Tải bản đầy đủ (.pdf) (50 trang)

so sánh chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật của các mô hình nuôi thâm canh tôm sú và tôm thẻ chân trắng ở tỉnh trà vinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (732.27 KB, 50 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN
PHAN THỊ NGỌC THƠ
SO SÁNH MỘT SỐ CHỈ TIÊU KINH TẾ - KỸ THUẬT CỦA
CÁC MÔ HÌNH NUÔI THÂM CANH TÔM SÚ (Penaeus
monodon) VÀ TÔM THẺ CHÂN TRẮNG (Penaeus vannamei)
Ở TỈNH TRÀ VINH
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH QUẢN LÝ NGHỀ CÁ
2009
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN
PHAN THỊ NGỌC THƠ
SO SÁNH MỘT SỐ CHỈ TIÊU KINH TẾ - KỸ THUẬT CỦA
CÁC MÔ HÌNH NUÔI THÂM CANH TÔM SÚ (Penaeus
monodon) VÀ TÔM THẺ CHÂN TRẮNG (Penaeus vannamei)
Ở TỈNH TRÀ VINH
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH QUẢN LÝ NGHỀ CÁ
CÁN BỘ HƯỚNG DẪN
Ths. NGUYỄN THANH LONG
2009
1
CHƯƠNG I
GIỚI THIỆU
1.1 Đặt vấn đề
Cùng với những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới 20
năm qua, ngành thủy sản nước ta đã khởi sắc và tăng trưởng liên tục qua từng
năm, từng thời kỳ. So với năm 1985, năm 2005 sản lượng thủy sản tăng 4,24
lần, từ xấp xỉ 808 nghìn tấn lên 3.432.800 tấn, trong đó sản lượng nuôi trồng
thủy sản tăng mạnh, hơn 6,22 lần, từ 231.200 tấn lên 1.437.355 tấn. Các hoạt


động nuôi thủy sản trong những năm gần đây, đặc biệt là nuôi trồng thủy sản
nước lợ ở các vùng ven biển nước ta nói chung và Đồng Bằng Sông Cửu Long
nói riêng càng trở nên năng động. Tôm sú từ lâu đã trở thành đối tượng nuôi
truyền thống của thủy sản nước ta. Các mô hình kỹ thuật nuôi tôm sú đã được
định hình và đem lại hiệu quả kinh tế cao cho ngừoi dân, ngành nuôi tôm sú đã
góp phần vào sự phát triển mạnh mẽ của ngành thủy sản Việt Nam nói riêng
và thế giới nói chung. Bên cạnh những đối tượng giáp xác được nuôi mang
tính chất truyền thống như tôm sú, gần đây sự du nhập của loài tôm thẻ chân
trắng đang là vấn đề nổi bật và được dư luận quan tâm nhiều nhất. Tôm thẻ
chân trắng là đối tượng nuôi nhân tạo quan trọng thứ nhì (sau tôm sú) trên thế
giới, còn ở Châu Mỹ là số 1. Sau khi được nhiều nước Châu Mỹ nuôi nhân tạo
thành công và có hiệu quả cao, tôm thẻ chân trắng được di giống sang nuôi ở
Hawai của Mỹ. Từ đây tôm thẻ chân trắng lan sang Đông Á và Đông Nam Á.
Trung Quốc là nước Châu Á quan tâm đến tôm thẻ chân trắng sớm nhất. Từ
năm 1998 họ đã công bố nuôi tôm chân trắng thành công và sẵn sàng chuyển
giao công nghệ (cung cấp con giống và kỹ thuật nuôi) cho các nước châu Á
nào muốn nhập nội. Nhiều nước Châu Á khác như Philippin, Inđônêxia,
Malaysia, Thái Lan và Việt Nam … Cũng đã nhập nội tôm thẻ chân trắng để
nuôi với hy vọng đa dạng hóa các sản phẩm tôm xuất khẩu để nhằm tránh tình
trạng chỉ trông cậy phần lớn vào tôm sú như hiện nay.
Ở Việt Nam hiện nay, đặc biệt là vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long một số nơi
đã chuyển từ nuôi tôm sú sang nuôi tôm thẻ chân trắng. Diện tích nuôi tôm thẻ
chân trắng đang lớn dần. Trước sự phát triển mạnh mẽ của tôm thẻ chân trắng
như hiện nay thì hiệu quả kinh tế - kỹ thuật của các mô hình nuôi tôm sú và
tôm thẻ chân trắng đang là vấn đề được dư luận quan tâm. Vùng nước lợ ven
biển Trà Vinh với diện tích rộng và dài có tiềm năng rất lớn cho nghề nuôi
tôm. Những năm gần đây con tôm sú đã giúp cho người dân Trà Vinh thoát
2
nghèo và có nguồn thu nhập ổn định. Theo chỉ thị 228/CT-BNN-NTTS được
Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn ban hành thì tôm thẻ chân trắng đã

được nuôi lần đầu tiên tại Trà Vinh theo hình thức thâm canh tại các cơ sở đủ
điều kiện theo tiêu chuẩn của Bộ quy định.
Tuy nhiên, nuôi tôm thẻ chân trắng thương phẩm cũng còn nhiều khó khăn so
với tôm sú do chưa có sự hiểu biết nhiều về kỹ thuật nuôi tôm thẻ chân trắng,
với những rủi ro cao do chưa hiểu biết cách quản lý dịch bệnh và môi trường.
Chính vì vậy đề tài “So sánh một số chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật của các mô hình
nuôi thâm canh tôm sú (P.monodon) và tôm thẻ chân trắng (P.vannamei) ở
tỉnh Trà Vinh” đã được thực hiện.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Khảo sát đánh giá hiệu quả kinh tế - kỹ thuật của mô hình nuôi tôm sú và tôm
thẻ chân trắng nhằm cung cấp thông tin làm cơ sở cho việc quản lý nghề nuôi
trồng thủy sản.
1.3 Nội dung nghiên cứu
- Khảo sát kỹ thuật nuôi tôm sú và tôm thẻ chân trắng thâm canh.
- Khảo sát hiệu quả kinh tế của mô hình nuôi tôm sú và tôm thẻ chân
trắng thâm canh.
- So sánh một số chỉ tiêu kinh tế và kỹ thuật giữa mô hình nuôi tôm sú và
tôm thẻ chân trắng thâm canh.
- Nhận thức của người nuôi tôm sú và tôm thẻ chân trắng.
1.4 Thời gian thực hiện đề tài
Từ tháng 01/2009 đến tháng 05/2009
3
CHƯƠNG II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 Tình hình nuôi tôm sú và tôm thẻ chân trắng trên thế giới
Ngày nay nuôi tôm sú đã phát triển ở rất nhiều quốc gia trên thế giới, tính đến
nay có hơn 65 nước và vùng lãnh thổ đang tiến hành nuôi, tập trung ở 2 khu
vực là Châu Á và Thái Bình Dương chiếm 72% và ở Mỹ La Tinh chiếm 28%
tổng sản lượng nuôi tôm.
Sản lượng tôm nuôi trên thế giới đã tăng lên không ngừng từ 2% (1980) lên

28% (1991) đạt 730.000 tấn (Liên kết tạp chí thông tin chuyên đề, 2006).
Bảng 2.1: Sản lượng tôm nuôi trên thế giới qua một số năm (nghìn tấn)
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Trung Quốc
78
126
146
205
210
Thái Lan
278
259
233
115
230
250
Việt Nam
53
58
105
148
128
105
Inđonesia

121
125
126
81
118
110
Ấn Độ
97
95
65
130
114
Ecuador
96
98
119
66
108
Philippin
90
76
40
34
40
Sản lượng tôm của các nước biến động không đều giữa các năm, có xu hướng
giảm ngoại trừ một số nước như Trung Quốc, Ấn Độ. Có hiện tượng trên là do
phần lớn các nước đều phát triển nuôi tôm ồ ạt không có quy hoạch nên dẫn
đến hiện tượng dịch bệnh xảy ra nhiều làm sản lượng giảm.
Bên cạnh đó tôm thẻ chân trắng cũng là đối tượng quý hiếm có giá trị rất cao,
có thị trường lớn và đang mở rộng. Trước khi có đại dịch bệnh đốm trắng năm

2000, sản lượng tôm thẻ chân trắng chỉ đứng sau tôm sú, là đối tượng nuôi và
xuất khẩu chủ yếu của hàng chục nước ở Châu Mỹ. Trước đây về giá trị tôm
thẻ chân trắng ngang hàng với tôm sú. Tuy nhiên, gần đây người tiêu dùng Mỹ
ưa chuộng tôm sú của Châu Á nên giá trị của tôm thẻ chân trắng có phần giảm
sút (theo FAO năm 1999 giá trị trung bình tôm chân trắng nguyên liệu là 5,5
USD/kg trong khi tôm sú là 6,5USD/kg).
Êquađo là nước xuất khẩu tôm thẻ chân trắng lớn nhất với khối lượng kỹ lục là
114 nghìn tấn năm 1998 với giá trị 852 triệu USD, giá trị trung bình xuất khẩu
4
là 8 USD/kg. Tuy nhiên, chỉ sau một năm xuất khẩu giảm 70%. Khối lượng
tôm thẻ chân trắng xuất khẩu sang Mỹ năm 1998 là 65 nghìn tấn sang năm
2000 chỉ còn 17 nghìn tấn.
Mêhicô đã nhanh chóng trở thành nước nuôi tôm thẻ chân trắng lớn thứ 2 châu
Mỹ, sản lượng 2.000 tấn (1990) lên 16.000 tấn (1994), 24.000 tấn (2000).
Panama đứng thứ 3 về nuôi tôm thẻ chân trắng đạt 10.000 tấn (1999). Trung
Quốc là nước châu Á quan tâm tới tôm thẻ chân trắng sớm nhất, từ năm 1998
đã tuyên bố nuôi thành công tôm này. Hầu hết các nước nuôi tôm thẻ chân
trắng xuất khẩu đều bị thiệt hại lớn trong năm 2000.
Trước đây hầu như chỉ có thị trường Mỹ là nơi nhập khẩu chủ yếu tôm thẻ
chân trắng của các nước Mỹ La Tinh. Từ giữa thập kỹ 90 và đặc biệt là sau khi
thị trường tôm Nhật Bản suy yếu, tôm sú Châu Á tràn sang Mỹ. Với nhiều ưu
thế hơn nên tôm sú châu Á đã cạnh tranh gay gắt với tôm thẻ chân trắng của
Mỹ. Các nhà xuất khẩu tôm thẻ chân trắng Châu Mỹ buộc phải tìm thị trường
mới. EU và Nhật Bản mở rộng cửa đón nhận các sản phẩm tôm thẻ chân trắng
chủ yếu là chất lượng vẫn tốt mà giá lại mềm hơn tôm sú. Như vậy hiện nay
tuy Mỹ vẫn còn là thị trường chính, nhưng thị phần chỉ còn 60 – 70%. Tây
Ban Nha, Pháp, Nhật Bản… là các thị trường quan trọng cho tôm chân trắng
của châu Mỹ (Liên kết tạp chí thông tin chuyên đề, 2006).
2.2 Tình hình nuôi tôm sú và tôm thẻ chân trắng ở Việt Nam
Nghề nuôi tôm ở Việt Nam bắt đầu cách đây hơn 100 năm nhưng nuôi tôm sú

công nghiệp mới phát triển hơn một thập niên gần đây. Từ đó vị trí của ngành
nuôi tôm Việt Nam trên thế giới ngày càng được cải thiện, ngày nay Việt Nam
là một trong những nước có sản lượng tôm sú nuôi lớn nhất trên thế giới.
Diện tích, năng suất và sản lượng tôm nuôi ở Việt Nam tăng dần qua các năm,
có được kết quả đó là do sự du nhập của công nghệ, quy trình nuôi và kỹ thuật
nuôi ngày càng được cải tiến đặc biệt là việc áp dụng phương pháp nuôi thâm
canh với mật độ cao.
Nhìn chung nghề nuôi tôm sú ở nước ta đang đạt được những bước phát triển
đáng khích lệ song vẫn còn một số tồn tại cần khắc phục sau:
Nuôi tôm còn mang tính tự phát và chưa có một chiến lược quy hoạch cụ thể,
nếu có quy hoạch cũng mang tính cục bộ và thực tế chưa mang lại hiệu quả
như mong muốn.
5
Bệnh tôm xuất hiện ở nhiều vùng nuôi và có lúc bùng phát thành dịch, ý thức
cộng đồng của người nuôi còn thấp dẫn đến việc phòng trị bệnh khó khăn.
Việc sử dụng thuốc kháng sinh trong NTTS nói chung và nuôi tôm sú nói
riêng còn phổ biến dẫn đến chất lượng của sản phẩm thấp.
Vài năm gần đây, trong khi việc nuôi tôm sú ở Việt Nam ngày càng gặp nhiều
rủi ro thì tôm thẻ chân trắng xuất hiện với ưu thế như năng suất cao, dễ bán,
chi phí thấp. Tuy nhiên, phần lớn người nuôi vẫn còn e ngại với con tôm ngoại
lai này. Tôm thẻ chân trắng được nuôi thử nghiệm ở nhiều nơi trên nước ta
như Hưng Yên, Quảng Ngãi Nhưng tôm này được nuôi phổ biến chủ yếu ở
vùng ĐBSCL. Tôm thẻ chân trắng từng được Công ty nuôi trồng thủy sản
Duyên Hải nhập về nuôi và nhân giống thành công ở công ty Bạc Liêu từ năm
2001. Tuy nhiên, khi đó lãnh đạo tỉnh Bạc Liêu không khuyến khích nuôi vì
quá mới mẻ, chưa có quy trình kỹ thuật nuôi hoàn chỉnh, chưa kiểm soát được
dịch bệnh và quan trọng hơn là không có doanh nghiệp nào mua loại tôm này.
Gần đây thị trường thế giới đã có nhiều biến động, người tiêu dùng các nước
chuyển sang tiêu thụ mạnh tôm thẻ chân trắng của Thái Lan, Trung Quốc.
Tuy nhiên, tôm thẻ chân trắng có những nhược điểm cơ bản như thường mắc

những bệnh của tôm sú, mang hội chứng Taura gây nên dịch bệnh lớn ở Nam
Mỹ và các bệnh khác có thể nhiễm sang các đối tượng tôm bản địa, làm mất an
ninh sinh thái và ảnh hưởng đến đa dạng sinh học, có thể gây thiệt hại nghiêm
trọng đến sản xuất thủy sản và môi trường tự nhiên.
Để định hướng phát triển và quản lý tôm thẻ chân trắng, Bộ thủy sản trước đây
đã ban hành Chỉ thị số 01/2004/CT-BTS, ngày 16/1/2004 của Bộ Trưởng Bộ
Thủy Sản về việc tăng cường quản lý tôm thẻ chân trắng ở Việt Nam, trong đó
nói rõ: ”không tiến hành sản xuất tôm thẻ chân trắng tại các trại sản xuất tôm
sú và giống tôm khác; chỉ được phép nuôi tôm thẻ chân trắng tại các khu vực
ao, đầm nuôi có sự tách biệt nhằm đảm bảo không lây lan dịch bệnh cho các
đối tượng nuôi khác ”
Ngày 25/01/2008, Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn đã ban hành Chỉ
thị số 228/CT-BNN-NTTS về việc phát triển nuôi tôm thẻ chân trắng nhằm đa
dạng hóa đối tượng nuôi và sản phẩm thủy sản xuất khẩu.
Theo đó, các tỉnh ở miền đông Nam Bộ và ĐBSCL được phép nuôi tôm thẻ
chân trắng theo hình thức thâm canh tại các cơ sở đủ điều kiện theo tiêu
chuẩn: ”28 TCN 191: 2004 Vùng nuôi tôm – Điều kiện đảm bảo vệ sinh an
6
toàn thực phẩm” (gọi tắt 28 TCN 191: 2004), ban hành kèm theo Quyết định
số 02/2004/QĐ-BTS, ngày 14/1/2004 của Bộ Thủy Sản trước đây. Các tỉnh từ
Quảng Ninh đến Bình Thuận được nuôi tôm thẻ chân trắng theo nhu cầu của
các nhà đầu tư nằm trong vùng quy hoạch nuôi tôm của địa phương.
Loại tôm này có giá trị cao gấp 3-4 lần tôm sú, từ 150-200 triệu/ha. Qua một
vụ mùa thử nghiệm, tôm thẻ chân trắng đã phần nào khẳng định được ưu thế
trên các ruộng tôm ĐBSCL như thời gian nuôi ngắn, năng suất cao, dễ bán
Tôm thẻ chân trắng cũng đang phát triển tốt, hứa hẹn mang lại thu nhập cao
cho người nuôi. Một trong những lợi thế của tôm thẻ chân trắng là thời gian
thu hoạch nhanh, từ khi thả tôm đến khi thu hoạch chỉ 70-80 ngày (Hồng Văn,
2008).
2.3 Tình hình nuôi tôm sú và tôm thẻ chân trắng ở Đồng Bằng Sông Cửu

Long
ĐBSCL có diện tích nuôi trồng thủy sản ven biển lớn nhất cả nước với hơn
600.000 ha và 82% trong số này là diện tích nuôi tôm sú, do bởi đặc thù của
từng tỉnh khác nhau, do đó diện tích và các mô hình nuôi tôm của mỗi tỉnh
cũng khác nhau như Cà Mau 0,4 tấn/ha/năm, Kiên Giang 0,2 tấn/ha/năm, Sóc
Trăng 0,54 tấn/ha/năm (Trích bởi Trần Văn Việt, 2006).
Bảng 2.2: Diện tích nuôi tôm sú ở ĐBSCL
Tỉnh

Mau
Bạc
Liêu
Sóc
Trăng
Trà
Vinh
Bến
Tre
Tiền
Giang
Kiên
Giang
Long
An
Diện
tích (ha)
224.00
109.26
41.28
15.79

27.79
3.12
51.04
5.00
Ở ĐBSCL việc nuôi tôm thẻ chân trắng đã đem lại nhiều hiệu quả lạc quan.
Tại Kiên Giang, 4 doanh nghiệp nuôi tôm thẻ chân trắng đều cho năng suất
12-13 tấn/ha, thu lợi bình quân 120 triệu đồng/ha. Tại Cà Mau, Công ty cổ
phần hải sản Minh Phú nuôi thí điểm 13 ha tại ấp Kinh Tắc, xã Hàm Rồng,
huyện Năm Căn (Hồng Văn, 2008).
2.4 Tình hình nuôi tôm sú và tôm thẻ chân trắng ở Trà Vinh
Năm 2007, bốn huyện vùng ven biển là Cầu Ngang, Duyên Hải, Trà Cú, Châu
Thành có 24.274 hộ đã thả nuôi 2.597.401.000 con tôm sú giống trên diện tích
là 25.07,8 ha mặt nước tăng 491,8 ha diện tích canh tác so với năm 2006.
Trong đó, nuôi theo hình thức thâm canh là 1.776 hộ, diện tích 2.118 ha; Nuôi
7
bán thâm canh 7.920 hộ - diện tích 7.497ha; Nuôi quản canh cải tiến 14.579
hộ, diện tích 15.478 ha. Năm 2007, nông dân vùng nước lợ mặn đầu tư phát
triển mới được 491,8 ha (chủ yếu diện tích nuôi thâm canh và bán thâm canh).
Sản lượng thu hoạch chung là 22.742 tấn tôm sú thương phẩm, tăng 3.028 tấn
so với năm 2006. Kết quả, có 16.766 hộ nuôi có lãi (chiếm 69,1% tổng số hộ
thả nuôi), có 3.360 hộ nuôi hoà vốn (chiếm 13,8%) và có 4.148 hộ nuôi bị thua
lỗ (chiếm 17,1%) (Sở Thuỷ Sản Trà Vinh, 2007).
Trước đây tôm thẻ chân trắng ở Trà Vinh chỉ nuôi thử nghiệm ở các trại
nghiên cứu của tỉnh. Một số ít hộ dân nuôi đã vượt rào nuôi nhưng không đạt
hiệu quả. Đầu tháng 6/2008, Trà Vinh quy hoạch 1.830 héc ta vùng nuôi tôm
thẻ chân trắng theo hình thức thâm canh. Trong đó, huyện Duyên Hải 730 ha,
Cầu Ngang 400 ha, Trà Cú 400 ha và Châu Thành 300 ha. Các khu vực được
quy hoạch nuôi tôm thẻ chân trắng đều có hệ thống thủy lợi tương đối hoàn
chỉnh, có bờ bao khép kín, nếu xảy ra dịch bệnh, có thể khoanh vùng khống
chế không để lây lan ra bên ngoài.

2.5 Sơ lược về tỉnh Trà Vinh
2.5.1 Điều kiện tự nhiên tỉnh Trà Vinh
Hình 2.1: Bản đồ tỉnh Trà Vinh
Trà Vinh là một tỉnh thuộc Đồng bằng Sông Cửu Long. Tổng diện tích tự
nhiên là 222.515,03 ha (theo số liệu thống kê đất đai 2003).
Vị trí dịa lý giới hạn từ: 9
0
31’46’’ đến 10
0
04’5’’ vĩ độ Bắc là 105
0
57’16’’ đến
106
0
36’04’’ kinh độ Đông.
- Phía Bắc, Tây – Bắc giáp tỉnh Vĩnh Long
8
- Phía Đông giáp tỉnh Bến Tre với sông Cổ Chiên
- Phía Tây giáp tỉnh Sóc Trăng với Sông Hậu.
- Phía Nam, Đông – Nam giáp biển Đông với hơn 65 km bờ biển.
Trung tâm tỉnh lỵ nằm trên Quốc lộ 53, cách thành phố Hồ Chí Minh gần 200
km và cách thành phố Cần Thơ 100 km. Tổng diện tích tự nhiên 2.225 km
2
,
chiếm 5,63% diện tích vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long và 0,67% diện tích cả
nước, Trà Vinh có 7 huyện và 1 Thị xã, gồm các huyện: Càng Long, Tiểu Cần,
Cầu Kè, Châu Thành, Trà Cú, Cầu Ngang, Duyên Hải và thị xã Trà Vinh.
2.5.2 Tài nguyên thiên nhiên
+ Rừng và đất rừng
Rừng và đất rừng tỉnh Trà Vinh có diện tích 24.000 ha nằm dọc 65 km bờ biển

gồm toàn bộ huyện Duyên Hải, xã Mỹ Long (Bắc, Nam) huyện Cầu Ngang và
các xã Đôn Châu, Đôn Xuân huyện Trà Cú.
Diện tích đất rừng 13.080 ha, trong đó: rừng bần 640 ha; rừng đước 742 ha;
rừng mặn 50 ha; rừng bạch đàn 100 ha; dừa nước 4.159 ha; rừng trà là 605 ha;
rừng nghèo kiệt 6.784 ha.
Diện tích đất không có rừng 10.884 ha, trong đó: cây cỏ bụi 6.937 ha; đất
trống 2.809 ha; bãi bồi 1.138 ha.
Trước kia rừng dày đặc, có nhiều lâm sản quý không chỉ đáp ứng cho địa
phương mà còn xuất sang các vùng kế cận. Ngày nay rừng đã bị giảm sút về
mặt diện tích khá lớn. Rừng tự nhiên chỉ còn lại rừng bần thuần loại, đại bộ
phận diện tích rừng đã trở thành đất trống, trãng cây thưa thớt, trữ lượng gỗ
không đáng kể, khả năng tái sinh tự nhiên thấp, tác dụng phòng hộ kém.
Tính đến năm 1994 chỉ còn lại 6.120 ha có giá trị bao gồm: bần 640 ha; đước
580 ha; mắm 400 ha; bạch đàn 100 ha; lá 4.400 ha. Còn lại 18.000 ha đất rừng
và bụi cây thưa thớt chiếm 3,81% diện tích tự nhiên. Đất lâm nghiệp giảm do
khai thác rừng quá mức (chặt trắng) và lấy đất rừng để nuôi trồng thủy sản.
Theo thống kê địa chính năm 1997 diện tích đất lâm nghiệp chỉ còn 9.004 ha.
+ Thủy sản
Thực vật phù du có 73 loại thuộc 5 ngành, đa phần tập trung vào ngành tảo
Silic và các nhóm tảo có nguồn gốc nước mặn. Mật độ trung bình dạt 666 cá
9
thể/lít. Động vật phù du có 48 loài, số đông vật nổi vùng ven bờ đạt bình quân
15.600 cá thể/m
3
(biến động từ 4.000-34.000 cá thể/m
3
). Động vật đáy (cỡ
nhỏ) ở vùng biển Trà Vinh khá phong phú.
Diện tích lưu vực tự nhiên của tỉnh là 21.265 ha và khoảng 98.597 ha ngập
nước từ 3-5 tháng/ năm, trữ lượng thủy sản nội đồng ước tính của Trà Vinh là

3.000-4.000 tấn, khai thác thường xuyên từ 2.000-2.500 tấn. Nguồn lợi thủy
sản vùng ven biển Trà Vinh bao gồm nguồn lợi cửa sông, rừng ngập mặn và
vùng nước ven biển có độ sâu 30-40 m nước vào bờ. Nguồn cá ven biển có 40
họ, 78 giống và 150 loài gồm cá biển ven bờ, cá nước lợ và cá di cư. Trữ
lượng cá vùng cửa sông ven biển Trà Vinh trên diện tích lưới quét năm 1994
là 62 tấn (khu cửa sông), 274 tấn cá nổi và cá tầng giữa; khu nước mặn và lợ là
9.063 tấn, cá nổi và cá tầng giữa là 63.470 tấn. Tổng trữ lượng khu cửa sông,
ven biển là 72.869 tấn, khả năng khai thác (50%) là 36.434 tấn.
Bãi tôm cửa Định An diện tích khoảng 20.000 ha là bãi tôm lớn nhất trong 5
bãi tôm ở dãi ven biển Đồng Bằng sông Cửu Long. Ước tính trữ lượng tôm
biển tại hai bãi tôm chính là 97-212 kg/ha (Bắc Cung Hầu) và 64-249 kg/ha
(Cửa Định An); tổng sản lượng tôm biển của Trà Vinh khoảng 4.300-11.000
tấn/năm. Tôm càng đứng sau tôm biển về giá trị kinh tế ở thủy vực Trà Vinh
có 11 loài, trong đó có tôm càng xanh, tôm trứng, tép bò, tôm sông. Có thể
khai thác mỗi năm 2.000-3.000 tấn mực; 35-49 tấn sò huyết/năm; trữ lượng
nghêu khoảng 168-210 tấn.
Trà Vinh là tỉnh ở hạ nguồn sông Cửu Long, độ cao địa hình từ 0-5 m. Về mặt
địa chất, toàn bộ tỉnh là trầm tích trẻ với nguồn gốc phù sa sông biển, vì vậy
khoáng sản ở Trà Vinh chỉ có cát san lắp, cát xây dựng không đáng kể và một
số ít sét gạch ngói.
2.6 Sinh học – kỹ thuật nuôi tôm sú và tôm thẻ chân trắng
2.6.1 Đặc diểm sinh học
Tôm sú
10
- Phân loài: Tôm sú (Tên tiếng Anh: Giant/Black Tiger Prawn) được
định loại là:
Ngành: Arthropoda
Lớp: Crustacea
Bộ: Decapoda
Họ chung: Penaeidea

Họ: Penaeus Fabricius
Giống: Penaeus
Loài: Penaeus Monodon
Tên khoa học: Penaeus monodon Fabricius
- Phân bố:
Tôm sú phân bố chủ yếu ở các vùng ven biển Châu Á Thái Bình Dương, từ
Đông và Đông Bắc Phi, Ấn Độ đến Tây Thái Bình Dương, Inđonesia và bắc
Australia, Pakistan đến Nhật Bản.
Ở Việt Nam tôm sú phân bố nhiều ở vùng ven biển phía Bắc, Duyên Hải Miền
Trung, ven biển phía Nam đến độ sâu 162 m tùy theo giai đoạn phát triển của
tôm.
- Cấu tạo và điều kiện sinh thái:
Cơ thể chia làm 2 phần chính: phần đầu ngực và phần bụng
+ Phần đầu ngực có 14 đôi phần phụ:
 Một đôi mắt kép có cuống mắt
 Hai đôi râu, 3 đôi hàm, 3 đôi chân hàm
 Năm đôi chân bò hay chân ngực
+ Phần bụng có 7 đốt:
11
 Năm đốt đầu mỗi đốt mang một đôi chân bơi hay còn gọi là
chân bụng.
 Đốt bụng thứ 7 biến thành telson hợp với đôi chân đuôi phân
nhánh tạo thành đốt đuôi.
Tôm sú sống trong khoảng giới hạn nhiệt độ thích hợp từ 12-37,5
0
C, khoảng
thích hợp 27-29
0
C (Cook and Rabanal, 1978).
Dải độ mặn từ 0,2-72

0
C ,khoảng thích hợp 15-25
0
C
Khoảng biến động PH từ 6,5-9 thích hợp từ 7,5-8,5.
Độ kiềm thích hợp từ 80-160 ppm.
Nồng độ oxy hòa tan từ 5-7 mg/l.
Nền đáy thích hợp cho tôm phát triển là bùn cát, cát bùn.
Tôm sú là loài ăn tạp, tập tính ăn và loại thức ăn thay đổi theo từng giai đoạn
phát triển của cơ thể. Khi mới sinh (1-2 ngày tuổi) dinh dưỡng bằng noãn
hoàn. Giai đoạn ấu trùng ăn tảo, luân trùng vật chất hữu cơ đã phân hủy.
Giai đoạn hậu ấu trùng ăn tảo và đông vật phù du. Giai đoạn trưởng thành thức
ăn là các loài giáp xác, bivavia, giun nhiều tơ và ấu trùng của các loài sống
đáy.
Đặc điểm sinh trưởng của tôm sú là không liên tục và được đặc trưng bởi sự
gia tăng đột ngột về khối lượng thân và chiều dài cơ thể sau mỗi lần lột xác,
quá trình lột xác diễn ra không đều nhau và tùy thuộc vào điều kiện dinh
dưỡng, môi trường và từng giai đoạn phát triển của tôm.
Trong ao nuôi tôm tần số lột xác giảm ở độ mặn 32-40‰ và tăng cao hơn ở
những ao có độ mặn từ 15-20‰ (Manik và ctv, 1979). Ngoài ra, tốc độ sinh
trưởng của tôm còn phụ thuộc vào loại thức ăn, chất lượng thức ăn, các yếu tố
môi trường và các giai đoạn phát triển của tôm.
Đến giai đoạn trưởng thành tôm bắt đầu thành thục sinh dục và tiến hành giao
vỹ, tôm cái nhận tinh từ tôm đực, sau đó tôm cái di cư ra biển để thực hiện quá
trình sinh sản. Số trứng đẻ tùy thuộc vào kích thước, trọng lượng tôm mẹ.
Trong sinh sản nhân tạo người ta phải tiến hàn cắt mắt tôm mẹ để chúng thành
thục sinh dục. Tôm trong đầm nuôi vỗ thành thục thường cho ít trứng và chất
12
lượng tôm giống kém hơn so với tôm bắt ngoài tự nhiên. Sức sinh sản của tôm
sú 200.000-1.200.000 trứng/tôm cái.

Tôm thẻ chân trắng
- Phân loài: Tôm thẻ chân trắng (Tên tiếng Anh: White Leg shrimp)
được định loại là:
Ngành: Arthropoda
Lớp: Crustacea
Bộ: Decapoda
Họ chung: Penaeidea
Họ: Penaeus Fabricius
Giống: Penaeus
Loài: Penaeus vannamei
- Phân bố:
Châu Mỹ La Tinh, Hawai, hiện nay được nuôi ở rất nhiều nước trên thế giới
như: Đài Loan, Trung Quốc, Việt Nam Tôm thẻ chân trắng (P. Vannamei)
có nguồn gốc từ vùng biển xích đạo Đông Thái Bình Dương (biển phía Tây
Mỹ La Tinh).
- Cấu tạo và điều kiện sinh thái:
Cũng như các loài tôm cùng họ Penaeidea, tôm thẻ chân trắng cái ký thác hoặc
rải trứng ra thay vì mang trứng tới khi trứng nở. Chủy tôm này có 2 răng cưa ở
bụng và 8-9 răng cưa ở lưng. Tôm nhỏ lúc thay vỏ cần vài giờ để cứng nhưng
khi tôm đã lớn thì cần khoảng 1-2 ngày.
13
Tôm thẻ chân trắng không cần đồ ăn có lượng protein như tôm sú, 35%
protein được coi là thích hợp hơn cả, trong đó đồ ăn có thêm mực tươi rất
được tôm ưa chuộng. Trong tự nhiên, tôm trưởng thành, giao hợp, sinh đẻ
trong những vùng biển có độ sâu 70 m với nhiệt độ 26-28
0
C, độ mặn khá cao
(35‰). Ở phần đầu ngực có màu trắng đục, có thể nhìn thấy màu sắc của
trứng.
Ở con cái buồng trứng đầu tiên có màu trắng đục, sau đó chuyển thành màu

vàng nâu hoặc xanh nâu nhẹ trong những ngày đẻ trứng. Tôm đực chỉ có
nhiệm vụ đưa các túi tinh vào túi chứa tinh của con cái, con cái sẽ đẻ sau vài
giờ. Sự quấn quít nhau giữa con đực và con cái bắt đầu vào buổi chiều và có
liên quan chặt chẽ với cường độ ánh sáng. Sự thoái lui của trứng đang phát
triển diễn ra rất nhanh và sự phân cắt của trứng diễn ra chủ yếu ở thời gian đẻ.
Quá trình sinh sản được bắt đầu bằng sự nhảy lên đột ngột và bơi nhanh của
con cái, quá trình này chỉ diễn ra trong khoảng 1 phút. Phản ứng của lớp vỏ
can cái xảy ra rất nhanh và sự phân đốt đầu tiên diễn ra trong vài giây. Số
lượng trứng tùy theo kích cỡ của tôm mẹ. Nếu tôm có khối lượng 30-45 gam
thì số lượng trứng từ 100.000 – 250.000, trứng có đường kính khoảng 0,22
mm. Sự phát triển của trứng từ sau khi đẻ đến khi giai đoạn đầu tiên của
nauplius diễn ra tong khoảng 14 giờ.
2.6.2 Kỹ thuật nuôi
Tôm sú
Là hình thức nuôi dựa hoàn toàn vào thức ăn bên ngoài chủ yếu là thức ăn
viên có chất lượng cao. Thức ăn tự nhiên không quan trọng. Mật độ thả cao từ
25-40 tôm bột/m
2
(tiêu chuẩn ngành thủy sản Việt Nam, 2002). Diện tích ao
nuôi từ 0,5-1ha, tối ưu là 1 ha. Ao xây dựng rất hoàn chỉnh, cấp và tiêu nước
hoàn toàn chủ động, có trang bị đầy đủ và các phương tiện máy móc, có điện
và giao thông thuận lợi, nên sễ quản lý và vận hành.
Nhược điểm của mô hình này là kích cỡ tôm thu hoạch nhỏ (30-35 con/kg),
giá bán thấp, chi phí vận hành cao, lợi nhuận trên một đơn vị sản phẩm thấp.
14
Bảng 2.3: Đặc tính kỹ thuật của mô hình thâm canh (Past và Apud et al, 1983)
Tôm thẻ chân trắng
Giai đoạn mới thả phải cho con giống ăn đầy đủ kể cả thức ăn công nghiệp và
thức ăn cao đạm tươi sống như hầu, hà, cá tươi xay nhuyễn để có giống khỏe,
giống chóng lớn.

Giai đoạn nuôi trưởng thành phải cho ăn nhiều hơn vì tôm thẻ chân trắng là
loại tôm ăn khỏe nên phải bảo đảm đủ thức ăn cho tôm. Tỉ lệ cho ăn hằng ngày
nên chú ý nhiều về buổi tối chiếm 70% ban ngày 30%. Thức ăn phải cho thêm
thuốc kháng sinh phòng bệnh cho tôm để năng cao khả năng phòng bệnh và
khả năng miễn dịch của tôm.
Giai đoạn cuối phải vỗ tích cực, cho ăn đầy đủ các loại thức ăn tổng hợp có bổ
sung thêm các loại chế phẩm sinh học kích thích tôm lột xác chóng lớn rút
ngắn thời gian nuôi (www.vietlinh.com.vn; Thái Bá Hồ và Ngô Trọng Lư,
2003).
Thời gian nuôi ở các ao thông thường là 60 ngày, ở ao nuôi công nghiệp mật
độ cao khoảng 80 ngày có thể thu hoạch, cỡ tôm 50 con/kg.
- Mật độ thả: Tôm P.vannamei có tỉ lệ sống cao nên mật độ phụ thuộc
vào độ sâu của nước ao và thiết bị nuôi. Ao sâu trên dưới 1m, mật độ
Đặc tính kỹ thuật
Năng suất (tấn/ha/năm)
5-15
Mật độ (con/m
2
)
25-40
Nguồn giống
Nhân tạo
Năng suất tối đa (g/m
2
)
250-1000
Thức ăn
Tổng hợp
Hệ số thức ăn
1,5-2

Thay nước (%/ngày)
10-20
Cách thay nước
Máy bơm
Cỡ ao (ha)
0,25-2
Hình dạng
Vuông/chữ nhật
Mức nước (m)
1,5-2
Tỉ lệ sống
80-90
Vụ/năm
2,5-1
Lao động (người/ha)
0,5-1
15
thường là 12 con/m
2
; ao sâu trên 1,2 m mật độ từ 12 – 18 con/m
2
; ao
cao sản khép kín mật độ là 50-65 con/m
2
.
- Quản lý chăm sóc
+ Nhiệt độ nước từ 20 – 30
0
C
+ Độ mặn từ 5 – 30 tốt nhất là 10 – 25

+ PH 8,0-0,3 dưới 7 không thích hợp với tôm p.vannamei
+ Oxy hòa tan 4 mg/l, không dưới 2mg/l
+ BOD 5-30 mg/l
+ COD < 6 mg/l
+ Độ trong 30-5 cm
+ Màu nước: Màu xanh lục, xanh vỏ đậu hoặc màu mận chín
+ Cho tôm ăn: Thời gian cho ăn 5 đến 6 lần trong ngày, tỉ lệ thức
ăn trong ngày phân bổ như sau
o Từ 18h00 đến 19h00 cho ăn 35%.
o Từ 23h00 đến 00h00 cho ăn 15%.
o Từ 4h00 đến 5h00 cho ăn 25% .
o Từ 10h00 đến 11h00 cho ăn 15%.
o Từ 14h00 đến 15h00 cho ăn 10%.
16
CHƯƠNG III
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Địa điểm và thời gian nghiên cứu
- Thời gian nghiên cứu: từ tháng 01/2009 đến tháng 05/2009.
- Địa điểm nghiên cứu: Các huyện Cầu Ngang, Trà Cú, Châu Thành,
Duyên Hải tỉnh Trà Vinh.
3.2 Phương pháp nghiên cứu
3.2.1 Vật liệu nghiên cứu
Phiếu phỏng vấn các trại nuôi tôm sú và tôm thẻ chân trắng thâm canh.
3.2.2 Thu thập thông tin
Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp
Các số liệu thứ cấp được thu thập từ báo cáo của các cơ quan địa phương kết
hợp với tham khảo các tài liệu có liên quan đến địa bàn và đối tượng nghiên
cứu.
Những thông tin số liệu thứ cấp:
- Diện tích nuôi

- Sản lượng
- Mật độ thả
- FCR
- Tỷ lệ sống
- Hiệu quả kinh tế
Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp
Số liệu sơ cấp được thu bằng phương pháp: phỏng vấn trực tiếp các hộ nuôi
tôm sú và tôm thẻ chân trắng thâm canh thông qua bảng câu hỏi soạn sẵn
(phương pháp định ngạch theo địa bàn nghiên cứu).
17
Các nhóm biến chính thu thập số liệu sơ cấp:
Thông tin chung về nông hộ
Kết cấu mô hình NTTS
- Tổng diện tích mặt nước nuôi (m
2
)
- Tên loài nuôi
- Thời điểm thả giống (tháng….)
- Thời điểm thu hoạch (tháng… )
Quản lý ao
- Số lần sên vét (lần/năm)
- Chế độ thay nước (số lần/số ngày)
- Mật độ thả (con/m
2
)
- Kích cỡ con giống (g/con)
Tổng lương thức ăn sử dụng (KG)
Thu hoạch
- Phương pháp thu
- Khối lượng thu hoạch (kg)

- Kích cỡ thu hoạch (g/con)
Khía cạnh kinh tế
Chi phí cố định
- Chi phí mua đất
- Chi phí thuê đất
- Chi phí đào ao
- Xây cống, hệ thống cấp thoát nước
18
- Giếng nước khoan
- Chi phí xây nhà phục vụ SX
- Máy đạp nước (cánh quạt, sụt khí)
Chi phí biến đổi
- Chi phí sên vét (đồng)
- Chi phí cải tạo ao, vôi (đồng)
- Tổng chi phí con giống (đồng)
- Tổng chi phí cho thức ăn (triệu)
- Tổng chi phí thuốc và HC (triệu)
- Chi phí kiểm dịch con giống (triệu)
- Chi phí khác
Tổng thu
Hình thức phân phối sản phẩm
Nhận thức của người nuôi về 2 mô hình
3.2.3 Số mẫu khảo sát
Qua phương pháp thu mẫu định ngạch theo địa bàn mô hình và trực tiếp phỏng
vấn nông hộ nuôi theo số mẫu như sau:
- Mô hình nuôi tôm sú thâm canh đã phỏng vấn 33 hộ.
- Mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh đã phỏng vấn 13 hộ.
3.3 Phương pháp xử lý và phân tích số liệu
Số liệu thu được đã được kiểm tra, bổ sung và mã hóa trước khi nhập máy
tính. Số liệu được thống kê mô tả và so sánh thống kê. Phần mềm Excell for

Windows để nhập dữ liệu, sử lý thống kê và tính các giá trị trung bình, độ lệch
chuẩn , giá trị tối đa và tối thiểu… Phần mềm SPSS để so sánh thống kê một
số chỉ tiêu kinh tế và kỹ thuật giữa 2 mô hình và Word để viết báo cáo.
19
CHƯƠNG IV
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1 Tình hình nuôi tôm sú và tôm thẻ chân trắng ở tỉnh Trà Vinh
Năm 2008 Trà vinh có 26.152 hộ nuôi tôm sú, với số lương giống thả
2.397,420 triệu con trên diện tích là 26.385,3 ha, sản lượng đạt được
17.371,59 tấn (Sở Nông nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Trà Vinh, 2008).
Trước tình hình diễn biến phức tạp của thời tiết làm cho môi trường nước nuôi
tôm thay đổi đột ngột, môt số hộ nôn nóng thả nuôi trước thời vụ điều kiện
môi trường không thuận lợi, tôm nuôi bị chết xã thảy ra bên ngoài nhưng chưa
qua xử lý làm cho dịch bệnh lây lan nhanh, ngay từ đầu vụ nuôi tôm bị thiệt
hại nhiều so với tổng lượng số giống thả 1.350 triệu con trên 14.620 hộ.
Mặt khác, người nuôi đã có ý thức nhiều trong công việc chọn giống qua kiểm
tra PCR, nhưng do nguồn tôm bố mẹ phụ thuộc vào tự nhiên nên chất lượng
con giống không đồng đều và có xu hướng giảm dần. Trong quá trình nuôi,
khi gặp điều kiện bất lợi về thời tiết thì xuất hiện phổ biến bệnh teo gan, phân
trắng và mầm bệnh phát triển nhanh và lan rộng. Đa số các ao nuôi công
nghiệp đều gặp các bệnh này, có thể trị hết nhưng thời gian nuôi kéo dài, tôm
chậm lớn, chi phí tăng cao nên giảm về hiệu quả kinh tế.
Ngoài ra, thị trường tiêu thụ tôm sú bị thu hẹp, giá tôm thương phẩm giảm, các
chi phí đầu vào như thức ăn, thuốc, hoá chất và nhiên liệu… đều tăng dẫn đến
nhiều hộ nuôi đạt năng suất mà hiệu quả kinh tế không cao.
Bảng 4.1: Diện tích và sản lượng tôm sú tỉnh Trà Vinh
Nội dung
2005
2006
2007

2008
2009
(kế hoạch)
Diện tích(ha)
23.402
24.584
25.075,8
26.385,3
27.475
Sản lượng (tấn)
17.434
19.713,8
22.742
17.371,59
21.350
Về tôm thẻ chân trắng toàn tỉnh có 28 ha nuôi công nghiệp với số lượng giống
thả là 22 triệu con đạt năng suất trung bình là 7 tấn/ha. Các hộ nuôi tự phát ở
các huyện, kể cả ngoài vùng qui hoạch thì không có hiệu quả, một số ít hộ thì
có hiệu quả thấp. Chỉ riêng khu vực nuôi thuộc Cơ Sở Giáo Dục Bến Giá
huyện Duyên Hải có hiệu quả kinh tế cao lợi nhuận 90-100 triệu đồng/ha đạt
20
sản lượng 300 tấn nên chưa thể nhân rộng mô hình được (Sở Nông Nghiệp và
PTNT Trà Vinh).
Nhìn chung, diện tích và sản lượng tôm sú tăng liên tục qua từng năm do
người nuôi ngày càng được trang bị đầy đủ trình độ kỹ thuật và những năm
qua tôm sú đã mang lại lợi nhuận đáng kể cho người nuôi nên diện tích ngày
càng được nhân rộng. Riêng về tôm thẻ chân trắng đã có những bước đầu
thành công nhưng cần quản lý chặt chẽ hơn nữa những vùng nuôi nhằm giảm
tối đa khả năng lây lan dịch bệnh ra môi trường vùng nuôi và môi trường xung
quanh.

4.2 Khía cạnh kỹ thuật nuôi của mô hình nuôi tôm sú và tôm thẻ
4.2.1 Kết cấu ao nuôi
Tổng diện tích đất sử dụng NTTS của mô hình nuôi tôm sú là 2,26±4,17 ha/hộ
và tôm thẻ là 1,75±3,12 ha/hộ, diện tích trung bình của hộ nuôi tôm sú cao hơn
diện tích trung bình của hộ nuôi tôm thẻ vì các hộ nuôi tôm sú đã được phát
triển lâu năm và có đầu tư lớn nên có diện tích rộng hơn. Tỷ lệ ao nuôi có diện
tích từ 0,3-0,4 ha (33,33%) chiếm cao nhất trong mô hình nuôi tôm sú, tiếp
đến là số ao có diện tích nhỏ hơn 0,3 ha (30,30%) . Tỷ lệ ao nuôi có diện tích
0,4-0,5 ha chiếm 12,12%, ao có diện tích 0,5-0,6 ha và ao có diện tích lớn hơn
0,6 ha đều chiếm tỷ lệ 12,12% (Hình 4.1).
30.30
33.33
12.12
12.12
12.12
0.00
5.00
10.00
15.00
20.00
25.00
30.00
35.00
<0.3 0.3-0.4 0.4-0.5 0.5-06 >0.6
ha
%
Hình 4.1.Tỷ lệ tổng diện tích của ao nuôi tôm sú
21
30.77
23.08

23.08
7.69
15.38
0.00
5.00
10.00
15.00
20.00
25.00
30.00
35.00
<0.3 0.3-0.4 0.4-0.5 0.5-06 >0.6
ha
%
Hình 4.2.Tỷ lệ tổng diện tích của ao nuôi tôm thẻ
Qua Hình 4.2 cho thấy, mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng có tỷ lệ diện tích nuôi
giảm dần khi diện tích lớn. Chiếm tỷ lệ cao nhất ở những ao có diện tích nuôi
nhỏ hơn 0,3 ha (30,77%), tiếp đến là số ao có diện tích từ 0,3-0,5 ha chiếm
23,08%. Tỷ lệ ao nuôi có diện tích từ 0,5-0,6 ha có tỷ lệ nhỏ nhất (7,69%).
Nhìn chung, cả hai mô hình tôm sú và tôm thẻ đều có tỷ lệ ao nuôi có diện tích
nhỏ hơn 0,3-0,4 ha chiếm tỷ lệ cao nhất. Tỷ lệ số ao có diện tích chiếm cao
nhất ở mô hình tôm thẻ chân trắng là dưới 0,3 ha và ở mô hình sú là từ 0,3-0,4
ha. Cả hai mô hình đều có xu hướng giảm dần tỷ lệ số ao có diện tích cao và
có xu hướng tăng trở lại đối với những ao có diện tích trên 0,6 ha đối với tôm
thẻ chân trắng.
Diện tích mặt nước của ao nuôi ở mô hình nuôi tôm sú là 1,28±1,94 ha/ao và
tôm thẻ là 0,98±1,56 ha/ao. Tuy nhiên, diện tích mặt nước trung bình ao nuôi
ở mô hình tôm sú và tôm thẻ chân trắng thì không khác nhau. Mực nước trung
bình trong ao nuôi ở mô hình nuôi tôm sú là 1,27±0,11 m tôm thẻ chân trắng
là 1,28±0,12 m. Ở cả hai mô hình tôm sú và tôm thẻ chân trắng đa số đều có

sử dụng ao lắng để xử lý nước trước khi cấp vào ao nuôi và có diện tích bình
quân lần lượt là 0,29±0,37 ha/hộ và 0,62±1,46 ha/hộ (Bảng 4.2).
Nhìn chung kết cấu ao nuôi tôm sú và tôm thẻ chân trắng không khác nhau
nhưng tỷ lệ dện tích ao lắng của tôm thẻ chân trắng cao hơn tôm sú do tôm thẻ
chân trắng là đối tượng nuôi mới chỉ được nuôi trong vùng qui hoạch nên đa
số những cá thể hoặc hợp tác xã có sự đầu tư đúng mức các biện pháp kỹ thuật
mới được phép nuôi.
22
Bảng 4.2: Thông tin về kết cấu ao
Diễn giải
Tôm sú
Tôm thẻ chân
trắng
Tổng diện tích nuôi (ha/ao)
2,26±4,17
1,75±3,12
Diện tích mặt nước của ao nuôi (ha/ao)
1,28±1,94
0,98±1,56
Diện tích ao lắng (ha/hộ)
0,29±0,37
0,62±1,64
Mực nước trong ao nuôi (m)
1,27±0,11
1,28±0,12
Tỷ lệ diện tích ao lắng/mặt nước nuôi
(%)
20,54±17,69
41,54±30,90
4.2.2 Thời vụ nuôi

Qua khảo sát thì phần lớn người nuôi tôm sú chỉ nuôi 1 vụ chiếm 100%, trong
khi mô hình tôm thẻ chân trắng số hộ nuôi 1 vụ chiếm 61,54%. Do tôm sú có
thời gian nuôi kéo dài và đòi kỹ thuật cao đồng thời thiệt hại rủi ro do thời tiết
không thuận lợi nên gần như tất cả hộ nuôi tôm sú đều nuôi 1 vụ nhằm hạn
chế thấp nhất rủi ro. Đối với tôm thẻ chân trắng tỷ lệ hộ nuôi thêm vụ 2 cao
hơn do tôm thẻ là đối tượng mới nhưng cũng dễ nuôi và thời gian nuôi ngắn
nên tận thu vụ 2 để tăng thu nhập.
48.48
39.39
9.09
3.03
0.00
38.89
22.22
0.00
16.67
22.22
0
10
20
30
40
50
60
1 2 3 4 5
Tôm sú
Tôm thẻ chân trắng
Hình 4.3: Tỷ lệ mùa vụ thả giống (%)
Thời điểm bắt đầu thả giống tôm sú là từ tháng 1 (ÂL) kéo dài đến tháng 4
(ÂL), một số rất ít hộ thả vào tháng chạp trước Tết Nguyên Đán. Tôm sú được

thu hoạch sau 4-6 tháng nếu tôm không bệnh và thường bắt đầu thu từ tháng 5
(ÂL) đến tháng 10 (ÂL), riêng những hộ thả từ trước Tết thì thu sớm hơn ở
tháng 4 (ÂL). Tôm thẻ chân trắng cũng tương tự tôm sú, thời gian bắt đầu thả
giống từ tháng Giêng (ÂL) đến tháng 5 (ÂL) thời gian kéo dài từ 2.5-3.5 tháng
nuôi. Và tôm thẻ chân trắng được thu hoạch vào khoảng tháng 3-8 (ÂL). Như
23
vậy tôm thẻ chân trắng và tôm sú đều được thả giống từ tháng 1 (ÂL) tôm thẻ
chân trắng có thời gian nuôi ngắn hơn nên thu hoạch sớm hơn rồi tiếp tục thả
vụ 2 sau 1-1.5 tháng. Tuy nhiên vẫn có những hộ nuôi không đúng theo mùa
vụ, có thể thả trước hoặc sau so với đa số những hộ thả cùng thời điểm nên
năng suất không cao (Hình 4.3).
0
0
0.00
3.03
30.30
30.30
24.24
0
0
22.22
27.78
5.56
16.67
5.56
0
5
10
15
20

25
30
35
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Tôm sú
Tôn thẻ chân trắng
Hình 4.4: Tỷ lệ mùa vụ thu hoạch (%)
Tóm lại, tôm sú và tôm thẻ chân trắng được tập trung thả giống vào tháng 1-2
(ÂL) do thời tiết thuận lợi. Do đặc điểm sinh trưởng của từng loài nên mùa vụ
thu hoạch khác nhau, tôm sú tập trung nhiều vào tháng 5-7 (ÂL), tôm thẻ chân
trắng từ tháng 3-4 (ÂL) (vụ 1) và tháng 6-8 (ÂL) (vụ 2) (Hình 4.4).
4.2.3 Thông số về kỹ thuật
Tổng lượng giống tôm sú ở mỗi hộ thả 0,25±0,40 triệu con, thấp hơn so với
tổng lượng giống tôm thẻ chân trắng là 1,56 ± 3,85 triệu con. Có sự chênh lệch
này là do mật độ tôm thẻ chân trắng lớn hơn tôm sú và tôm thẻ chân trắng là
đối tượng mới chỉ cho phép nuôi trong vùng qui hoạch mà đa phần là các trang
trại hay các hợp tác xã lớn.
Mật độ thả của tôm sú là 20,39±8,45 con/m
2
, và tôm thẻ chân trắng với mật độ
thả là 87,33±51,13 con/m
2
. Phần lớn người nuôi mua tôm sú cỡ Post 15, tôm
thẻ chân trắng cỡ Post 12 (Bảng 4.3)

×