Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

(SKKN 2022) sử dụng đa dạng các hình thức khởi động nhằm tạo tâm thế, sự hứng thú, tích cực cho học sinh trong giờ dạy ngữ văn ở trường THPT bá thước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.66 MB, 31 trang )

1

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT BÁ THƯỚC

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

SỬ DỤNG ĐA DẠNG CÁC HÌNH THỨC KHỞI ĐỘNG NHẰM
TẠO TÂM THẾ, SỰ HỨNG THÚ, TÍCH CỰC CHO HỌC SINH
TRONG GIỜ DẠY NGỮ VĂN Ở TRƯỜNG THPT BÁ THƯỚC

Người thực hiện: Hà Thị Nga
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: THPT Bá Thước
SKKN thuộc lĩnh vực môn: Ngữ văn

THANH HÓA, NĂM 2022


2

PHẦN

MỤC LỤC

1
MỞ ĐẦU

1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu


1.4. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Cơ sở lí luận
2.2.Thực trạng của vấn đề.
2.3. Giải pháp và tổ chức thực hiện
2.3.1. Giải pháp chung
2.3.2. Đa dạng hoạt động khởi động trong một số tiết dạy
2.3.2.1. Tổ chức hoạt động khởi động dưới dạng trò chơi
2.3.2.2. Tổ chức hoạt động khởi động bằng cách sử dụng
tranh ảnh, video có liên quan đến bài học.
2.3.2.3. Tổ chức hoạt động khởi động bằng các bài tập tạo
sự kết nối giữa nội dung bài học và trải nghiệm thực tế
của học sinh.
2.4. Hiệu quả của sáng kiên kinh nghiệm.

2
NỘI
DUNG
SKKN

TRANG
1
2
5
6
7
14
15
16

3


3.1. Kết luận
KẾT
LUẬN VÀ
KIẾN
NGHỊ

4
5
6

7

19
3.2. Kiến nghị
Tài liệu tham khảo
Danh mục các cụm từ viết tắt

21
22

Danh mục các đề tài sáng kiến kinh nghiệm đã được
Hội đồng đánh giá xếp loại cấp phòng GD & ĐT, cấp
Sở GD & ĐT và các cấp cao hơn xếp loại C trở lên

23

Phụ lục

24



1

PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài.
Ngữ văn là một trong những mơn học đóng vai trị vơ cùng quan trọng
trong hoạt động giáo dục của nhà trường phổ thông. Đây là môn học không chỉ
gắn với những kì thi có tính chất quyết định tới tương lai của học sinh mà cịn
góp phần to lớn vào việc bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, lí tưởng thẩm mĩ, góp
phần hình thành nhân cách và rèn luyện, nâng cao kĩ năng sử dụng ngôn ngữ cho
các em. Do vậy, việc tìm cách nâng cao chất lượng dạy học ngữ văn, làm thế nào
để phát triển được năng lực của học sinh trong giờ học là một nhu cầu thiết yếu
với mỗi cá nhân người đứng lớp, với mỗi nhà trường và toàn ngành giáo dục.
Điều 24, Luật giáo dục (do Quốc hội khóa X thơng qua) cũng đã chỉ
rõ:“Phương pháp giáo dục phổ thơng phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
động sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm từng lớp học, môn học, bồi
dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn,
tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Đây là
định hướng cơ bản thiết thực đối với mỗi giáo viên trong đó có giáo viên dạy bộ
mơn Ngữ văn. Để làm tốt điều này thì ngồi việc đảm bảo những yêu cầu, những
yếu tố khác về chuyên môn thì việc tạo ra sự hứng thú, tích cực học tập cho học
sinh, giúp các em tìm thấy niềm say mê bền vững với môn học này là vô cùng
cần thiết. Trên thực tế có rất nhiều cách thức, biện pháp, hình thức khác nhau để
tạo hứng thú cho học sinh trong tiết học văn. Trong đó thì hoạt động khởi động
là một khâu đầu tiên, quan trọng tạo nên hiệu quả này. Nhất là trong giai đoạn
hiện nay, giai đoạn yêu cầu đổi mới phương pháp, hình thức dạy học, phát huy
cao độ tính tích cực, chủ động của học sinh, coi người học là trung tâm, đặc biệt
là gắn với việc thiết kế bài học mới theo 5 hoạt động, thì việc tổ chức được
những hình thức khởi động sinh động, hấp dẫn là một biện pháp phù hợp nhằm

tạo hứng thú cho học sinh và nâng cao chất lượng dạy học.
Hoạt động khởi động dù chỉ chiếm một vài phút đầu giờ trong thời lượng
tiết học nhưng nếu tổ chức tốt, đa dạng sẽ có tác dụng rất lớn trong việc kích
hoạt sự tích cực của người học, là nền móng tạo bàn đạp để các hoạt động sau
được diễn ra hiệu quả. Đây thực sự là một hoạt động có tính hấp dẫn cao, gắn
với phương châm: học mà chơi, chơi và học - là một cách hay để lôi kéo, tạo
tâm thế thoải mái cho học sinh, làm cho tiết học trở nên sôi nổi, sinh động.
Tuy nhiên, hiện nay hoạt động khởi động trong giờ văn nói chung và giờ
văn ở trường THPT Bá Thước nói riêng chưa thực sự được chú trọng và sử dụng
một cách đa dạng, hiệu quả.
Vậy làm thế nào để có thể phát huy được tối đa ý nghĩa và tác dụng của
hoạt động khởi đầu này, góp phần vào việc đáp ứng được yêu cầu đổi mới
phương pháp, nâng cao chất lượng dạy học, phù hợp với đối tượng học sinh và
thực tiễn của nhà trường nơi mình cơng tác? Từ những nhận thức và trăn trở đó,
tơi đã nghiên cứu và áp dụng vào thực tế đề tài: “Sử dụng đa dạng các hình
thức khởi động nhằm tạo tâm thế, sự hứng thú, tích cực cho học sinh trong
giờ dạy ngữ văn ở trường THPT Bá Thước”


2

1.2. Mục đích nghiên cứu.
Nhằm khẳng định vai trị của hoạt động khởi động trong việc tạo ra sự
hứng thú, tích cực cho học sinh trong các giờ dạy Văn ở trường phổ thơng nói
chung và trường THPT Bá Thước nói riêng.
Đề xuất một số giải pháp, hình thức cụ thể, đa dạng, đổi mới để thực hiện
hoạt động khởi động trong giờ học văn sao cho sinh động, phù hợp, mang lại
hiệu quả cho mỗi giờ học là cao nhất.
Từ đó góp phần thực hiện mong muốn thay đổi lối dạy học truyền thống
nhàm chán, đơn điệu, truyền thụ một chiều sang dạy theo phương pháp dạy học

tích cực nhằm giúp học sinh phát huy tính cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn
luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác, kỹ năng vận dụng kiến
thức vào những tình huống khác nhau trong học tập và thực tiễn, tạo niềm vui và
hứng thú cho học sinh.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
- Một số giải pháp mà bản thân đã rút ra từ kinh nghiệm tích lũy được trong quá
trình giảng dạy.
- Các hình thức khởi động phù hợp với nội dung chương trình bộ mơn ngữ văn
cấp THPT.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Để hoàn thành đề tài SKKN này, tôi sử dụng các phương pháp sau:
* Về lí thuyết:
- Tham khảo các tài liệu tin cậy, sáng kiến kinh nghiệm của các đồng nghiệp.
- Sử dụng các phương pháp khoa học như: khảo sát, thống kê, phân tích số liệu,
so sánh đối chiếu, tổng hợp…để nhận thức, triển khai và đánh giá vấn đề nghiên
cứu.
* Về thực tiễn:
- Dự giờ đồng nghiệp. Góp ý, thảo luận với tổ chuyên môn.
- Thực nghiệm sư phạm: Sử dụng đa dạng các hình thức khởi động trong nhiều
tiết học. Ở mỗi năm học chọn ra các lớp thực nghiệm và lớp đối chứng để có cơ
sở so sánh, đối chiếu. Qua đó, kiểm chứng các biện pháp đã nêu ra trong đề tài,
đưa ra những kết luận khoa học và khẳng định tính khả thi của đề tài.
- Tiến hành khảo sát mức độ hứng thú và kiểm tra, đánh giá học sinh định kì để
thấy rõ hiệu quả của đề tài.


3

PHẦN 2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận.

2.1.1. Các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn yêu cầu đổi mới phương pháp dạy
học
Đất nước ta đang trong quá trình hội nhập và phát triển với nhiều thời cơ
và thách thức; để thực hiện thành cơng sự nghiệp cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa
đất nước thì nguồn lực con người đóng vai trị quan trọng hàng đầu. Do đó,
Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm và ưu tiên hàng đầu cho vấn đề đổi mới
trong giáo dục và đào tạo. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ
phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền
thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ,
khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ
năng, phát triển năng lực... Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền
thông trong dạy và học”.
Đáp ứng u cầu của cơng cuộc đổi mới tồn diện trong GD – ĐT, Bộ GD
- ĐT có cơng văn số 5555/BDGĐT-GDTrH ngày 8 tháng 10 năm 2014 hướng
dẫn và cụ thể hóa những yêu cầu trong đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng phát huy tính tích cực của học sinh: “hình thức giao nhiệm vụ sinh động,
hấp dẫn, kích thích được hứng thú nhận thức của học sinh” .
Gần đây nhất Bộ GD - ĐT yêu cầu, khuyến khích giáo viên xây dựng và
thực hiện kế hoạch giáo dục của Nhà trường theo Công văn 5512/BGDĐTGDTrH ban hành ngày 18/12/2020. Theo đó mẫu giáo án của giáo viên theo
cơng văn này bao gồm 5 hoạt động: Mở đầu, hình thành kiến thức, luyện tập,
vận dụng, tìm tịi, mở rộng. Nhờ đó giáo viên đã quan tâm đúng mức hơn tới
hoạt động khởi động cũng như vai trò của khởi động.
Ngoài ra, yêu cầu của việc đổi mới phương pháp dạy học cịn được cụ thể
hóa trong các văn bản chỉ đạo về việc thực hiện nhiệm vụ năm học hàng năm
của Sở GD - ĐT; kế hoạch năm học của nhà trường và kế hoạch thực hiện nhiệm
vụ năm học của mỗi giáo viên.
2.1.2. Khái niệm Phương pháp dạy học tích cực, tính tích cực và hứng thú
học tập

- Phương pháp dạy học tích cực (PPDH tích cực – Active learning) là một
thuật ngữ chỉ phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo của người học. PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa,
tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, nghĩa là tập trung vào phát huy
tính tích cực của người học chứ khơng phải là tập trung vào phát huy tính tích
cực của người dạy, tuy nhiên để dạy học theo phương pháp tích cực thì giáo viên
phải nỗ lực nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động.
Phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh có nghĩa là phải
thay đổi cách dạy và cách học. Chuyển cách dạy thụ động, truyền thụ một chiều
“đọc- chép”, giáo viên làm trung tâm sang cách dạy lấy học sinh làm trung tâm
hay còn được gọi là dạy và học tích cực. Trong cách dạy này học sinh là chủ thể


4

hoạt động, giáo viên là người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn, tạo nên sự tương tác
tích cực giữa người dạy và người học.
- Thế nào là tính tích cực học tập?
Tính tích cực (TTC) là một phẩm chất vốn có của con người, bởi vì để tồn
tại và phát triển con người ln phải chủ động, tích cực cải biến mơi trường tự
nhiên, cải tạo xã hội. Vì vậy, hình thành và phát triển TTC xã hội là một trong
những nhiệm vụ chủ yếu của giáo dục.
Tính tích cực học tập - về thực chất là TTC nhận thức, đặc trưng ở khát
vọng hiểu biết, cố gắng trí lực và có nghị lực cao trong qúa trình chiếm lĩnh tri
thức. TTC học tập biểu hiện ở những dấu hiệu như: hăng hái trả lời các câu hỏi
của giáo viên, bổ sung các câu trả lời của bạn, thích phát biểu ý kiến của mình
trước vấn đề nêu ra; hay nêu thắc mắc, địi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề
chưa đủ rõ; chủ động vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học để nhận thức vấn đề
mới; tập trung chú ý vào vấn đề đang học; kiên trì hồn thành các bài tập, khơng
nản trước những tình huống khó khăn…

- Theo các nhà nghiên cứu giáo dục thì “Hứng thú là một thái độ đặc biệt
của cá nhân đối với một hiện tượng nào đó vừa có ý nghĩa đối với cuộc sống,
vừa mang lại khoái cảm cho cá nhân trong q trình học tập”. Trên thực tế
khơng phải bất cứ học sinh nào cũng đều có sẵn niềm say mê, u thích đối với
mơn học, việc học. Trong khi niềm vui và sự ham thích ấy lại là một động lực
rất lớn giúp các em vượt qua khó khăn để vươn lên trong học tập, là yếu tố then
chốt thúc đẩy tính tích cực của người học. Đúng như Khổng Tử từng nói” Biết
mà học khơng bằng thích mà học, thích mà học khơng bằng vui mà học.” Vì
vậy, nhiệm vụ của mỗi người thầy là phải tổ chức được những hoạt động tạo ra
hứng thú học tập cho học sinh, và hoạt động khởi động chính là một cứu cánh.
2.1.3. Vai trò của tạo tâm thế trong dạy học văn
Nói đến “tâm thế” là nói đến khái niệm “chú ý”- một khái niệm của khoa
tâm lí học. Chú ý là sự tập trung của ý thức vào một đối tượng, sự vật,... nào đó,
để định hướng hoạt động, đảm bảo điều kiện thần kinh – tâm lí cần thiết cho
hoạt động tiến hành có hiệu quả. Nhờ sự tập trung chú ý mà trong một thời
điểm, giữa sự chi phối của nhiều hướng và nhiều vấn đề tác động, có thể tách
được một phạm vi chú ý xác định thành đối tượng để chủ thể hướng vào đó mà
tiến hành hoạt động chiếm lĩnh đối tượng ấy.
Từ nhiều năm nay, phương pháp dạy học văn đã rất chú ý đến khâu tạo
tâm thế cho học sinh. Thiết nghĩ, trong cuộc sống hay trong dạy – học, bước
khởi đầu luôn là bước tạo nền tảng, tâm thế. Nền tảng vững, tâm thế tốt thì các
hoạt động phía sau mới hiệu quả. Ngược lại, nếu khởi đầu không tốt thì các hoạt
động khác cũng sẽ gặp khó khăn.
2.1.4. Quan niệm về hoạt động khởi động
“Hoạt động khởi động là một hoạt động đầu tiên nằm trong chuỗi hoạt
động theo mơ hình trường học mới”
Dân gian có câu: Đầu xi đi lọt” để nói lên rằng bước khởi đầu có vai
trị quan trọng cho mọi tiến trình hoạt động của con người. Day học văn cũng
vậy, bước khởi động tiết học, tuy nhỏ nhưng lại ở vị trí mở đầu nên có tác dụng
đặt nền móng và gắn bó với các hoạt động còn lại.



5

Qua nghiên cứu và thực tế đã cho thấy hoạt động khởi động có nhiều vai
trị quan trọng trong giờ dạy học nói chung và giờ dạy học văn nói riêng. Hoạt
động này nhằm giúp giáo viên dẫn vào bài một cách sinh động và hấp dẫn, nối
liền bài cũ với bài mới, lơi cuốn học sinh, tạo khơng khí vui tươi, sơi nổi, tích
cực ngay từ đầu giờ học. Đặc biệt hoạt động có tác dụng giúp học sinh tập trung,
chú ý, hiện diện trong không gian lớp học, huy động những kiến thức, kĩ năng,
kinh nghiệm của bản thân về các vấn đề có nội dung liên quan đến bài học mới,
kích thích tính tị mị, sự hứng thú, tâm thế của các em ngay từ đầu tiết học.
Hoạt động khởi động thường được tổ chức thông qua hoạt động cá nhân
hoặc hoạt động nhóm để kích thích sự sáng tạo, giúp học sinh hình thành năng
lực hợp tác, tinh thần học hỏi, giúp đỡ nhau khi thưc hiện nhiệm vụ.
Tóm lại hoạt động khởi động dù chỉ là một khâu nhỏ, không nằm trong
trọng tâm kiến thức cần đạt nhưng nó có tác dụng tạo tâm thế thoải mái, nhe
nhàng, hưng phấn cho học sinh vào đầu giờ học. Điều đó có nghĩa là nó sẽ ảnh
hưởng lớn đến tồn bộ bài dạy. Vậy nên nếu vì nó chỉ là khâu nhỏ mà bỏ qua thì
thật là đáng tiếc.
2.2. Thực trạng của vấn đề.
2.2.1. Thực trạng chung.
Trong những năm gần đây, mơn Văn thực sự khơng cịn là niềm yêu thích
đối với nhiều học sinh. Đa số các em khơng cịn hứng thú học và rất ngại học
văn. Vì vậy, các em hồn tồn thụ động trong việc chiếm lĩnh tri thức.
Bên cạnh đó, do đặc thù mà ở một số trường miền núi cao lâu nay nhiều
giáo viên, không chỉ ở bộ môn Ngữ văn thường có quan điểm là học sinh miền
núi chỉ cần dạy theo phương pháp truyền thống là phù hợp nên đã khơng tích
cực trong q trình tìm tịi và đổi mới phương pháp dạy học. Nhiều giờ học văn
trở thành áp đặt kiến thức một chiều từ giáo viên làm cho học sinh cảm thấy

nhàm chán, buồn ngủ.
2.2.2. Thực trạng ở trường THPT Bá Thước
* Thuận lợi.
- Trong 3 năm gần đây, nhà trường chúng tôi đã đẩy mạnh ứng dụng
CNTT trong dạy học bằng việc trang bị cho mỗi phòng học một máy chiếu. Đây
là phương tiện hỗ trợ đắc lực cho các giáo viên trong việc tổ chức hoạt động
khởi động trong tiết học.
- Trên tinh thần tiếp thu những mặt tích cực của mơ hình trường học mới,
tổ chuyên môn Ngữ văn trường THPT Bá Thước đã luôn chú trọng việc đổi mới
phương pháp dạy học nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh.
- Đội ngũ giáo viên của nhà trường luôn tâm huyết, tận tâm với việc dạy
học. Hàng năm các thầy cô giáo được tập huấn bồi dưỡng chuyên môn cho nên
đa số giáo viên luôn ý thức sâu sắc về đổi mới phương pháp dạy học cho phù
hợp với đối tượng nhận thức và tình hình thực tế ở địa phương. Trong giảng dạy,
giáo viên đã phần nào phát huy được tính tích cực chủ động của học trò.
- Nhiều em học sinh yêu thích và đã lựa chọn mơn văn là một mơn trong
khối thi đại học. Các em đã xác định được mục đích học tập rõ ràng. Đây chính
là động lực để người giáo viên luôn nỗ lực tạo ra những giờ dạy văn chất lượng,
hiệu quả nhất.


6

- Việc tạo tâm thế học tâp cho học sinh đang là một xu hướng được chú ý
trong phương pháp dạy học văn của nhiều năm học gần đây.
* Khó khăn.
-Về phiá giáo viên
+ Giáo viên mới được tiếp cận với việc thiết kế bài học mới theo 5 hoạt
động trong vòng 2 năm trở lại đây nên còn lúng túng trong việc thực hiện. Một
số tiết dạy còn rập khn theo trình tự, chưa phát huy hết vai trị chủ động, sáng

tạo của học sinh, chưa có sự liên kết, tương tác nhịp nhàng giữa thầy và trò, giáo
viên vẫn làm việc nhiều.
+ Việc tổ chức một hoạt động khởi động đầu giờ đòi hỏi phải tốn nhiều
thời gian nghiên cứu, tìm tịi, thiết kế rồi cịn vấp phải một số rào cản khác như:
sợ lạm phát thời gian, gây ồn ào... Cho nên hoạt động này chủ yếu mới chỉ được
tổ chức trong một số giờ thao giảng, chưa đồng đều. Cịn lại đa số thầy cơ vẫn
áp dụng cách vào bài truyền thống. Chúng ta không phủ nhận hình thức này. Tuy
nhiên, trong một số tiết học, lời vào bài có hay đến đâu cũng chỉ là hoạt động
khởi động cho giáo viên là chủ yếu. Bởi học sinh vẫn đóng vai trị thụ động lắng
nghe, cịn cảm xúc, hứng thú chỉ là sự “lây lan” từ giáo viên sang học sinh chứ
không phải được khơi dậy, hình thành từ sự hoạt động của học sinh.
- Về phía học sinh:
Trường THPT Bá Thước là một ngơi trường phổ thơng đóng trên địa bàn
của một huyện miền núi phía Tây Thanh Hóa, điều kiện kinh tế, xã hội cịn
nhiều khó khăn, nghèo nàn. Các em học sinh của nhà trường phần lớn là con em
dân tộc thiểu số sinh sống ở những vùng đặc biệt khó khăn, bố me đa phần là
nơng dân ít có thời gian quan tâm, đầu tư cho các em học tập, điểm thi vào lớp
10 của các em theo mặt bằng chung còn rất thấp, cá biệt có những em chỉ mới
được 1,25 điểm mơn văn đầu vào. Nhiều em chưa có mục tiêu, lí tưởng rõ ràng,
quyết liệt trong việc xây dựng tương lai bằng con đường học vấn mà chỉ nuôi
tâm lý học hết phổ thơng thì đi làm cơng ty hay học nghề để phụ giúp gia đình.
Đối với mơn học ngữ văn thì rất nhiều em thấy khó, chưa hiểu hết tầm quan
trọng của môn học nên sinh tâm lý tự ti và ngại học.
Qua thực tế dạy học tại trường nhiều năm, tôi nhận thấy phần đa các em
có thói quen thụ động trong học tập, khơng đọc tác phẩm, ngại học bài cũ,
không chuẩn bị bài, soạn bài hoặc có soạn bài nhưng chỉ để đối phó…Do vậy,
trong các tiết học thường ngày khơng khí trầm, nhiều em uể oải, ngại phát biểu,
khơng tích cực xây dựng bài vì khơng chủ động, thiếu sự tự tin, ghi chép bài hời
hợt...Tóm lại các em chưa hứng thú nên ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả học tập,
tạo sức ỳ lớn.

Trước những thực trạng này thì việc kích hoạt được tinh thần học tập của
các em, học để làm người, học để lập nghiệp là vô cùng quan trọng.
2.3. Giải pháp và tổ chức thực hiện.
2.3.1. Giải pháp chung.
Để hoạt động khởi động diễn ra một cách nhe nhàng theo đúng nghĩa là “
khởi động”, thu hút được sự quan tâm, chú ý của học sinh, tạo động lực cho học
sinh tích cực khám phá kiến thức của bài học mới và không gây áp lực về mặt


7

thời gian cho các hoạt đơng hình thành kiến thức tiếp theo thì khi thiết kế hoạt
động khởi động giáo viên cần chú ý những yêu cầu, nguyên tắc sau đây:
Bước 1: Sự chuẩn bị của giáo viên (GV) và học sinh (HS).
- Dự kiến và sự chuẩn bị của GV: Lựa chọn được những hình thức, nội
dung, phương tiện phù hợp với kiểu bài lên lớp, các phân môn, với mục tiêu
khởi động và đảm bảo về vấn đề thời gian.
+ Về thời gian: từ 3 đến 5 phút vào lúc bắt đầu tiết học.
+ Về mục tiêu của hoạt động: Nhằm kiểm tra bài cũ hoặc nhằm tạo ra tình
huống có vấn đề để dẫn dắt học sinh vào bài mới tạo cho các em cảm giác thích
thú, thoải mái để tự nguyện tiếp thu kiến thức mới.
- Về nội dung: Nội dung phải liên quan đến kiến thức bài học, không đặt
nặng về kiến thức, không xây dựng những câu hỏi quá khó, những yêu cầu quá
cao làm khó các em thì sẽ phản tác dụng. Nên xây dựng nội dung vừa sức với
năng lực của học sinh lớp mình dạy, làm sao để các em trả lời được nhanh và
chính xác nhất, thậm chí giành nhau để được trả lời bởi tâm lý của học trò vốn
thích thi đua và khen thưởng. Như thế khơng khí lớp học mới sơi nổi, học sinh
thì phấn khởi, tự tin, thích thú.
+ Về hình thức: Cần đa dạng hóa hình thức khởi động, tránh gây cảm
giác một màu, kiểu đến hen lại lên, nhàm chán cho học sinh. Trên thực tế, qua

nghiên cứu, tìm tịi thì tơi thấy có rất nhiều hình thức để chúng ta có thể lựa
chọn, như: Tổ chức các trị chơi nhanh: Giải ơ chữ, Ai là triệu phú, Rung chuông
vàng, Đường lên đỉnh Olimpia, Vịng quay kì diệu, Ai thơng minh hơn, Đuổi
hình bắt chữ, Câu cá cùng Đơrêmon, đốn khái niệm, tìm, điền từ, nối từ, vv..
hay trả lời câu hỏi trắc nghiệm, sử dụng tranh ảnh, video có liên quan đến bài
học hoặc diễn kịch, vv...Giáo viên có thể chọn một hoặc kết hợp nhiều hình thức
trong cùng một khâu khởi động.
+ Về phương tiện: bảng phụ hoặc máy chiếu, máy tính, thiết bị âm thanh,
tranh ảnh, vv...đặc biệt cố gắng tìm được, lập sẵn các silde có hình ảnh, màu sắc,
con chữ,..đep, rõ ràng và hiệu ứng thì sinh động, đa dạng, có sức hút, kích thích
mạnh vào các giác quan của học trò.
- Sự chuẩn bị của HS: học bài cũ, soạn bài, chuẩn bị bài mới hoặc viết
kịch bản khởi động theo yêu cầu, hướng dẫn của giáo viên
Bước 2: Tiến hành hoạt động trong tiết học:
- GV: dẫn dắt hoạt động khởi động, chuyển giao nhiệm vụ cho học sinh:
giới thiệu, phổ biến luật chơi, đọc câu hỏi, lựa chọn học sinh, phân nhóm học
sinh thực hiện các u cầu. Lúc này cơ cần đóng vai là một người dẫn chương
trình thân thiện, hài hước, khéo léo đồng thời chú ý tạo ra sự nhịp nhàng, ăn
khớp giữa nói, đọc, trình chiếu hay viết bảng phụ...
- HS: Đóng vai trò là trung tâm của hoạt động. Thực hiện các yêu cầu mà
giáo viên đưa ra với tư cách cá nhân hoặc hoạt động theo nhóm. Theo dõi, lắng
nghe, cổ vũ, hưởng ứng nhiệt tình, giành quyền trả lời nếu bạn trả lời sai.
Bước 3: Nhận xét, đánh giá.
Giáo viên cần khép lại hoạt động này bằng những lời nhận xét, đánh giá
chuẩn mực, có tính động viên, khích lệ cao. Lúc này những lời khen của cô,


8

những điểm tốt, những món q nhỏ chính là một phần thưởng để học trò tiếp

tục say mê học tập hơn.
2.3.2. Đa dạng hoạt động khởi động trong một số tiết dạy.
Trên thực tế, như đã nói có rất nhiều hình thức để lựa chọn làm hoạt động
khởi động nhằm gây hứng thú cho học sinh. Tuy nhiên do phạm vi của báo cáo
nên tơi chỉ nêu một số hình thức sau, mỗi hình thức gắn với một hoặc vài ví dụ.
2.3.2.1. Tổ chức hoạt động khởi động dưới dạng trị chơi.
Hình thức này có ưu điểm rất lớn đó là phù hợp với nhiều kiểu bài lên lớp
từ đọc hiểu văn bản đến các bài tiếng Việt hoặc ôn tập, luyện tập...Tất cả chúng
ta đều nhân thấy việc tổ chức trò chơi thực sự đã giúp cho hoạt động dạy học trở
nên sôi nổi, cuốn hút, giúp học sinh rèn luyện sự mạnh dạn, tự tin, khả năng
phản xạ nhanh, sự sáng tạo, nâng cao tinh thần đoàn kết và sự tương tác giữa
học sinh với học sinh, học sinh với giáo viên...đặc biệt thơng qua những trị chơi
đó học sinh sẽ còn được tái hiện kiến thức về tác giả, tác phẩm hay được kiểm
tra nhận thức của mình về những vấn đề liên quan đến bài học mới, làm tiền đề
để giáo viên dẫn vào bài một cách hấp dẫn. Xin được dẫn ra một số trò chơi
nhanh sau:
* Trò chơi Game show Đối mặt
Đây là một trị chơi mới lạ, địi hỏi có sự chuẩn bị trước về kịch bản và
khả năng diễn xuất của học sinh.
Ví dụ: Tiết 25: Đặc điểm của ngơn ngữ nói và ngôn ngữ viết, Ngữ văn 10,
tập 1.
Bước 1. GV hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài: Đây là tiết Tiếng Việt vốn
rất khô khan, để giúp học sinh hiểu được khái niệm, đặc điểm của ngơn ngữ nói
và ngơn ngữ viết, đồng thời phân biệt sự giống và khác nhau, giáo viên giao việc
cho học sinh chuẩn bị khởi động.
Bước 2. HS thực hiện nhiệm vụ học tập ở nhà: Nhóm học sinh được giao
nhiệm vụ sẽ lên ý tưởng viết kịch bản với chủ đề “Game show Đối mặt”. hai
học sinh nhập vai vào nhân vật mang tên Lắm Thị Lời, Nhiều Văn Chữ tranh
luận về vẻ đep “đặc điểm ngơn ngữ” mình.
Bước 3. GV chuyển giao nhiệm vụ học tập: Để khơi gợi hứng thú học tập

cho học sinh khi tiếp cận bài tiếng việt Đặc điểm của ngơn ngữ nói và ngơn
ngữ viết GV mời nhóm học sinh đã chuẩn bị nội dung lên Khởi động.
Bước 4. HS thực hiện nhiệm vụ học tập tại lớp: HS tổ chức Game show
Đối mặt giữa hai nhân vật Lắm Thị Lời và Nhiều Văn Chữ tranh luận về vẻ đep
của ngơn ngữ mình.
Game show Đối mặt
MC: Chào mừng quý thầy cô, các bạn lọc sinh đến với game show lâu lâu mới
tổ chức 1 lần: game show đối mặt
- Chúng ta cùng chào mừng sự xuất hiện của 2 người chơi: Chị Lắm Thị
Lời và anh Nhiều Văn Chữ! Mời hai anh chị tự giới thiệu về bản thân!
Lắm Thị Lời ( vuốt tóc, yểu điệu): Em xin chào các thầy cô giáo, các bạn học
sinh. Em tên là Lắm Thị Lời, cháu ruột của bà Ngôn ngữ nói.


9

Nhiều Văn Chữ ( hất tóc): Tơi xin tự giới thiệu, tơi tên là Nhiều Văn Chữ, cháu
đích tơn của ông Ngôn Ngữ viết.
MC: Xét nguồn gốc, tên tuổi 2 bạn có nét giống nhau, nhưng ngoại hình lại rất
khác nhau. (Lời và Chữ đọ dáng gây cười)
MC: Tôi xin mời hai bạn bước vào phần thi Tài…sản. Bạn hãy kể tên những tài
sản ngơn ngữ của mình?
Lắm Thị Lời (giơ tay ra đếm): Tiếng Việt, tiếng Dao, tiếng Tày, tiếng Mông,
tiếng Mường, tiếng địa phương, tiếng Anh, Pháp, Nga, Trung…
Nhiều Văn Chữ: ăn thua gì! Tơi có chữ quốc ngữ, chữ Hán, chữ Nơm, chữ La
tinh..Rồi cịn các kiểu chữ: VN time, Time New Roman…
MC: Xem ra hai bạn đã ngang tài, tôi chuyển sang câu hỏi thứ 2: Phần thi tốc độ
Câu hỏi: Ai là người quan trọng nhất?
Cả hai: Lời và Chữ đều giơ tay, cãi nhau: Tôi quan trọng hơn, tôi quan trọng
hơn

MC: luống cuống hỏi các bạn: Các bạn 10A1 ơiơiiii, Lời nói và chữ viết , Ai
quan trọng nhất ạ?
Cả lớp đồng thanh: Cả hai.

Học sinh hào hứng với tiết học Tiếng Việt

Bước 5. Giáo viên nhận xét, dẫn vào bài.
* Trị chơi Ơ chữ bí mật
Hình thức trị chơi ơ chữ bí mật có thể sử dụng trong nhiều kiểu bài lên
lớp. Đây là trò chơi tập hợp nhiều nguồn kiến thức để giải mã, có thể thiết kế ở
nhiều dạng khác nhau, gây được hứng thú cho người chơi.
- Mục tiêu: kiểm tra bài cũ, giải mã từ khóa là tên bài học mới.
- Chuẩn bị:
+ GV: lập sẵn các slide một bảng ơ chữ bí mật cần lật giở, đánh số thứ tự
từ 1-8 tương ứng với câu hỏi và đáp án, lưu ý trong mỗi ơ chữ sẽ có một chữ cái
màu đỏ trong từ khóa cần tìm; sau đó thiết kế ô hàng ngang cuối cùng là ô chữ
mang tên bài học, chính là từ khóa cần tìm.
- Thực hiện:


10

+ HS: Trực tiếp tham gia trò chơi (cá nhân hoặc theo nhóm) dưới sự điều
hành dẫn dắt của GV: Lần lượt giơ tay chọn ơ chữ hoặc theo nhóm lật giở từng ơ
chữ hàng ngang để có dữ liệu tìm ra từ khóa.
+ GV nêu số lượng kí tự của ô hàng ngang mà học sinh vừa chọn, đọc nội
dung câu hỏi.
+ HS trả lời, nếu đúng GV cho ra ô chữ, nếu sai không cho hiện ra ô hàng
ngang và chuyển quyền trả lời cho học sinh khác. HS giành quyền trả lời bằng
hình thức giơ tay.

+ Quy định, sau ô hàng ngang thứ 5 mới được mở ơ từ khóa.
Ví dụ: Tiết 47: Thực hành phép tu từ ẩn dụ và hoán dụ, Ngữ văn 10,
tập 1.
Câu hỏi cho các ơ chữ:
Câu 1: Nhà thơ Lí Bạch được mệnh danh là gì?
Câu 2: Trong bài thơ Nhàn, theo Nguyễn Bỉnh Khiêm, người đời thường tìm đến
nơi nào?
Câu 3: Trong bài “ Đọc Tiểu Thanh kí”, Nguyễn Du tự xưng mình là gì?
Câu 4: Bài thơ nào gợi lên hào khí Đơng A?
Câu 5: Nguyễn Bỉnh Khiêm đưa ra hai quan điểm, hai cách sống đối lập nhau
trong bài Nhàn là gì?
Câu 6: Điền từ cịn thiếu trong câu ca dao sau: Thuyền về có nhớ bến chăng/
Bên thì...khăng khăng đợi thuyền.
Câu 7: Những câu văn, câu thơ có sử dụng nghệ thuật nhân hóa, so sánh,điệp
từ...gọi chung là phép gì?
Câu 8: Điền từ cịn thiếu vào câu ca dao sau: Mắt thương nhớ ai/ Mắt...không
yên.
Câu 9: Câu hỏi từ khóa của ơ chữ: Đây là hai trong số các phép tu từ nào đã
học?

* Trò chơi Câu cá cùng Đơrêmon.
- Giáo viên: chuẩn bị các slide có hình ảnh gắn với tên trị chơi đó là bể cá
và chú mèo máy thông minh Đôrêmon, xây dựng các câu hỏi ứng với mỗi chú
cá, không cần đánh số thứ tự để học sinh lựa chọn bất kì.
- Học sinh: tham gia trò chơi dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
- Luật chơi: người chơi hoặc nhóm chơi lần lần lượt nhập vai Đôrêmon và


11


Nơbita nhìn vào bể nước chọn một chú ca bất kì đang bơi, trả lời câu hỏi tương
ứng. Trả lời đúng sẽ đưa được chú cá về giỏ và tìm ra một dữ liệu liên quan đến
bài học, trả lời sai phải nhường phần trả lời cho người chơi khác.
Ví dụ: Tiết 34: Sóng (Xuân Quỳnh), Ngữ văn 12, tập 1


12

Từ đó GV giới thiệu bài mới: Trị chơi đã giúp chúng ta tìm ra những dữ
liệu về nhà thơ Xuân Quỳnh. Nói đến Xuân Quỳnh trên diễn đàn văn học Việt
Nam hiện đại ta nghĩ ngay đến một bài thơ viết về đề tài tình yêu gắn liền với
tên tuổi của nữ sĩ, một thi phẩm được viết bởi một trái tim đa cảm, ln coi tình
u là cứu cánh nhưng cũng luôn day dứt về giới hạn của tình u. Đó chính là
bài thơ Sóng.


13

Học sinh lớp 12A6 đang tham gia trò chơi khởi động trong tiết học “Sóng” (Xn Quỳnh)

* Trị chơi Đuổi hình bắt chữ.
- Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị các hình ảnh liên quan đến bài học, trình
bày trên powerpoin. Mỗi hình ảnh ứng với một thành ngữ.
- Luật chơi: Cả lớp cùng quan sát hình ảnh trong 15 giây và liên tưởng
đến một cụm từ. Sau đó xung phong trả lời. Đoán đúng sẽ cho ra đáp án, nếu sai
người chơi phải nhường phần trả lời cho người chơi khác.
Ví dụ: Tiết 19: Thực hành về thành ngữ, điển cố, SGK Ngữ văn 11, tập 1.


14


Ngồi ra các thầy cơ cịn có thể lựa chọn một số trò chơi khác cho rất
nhiều tiết học khác như: Trị chơi lật mảnh ghép, Rung chng vàng, Đường lên
đỉnh Olympia, Ai là triệu phú… cho một số tiết đọc văn như bài Vợ chồng A phủ


15

(Tơ Hồi), Chiếc thuyền ngồi xa (Nguyễn Minh Châu), Hai đứa trẻ (Thạch
Lam), Chiến thắng MtaoMxây, Tấm Cám, Hồi trống Cổ Thành... chơi Đốn tên
khái niệm với các bài ơn tập, bài về tác gia văn học; Nối, điền từ với các bài
tiếng việt; vv..

Trò chơi Đường lên đỉnh Olympia

Trò chơi lật mảnh ghép

Trị chơi Rung chng vàng


16

2.3.2.2. Tổ chức hoạt động khởi động bằng cách sử dụng tranh ảnh, video có
liên quan đến bài học.
Để tiết học Ngữ văn thêm hứng thú, giáo viên cũng có thể sử dụng những
tranh ảnh, video liên quan đến nội dung bài học để học sinh được trải nghiệm,
được mắt thấy, tai nghe, được phát huy những tri thức vốn có của mình về vấn
đề của tiết học. Đây là một phương pháp trực quan, sinh động có khả năng
truyền cảm hứng tốt khi kích thích được các giác quan của học trò, dẫn nhập các
em vào thế giới trong tác phẩm để cảm thụ cái hay, cái đep của văn chương,

nghệ thuật.
Ví dụ 1: Để dạy học bài “Vợ nhặt” của chương trình Ngữ văn 12, giáo
viên có thể trình chiếu một số hình ảnh nạn đói năm 1945 và từ đó có thể dẫn
dắt: Có những năm tháng dân tộc ta đã phải trải qua cái đói, cái nghèo một cách
bi thảm như vậy, nhưng vượt lên tất cả, con người vẫn sống với nhau bằng tình
yêu thương vơ bờ bến. Đó là thơng điệp nhà văn Kim Lân gửi gắm qua truyện
ngắn “Vợ nhặt”.
Ví dụ 2: Khi dạy học sinh bài “Ai đã đặt tên cho dòng sơng” của Hồng
Phủ Ngọc Tường có thể cho học sinh nghe giai điệu, hình ảnh bài hát: Dịng
sơng ai đã đặt tên (Trần Hữu Pháp) hoặc những bài ca khác, các câu thơ viết về
xứ Huế và sông Hương. Cũng như vậy khi dạy bài “Đất Nước” (Nguyễn Khoa
Điềm), có thể cho học sinh nghe bài hát: Đất nước” của nhạc sĩ Phạm Minh
Tuấn hay “Đất nước tình yêu”, sáng tác Lệ Giang để dẫn dắt vào bài, khơi gợi
cảm xúc cho học trò đi sâu cảm thụ tác phẩm. Khi dạy “Tun ngơn độc lập” của
Hồ Chí Minh, giáo viên cũng có thể cho học sinh nghe những ca khúc về Người
hoặc nghe trích đoạn Người đọc Tun ngơn và kết hợp với trình chiếu các hình
ảnh có liên quan.
.


17

Ví dụ 3: Hay khi dạy tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” (Tơ Hồi), có thể trình
chiếu cho học sinh xem một trích đoạn phim cùng tên đã được chính nhà văn
chuyển thể thành một tác phẩm điện ảnh hấp dẫn.

Hình ảnh trong phim “Vợ chồng A Phủ”, t/g kịch bản: Tơ Hồi, Đạo diễn: Mai Lộc

2.3.2.3. Tổ chức hoạt động khởi động bằng các bài tập tạo sự kết nối giữa
nội dung bài học và sự trải nghiệm thực tế của học sinh.

Các câu hỏi trong phần khởi động có thể chỉ là một tình huống để cho học
sinh phát hiện hay huy động vốn hiểu biết của mình để giải quyết tình huống ấy.
Các vấn đề hay câu hỏi được đưa ra sẽ giúp học sinh có tư duy, xâu chuỗi một
cách mạch lạc đồng thời tạo hứng thú cho các em vào tiết học mới để khám phá
vấn đề cịn đang bỏ ngỏ.
Ví dụ: Tiết 70: Những yêu cầu sử dụng tiếng Việt, Ngữ văn 10, tập 2.
GV: tạo các slide sau để cho học sinh khởi động, nhằm tạo hứng thú cho
học sinh và dẫn dắt học sinh vào nội dung bài học.
HS: 4 học sinh lần lượt trả lời 2 câu hỏi trắc nghiệm, tìm và sửa các lỗi
chính tả trong 2 bức ảnh được trình chiếu.
GV: Nhận xét, trao thưởng ( một hộp quà nhỏ) và giới thiệu bài học.


18

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
- Sau khi áp dụng biện pháp vào các khối lớp mà mình trực tiếp đứng lớp,
bao gồm 11A4, 12A1, 12A6, 10A5, 10A9 trong 2 năm học 2020 - 2021 và 2021
- 2021, tôi nhận thấy những hiệu quả sau:
2.4.1. Đối với chất lượng giảng dạy và giáo dục học sinh.
+ Với giáo viên: Tơi ý thức sâu sắc hơn về vai trị của hoạt động này đối
với sự thành công của giờ dạy. Tơi coi đây là hoạt động tạo nền móng, tạo bàn
đạp để các hoạt động sau được diễn ra hiệu quả. Từ đó giúp tơi sáng tạo, linh
hoạt và nhiệt huyết hơn trong cơng tác dạy học. Có những tiết học, sự hào hứng,
tinh nhanh của học trò đã cho tơi thêm cảm hứng để cháy hết mình với bài
giảng. Sự thực là niềm vui của một người giáo viên Ngữ văn đâu chỉ là chất
lượng tính bằng các con số, bằng tỉ lệ mà còn là những ánh mắt long lanh, say
sưa tiếp nhận tri thức, những bàn tay giơ lên trả lời câu hỏi của mình, tự viết ra
được những lời văn hay, tự nhiên, gần gũi, đầy xúc cảm…là những nụ cười thân
thiện đối với GV dạy. Những tiết học vui vẻ ấy chắc hẳn còn lưu lại trong tâm trí



19

thầy và trò như một động lực để cố gắng nhiều hơn trong hành trình chinh phục
tri thức.
+ Với học sinh: Trong những tiết học có hoạt động khởi động, các em
nhập cuộc hăng hái, rất thích thú. Các em bị thu hút ngay từ đầu giờ học, khơng
cịn thiếu tập trung, xao nhãng mất thời gian, trở nên nhanh nhen, hoạt bát, hứng
thú hơn hẳn những tiết học trước đó chưa đưa hoạt động khởi động vào. Có
những ngày dù giờ học văn rơi vào tiết 4, 5 thì các em vẫn tràn đầy năng lượng,
vẫn hăng say phát biểu và tiếp thu bài hiệu quả. Những em lâu nay vốn đã mạnh
dạn, tích cực thì có cơ hội để khẳng định năng lực, kĩ năng của bản thân mình
hơn, cịn những em học sinh vốn trầm tính, trước đó ít hoặc gần như khơng phát
biểu thì giờ đây lại chủ động giơ tay xin trả lời và hăng say giải ơ chữ, tham gia
các trị chơi. Do vậy mà khơng khí lớp học ln sơi nổi, các em nhiệt tình, hợp
tác với giáo viên, nhìn chung khơng cịn ngại phát biểu nữa, kết quả bài kiểm
tra, bài thi theo đó được cải thiện, tăng lên đáng kể. Ngồi ra, thơng qua hoạt
động khởi động nói riêng và tồn bộ tiến trình hoạt động học của học sinh nói
chung mà các em đã mạnh dạn, tự tin, năng động, sáng tạo hơn trong các buổi
sinh hoạt tập thể, hoạt động ngồi giờ, ngoại khóa...do Nhà trường, Đồn trưởng
tổ chức, có thêm kĩ năng sống, phát huy năng lực, sở trường của bản thân mình.
2.4.2. Kết quả thực nghiệm
Qua khảo sát thì đa số các em rất hài lịng với những tiết học sinh động,
hấp dẫn như vậy. Mức độ hứng thú, tích cực cũng như chất lượng học tập của
các em ở những lớp sử dụng giáo án có hình thức trị chơi khởi động tốt hơn rõ
rệt.
- Bảng so sánh mực độ hứng thú, tích cực của học trò lớp 11A4 trước và
sau khi áp dụng biện pháp, năm học 2020 - 2021.
Lớp 11A4

Hoạt động nhưng Hứng thú, say mê,
Thờ ơ, uể oải
42 học sinh
khơng tích cực
tích cực
Trước khi áp dụng
15 = 36%
19 = 45%
8 = 19%
Sau khi áp dụng
4 = 10%
8 = 19
30 = 71%
- Bảng so sánh khả năng nắm bắt bài của học sinh giữa lớp đối chứng
12A6 và lớp thực nghiệm 12A1 trong năm học 2020 - 2021 (trong cùng các tiết
dạy và bằng phiếu kiểm tra nhanh).
Lớp
Sĩ số
Tốt
Bình thường
Khơng tốt
SL
%
SL
%
SL
%
12A6
38
14

37
18
47
6
16
12A1
39
22
56
13
33
4
11
- Bảng so sánh khả năng nắm bắt bài của học sinh giữa lớp đối chứng 10A5
và lớp thực nghiệm 10A9 trong năm học 2021 - 2022 (trong cùng các tiết dạy và
bằng phiếu kiểm tra nhanh).
Lớp
Sĩ số
Tốt
Bình thường
Khơng tốt
SL
%
SL
%
SL
%
10A5
41
15

37
18
43
8
20
10A9
39
22
56
14
36
3
8


20

- Bảng so sánh chất lượng điểm các bài kiểm tra đã thực hiện trong năm
học 2020 - 2021 giữa lớp đối chứng 12A6 và lớp thực nghiệm 12A1.
Chất
lượng
Lớp(ss)

Lớp
đối chứng
12A6 (38)
Lớp
thực
nghiệm


Giỏi

Khá

Trung bình

Yếu

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

2

5.26

19


50

15

39,47

2

5,26

6

15,38

29

74,36

4

10,26

0

0

12A1(39)
- Bảng so sánh chất lượng điểm các bài kiểm tra đã thực hiện trong năm
học 2021 - 2022 giữa lớp đối chứng 10A5 và lớp thực nghiệm 10A9.
Chất

lượng
Lớp(ss)

Lớp
đối chứng
10A5 (41)
Lớp
thực
nghiệm

Giỏi

Khá

Trung bình

Yếu

SL

%

SL

%

SL

%


SL

%

0

0

8

19,51

28

68,29

5

12,2

6

15,38

26

66,67

7


17,95

0

0

10A9(39)
Học sinh hào hứng, tích cực trong các hoạt động khởi động

2.4.3. Khả năng ứng dụng và triển khai của sáng kiến
Có khả năng ứng dụng trong nhiều tiết học văn, cho mọi đối tượng học
sinh các khối lớp ở trường THPT, ở các địa phương, vùng miền và mang lại hiệu
quả thiết thực, gây hứng thú cho học sinh, góp phần nâng cao chất lượng bộ
mơn.


21

PHẦN 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1 Kết luận
Để thực hiện mục tiêu của luật Giáo dục phổ thông là “Giúp học sinh phát
triển tồn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản
nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam XHCN, xây dựng tư cách và
trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên và đi vào cuộc
sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ tổ quốc”, người giáo viên phải nỗ
lực không ngừng trong việc nghiên cứu đổi mới phương pháp dạy học, đáp ứng
được yêu cầu của thời đại. Trong xu thế đó, đổi mới phương pháp dạy học Văn
có ý nghĩa rất quan trọng thúc đẩy qua trình dạy và học. Sáng kiến “Sử dụng đa
dạng các hình thức khởi động nhằm tạo tâm thế, sự hứng thú, tích cực cho
học sinh trong giờ dạy ngữ văn ở trường trường THPT” ra đời với mong

muốn được góp tiếng nói khẳng định lại mối quan hệ giữa học và hành, giữa học
và vui chơi giải trí, giữa học và khơi gợi hứng thú tìm tịi sáng tạo của học sinh
Qua thực tế dạy học, có thể thấy rằng hoạt động khởi động có vai trò quan
trọng trong giờ dạy học. Nhưng để hoạt động này có ý nghĩa thì giáo viên cần
linh hoạt, nhạy bén trong cách tổ chức và thực hiện. Việc đa dạng hóa hoạt động
khởi động là cần thiết để tạo nên sự hứng khởi trong tâm lí học sinh. Tuy nhiên,
cũng khơng vì thế mà q chú trọng, dành nhiều thời gian cho nó để biến giờ
học thành giờ chơi đơn thuần. Cần coi khởi động là nền móng cho các hoạt động
tiếp theo.
Nhà văn Anh Johanson đã từng nói: “Văn học là ánh sáng lý trí, nó giống
như mặt trời, đơi khi có thể làm cho chúng ta nhìn thấy thứ mà chúng ta khơng
thích”. Đúng vậy! văn học là sự khám phá thế giới không giới hạn. Dạy văn là
nghệ thuật, học sinh sẽ cảm thấy môn Ngữ văn thật lí thú, sẽ u thích say mê
mơn Ngữ văn, sẽ tích lũy những bài học thấm thía, bổ ích, giá trị nếu như người
thầy say mê, biết truyền cảm hứng cho học trò qua những giờ học lí thú, khơng
nặng về kiến thức. Một số hình thức khởi động chính là cách sẽ góp phần vào
việc tạo hứng thú, tâm thế thoải mái cho học sinh tìm hiểu những giờ văn thực
sự bổ ích.
Trên đây là một vài kinh nghiệm của tôi trong việc tổ chức một số hình
thức hoạt động khởi động để tạo sự hứng thú, tích cực cho học sinh trong giờ
ngữ văn nhằm nâng cao chất lượng bộ môn tại trường THPT Bá Thước. Rất
mong nhận được sự đóng góp ý kiến đồng nghiệp để đề tài ngày càng được hồn
thiện hơn, có hiệu quả ứng dụng cao hơn nữa.
3.2 Kiến nghị
* Đối với sở GD - ĐT Thanh Hóa
- Tiếp tục quan tâm nhiều hơn đến bộ môn Ngữ văn ở trường THPT trong
tỉnh nhất là các trường vùng núi cao.
- Nên tổ chức nhiều chuyên đề cấp tỉnh về nâng cao chất lượng dạy - học
môn Ngữ văn cho giáo viên được tham gia.
- Sở Giáo dục cần cung cấp giới thiệu nhiều hơn nữa các tài liệu về đổi

mới phương pháp dạy học làm văn để giáo viên các trường THPT trong tồn
tỉnh có thể vận dụng trong q trình giảng dạy.
* Đối với Nhà trường và tổ chuyên môn.


22

- Cần quan tâm hỗ trợ nhiều hơn về cơ sở vật chất, đồ dùng dạy học.
- Nên có sự đầu tư khuyến khích giáo viên đổi mới PPDH dưới nhiều hình
thức khác nhau.
* Đối với giáo viên
- Phải thường xuyên tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao năng lực chuyên môn,
nghiệp vụ sư phạm, đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn. Hạn chế tối đa phương
pháp dạy học truyền thống lấy giáo viên làm trung tâm.
- Phải ln tìm tịi, sáng tạo để từng bước cải tiến phương pháp dạy học cho
phù hợp với từng tiết học, bài học với những đối tượng học sinh khác nhau.
- Phải thực sự tâm huyết, tận tình với cơng việc, yêu nghề, có tinh thần
trách nhiệm cao trước học sinh. Chỉ thực sự yêu nghề GV mới vượt qua những
khó khăn, thực hiện tốt nhiệm vụ “trồng người” của mình.
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 10 tháng 5 năm 2022
Tơi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
Người viết SKKN

Hà Thị Nga



23

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số
29NQ/TW 8 khóa XI" Về đổi mới căn bản, toàn diện về giáo dục và đào tạo, đáp
ứng u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng XHCN và hội nhập quốc tế, Nguồn www.thuvienphapluat.vn
2. Phan Trọng Luận (Chủ biên, 2010), Phương pháp dạy học Văn, NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội.
3. Phan Trọng Luận- Đổi mới giờ học tác phẩm văn chương ở trường THPTNxb Giáo Dục 1999.
4. Bộ giáo dục và đào tạo, Tài liệu tập huấn giáo viên dạy học, kiểm tra, đánh
giá theo chuẩn kiến thức kĩ năng trong chương trình giáo dục phổ thông môn
Ngữ văn, Hà Nội tháng 7/2010
5. Phan Trọng Luận (Chủ biên, 2000), Thiết kế bài học tác phẩm văn chương ở
nhà trường phổ thông, tập 1, 2, NXB Giáo dục.
6. SGK Ngữ văn 10 - tập 1, 2, NXB Giáo dục 2011.
7. SGK Ngữ văn 11 - tập 1, 2, NXB Giáo dục 2011.
8. SGK Ngữ văn 12 - tập 1, 2, NXB Giáo dục 2011
9. Tham khảo một số tài liệu trên internet.
10. Sáng kiến kinh nghiệm của đồng nghiệp.


×