với khả năng mà Khoa luật có

thể đảm nhiệm. Trong trường hợp bổ sung
thêm môn học mới, nếu giảng viên của Khoa
không đảm nhiệm được, Khoa sẽ mời giảng
viên từ các cơ sở đào tạo khác trên thế giới
đến giảng dạy. Chẳng hạn, trong chương
trình tự chọn của Khoa luật có môn Luật đầu
tư nước ngoài của Việt Nam. Môn học này
được thực hiện bởi giảng viên Việt Nam.
Ngoài các môn học tự chọn nêu trên,
sinh viên có thể tiến hành các nghiên cứu mà
kết quả của nó được xem như là môn tự
chọn. Tuy nhiên, các đề tài mà sinh viên
nghiên cứu như là môn tự chọn phải là
những đề tài chưa được thực hiện trong các
môn học khác hoặc chưa được thực hiện với
tư cách là phần bài tập nghiên cứu cá nhân
của các môn học khác. Việc thực hiện các
nghiên cứu như là môn học tự chọn này sẽ
được hướng dẫn trực tiếp của giảng viên
trong Khoa luật ĐHQG Singapore.
Số lượng tín chỉ của mỗi môn học dù là
môn học bắt buộc hay tự chọn cũng khác
nhau. Tuy nhiên, trong chương trình đào tạo
cử nhân luật, chỉ có hai loại môn học với số
lượng tín chỉ tương đương là 4 hoặc 8 tín chỉ
tuỳ thuộc vào nội dung của từng môn học.
Việc xác định số lượng tín chỉ như vậy nhằm
tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng kế
hoạch giảng dạy của năm học được dễ dàng,
đồng thời, số lượng tín chỉ như vậy cũng tạo

điều kiện cho sinh viên có thể lựa chọn các
môn học trong một học kì một cách dễ dàng
để đảm bảo tổng số tín chỉ trong một học kì
là 20 tín chỉ.
3. Các hình thức tổ chức dạy học
Hình thức tổ chức dạy học ở các môn
học trong chương trình đào tạo của Khoa
luật ĐHQG Singapore rất đa dạng tuỳ thuộc
vào giảng viên đảm nhiệm môn học đó và số
lượng sinh viên trong một lớp học. Trong đó,
giảng viên đảm nhiệm môn học là người tự
quyết định về cách thức tổ chức dạy học cho
môn học của mình. Hai hình thức tổ chức
dạy học chính là: Giảng lí thuyết và thảo
luận. Mặc dù vậy, hai hình thức này trong
nhiều trường hợp cũng không được tách biệt
một cách rõ ràng, nhất là đối với những lớp
học có ít sinh viên. Trong các giờ lên lớp đối
với các lớp học có số lượng ít sinh viên


đào tạo
tạp chí luật học số 8/2008 59

(khong 15 sinh viờn), ging viờn thng
khụng trỡnh by nhng vn theo kiu
thuyt trỡnh m ch yu l trao i vi sinh
viờn v cỏc vn liờn quan n ni dung
vn trong bui hc.
i vi cỏc mụn hc m vic ging dy

c thc hin vi s lng nhiu sinh viờn
thỡ thng cú s tỏch bit gia gi ging lớ
thuyt v gi tho lun.
Chng hn, hỡnh thc t chc dy hc
i vi mụn Lut cụng vi 8 tớn ch c
thc hin trong hc kỡ 2 ca nm th 2 luụn
cú s tỏch bit gia vic ging lớ thuyt v
vic tho lun. Theo ú, gi ging lớ thuyt
c thc hin ti ging ng ln vi ton
b sinh viờn ca khoỏ hc (khong 240 sinh
viờn) vi thi lng 2 gi lớ thuyt trong mt
tun. thc hin vic tho lun, ton b s
lng 240 sinh viờn ú s c chia thnh
14 n 16 nhúm tho lun Vic chia
nhúm ny thng l trờn c s s ging viờn
m nhim mụn hc ú, tuy nhiờn, s lng
sinh viờn trong mi nhúm thng khụng quỏ
15 ngi. Mi ging viờn s ph trỏch vic
tho lun mt s nhúm (mi ging viờn
thng ph trỏch vic tho lun t 2 n 3
nhúm) trong ton b kỡ hc cú th theo
dừi quỏ trỡnh hc tp ca sinh viờn.
Mt s mụn hc khỏc li chia ton b 240
sinh viờn thnh lp, mi lp khong 80 sinh
viờn v vi 3 ging viờn, mi ngi s ph
trỏch mt lp trong ton b khoỏ hc. Vi cỏc
lp ny, ging viờn cng ch yu l tp trung
vo vic thuyt trỡnh. Tuy nhiờn, trong quỏ
trỡnh thuyt trỡnh, cỏc cõu hi cú th c t
ra cỏc sinh viờn tr li. S tham gia tớch

cc ca sinh viờn trong cỏc gi ging nh vy
cng s c tớnh im ỏnh giỏ kt qu
hc tp ca sinh viờn i vi mụn hc.
Mt s mụn hc khỏc, nht l cỏc mụn
hc t chn, s lng sinh viờn ca lp hc
rt ớt, khong 10 n 12 sinh viờn. Vi lp
hc ny, khụng cú s phõn nh rừ rng gia
gi ging lớ thuyt v gi tho lun. Trong
cỏc bui lờn lp, ging viờn v sinh viờn ch
yu tp trung vo vic trao i v cỏc vn
trong ni dung ca bi hc.
4. Kim tra, ỏnh giỏ kt qu hc tp
ca sinh viờn
(5)

Cỏc hỡnh thc kim tra ỏnh giỏ c
thc hin trong cỏc mụn hc ca Khoa lut
HQG Singapore khỏ a dng. HQG
Singapore to iu kin n mc ti a
cỏc ging viờn ch ng ỏnh giỏ kt qu
hc tp ca sinh viờn i vi cỏc mụn hc.
Tuy nhiờn, chớnh sỏch chung trong vic kim
tra ỏnh giỏ i vi kt qu hc tp v tớch
lu kin thc ca sinh viờn c Khoa a
ra l cỏc ging viờn khụng nờn s dng bi
thi cui hc kỡ l 100% im ca mụn hc.
Thụng thng, vic kim tra ỏnh giỏ kt
qu hc tp ca sinh viờn c cỏc ging
viờn ca Khoa lut s dng l: Bi lun, bi
nghiờn cu, bi thuyt trỡnh v thi ht mụn.

- Bi lun: L bi vit ca sinh viờn vi
ch c cỏc ging viờn xỏc nh trc.
mt s mụn hc, sinh viờn phi hon
thnh bi lun ca mỡnh trong khong thi
gian sỏu tun u tiờn ca kỡ hc. Ging viờn
ỏp dng hỡnh thc ny gii thớch rng sau khi
hon thnh bi lun, ging viờn cú th trao
i trc tip vi sinh viờn v ni dung ca
bi lun v nh ú, sinh viờn s iu chnh
vic hc tp mụn hc ú trong 2/3 thi gian


®µo t¹o
60 t¹p chÝ luËt häc sè 8/2008

còn lại nếu như giảng viên phát hiện những
hướng đi sai lầm của sinh viên.
- Bài viết bình luận: Một số giảng viên áp
dụng hình thức đánh giá kết quả học tập của
sinh viên thông qua các bài bình luận của sinh
viên. Theo đó, sinh viên sẽ được yêu cầu đọc
một số trang tài liệu và trên cơ sở đó sinh
viên viết quan điểm riêng của họ về vấn đề đã
được ấn định với độ dài không quá 3 trang
theo định dạng được quy định chặt chẽ.
- Bài nghiên cứu: Một số giảng viên áp
dụng hình thức đánh giá kết quả học tập của
sinh viên bằng các bài nghiên cứu. Khác với
việc làm các bài luận theo chủ đề mà giảng
viên yêu cầu, để thực hiện bài nghiên cứu, sinh

viên phải tự mình lựa chọn vấn đề của môn
học để xác định chủ đề của bài viết. Sau khi đã
tự chọn được chủ để, sinh viên sẽ trao đổi với
các giảng viên tham gia giảng dạy môn học
để quyết định về chủ đề mà sinh viên đã lựa
chọn. Giảng viên sẽ trao đổi và định hướng
cho sinh viên nghiên cứu vấn đề mà sinh viên
tự chọn. Sinh viên phải hoàn thành phần
nghiên cứu của mình trước khi thuyết trình.
Thuyết trình: Bài thuyết trình được thực
hiện gắn liền với bài nghiên cứu. Sau khi
sinh viên hoàn thành phần viết của mình,
sinh viên phải trình bày phần nghiên cứu đó
trước lớp. Trên cơ sở đó, giảng viên sẽ đánh
giá cả phần viết và phần thuyết trình của
sinh viên. Hình thức này thường được sử
dụng đối với các lớp có số lượng có khoảng
12 đến 15 sinh viên.
Thi hết môn: Bài thi hết môn được xem
là hình thức đánh giá thông dụng nhất ở hầu
hết các môn học của Khoa luật. Các bài thi
hết môn đều được thực hiện dưới hình thức
thi viết và sinh viên được sử dụng tất cả các
tài liệu của môn học (open exam). Thông
thường, thời lượng cho mỗi bài thi của một
môn là 2 tiếng. Trong đó, sinh viên phải
hoàn thành 2 đến 3 câu hỏi. Đề thi thường có
từ 4 đến 5 câu và sinh viên sẽ phải làm một
câu hỏi bắt buộc và 1 hoặc 2 câu hỏi tự chọn.
Kết quả thi hết môn thường chiếm từ khoảng

60 đến 80% trong số điểm của môn học.
(6)

Các vấn đề được giao cho sinh viên
nghiên cứu cũng như đề thi hết môn
thường là những vấn đề đòi hỏi sinh viên
phải trình bày quan điểm riêng của mình
về vấn đề đó. Vì vậy, nội dung của các bài
thi thường được các giảng viên đánh giá về
mức độ hiểu biết và cách thức lập luận của
sinh viên đối với vấn đề đã được giao chứ
không phải là trình bày lại các kiến thức
đơn giản được giới thiệu trong các tài liệu.
Điều này xuất phát từ triết lí đào tạo luật
của Khoa luật ĐHQG Singapore không
phải là trang bị kiến thức pháp luật mà là
trang bị phương pháp để người học có thể
tìm tòi kiến thức và cũng như kĩ năng mà
một luật gia cần phải có.
Để bảo đảm tính khách quan trong việc
đánh giá kết quả học tập của sinh viên. Đối
với các lớp học có nhiều sinh viên, các bài
thi hết môn, bài tập của sinh viên sẽ nộp cho
bộ phận quản lí đào tạo. Bộ phận này sẽ
đánh mã các bài tập và mã các bài thi sau đó
gửi cho các giảng viên đánh giá. Vì vậy, các
giảng viên cũng không biết được bài thi hoặc
bài tập họ chấm là của sinh viên nào. Đối với
các lớp có số lượng sinh viên ít (dưới 20 sinh
viên) các giảng viên thường kết hợp bài

nghiên cứu và bài trình bày để đánh giá kết


®µo t¹o
t¹p chÝ luËt häc sè 8/2008 61

quả học tập của sinh viên. Đối với các lớp
học có số lượng ít sinh viên như vậy, giảng
viên có thể đánh giá kết quả học tập của sinh
viên theo nhiều tiêu chí như kết quả bài
nghiên cứu, kết quả phần trình bày bài nghiên
cứu tại lớp học, mức độ tích cực tham gia các
bài giảng và thảo luận của sinh viên…
5. Xây dựng kết hoạch giảng dạy trong
năm học
Kế hoạch giảng dạy hàng năm được bắt
đầu xây dựng từ tháng 2. Trên cơ sở chương
trình đào tạo, bộ phận quản lí đào tạo sẽ trao
đổi với các giảng viên về kế hoạch giảng dạy
các môn học của mình. Ngoài một số môn
học được cố định theo các học kì của năm thứ
nhất và năm thứ hai với tư cách là các môn
học bắt buộc, đối với các môn tự chọn, các
giảng viên có thể đăng kí để giảng dạy theo
học kì tuỳ thuộc vào công việc và kế hoạch
riêng của giảng viên. Tuy nhiên, dù có những
kế hoạch riêng, mỗi giảng viên vẫn phải đảm
nhiệm đủ 16 tín chỉ trong một năm học.
Mỗi học kì theo quy định của trường có 15
tuần, trong đó, có 12 tuần thực học, 1 tuần dành

cho dự trữ và 2 tuần dành cho việc thi học kì.
Như vậy, thay vì số lượng 15 tuần cho các môn
học tín chỉ như ở một số nước khác, mỗi tín chỉ ở
ĐH QG Singapore chỉ có 12 giờ tín chỉ. Nhóm
giảng viên giảng dạy môn học nào sẽ quyết định
số lượng giờ lên lớp cũng như hình thức tổ chức
dạy học cho môn của mình. Những nội dung này
thể hiện trong đề cương môn học.
Đối với các môn học không thể kéo dài
trong 12 tuần của một học kì do không có đủ
giảng viên hoặc các giảng viên đảm nhiệm
môn học đó là giảng viên được mời từ các
nước khác, bộ phận xây dựng chương trình
sẽ bố trí thời gian thực hiện các môn học đó
trong 3 tuần, mỗi tuần có 4 buổi lên lớp với
tổng số giờ lên lớp của giảng viên sẽ tương
đương với các môn thực hiện trong 12 tuần.
6. Định mức giảng dạy và nghiên cứu
khoa học của giảng viên
Để đảm bảo sự bình đẳng của các giảng
viên trong việc thực hiện nghĩa vụ giảng dạy,
theo quy định chung của Khoa luật, mỗi giảng
viên trong một năm phải đảm nhiệm một số
môn học tương đương với 16 tín chỉ. Trong
đó, phải có 8 tín chỉ thuộc về các môn học bắt
buộc và 8 tín chỉ là của các môn học tự chọn.
Việc xác định số lượng tín chỉ mà mỗi giảng
viên phải đảm nhiệm này một mặt để đảm
bảo sự bình đẳng trong nghĩa vụ giảng dạy
giữa các giảng viên, mặt khác để các giảng

viên có thể đảm nhiệm từ 2 đến 4 môn học
khác nhau. Chẳng hạn, một giảng viên có thể
giảng dạy 1 môn học bắt buộc với 8 tín chỉ và
một môn học tự chọn cũng 8 tín chỉ. Tuy
nhiên, giảng viên cũng có thể giảng dạy 2
môn bắt buộc và hai môn tự chọn, mỗi môn 4
tín chỉ. Điểm đáng chú ý là với quy định này
sẽ tạo điều kiện cho các giảng viên có thể
giảng dạy một số môn học mà họ ưa thích.
Điều này có nghĩa là một giảng viên có thể
giảng môn luật hợp đồng cùng với các giảng
viên khác cùng giảng dạy môn học đó và môn
học khác giảng viên lại làm việc với nhóm
giảng viên khác cùng giảng dạy một môn học.
Hơn nữa, việc xác định nhiệm vụ giảng
dạy nhiều môn học của mỗi giảng viên sẽ
đảm bảo được một số lượng nhất định các
giảng viên cho tất cả các môn học, tránh
được tình trạng thiếu các giảng viên, một
trong những vấn đề mà hầu như tất cả các cơ


®µo t¹o
62 t¹p chÝ luËt häc sè 8/2008

sở đào tạo đều gặp phải.
Nghĩa vụ nghiên cứu khoa học của các
giảng viên được xác định trên cơ sở số lượng
các bài tạp chí, số chương của sách đã xuất
bản. Thông thường, mỗi giảng viên chỉ được

xem là hoàn thành nghĩa vụ nghiên cứu khoa
học nếu họ có 2 bài báo hoặc 2 chương của
một cuốn sách được công bố.
Nghĩa vụ tham gia các hoạt động khoa
học khác. Ngoài nghĩa vụ giảng dạy và
nghiên cứu, các giảng viên còn được đánh giá
thông qua các hoạt động khác như tổ chức hội
thảo, tham gia các buổi toạ đàm khoa học,
hướng dẫn sinh viên nghiên cứu khoa học…
Tất cả các giảng viên đều có nghĩa vụ tham
gia các hoạt động này và các hoạt động đó
được xem là một trong những tiêu chí quan
trọng để đánh giá đối với các giảng viên.
7. Tài liệu phục vụ cho các môn học
Trước khi bước vào học kì, giảng viên
hoặc nhóm giảng viên đảm nhiệm môn học
nào đó sẽ chuẩn bị các tài liệu của môn học.
Giảng viên có thể chỉ định việc sử dụng một
cuốn sách nào đó được sử dụng chính thức
cho môn học, cũng có thể xây dựng tài liệu
của môn học với những quy định khá chặt
chẽ tuỳ thuộc vào số lượng tín chỉ của mỗi
môn học. Thông thường, ở Khoa luật ĐHQG
Singapore, các giảng viên thường chuẩn bị
tài liệu cho môn học của mình bằng việc lựa
chọn tài liệu từ nhiều cuốn sách khác nhau.
Trong đó, các phần hoặc các vấn đề của môn
học sẽ sử dụng một số trang từ các cuốn sách
khác nhau. Vì thế, giảng viên phải sưu tầm
toàn bộ tài liệu của môn học, sau đó cung

cấp tài liệu đó cho bộ phận quản lí đào tạo để
in ấn, photo cung cấp cho sinh viên. Các tài
liệu được sử dụng cho môn học cũng thường
được các giảng viên thay đổi và cập nhật
hàng năm. Tuy nhiên, để hoàn thành các bài
tập của mình, sinh viên phải đọc rất nhiều tài
liệu tham khảo khác có trong thư viện và trên
mạng internet ngoài các tài liệu đã được các
giảng viên cung cấp và giới thiệu.
Thư viện của Khoa luật ĐHQG Singapore
có hệ thống tài liệu khá phong phú. Ngoài
hệ thống sách chuyên khảo và tham khảo
được xuất bản hàng năm ở các trường đại
học nổi tiếng trên thế giới luôn được cập
nhật. Sinh viên và giảng viên ở đây có thể
tra cứu các tài liệu từ các nguồn cung cấp
của các nhà cung cấp qua mạng như Westlaw,
Heinonline, Lexis…
Những thông tin khái quát về chương
trình, tổ chức và quản lí đào tạo đại học ở
Khoa luật ĐHQG Singapore được trình bày
ở trên chắc chắn sẽ rất hữu ích đối với sinh
viên, các học giả những người có dự định
nghiên cứu và học tập tại Khoa luật của
trường này. Hơn nữa, trong quá trình xây
dựng chương trình đào tạo theo tín chỉ, các
cơ sở đào tạo đại học luật ở Việt Nam có thể
tham khảo nhiều kinh nghiệm của cơ sở đào
tạo luật được xem là hàng đầu ở châu Á và
thế giới./.


(1 ). Bài viết được hoàn thành với sự giúp đỡ của một
số giảng viên và cán bộ quản lí của Khoa luật Đại học
quốc gia Singapore
(2).Xem:
(3).Xem: />LAWUgrad08_Part1.pdf
(4).Xem: />4yrllb.htm
(5).Xem:
(6).Xem:

×